Trường Sinh Học
Trường Sinh Học là môn phái mang đặc tính khoa học tâm linh. Người
có công lớn trong Trường Sinh Học là tiến sỹ Dasira Narada (1846 - 1924) - người
Sri-Lanca. Hiện nay các trường đại học ở Sri-Lanca đã áp dụng môn phái này.
Trong môn phái hiện nay có ba quyền năng:
1. Dưỡng sinh
2. Chữa bệnh thông thường
3. Chữa các bệnh nặng.
I. Mục đích và ý nghĩa:
Trong cơ thể con người, luôn ở trạng thái thừa âm và thiếu dương. Bởi
vì âm luôn được tiếp xúc với Đất, còn dương khi nạp năng lượng thường là không
đủ để cân bắng trạng thái, sinh ra ách tắc, ốm đau.
Muốn tránh được bệnh tật, ta phải khai mở luân xa để cân bằng lại âm
dương.
Mục đích:
1.Khôi phục lại những tế bào đã chết.
2.Tăng cường những kháng bệnh và chữa bệnh vì người ốm chỉ có một ước
mơ là khỏi bệnh còn người khỏe có rất nhiều ước mơ.
Theo thuyết phương Đông học, con người là tiểu vũ trụ được tồn tại
trong Đại vũ trụ, được tạo nên bởi những năng lượng mà người ta thường gọi là
Sinh khí, tạo sự sống cho vạn vật được sinh sống. Từ các tế bào đơn và đa theo
quy luật chặt chẽ để tồn tại luôn luôn thông giao với nhau ( theo thuyết Thiên
Địa Nhân). Nhưng có 6 cặp Đại huyệt trên hai Mạch nhâm và Đốc rất là quan trọng.
Nhiêm vụ chính là thu năng lượng vào để đấy khí hư và nước hư, những chất hóa học
do ăn uống, hít thở mà mắt thường không nhìn thấy được. Thường thì các luân xa
vẫn mở nhưng thời gian rất ít, nhưng do nhu cầu hiện nay trong môi trường quá ô
nhiễm, vậy luân xa phải mở liên tục.
Thiền chữa bệnh có 2 dạng:
1.Thiền vô thức những nhà chùa chỉ cần ngồi tĩnh tâm.
2.Thiễn hữu thức là chúng ta đã được các Minh sư khai mở để dẫn sinh
khí vào qua các luân xa. Nuôi dưỡng các đơn và đa tế bào thông ách tắc cho các
kinh lạc, mạch máu để chữa trị bệnh tật.
Người có công lớn trong Trường sinh học là tiến sĩ DASIRA-NARADA
(1846-1924), người Srilanca. Vào những năm 1893, ngài là người có địa vị cao
trong ngành ngoại giao của Srilanca. Ngài đã từ chức và đi tới vùng núi Hi Mã Lạp
Sơn để tu học. 18 năm sau 1911, ngài đã đắc đạo, dùng quyền năng của mình để
giúp mọi người khai mở luân xa chữa bệnh.
Vào năm 1916, ngài đã truyền lại cho Đệ nhị là DASIRA-MAHATHERA
(1898-1983). Năm 1972, Đệ nhị có đến Sài Gòn truyền lại cho 5 người. Từ đó, môn
phái đã được duy trì tới hôm nay.
Có 3 trường hợp khai mở luân xa:
1. Một số rất ít khi sinh ra đã mở.
2. Qua cơn thập tử nhất sinh tự khai mở.
3. Được các Minh sư khai mở.
II. Điều kiện để khai mở luân
xa:
1. Tất cả mọi người từ 16 tuổi trở lên đều được khai mở.
2. Phải có các Minh sư có quyền năng khai mở. Không được tự ý, tránh
những rủi ro cho cả người mở và bệnh nhân.
3. Sau khi khai mở, các môn sinh phải thiền ở nhà ít nhất 30
phút/ngày để tránh luân xa bị đóng lại.
III. Thực hành khai mở cấp 1
và 2 (Do các Minh sư hướng dẫn):
Trong 6 ngày, vị trí và chức năng của từng luân xa sẽ do các Minh sư
hướng dẫn.
IV. "Trong hai nỗi đau,
ta phải chọn một":
Lấy nỗi khổ hạnh tu hành để tránh nỗi đau bệnh tật. Càng khám phá
càng thấy tiềm ẩn bao la của con người. Và sự kì diệu của môn phải giữa cái vô
hình và hữu hình, ta phải có ngàn vạn ước mơ.
Làm thế nào để tiếp nhận được năng lực sinh học vũ trụ
Khai mở Luân xa :
+ có 4 cách được khai mở :
1. do tai nạn
2. do bẩm sinh
3. do tu luyện
4. Khai mở luân xa chủ động ( công nghệ mới )
Khai mở luân xa chủ động
Người sáng lập ra cách mở luân xa chủ động là Tiến sỉ Triết học
Dasira Narada sinh ngày 24.010.1846 tại Tích Lan - Ấn Độ .sau đó Ông làm bộ trưởng
bộ y tế .Ông đi tu 18 năm ở núi Hy Mã Lạp sơn,sau đó truyền lại cho một đệ tử
cũng cùng tên Narada. Đến năm 1972 Ông Narada đền Việt Nam và truyền cho 5 người
và sau đó Ông đi nước khác. Năm 1989 môn
trường sinh học đã có khắp thế giới và Viện nghiên cứu năng lục vũ trụ quốc tế
ra đời
Chúng ta học xong là thực hành được ngay .Vì các bậc Thầy của chúng
ta đã nghiên cứu nhiều năm .Ngày nay chúng ta may mắn hơn,chúng ta được thừa hưởng
nghững cái sẵn có của cha ông .Cho nên chúng ta phải làm gì để thực hành được
.Rất đơn giản .Chúng ta chỉ cần có TÌNH
THƯƠNG
Khai mở luân xa: Luân xa là gì? Luân: Luân chuyển; xa :Bánh xe .Gọi
như đông y Luân xa là Đại huyệt
Con người chúng ta có 7 đại huyệt
1. Luân xa 7: Huyệt Bách Hội .Vị trí nằm giữa đỉnh đầu. Liên
quan đến thần kinh trung ương, kiểm soát toàn bộ cơ thể chúng ta, kiểm soát tất cả các dây thần kinh, phối hợp
với các luân xa khác phục hồi hầu hết chức năng các cơ quan bộ phận trong con
người
2. Luân xa 6: Huyệt Thiên mục (Ngạch trung). Vị trí nằm giữ
trán trên chân mày chừng 2cm liên quan đến võ não tuyến yên và tuyến tùng .Đưa
năng lượng vào luân xa phục hồi chức
năng hệ thần kinh và hoạt động của chân tay
3. Luân xa 5: Huyệt Đại chùy. Vị trí nằm ngay cột sống giữa
ngang 2 vai. Đưa năng lượng vào luân xa 5 để phục hồi các chức năng của hệ hô hấp như mũi ,họng ,xoang, suyễn ,da
.Phối hợp với luân xa 6-7 để cân bằng thân nhiệt .
4. Luân xa 4: Huyệt Tâm du. Vị trí ngay trên cột sống ngang
tim. Đưa năng lượng vào luân xa phục hồi
chức năng hệ tuần hoàn như tim ,mạch máu huyết … luân xa 4 được khai mở sẽ
giúp con người thanh thản ,bình tĩnh dể
thông cảm với mọi người.
5. Luân xa 3: Huyệt Mệnh môn ,liên quan đến thận, gan, dạ
dày. Đưa năng lượng vào luân xa 3 có tác dụng điều hòa cơ thể, tăng khả năng chuyển hóa điều chỉnh chức năng của thận,
gan, da dày ,làm cho con người khỏe và ăn ngon …
6. Luân xa 2 : Huyệt Trường cường. Vị trí : nằm ngay xương
cùng cột sống, liên quan đến bài tiết và sinh lý .Đưa năng lượng vào luân xa 2
giúp phục hồi chức năng bài tiết và sinh
dục ,sinh lý con người
Cách tập luyện:
Các tư thế tập luyện: Ngồi, ngữa hoặc đứng. Khi tạo tư thế xong.
Nhập thiền: hai tay xoa
nhẹ rồi để tay ngữa khum khum trên đùi .Mở mắt hít mũi thở miệng từ từ 3 lần. lần
thứ tư hít vào mũi và nhắm mắt thở ra bằng mũi nhẹ nhàng.
Tham thiền: Thả lỏng toàn
thân, xóa bỏ những nét ưu tư, thư giản toàn thân ( Không suy nghĩ ) từ 5-10
phút .
Xả thiền: Mở mắt xoa tay
nhẹ nhàng mũi tay hướng lên trên .Hít mũi thở miệng 3 lần .
Học xong lớp 2. Học viên chữa được bệnh cho mình và chữa cho người khác
1. Cách chữa bệnh cho mình
: Thiền 5-10 phút trước khi xả thiền đặt tay lên luân xa và vùng đau khoảng 5
phút .Sau đó xã thiền
2. Cách chữa cho người khác
: Xoa tay nhẹ hít thở 3 lần, hít lần 4 nín thở đặt tay nhẹ nhàng lên luân xa của
người bệnh lắng nghe …có hiện tượng gì không. Nếu không nghe gì sau đó thở mạnh
ra bằng mũi. Hít thở bằng mũi bình thường nghĩ năng lượng vào vào ( thời gian
3-5 phút ) tiếp theo đặt tay vào luân xa tương ứng (3-5 phút). Chữa bệnh đưa
tay lên luân xa 7 xong thở ra hết bằng miệng lấy tay ra và cân bằng âm dương (xoa
tay hít thở 3 lần ).
Trong thời gian trị bệnh luôn luôn phải có một tay trên người bệnh. Khi
di chuyển từ luân xa này qua luân xa khác phải nín thở rồi mới di chuyển. Bệnh
nặng có thể trị 2 lần /ngày cách nhau 8 giờ. Có thể đặt 1 tay vào vùng đau và
tay kia vào luân xa tương ứng.
Các bệnh mà người cấp 1 không
được chữa:
1. Thần kinh thật, Thần kinh giả
2. Bệnh do siêu vi trùng hoành hành do chính con người tạo ra như
khí độc, phóng xạ, hay bom vi trùng có sự hủy diệt.
3. Ung thư máu
4. Bệnh Sida –HIV/S
5. Ma túy
Những vấn đề cần chú ý
+ Một ngày ít nhất thiền 1 lần (không được bỏ thiền ,trừ lúc đau quá
nặng)
+ Không để người chưa hoc hoặc người cấp dưới sờ vào luân xa của
mình
+ Không thiền, không chữa bệnh trước 4 giờ
+ Không cầu danh, cầu lợi, tự cao tự đaị, kiêu ngạo
+ Không làm việc xấu trái với đạo đức
( các trường hợp trên sẽ bị
bít luân xa)
+ Hết sức tin tưởng vào chính mình
+ Không phải lo toan mình trị binh có bớt hay không
+ Khi trị bệnh phải tập trung ,không nói chuyện …
+ Khi trị bệnh không để ý đến nhan sắc không liên quan đến bệnh tật
+ Tri bệnh phải kiện trì không nóng vội .Nói với bệnh nhân có những
bệnh cần có thời gian mới trị khỏi
+ Luôn Luôn hòa nhã ,vui vẻ, đón tiếp bệnh nhân một cách chu đáo
+ Những lúc cần khẩn cấp chúng ta âm thầm cấp cứu ngay
+ Không phân biệt giàu nghèo
+ Bệnh nhân đến với mình xem như mình đang mắc nợ họ
Những vấn đề cần trao đổi – Học
viên thắc mắc cần hỏi
+ Cách khám bệnh và chẩn đoán
+ Thủ pháp là gì ?
+ Thần kinh giả ?
+ Thần kinh thật
+ Lịch sử môn học
+ Tại sao không được uống rượu ?
+ Dính trượt là gì ?
+ Nhắc lại cách xả trượt: Nếu là đàn ông khi xã trươt lấy bàn chân
trái của mình đè lên bàn chân phải ,tay trái ôm ngoài tay phải và ngồi thiền gấp
đôi thời gian .Đàn bà thì ngược lại.
DÒNG CHỮA BỆNH BẰNG NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ (N.L.V.T)
UNIVERSAL ENERGY (U.E.)
----------------------------
Dòng chúng tôi chữa miễn phí cho những ai bị bịnh về thể xác hay
tinh thần, bịnh kinh niên, bịnh trầm trọng, những bịnh nan y, bịnh ghiền, hoặc
bất kỳ bịnh gì mà việc chữa trị của y học còn khan hiếm, hoặc còn giới hạn đối
tượng. Nếu nền y học chính thống đã có vẽ không thể giúp bạn phục hồi sức khỏe,
bớt đau đớn, hoặc nếu bạn chỉ muốn tìm một phương pháp trị liệu khác, biết đâu
bạn sẽ tìm thấy một hiệu quả nào đó nơi chúng tôi chăng?
Chúng tôi trị bằng Năng Lượng Vũ Trụ (U.E.), một phương pháp trị bịnh
cổ truyền, tương tự như môn trị bịnh mà hầu hết các bậc chân tu vĩ đại trong lịch
sử nhân loại đã truyền thụ cho loài người.
Môn trị bịnh bằng N.L.V.T. đặt nền tảng trên quan niệm rằng cơ thể của
chúng ta có thể được điều chỉnh để truyền dẫn và sử dụng một loại năng lực đặc
biệt để trị bịnh. Người Ấn Độ gọi luồng năng lượng nầy là "Prana",
người Trung Hoa gọi là "khí". Nếu được huấn luyện đúng phương pháp,
chúng ta có thể học được cách truyền dẫn luồng năng lượng nầy vào cơ thể người
khác để giúp phục hồi hoặc tăng cường hệ thống chữa lành tự nhiên của cơ thể.
Hơn nữa, nhiều bậc chân tu đắc đạo tin rằng ta có thể điều khiển một số tế bào
não để chúng sử dụng luồng năng lượng nầy để tăng cường việc chữa lành bịnh.
Những thí nghiệm trong ống nghiệm cho thấy là việc dẫn truyền
N.L.V.T. có thể chữa lành ngay cả ở cấp tế bào, làm giảm bớt số tế bào ung thư
da trong những mẫu mô thử nghiệm. (Xin xem mục "NGHIÊN CỨU VỀ TẾ BÀO UNG
THƯ DA VÀ DA TÁI TẠO"). Trong những nghiên cứu về trị bịnh Aids (Sida) bằng
Năng Lượng Vũ Trụ sau 21 ngày cho thấy số lượng tế bào miễn nhiễm CD4+ T
lymphocyte được tăng lên rỏ rệt trong tất cả bịnh nhân. (Xin xem mục
"Nghiên cứu về AIDS (SIDA)"). Chúng tôi tin rằng việc trị bịnh bằng
N.L.V.T. sẽ là một trong những giải pháp cho vấn đề sức khỏe của nhân loại
trong thế kỷ sắp tới.
Bất cứ ai, bất kể trình độ học vấn và tâm linh nào, đều có thể trở
thành thầy chữa bịnh N.L.V.T. Phương pháp mở Luân Xa của ngành nầy giúp đánh thức
trong chúng ta khả-năng chuyển hóa và sử dụng N.L.V.T. để chữa bịnh bất cứ lúc
nào mình muốn.
Phép lạ xảy ra hàng ngày, ở khắp mọi nơi, và phép lạ có thể xảy ra
cho bất cứ người nào tin đủ để cầu xin. Hằng bao nhiêu triệu người trên khắp thế
giới đang dùng những phương pháp y học và trị bịnh "không chính thống",
trong đó nhiều phương pháp bắt nguồn từ nền minh triết cổ xưa. Một số người gọi
phương pháp trị bịnh của chúng tôi là "Trị Bịnh bằng Tâm Linh" hoặc
"Trị Bịnh theo lối Huyền Bí", tuy nhiên, một số các thầy chữa bịnh
phái Yoga của chúng tôi gọi nó là "Pháp Môn Tâm Linh Con Người Thiền Định"
(S.H.Y.) hay tên mới nhất là "Nhân Loại, Giác Ngộ, Tình Thương"
(MEL).
Có đến hơn ba triệu người đã được huấn luyện trị bịnh bằng N.L.V.T.
trên hơn 70 nước. Khả năng ở nhiều cấp bậc khác nhau, trong số đó có hơn một
triệu người có thể trị bịnh "cách không" (bằng Thần giao cách cảm). Số
còn lại trị bịnh cũng rất hiệu quả bằng cách đặt tay lên người bịnh. (Riêng
dòng chúng tôi chỉ chữa cách không). Ngành nầy đã chữa bịnh thành công hầu hết
mọi chứng bịnh mà nhân loại đã biết đến: từ ung thư, Aids, tim mạch, huyết áp
cao, tiểu đường, thấp khớp, suyễn và ung thư máu, cho đến chứng đau lưng kinh
niên, dị ứng, mất ngủ và nghiện thuốc lá, ma tuý.
Chúng tôi rất lấy làm khích lệ khi Viện Y Tế Quốc gia (Mỹ) trong báo
cáo mới đây đã đánh giá cao việc dùng châm cứu để chữa trị các bịnh nhân bị đau
đớn và bị tê liệt vì tai biến mạch máu não. Về nguyên tắc, môn chữa bịnh bằng
N.L.V.T. cũng dùng chung những trung tâm thần kinh chánh (Luân Xa) như môn châm
cứu, có điều là chúng tôi không dùng kim để châm. Hơn nữa, ngành chữa bịnh bằng
N.L.V.T. không cho phép các thầy chữa thâu lệ phí, nhờ vậy mà phương pháp chữa
trị có hiệu quả cao nầy là sự lựa chọn tốt nhất cho tất cả các bịnh nhân bị tê
liệt vì tai biến mạch máu não thuộc mọi tầng lớp xã hội, và ở khắp mọi nơi trên
thế giới.
Muốn được chữa trị, bạn cần ghi yêu cầu của bạn nơi trang ghi danh.
Sau khi nhận được, chúng tôi sẽ bắt đầu chữa trong vòng 48 tiếng đồng hồ, mỗi
ngày một lần trong 3 tháng (riêng ung thư và hôn mê chữa 2 lần mỗi ngày). Bạn
nào bị bịnh kinh niên cần chữa trị lâu dài, chúng tôi đề nghị bạn ấy nên học
vài ngày cách chữa bịnh cho chính bản thân, người phối ngẫu, con cái và người
khác.
Chúng tôi chữa miễn phí, cho nên hiện tại chúng tôi chưa có nguồn
tài trợ để tổ chức việc trả lời trực tiếp bằng điện thoại cho các bạn, hoặc ghi
tên các bạn qua điện thoại. Nếu bạn không có phương tiện Internet, E-mail, xin
nhờ người nào có để gửi email đến cho chúng tôi.
Nếu các bạn bị những bịnh KHÔNG có liệt kê dưới đây, các bạn có thể
đăng ký lời yêu cầu chữa bịnh cho bạn ngay. Nếu bịnh có liệt kê dưới đây thì
trước khi đăng ký, xin các bạn vui lòng đọc những chi tiết bổ xung (bằng cách bấm
đúng dòng bạn muốn).
LỊCH SỬ MÔN CHỮA BỊNH
BẰNG NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ
-----------------------
Thầy LƯƠNG MINH ĐÁNG sanh 1942 tại Việt Nam, cùng với gia đình di cư
qua Mỹ năm 1985, bắt đầu giảng dạy môn trị bịnh bằng N.L.V.T. năm 1989. Tháng 9
năm 1994, Viện Y Học Medicina Alternative Institute thuộc trường Đại Học Quốc Tế
Mở Rộng các Ngành Y-Khoa Bổ Sung trao bằng Tiến Sĩ Y Khoa cho Thầy Đáng. Tháng
2 năm1997, Hội Đồng Điều Hành củaTrường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng các Ngành
Y-Khoa Bổ Sung quyết định trao cho Thầy Đáng cấp bằng danh dự Tiến Sĩ KhoaHọc,
và mời Thầy chính thức mở phân khoa N.L.V.T. và Con Người tại trường Đại Học nầy.
(Trường Đại Học Quốc Tế Mở Rộng được thiết lập theo bản Tuyên Ngôn Alma Ata của
Tổ Chức Y-Tế Thế Giới năm1962, và đã được Hiến Chương Liên Hiệp Quốc Tế vềTrường
Đại Học phụng sư ïHòa Bình công nhận qua Quyết Địnhsố 35/55/5/X11/1980 của Đại
Hội ĐồngLiên Hiệp Quốc). Vì những thông tin về nguồn gốc Nhân Điện mà Thầy Đáng
sáng lập đối ngược nhau, nay Thầy lại đột ngột qua đời vào ngày 12 tháng 8 năm
2007, chúng ta có lẽ sẽ vĩnh viễn không biết được nguồn gốc thật của nó vậy.
Loại năng lượng nầy nghe có vẻ kỳ bí và khó tin, nhưng có lẽ nó chỉ
có vẻ như vậy bởi vì khoa học chưa sáng chế được những dụng cụ để đo đạt nó. Một
cách sử dụng nó đã được y học công nhận: đó là môn châm cứu. Mặt dầu y học
chính thống vẫn chưa có thể "thấy" hoặc "đo đạt" luồng năng
lực nầy trong môn châm cứu, nhưng hiệu quả nó thường khi cũng đã đo đếm được.
Đây là một trong những môn trị bịnh bằng năng lượng áp dụng phương
pháp sư phạm có hệ thống để huấn luyện bất cứ người nào, bất kể trình độ học vấn
của người ấy. Hơn ba triệu người trên hơn 70 quốc gia đã được huấn luyện, với
khoảng hơn một triệu người có trình độ cao cấp. Thứ ba, những hiệu quả thần kỳ,
thường xảy ra tức thời, có thể được tính toán theo phương pháp khoa học. (Xem
"NGHIÊN CỨU VỀ TẾ BÀO UNG THƯ DA & DA TÁI TẠO"và xem "AIDS
(SIDA)").
Đâu là cơ sở lý thuyết của môn trị bịnh hiệu quả thần kỳ nầy? Chúng
tôi tin rằng nhân loại đã có sẵn nhiều khả năng mà khoa học hiện nay chưa biết
được dầu ở mức độ cạn cợt nhất. Một trong những khả năng ấy là truyền dẫn và xử
lý luồng Năng Lượng Vũ Trụ ảo hóa và bí ẩn nầy cho mục tiêu trị bịnh. Chẳng hiểu
bằng cách nào, thỉnh thoảng trong lịch sử nhân loại có người "tìm ra"
chiếc chìa khóa để khởi động guồng máy ấy trong cơ thể họ, và có người còn
"tìm ra" chiếc chìa khóa khởi động guồng máy ấy trong cơ thể người
khác. Mặc dầu nhân loại đã tiến xa về mặt kỹ thuật và kiến thức về cơ thể con
người, vẫn còn lâu lắm các nhà khoa học mới dám tuyên bố là họ đã biết tất cả về
nó. Bởi vậy, vì lợi ích của nhân loại, chúng ta nên có đầu óc cởi mở đối với mọi
phát kiến.
Lấy thí dụ một đài phát thanh: Nó phát ra những làn sóng âm thanh vô
hình, không nghe được, trong không gian. Chúng ta cần một cái máy gọi là
"máy thu thanh" để nhận và xử lý nguồn năng lượng ấy tạo thành những
âm thanh mà tai người nghe được. Cũng tương tự như vậy, N.L.V.T. cần một cái
máy gọi là "con người" để nhận và xử lý nó theo một cách thức đặc biệt
để trị bịnh. Trừ khi máy thâu thanh nầy có sẳn pin, nếu không nó phải được nối
vào ổ điện mới có thể hoạt động. Tương tự như thế, hầu hết các "bộ máy người"
nầy cần phải tiếp nhận một sự khởi động. Theo sự giảng dạy của môn N.L.V.T. và
Con Người, người ta được nối vào vũ trụ không những bằng năm giác quan, mà còn
bằng những trung tâm năng lượng gọi là "Luân Xa" và những trung tâm
thần kinh khác của cơ thể.
Ngoài việc mở Luân Xa, người ta cần phải tập tỉnh tâm ít nhất 5 phút
mỗi ngày để cho thân tâm được tiến hóa lên trình độ ý thức cao và có thể sử dụng
N.L.V.T. hiệu quả hơn. Phép thở tĩnh tâm nầy cũng do Thầy LƯƠNG MINH ĐÁNG tìm
ra.
Cấp nâng cao:
Khi được mở Luân xa cao cấp, học viên có khả năng phát và thu thông
tin ở ngoài tầm cảm nhận bình thường bằng Luân xa 6. Để đạt được điều đó đòi hỏi
chúng ta phải tập luyện đều đặn để có năng lượng sinh học đủ mạnh và tạo được
sóng năng lượng.
Có Luân xa cao cấp, không thiền Luân xa cũng không bị đóng lại. Tuy
nhiên cần Thiền để đẩy xả các ô trược từ ngoài lọt vào cơ thể, tránh đau đớn.
Hiện tượng đó xảy ra là do đường vào to trong khi lối ra nhỏ. Do đó cần tích cực
xả trược.
Người mở Luân xa cao cấp khi có bệnh phải cẩn trọng khi dùng thuốc
vì càng nhiều trược. Liều dùng thường là tăng lên so với khi chưa mở Luân xa
cao cấp mà tác dụng không nhiều bởi như đã biết “thuốc không chữa bệnh, thuốc
giúp cá thể tự chữa bệnh”. Đây là một kinh nghiệm được rút ra qua nhiều thời
gian huấn luyện. Phải kiên trì, tích cực tập luyện Thiền thì bệnh dứt khoát khỏi
(trừ gãy xương,đau nhức răng phải nhổ, thủng dạ dày, huyết áp hoặc tim mạch cấp
tính, …).
Luân xa cao cấp giúp ta vươn tới giá trị tâm linh nhiều hơn thể xác,
đánh thức khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người, chuẩn bị cho những bước tiếp
theo đầy thử thách. Nhưng nếu ai vượt qua sẽ trở nên thông thái, khoẻ mạnh,
giàu lòng bác ái, giàu lòng yêu thương đồng loại, giúp đời được nhiều hơn.
Điều kiện cần và đủ để một người có Năng Lượng Trường Sinh Học mạnh
là: Được khai mở các Luân Xa và thường xuyên tập luyện, tịnh tâm "Vô thức"
tốt
PHẦN II. THIỀN NHÂN ĐIỆN HAY CÒN GỌI LÀ TRƯỜNG SINH HỌC
Lịch sử môn học
Người sáng lập: DASIRA NARADA (24/10/1846-1924)
Người khai sáng môn học này là một tiến sĩ triết học người Srilanka.
Ông sinh vào ngày 24 tháng 10 năm 1846 tại thành phố Colombo, trong một gia
đình quyền chức. Thân phụ là người Tích Lan mang dòng máu Bombay tên Ajita
Narada, là một viên chức ngoại giao tính tình nghiêm nghị. Thân mẫu là người
Ceylon, là một phật tử thuần tánh, đầy đủ đức tính của người phụ nữ Á Châu. Được
sự phối hợp của hai dòng máu đã mang lại cho Đức Sư Tổ Dasira Narada một sắc mạo
trắng hồng và một tâm hồn thanh cao. Tuy là người con trai duy nhất, là niềm hy
vọng của gia đình, cho dù thân phụ Ngài vẫn mong muốn Ngài theo đuổi học trình
ngoại giao, công pháp quốc tế, nhưng không vì thế mà Ngài bỏ ý định tìm đường
hướng thượng, vì thế Ngài ghi danh học môn Triết học Đông Phương tại đại học
Nalanda. Năm 25 tuổi, Ngài đã đậu bằng tiến sĩ
Triết học Đông Phương. Chính môn học này đã giúp cho Ngài có một sự
hiểu biết sâu sắc về kiếp người vô thường. Vốn sẵn tình thương và ý chí hướng
thượng, cộng vào sự am hiểu về Triết học đã làm động lực thúc đẩy Ngài tìm đường
giải thoát cho mình và cho nhân loại. Năm 42 tuổi, khi cha qua đời, Ngài được
chính quyền Tích Lan mời tham gia quốc sự thay thế cha. Với sự tận tụy và năng
nổ sâu sắc, Ngài đã đem lại nhiều kết quả khả quan cho bộ ngoại giao Tích Lan.
Thành tích đó đã mở một con đường tiến thân đầy danh vọng tươi sáng cho bản
thân Ngài. Sau năm năm, đột nhiên Ngài từ chức, rời bỏ địa vị mà bao nhiêu người
mong muốn. Trên thân một mảnh y bạc màu, trong tay một chiếc gậy thô sơ, Ngài
đã lặng lẽ ra đi tìm đường tu luyện. Ngài đặt chân lên dãy Hy Mã Lạp Sơn để ẩn
tu.
Sau 18 năm tu tập, Ngài đã chứng đắc trí đạt thông, tự khai mở được
những cánh cửa luân xa, tiếp nhận vũ trụ tuyến vào thân thể. Điều quan trọng là
Ngài đã tư duy ra phương pháp đặc biệt để khai mở luân xa cho người khác, mà
không cần họ phải trải qua nhiều năm công phu khổ luyện như Ngài. Ngài Dasira
Narada chỉ có một học trò duy nhất, người học trò này trùng tên Narada, nhưng
là người Ấn Độ, nhưng trước khi dùng chìa khóa, phương pháp của mình để khai mở
Luân xa cho người học trò thì ông bắt người học trò của mình đi vào trong cái
hang động mà cách đó 18 năm chính mình đã ngồi và tự tu luyện,và ông thầy đã
cho người học trò ngồi đó để tự tu luyện. 18 năm sau, ngài quay trở lại tìm học
trò của mình. Thấy người học trò của mình vẫn chưa tự khai mở được Luân xa thì
ngài mới chủ động truyền thụ kinh nghiệm và tuyệt học lại cho người này và dặn
rằng: hãy đem pháp môn này phổ biến cho mọi người rồi kể từ đó không ai còn biết
tung tích ngài đâu nữa.
2.1. Truyền nhân thứ 1, duy
nhất: NARADA MAHATHERA (14/7/1898 – 2/10/1983) Năm 18 tuổi, Tổ thứ 2 được đệ
nhất Sư Tổ truyền dạy pháp môn NHÂN ĐIỆN để nối tiếp sứ mạng dạy cho hậu thế. Đệ
nhị sư tổ có duyên với nước VN Ngài đã sang VN nhiều lần để hoằng pháp và có tặng
cho chính phủ VN một cây Bồ Đề. Ngài viên tịch 1983, hưởng thọ 85 tuổi. Rồi vào
năm 1972, do nhân duyên ông Narada người Ấn Độ (và sau này những người học trò
đều coi vị đó là vị tổ thứ 2 của môn học ) xuất hiện tại Sài Gòn và đem phương
pháp này ra truyền cho một số đệ tử, thực tế có 5 người Việt Nam, từ năm 1972
cho đến năm 1974 thì ông tổ đời thứ 2 mới truyền lại tất cả vốn luyến quý báu
cho 5 người Việt Nam. Trong đó có 4 người là nam và 1 người là nữ. Người nổi tiếng
nhất có thể xem là ông Lương Minh Đáng.
2.2. Một trong những truyền
nhân đời thứ 2: HUỲNH CÔNG TRẠNG, LƯƠNG MINH ĐÁNG (1942-12/08/2007)… Năm
1972, Dr Lương Minh Đáng có nhân duyên được tổ đời thứ 2 truyền cho phương pháp
và tuyệt học nhân điện. Ông là một khuôn mặt nổi tiếng và được nhiều người biết
đến trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại – chuyên về khoa chữa trị bằng Nhân Điện.
Theo ông Đáng từ năm 1989: “trong 13 năm qua, đã có trên 30 triệu người trên thế
giới được Nhân điện chữa lành nhiều chứng bệnh và hiện nay có trên 2 triệu học
viên Nhân điện khắp năm châu để phục vụ miễn phí cho bất kỳ ai cần đến”. Theo một
số môn sinh của thầy Đáng cho rằng ông Đáng mang ý chí của các vị tổ đời trước,
và là người có công lớn trong việc giới thiệu môn học này ra thế giới. Tuy
nhiên, nhân điện của thầy Đáng đã có những sự thay đổi nhất định như một quy luật
kế thừa, cách tân và đào thải. Ông Đáng có thu học phí và các cấp học trải từ sơ
cấp – cao cấp đến 20 lớp và còn bổ túc thêm. Ông cũng có những bài giảng mà các
môn sinh của ông cho là “ý chí thượng đế” cũng như việc phát triển mô hình Kim
Tự Tháp năng lượng. Mặc dù phái Nhân Điện của ông ngày càng phát triển và có
hàng chục ngàn môn sinh (đã được ông mở Luân Xa để học Nhân Điện) trên toàn thế
giới, nhưng cá nhân ông cũng gặp nhiều trở ngại đối với các cơ quan y tế và
chính quyền địa phương. Đặc biệt là việc thu học phí cao ở mỗi cấp học khiến
cho người nghèo ít có cơ hội học tập, ứng dụng.
2.3. Truyền nhân thế hệ thứ
3: Trần Văn Mai, Nguyễn Xuân Điều … Cho đến thời điểm này (2014) Có thể
nói, ở Việt Nam, môn Trường Sinh Học do chú Trần Văn Mai thành lập và phát triển
ở Bình Dương có quy mô lan rộng và tầm ảnh hưởng tương đối lớn ở nước ta. Học
trò chú Mai có rất nhiều, trong đó có cô Hồ Thị Thu người Bình Định khá nổi tiếng
về khả năng chữa bệnh bằng năng lượng và khai mở luân xa cho bệnh nhân. Theo
chú Mai, môn học TSH này được chia làm 7 cấp. Chú trọng chữa bệnh về thân ở các
cấp 1, 2, 3 và chú trọng phát triển tâm linh ở các cấp sau. Còn chú Điều ở Hà Nội
cũng sử dụng phương pháp này để trị bệnh cho bệnh nhân và cũng gây tiếng vang
uy tín trong giới TSH và xã hội.
2.4. Truyền nhân thế hệ thứ
4: Học viên được nhận chìa khóa, trách nhiệm khai mở luân xa là môn sinh của
thầy Đáng, thầy Mai, thầy Điều…
2.5. Truyền nhân thế hệ thứ
5: Là môn sinh của cả hai môn học: Nhánh
Nhân điện – tiền bối Lương Minh Đáng và nhánh TSH của tiền bối Trần Văn Mai. Sau khi thâm nhập sâu vào môn
học đã nắm bắt được những nền tảng xương sống, cốt tủy của môn học. Trực tiếp
nhận chìa khóa, phương pháp khai mở luân xa từ nhánh nhân điện và nhận thông
tin tâm thức của nhánh TSH. Đã rút ra những bài học và phương thức Thiền mang
tính kế thừa và phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Vì lợi ích của đại
chúng.
Môn học mang tên TRƯỜNG SINH
HỌC (thế hệ thứ 5).
Sự phát triển này dựa trên 5 nền tảng khác biệt cơ bản mang tính
dung hòa hai nhánh TSH trên: Điểm giống nhau là. Đều khai mở luân xa trị bệnh tập
trung cho bệnh nhân, đặt tình thương trên ích kỷ, phụ bệnh theo nền tảng cơ bản.
Không lạm dụng trị bệnh từ xa, không tuyên truyền quảng bá. Không bài xích bất
kỳ một pháp môn thiền nào. Không tuyệt đối hóa thiền trị bệnh mà bỏ qua thành
quả cực kỳ tiến bộ của Y học hạt nhân, y học cổ truyền. Trau dồi kiến thức y học
hiện đại, nhận thức được căn bệnh nào cần phải có sự can thiệp kịp thời từ Tây
y và nhận thức rõ căn bệnh nào có thể kiên trì điều trị bằng năng lượng sinh học.
1. Không thần bí hóa, cao siêu hóa môn học, truyền thụ một cách tùy
duyên, tùy cơ địa của từng người. Bài học đầu tiên trong trị bệnh bằng TSH là
chữ Nhẫn và Niềm tin.
2. Thời gian và cách thức thiền để thu năng lượng linh động, tùy vào
nhu cầu mỗi người mà ngồi cho phù hợp.
3. Dùng luân xa 4-4’ và 6-6’ làm trạm phát năng lượng trị bệnh về
tâm, dùng luân xa 5-5’, 7- 1 trị thương tổn về thân.
4. Cách đặt tay phụ bệnh áp dụng phương pháp TSH nhánh thầy Mai. Chỉ
cung cấp một tài liệu duy nhất cho các cấp học. Việc tham khảo thêm là do tự
tâm.
5. Từ cấp học thứ 5, có những yêu cầu tâm lý, nhân cách cao hơn từ
phía người học, không rập khuôn, cứng nhắc. (Có thể nói phương pháp này 6/10
theo tinh thần TSH nhánh chú Mai. 2/10 theo trường sinh học nhân điện nhánh thầy
Đáng. 2/10 theo tinh thần Nho – Phật – Lão).
2.6. So Sánh
Bởi là thế hệ sinh sau, chúng tôi chỉ có cơ hội tiếp cận và học môn
học này từ những học trò của các vị nói trên. Trên tinh thần khách quan. Tôi nhận
thấy những vấn đề sau đối với nhánh TSH- Nhân điện của ông Lương Minh Đáng và chú
Trần Văn Mai. Ưu điểm: Cả hai nhánh đều là sự kế thừa tinh thần của tổ sư
Dasira Narada chữa bệnh bằng năng lượng sinh học, năng lượng tình thương bằng
cách khai mở các luân xa để trị bệnh, phụ bệnh và khai sáng tâm linh cho đại
chúng. Cả hai nhánh đều coi tổ sư Dasira là người khai sáng. Nhưng bên Nhân điện
của ông Đáng thì chỉ cho học viên ngồi thiền từ 5 phút đến tối đa là 30 phút.
Nghĩa là hạn chế thời gian thiền để làm việc khác có ích hơn (theo ý là trong
thời buổi hiện đại phải có những thay đổi phù hợp). Bên cạnh đó, nhân điện
nhánh này có ưu điểm là nhân rộng ở hải ngoại, và được quốc tế hóa. Ngược lại,
nhánh TSH của thầy Mai, thầy Điều lại khuyến khích ngồi nhiều hơn, tốt nhất là
60 phút trong một lần ngồi, nếu có điều kiện thì ngồi 3 lần một ngày: sáng –
trưa – tối và mang tính chất nội địa, chưa nhân rộng được ra thế giới.
Khuyết điểm:
- Nhánh thầy Đáng, tốn học phí cao, người nghèo không có nhân duyên.
Học viên tiếp thu với tinh thần “thượng đế” tất có mặt lợi và hại.
- Nhánh thầy Mai, thầy Điều có tiếng vang lớn trong nước, miễn phí,
đóng vai trò đắc lực và nhân đạo cho tất cả mọi người có nhân duyên theo học và
duy trì.
Lưu ý: Phàm việc gì trong
xã hội đều có quy luật riêng, vật cùng tắc phản, có những bài học thuận duyên
và nghịch duyên khiến cho môn học này còn thăng trầm khi tìm cho mình một vị
trí xứng đáng để được toàn xã hội và chính quyền công nhận. Đắc Lắc có thể xem
là một vùng đất lành cho môn học này.
Tuy thế, cần phải khẳng định đây không phải là tôn giáo, đây là một
môn học dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe, không lôi kéo tín đồ, nó hoàn toàn phi
chính trị và xa lạ với pháp luân công do Lí Hồng Chí khởi xướng ở Trung Quốc.
Có thể nói. Từ năm 1989 thì
môn học này bắt đầu được phổ biến rộng rãi ra khắp thế giới. Cũng vào năm
này, Viện Nghiên Cứu Năng Lực Vũ Trụ Quốc Tế đầu tiên ra đời và đây cũng là nền
móng cho môn học Trường Sinh Học Nhân Điện hoạt động mạnh. Đến nay có rất nhiều
quốc gia đã có trung tâm nghiên cứu năng lượng quốc tế và hoạt động rộng khắp
trên toàn thế giới. Đầu năm 1990 thì môn
học này thực sự trở lại Việt Nam và được phổ biến rộng rãi cho tới ngày
nay. Đến thời điểm năm 2014 đã có hàng trăm ngàn người theo học với những kết
quả trị bệnh tương đối khả quan. Tiêu biểu là sự kiện thành lập Hội Tâm Năng Dưỡng
Sinh tỉnh Đắc Lắc. Theo Quyết định số 2358/Qđ-UBND ngày 21/10/2005 của UBND. Trụ
sở: Số 48/12 Nguyễn Công Trứ, Tp Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc. Cuối năm 2013, tại
Cẩm Khê, Phú Thọ đã khánh thành một trường lực TSH lớn nhất cả nước. Là điểm tu
học cho rất nhiều học viên nhân điện khắp mọi nơi. Thế hệ học viên được trao
chìa khóa khai mở luân xa theo nhánh của thầy Trần Văn Mai tương đối nhiều và
uy tín cao.
PHẦN III. PHƯƠNG THỨC TẬP THIỀN TSH
3.1. Không gian Thiền
a. Vị trí: Chọn nơi yên
tĩnh, không ai làm phiền hoặc không làm phiền ai (ngồi trệt chứ không ngồi lên
giường, tránh ngồi trong phòng riêng của hai vợ chồng, nếu không còn chồng hoặc
vợ thì được).
b. Tư thế: Có 3 dạng tư
thế gồm: đứng, nằm, ngồi, đi. Tuy nhiên để đạt kết quả tốt nhất là nên ngồi.
Khóa chân tay theo tư thế kiết già, bán già, xếp bằng hoặc duỗi thẳng hai chân
sao cho thoải mái nhất. Khi luân xa được mở 100% thì có thể đi thiền, đứng thiền,
mở mắt thiền. Đối với người khỏe mạnh thì không nên ngồi quá nhiều. Đối với người
bệnh nặng thì ngồi càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên không được bỏ tập 1 ngày (nếu
không ngồi được thì tập luân xa trong 3-5 phút).
- Ngồi Ngồi thẳng lưng, hai chân khoanh lại, chân phải đặt lên chân
trái (kiết tường) hoặc trái đặt lên phải (hàng phục yêu ma). Lòng bàn chân hướng
lên trời, hoặc không bị bít kín bởi vật cản như mặt đất, vách tường. Trường hợp
các cụ già không khoanh chân được thì duỗi chân hoặc ngồi tư thế thoải mái nhất,
hai tay đặt lên hai đầu gối, lòng bàn tay hướng lên trời.
- Nằm Nằm nghiêng, hai tay ngửa lên trên, hít mũi thở miệng 3 lần rồi
thu năng lượng, nhớ xoa tay kết thúc. - Đứng Tựa vai vào tường, buông thõng hai
tay, mở mắt sau đó hít mũi thở miệng ba lần rồi nhắm mắt lại thu năng lượng.
3.2. Chuẩn bị “Tâm sạch” để
thiền
Khi thiền nên để tâm yên ổn. Tấm lòng rộng mở, tình thương nhiều thì
năng lượng trị bệnh rất tốt. Nếu sống ích kỷ, ngạo mạn hay vụ lợi thì sẽ không
có kết quả cao.
Ai bệnh nhẹ thì ngồi 2 lần một ngày, không có bệnh thì ngồi để giữ
luân xa. Ai bệnh nặng hơn thì số lần ngồi nhiều hơn, thời gian cho mỗi lần ngồi
cũng nên đầu tư nhiều hơn.
Những ai mới tập nên điều chỉnh thời gian từ từ cho phù hợp sức chịu
đựng. Không nôn nóng, vội vã mà “chữa lợn lành thành lợn què”.
Không ngồi thiền để mong cầu thần thông, khai mở luân xa 1 hay con mắt
thứ 3. Năng lượng vũ trụ chỉ có thể thu được một cách hiệu quả khi hành giả có
tâm thanh tĩnh, không bị động tâm.
Nhưng năng lượng để phụ bệnh cho người khác thì lại kén chọn những
người có tâm quảng đại bác ái, từ bi thương người và muôn loài chúng sinh. Bởi
vậy chúng ta muốn bệnh tật hoàn toàn tiêu tán phải ghi nhớ một điều rằng, bản
thân phải biết làm điều thiện, không tham lam ích kỷ cá nhân, không nóng giận với
người với việc. Khi phụ bệnh cho người khác phải yêu thương người khác hơn bản
thân mình thì bệnh mới mau khỏi.
Về việc tạo thiện nghiệp, thì nên bố thí cho kẻ nghèo khó đói rách,
tính khí phải điềm đạm hòa nhã…Bản thân luôn tâm niệm mình là một thánh hiền. Từ
đó lời ăn tiếng nói và hành động sẽ dần thay đổi giống như thánh hiền. Lúc này
các Đại huyệt (luân xa) sẽ hoạt động tích cực để cho năng lượng tràn ngập cơ thể,
bệnh tật và các nghiệp chướng sẽ được hóa giải, ta sẽ cảm nhận một cuộc sống trọn
vẹn an vui.
Cần nhớ (1)
Khi ngồi thiền mà tâm động :
Thì nín thở ngay lúc đó. Ví dụ, đang ngồi thiền đứa cháu chạy đến gọi
thì nín thở (vẫn nhắm mắt) xua tay ra hiệu cho cháu đừng làm phiền, có mèo chó
đến bên cạnh thì kệ nó, nếu có ruồi nhặng bấu vào thì cũng mặc kệ (nên tạo khâu
chuẩn bị cho chu đáo như ngồi trong màn hoặc bôi thuốc xua muỗi…). (2)
Khiêng cữ:
- Uống rượu trước khi ngồi thiền hoặc phụ bệnh cho người khác.
- Thiền trong phòng 2 vợ chồng và để cấp thấp phụ cho mình.
- Ngạo mạn bắt người khác gọi là thầy
- Đặt vấn đề (vật chất và tinh thần) để kiếm lợi từ bệnh nhân
- Không được ích kỷ, tình thương phải luôn luôn lớn.
Không phân biệt kẻ này người khác. Tuy nhiên phải biết công lực của
mình đến đâu có thể dứt nghiệp cho kẻ khác hay không. Cẩn trọng kẻo hại chính
mình.
3.2. Phương thức thu năng lượng
Khi chuẩn bị xong khâu thứ nhất, thả lỏng cơ thể.
- Mở mắt rồi hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng 3 lần (hít sâu, chậm,
nhẹ nhàng). Nhắm mắt, hơi mỉm cười, thả lỏng lúc nhập thiền. Bắt đầu thiền cho
đến khi nào muốn xả thì mở mắt ra.
- Hít bằng mũi, thở bằng miệng 3 lần. Xoa hai tay vào nhau để kết
thúc môn học. Nếu ai không giữ được tâm yên lặng thì đọc thầm câu “ Tôi đang nhận
khí đây ” và cảm tưởng rằng sấm sét và tia chớp của ánh sáng từ trên trời đang
truyền vào Luân xa 7, Luân xa 5. Lúc này sẽ cảm nhận được năng lượng của vũ trụ
đang truyền vào cơ thể khiến cơ thể xoay chuyển, thấy nóng, giật ở đầu ngón tay
và toàn thân.
Tùy vào cơ địa mà có người thấy nóng, người thấy lạnh, người thì thấy
mát, người khác lại thấy như có kiến bò,… Nên buông lỏng cơ thể một cách tự
nhiên. Lưu ý: Khi thấy cơ thể xoay chuyển nhẹ thì cứ để tự nhiên không kìm hãm
lại. Nhưng cũng không nên dùng ý chí để quay theo vòng quay của năng lượng. Vì
như vậy cơ thể sẽ tạo rung động mạnh hơn sinh tâm hướng ngoại, sinh nhiễu sóng.
3.3. Cảm giác khi thu năng lượng
Cơ thể như nóng lên, như có muỗi chích toàn thân, hoặc ngàn kim đâm,
như có một luồng khí chạy rần rật trong cơ thể... Mỗi người có một phản ứng
riêng. Trong khi ngồi thiền nếu thấy xuất hiện nhiều hiện tượng, sự việc trong
đời sống hiện lên khó tập trung như: việc làm thường nhật, hào quang, Tiên Phật
hay Ma Qủy xuất hiện thì mặc kệ. Lắng nghe các luân xa, tập trung thu năng lượng.
3.4. Thời gian Thiền
Chúng ta phải ngồi thiền như vậy với thời gian ít nhất là 30 phút
cho mỗi lần tập. Đối với thiền phụ bệnh cho người khác thì nên ngồi nhiều hơn để
tích thêm năng lượng. Đặc biệt ở cấp độ mới khai mở luân xa, nên ngồi thiền đều
đặn trong một khung thời gian nhất định trong ngày và liên tục theo tuần.
3.5. Xả thiền – Kết thúc buổi
tập
Sau khi thu năng lượng xong thực hiện 3 điều: - Mở mắt, sau đó hít
vào bằng mũi thở ra bằng miệng 3 lần (sâu và chậm). - Đưa hai lòng bàn tay ốp
vào nhau xoa đi xoa lại 3 vòng trở lên để cân bằng năng lượng. - Xoa bóp bằng
năng lượng chỗ đau mỏi, bệnh tật ngoài luân xa.
3.6. Xả trược
Trong quá trình thiền trị bệnh hoặc trong cuộc sống hiện đại thường
phải tiếp xúc với những nguồn năng lượng và bức xạ có hại. Nếu chưa có lớp áo
năng lượng mạnh thì chúng ta sẽ dễ bị nhiễm trược. Không chỉ thế khi mở lớp,
khai mở luân xa, phụ bệnh cho nhiều người chúng ta dễ bị nghiệp bệnh của họ ảnh
hưởng. Cũng dẫn đến trược. Cũng có khi ta mắc phải 6 điều kiêng trong môn học
thì năng lượng của chúng ta không được tốt nữa. Do đó cần xám hối và xả trược.
3.7. Khi phụ bệnh có nhiều
trường hợp bệnh xuất hiện nhiều hơn và nặng hơn
Nguyên do là căn bệnh và nghiệp này được nhận diện và chúng ta được
cơ thể thông báo sớm hơn trước đây để chúng ta tìm cách đối phó. Hành giả cứ
yên tâm thiền tốt và tăng thời gian cho những lần thiền sau đó.
3.8. Bài học khiêm tốn
- Đối với bản thân: thì
phải tin lời của Tiền bối, Minh sư nếu như không tìm thấy điều nghi ngờ để phủ
định nhân cách của họ. Tin tưởng vào bản thân mình, tin tưởng vào Tổ sư Dasira
Narada. Vĩnh viễn không đọa vào đường ác.
- Đối với người khác: Đừng
bao giờ cho rằng mình học được môn học này mà nghĩ mình cao cấp hơn người không
học. Đừng quan tâm đế các cấp học. Phải tự thắp sáng cho mình vì nếu chỉ chờ
người khác thắp sáng thì như “đèn ra trước gió”.
- Đối với bệnh nhân của mình:
phải nhớ bài học về chiếc công tắc điện. Khi phụ bệnh cho người khác thì ta
đóng vai một chiếc công tắc trung gian
– kết nối năng lượng sinh học
từ vũ trụ đến cơ thể mình rồi truyền cho bệnh nhân. Do đó không ngạo mạn,
ví như một bác sĩ giỏi cũng chẳng có khả năng chữa bệnh mà chỉ có thuốc mà Bác
sĩ kê đơn mới chữa được bệnh.
Chỉ nên phụ cho người cầu mình giúp, tin mình có thể giúp. Phụ bệnh
cho người già, trẻ em dưới 12 tuổi nếu thấy cần thiết. Cấp cứu thì tùy duyên.
Những trường hợp biết là không cứu được, nếu được nhờ cậy thì nói với bệnh nhân
và người nhà rằng: Tôi cầu những điều tốt lành và nhiệm màu sẽ đến với anh:
(tên của nạn nhân). Sau đó đặt tay vào luân xa 7 rồi khuyên họ hướng thượng mà
tu học.
Phương pháp trị liệu bằng trường sinh học-Nhân điện (Lương minh Đăng)
a- Hệ thần kinh và 7 Luân Xa
Luân Xa 1: Là tiềm lực nguồn vũ trụ. Chỉ có thầy và người thừa kế mới
được phép mở Luân Xa 1;
Luân Xa 2: Là nguồn năng lực cho cơ thể. Chữa trị nan y cho:
1/. Nam: Bộ phận sinh dục
và tinh khí;
2/. Nữ: Điều hoà kinh
nguyệt, máu huyết, ung thư bướu tử cung hay buồng trứng.
Luân Xa 3: Chữa trị hệ bài tiết, tiêu hoá, tăng cường sức mạnh tạo
sanh huyết, bao tử, ruột, lá lách và thận;
Luân Xa 4: Chữa trị hệ tuần hoàn Tim, xơ mỡ và đóng mạch máu Tim;
Luân xa 5: Chữa trị hệ hô hấp mũi, phổi, cuống họng, da, kể cả hen
suyễn và dị ứng;
Luân xa 6 và 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể: Hệ thần kinh; khí và tinh
huyết; chữa trị đau nhức tất cả các khớp xương cùng các bệnh khác dù bên trong
hoặc ngoài các luân xa.
b- Những bộ phận chính trong
cơ thể
c- Phương pháp hít thở tịnh
tâm (lớp 3, 4 và 5) được thầy truyền năng lượng 100% trở lên
Chú ý: Cần mở mắt
Gồm 3 bước cụ thể như sau:
- Bước 1. Mở mắt, hít vào
bằng mũi chậm và nhẹ nhàng cho đến khi không hít vào được nữa, dừng lại và thở
ra nhẹ nhàng bằng miệng đến khi không thở ra được nữa. Chú ý: 3 lần hít vào, thở
ra đầu tiên, cụ thể lần lượt như sau:
+ Hít, thở lần đầu tiên:
Hít vào thật sâu, cả quá trình thở ra được chia thành 3 đoạn bằng nhau (thở ra
khoảng 30% lượng khí có trong phổi thì dừng lại một lát, sau đó lại tiếp tục
như thế cho đoạn 2 và đoạn 3). Kết thúc đoạn 3 là hết sạch khí trong bụng;
+ Hít, thở lần thứ hai: Giống
như lần đầu tiên
+ Hít, thở lần thứ ba: Hít vào thật sâu, cả quá trình thở ra được
chia thành 4 đoạn bằng nhau (thở ra khoảng 25% lượng khí có trong phổi thì dừng
lại một lát, sau đó lại tiếp tục như thế cho đoạn 2, 3 và đoạn 4). Kết thúc đoạn
4 là hết sạch khí trong bụng;
+ Kể từ lần hít, thở thứ tư trở đi: Hít vào và thở ra nhẹ nhàng một
lần không cần phải chia ra thành 3, 4 đoạn như ba lần nói trên.
- Bước 2. Tiếp tục vẫn mở
mắt, hít, thở bình thường và nhẹ nhàng. Điều quan trọng là làm cho tâm trống
không. Kinh nghiệm của nhiều người là tập trung ý nghĩ lên đỉnh đầu của mình –
tổng thời gian kể từ bước 2 trở đi là từ 5 phút trở lên (càng nhiều càng tốt).
Mỗi ngày thực hiện 3 lần: Sáng, trưa, tối
Luân Xa 1: Là tiềm lực nguồn vũ trụ. Chỉ có thầy và ngời thừa kế mới
được phép mở Luân Xa 1;
Luân Xa 2: Là nguồn năng lực cho cơ thể. Chữa trị nan y cho:
1/. Nam: Bộ phận sinh dục và tinh khí;
2/. Nữ: Điều hoà kinh nguyệt, máu huyết, Ung thư bớu tử cung hay buồng
trứng.
Luân Xa 3: Chữa trị hệ bài tiết, tiêu hoá, tăng cờng sức mạnh tạo
sanh huyết, bao tử, ruột, lá lách và thận;
Luân Xa 4: Chữa trị hệ tuần hoàn Tim, xơ mỡ và đóng mạch máu Tim;
Luân xa 5: Chữa trị hệ hô hấp mũi, phổi, cuống họng, da, kể cả hen
suyễn và dị ứng;
Luân xa 6 và 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể: Hệ thần kinh; khí và tinh
huyết; chữa trị đau nhức tất cả các khớp xương cùng các bệnh khác dù bên trong
hoặc ngoài các luân xa.
b- Những bộ phận chính trong
cơ thể
c- Phương pháp hít thở tịnh
tâm (lớp 3, 4 và 5) được thầy truyền năng lợng 100% trở lên Chú ý: Cần mở mắt
Gồm 3 bớc cụ thể nh sau: 4 ống thực quản Tim Lá lách Dạ dày Thận Ruột non Ruột
già Ruột cùng Phổi Gan Thận ống dẫn nước tiểu Cuống ruột thừa Bọng đái –
Bước 1. Mở mắt, hít vào bằng
mũi chậm và nhẹ nhàng cho đến khi không hít vào được nữa, dừng lại và thở ra nhẹ
nhàng bằng miệng đến khi không thở ra được nữa. Chú ý: 3 lần hít vào, thở ra đầu
tiên, cụ thể lần lợt nh sau: + Hít, thở lần đầu tiên: Hít vào thật sâu, cả quá
trình thở ra được chia thành 3 đoạn bằng nhau (thở ra khoảng 30% lợng khí có
trong phổi thì dừng lại một lát, sau đó lại tiếp tục nh thế cho đoạn 2 và đoạn
3). Kết thúc đoạn 3 là hết sạch khí trong bụng; + Hít, thở lần thứ hai: Giống
nh lần đầu tiên + Hít, thở lần thứ ba: Hít vào thật sâu, cả quá trình thở ra được
chia thành 4 đoạn bằng nhau (thở ra khoảng 25% lợng khí có trong phổi thì dừng
lại một lát, sau đó lại tiếp tục nh thế cho đoạn 2, 3 và đoạn 4). Kết thúc đoạn
4 là hết sạch khí trong bụng; + Kể từ lần hít, thở thứ t trở đi: Hít vào và thở
ra nhẹ nhàng một lần không cần phải chia ra thành 3, 4 đoạn nh ba lần nói trên.
–
Bước 2. Tiếp tục vẫn mở mắt,
hít, thở bình thờng và nhẹ nhàng. Điều quan trọng là làm cho tâm trống không.
Kinh nghiệm của nhiều ngời là tập trung ý nghĩ lên đỉnh đầu của mình tổng thời
gian kể từ bớc 2 trở đi là từ 5 phút trở lên (càng nhiều càng tốt). Mỗi ngày thực
hiện 3 lần: Sáng, tra, tối –
Bước 3. Mỗi lần thực hiện lặp lại như bước 1 và 2.
d- Để giữ cho luân xa lúc nào
cũng mở 100% cần tôn trọng những quy định sau đây:
- Không: Chối bỏ thầy, chối bỏ
Yoga, chối bỏ Trường sinh học
- Không: Đặt bất kỳ điều kiện nào (vật chất, tiền bạc ) đối với bệnh
nhân
- Không: Từ chối trị cho con của mình dưới 12 tuổi khi nó bị bệnh
- Nếu bệnh nhân khỏi bệnh đến cảm ơn thì chỉ được phép nhận 30%, còn
70% tặng cơ quan từ thiện.
Phần thứ hai
Công thức trị bệnh dành cho ngời lớp 3, 4 và 5 mở luân xa 100%
A- Bắt mạch (trước khi trị
bệnh):
1. Đặt 3 ngón tay trái/phải của mình vào cổ tay trái/phải của bệnh
nhân, phía trên hay phía dưới cũng được;
2. Tập trung tư tởng, nhìn vào chỗ bắt mạch từ 15 giây đến 1 phút để
cảm nhận tình trạng của bệnh nhân;
3. Nếu cảm nhận được ở bất kỳ Luân Xa hoặc bộ phận nào trong cơ thể
của mình bị nóng hay co thắt: Luân Xa hoặc bộ phận tương ứng của bệnh nhân bị
đau, cần được trị nơi đó;
4. Nếu mạch máu ở cổ tay bệnh nhân mà chúng ta đang bắt mạch bị
nóng, đẩy ngón tay của chúng ta ra thì lấy tay về, khuyên bệnh nhân đi xét nghiệm
máu để biết chính xác tình trạng của bệnh mới có thể chữa trị được;
5. Trong khi bắt mạch mà từ cạnh Luân Xa 3 của mình trở xuống dưới
gót chân có hiện tượng thịt bị giựt, khều, nhéo thì bệnh nhân bị thần kinh giả.
Cần trị thần kinh giả cho bệnh nhân theo đúng công thức. Sau đó mới tiếp tục trị
bệnh khác. Trong khi bắt mạch, nếu từ Luân xa 3 của chúng ta trở lên Luân Xa 4,
Luân Xa 5 mà có báo hiệu thì không phải thần kinh giả, chúng ta chỉ trị bệnh mà
thôi.
B- Lọc máu(trong khi trị
bệnh)
1. Đặt 3 ngón tay trái/phải của
mình vào cổ tay trái/phải của bệnh nhân, phía trên hay phía dưới cũng được;
2. Thời gian lọc máu từ 1 đến 5 phút hoặc khi nào thấy tay của mình
nóng lên thì lấy ra
3. Mỗi lần đặt một tay vào Luân xa của bệnh nhân để trị bệnh thì tay
kia phải lọc máu;
4. Đặt tay lọc máu song song (cùng thời gian) với tay trị ở Luân Xa
5. Nếu lọc máu riêng, không tiến hành đồng thời với việc trị ở Luân
Xa thì không có hít thở 3 hơi
C- Trị bệnh
Mỗi lần trị bệnh, một tay đặt vào Luân Xa, tay kia lọc máu. Khi đặt
tay xong thì phải hít vào bằng mũi hơi ngắn và thở ra bằng miệng hơi dài ít nhất
3 lần. sau 3 hơi thở nếu tay nóng thì phải lấy tay rời khỏi Luân Xa; nếu tay chưa
nóng thì để tối đa 2 phút phải lấy tay ra.
Mỗi lần tay di chuyển đến một Luân Xa khác phải áp dụng thêm 3 hơi
thở (xem cách hớng dẫn trên). Tuy nhiên, dù bệnh nặng hay bệnh nhẹ cũng chỉ trị
bệnh cho người đau không quá 5 phút. Nếu người bệnh không đau các bộ phận trực
thuộc các Luân Xa mà ở các vùng trong cơ thể thì mỗi nơi đau, khi đặt tay vào
cũng phải áp dụng 3 hơi thở (hít vào hơi ngắn bằng mũi, thở ra hơi dài bằng miệng).
Tuy nhiên cũng không quá 2 phút khi trị bệnh cho vùng đau.
Dù nhiều vùng đau đi nữa, chúng ta chia cho số phút, không quá 5
phút, cho tất cả các vùng đau. Nên nhớ rằng, mỗi lần di chuyển nơi đau đều phải
áp dụng ít nhất 3 hơi thở (hít vào, thở ra).
D- Trị bệnh cho trẻ em dưới
12 tuổi. Riêng trẻ em dưới 12 tuổi, mỗi lần chúng ta trị bịnh, một tay đặt
vào Luân Xa, tay kia lọc máu, chúng ta chỉ cần hít vào thở ra như công thức nêu
trên, sau 3 hơi thở lấy tay ra, và mỗi lần di chuyển tay qua Luân Xa khác cũng
phải áp dụng 3 hơi thở. Nếu chúng ta trị bệnh các nơi đau ngoài Luân Xa, chúng
ta chỉ cần hít vào và thở ra 3 hơi là lấy tay ra là đủ rồi. Tuy nhiên. môi lần
di chuyển nơi đau khác, nhớ là phải áp dụng 3 hơi thở (hít vào, thở ra).
E- Trị bệnh cho trẻ em mới
sinh trước 12 tháng tuổi. Đặc biệt với trẻ em mới sinh trớc 12 tháng tuổi bất
cứ đau bệnh gì, chúng ta chỉ cần đặt tay vào Luân Xa 6 và Luân Xa 7, hít vào thở
ra 3 lần sau đó lấy tay ra là đủ. không cần phải trị các Luân Xa khác.
F- Một số bệnh trị theo
công thức áp dụng 3 hơi thở nhưng phải để 5 phút mới lấy tay ra:
1. Thần kinh giả (thở ra 3 hơi)
2. Xì ke ma tuý 3. Hôn mê (ngời lớn cũng nh trẻ em)
4. Nhiễm phóng xạ nguyên tử
5. Sanh dễ
6. Đồng tính luyến ái
7. Thiền bị tẩu hoả nhập ma (thở ra 3 hơi)
G- Một số Trường hợp được trị
ở Luân Xa 6.
1. Xì ke ma tuý
2. Hôn mê
3. Trẻ em mới sinh đến 12 tháng tuổi (cho tất cả các bệnh)
4. Tăng cờng thông minh cho học sinh, sinh viên
Phần thứ ba danh sách các bệnh và phương pháp trị liệu
I. Tất cả mọi trường hợp
Một tay đặt nơi Luân Xa hoặc nơi đau, tay kia lọc máu trong thời
gian trị bệnh;
Tất cả các trường hợp khẩn cấp đều dùng Luân Xa 7 (L7), dù là Cao cấp,
Trung cấp hoặc Sơ cấp;
Trong lúc khẩn cấp, nguời sơ cấp hoặc trung cấp có thể trị ở Luân Xa
7 cho ngời Cao cấp;
Trong trường hợp đau bệnh bình thờng thì ngời Cao cấp đừng để cho người
Sơ cấp hoặc
Trung cấp trị bệnh cho mình. Nếu để họ trị bệnh thì người Cao cấp sẽ
mất năng lực; Nếu trong ngày đã trị ở Luân Xa rồi, có thể trị thêm ở nơi đau nhức
khoảng thời gian 2 phút. Trong trường hợp tai nạn bị ngã trật gân, bị phỏng, bị
đứt tay, chân
II. Các bệnh và phơng pháp trị
liệu
01. AIDS:
a) Bình thường: Một tay lọc máu, trong khi đó tay kia đặt ở L2 + L3,
HT3, để tối đa 2 phút rồi L7, HT3, để tối đa 2 phút. Chữa trị trong 3 tuần liên
tục, không được gián đoạn
b) Có ung th (da, phổi): Một tay lọc máu, trong khi đó tay kia đặt ở
L2 + L3, HT3, để tối đa 2 phút rồi L5, HT3, để tối đa 1 phút rỡi, rồi L7, HT3 để
tối đa 1 phút rưỡi.
Chữa trị trong 3 tuần liên tục, không được gián đoạn. Bệnh AIDS chỉ
trị cho những người trong gia đình. Bệnh nhân AIDS không được uống rượu trong
thời gian trị bệnh. Sau 3 tuần trị bệnh khuyên bệnh nhân đi khám lại.Nếu hết bệnh
thì ngừng trị
02. ăn không ngon: L3 + lọc máu
03. ăn nhiều không mập: L3 + lọc máu
04. áp huyết cao: L4, L7 + lọc máu
05. áp huyết thấp: L2, L3 + lọc máu
06. Bạch tạng (đồi mồi): L3 + lọc máu. Thuốc gia truyền: Dùng rễ lúa
(rạ lúa hay rạ nếp) càng nhiều càng tốt, nấu với gan heo và 3 chén nước (không
bỏ muối hoặc đường). Nấu cho cạn chỉ còn lại 1 chén, ăn gan và uống nước. ăn chừng
nào hết thì thôi
07.Băng huyết (Vì tử cung có bớu): L2 + lọc máu
08. Băng huyết khẩn cấp: L7
09. Bao tử: L3 + lọc máu
10. Bất lực: L2 + lọc máu
11. Bé chậm phát triển: L2, L3, L7 + lọc máu
12. Bé sinh thiếu tháng: L7 cấp cứu
13 Bé sinh ra bị ngộp: L7
14. Bé sinh ra cơ thể bị tật bẩm sinh: Trị không được
15. Bí tiểu: L2 + một tay ở bọng đái
Ghi chú:
- Tên bệnh kiểu chữ đậm (VnRevue/B)
- Cách trị bệnh kiểu chữ thường (VnTime)
Những chữ viết tắt:
- L: Luân Xa
- CC: Cao cấp
- HT3: Hít, thở 3 hơi (hít vào bằng mũi hơi ngắn, thở ra bằng miệng
hơi dài)
16. Bít Luân Xa: Phải điều chỉnh lại (do thầy chỉ định)
17. Bó bột sau 6 tháng bị teo: Đặt tay ở chỗ teo để kích thích mạch
máu nở ra
18. Bộ phận bị cắt khi giải phẫu (Thí dụ Gan bị cắt 1/3): L3 + lọc
máu
19. Bộ phận sinh dục đàn ông bị teo: L2 + lọc máu
20. Buồn nôn: L3 + lọc máu
21. Bướu cổ: L7 + một tay ở chỗ Bướu
22. Bướu ngoại: Cố gắng trị
23. Bướu trong buồng trứng tử cung: L2 + lọc máu
24. Bướu trong não: L7 + lọc máu
25. Cai thuốc lá: Mợn một điếu thuốc lá của người nhờ chúng ta cai
thuốc, ngậm điếu thuốc lá vào miệng mình, châm lửa đốt rồi hít vào đoạn thổi
khói vào đầu điếu thuốc lá đang cháy (để điếu thuốc lá nằm ngang trớc mặt). Hít
vào và thổi khói ra 3 lần như thế, xong trả lại điếu thuốc lá cho người muốn
cai thuốc. Việc cai thuốc chỉ hiệu nghiệm khi có sự yêu cầu của người muốn cai
và lu ý phải thổi khói vào đầu điếu thuốc lá đang cháy.
26. Cảm, cúm, ho: L5, L7 + lọc máu
27. Cấp cứu: L7 tối đa 5 phút
28. Chân bị liệt: Hệ thần kinh ở xương mông và một tay ở đầu gối
29. Chất vôi đóng ở xương làm nhức (mùa lạnh): Trị ngay vùng bị đau
30. Chất vôi đóng ở xương làm nhức (mùa nóng): Coi chừng bị Bớu
31. Chảy máu trong ống dẫn bao tử: L3 + lọc máu
32. Chết đuối trong vòng 8 tiếng dưới 12 tuổi: L7, khoảng 5 phút
33. Cholesterol có trong máu: L3, L4 + lọc máu
34. Cholesterol đóng ở van Tim: L4 + lọc máu
35. Cùi: Một tay lọc máu trong khi đó tay kia đặt L2 + L3, HT3, để tối
đa 2 phút, rồi L4, HT3, để tối đa 1,5 phút, và L5, HT3 để tối đa 1,5 phút
36. Cụp xương sống: Trị ngay xương sống chỗ đau
37. Cứng cổ: Một tay bấm 2 gân to sau ót (gáy)
38. Cấp cứu trẻ em: L7 (khi tỉnh mới lấy tay ra)
39. Da:
a) Nếu tại Da: L5 + lọc máu
b) Nếu tại Gan: L3 + lọc máu
40. Da dày thốn gót chân (máu tích trữ ở dưới gót chân): Dùng ngón
tay cái để ở gần gót chân, 3 ngón tay kia để ở trớc cổ chân
41. Da khô, lác: Dùng bàn tay để trên chỗ lác
42. Da nám: L3, L5 + lọc máu (có thể do gan)
43. Da sần sùi: L3, L5 + lọc máu (sẽ thay da mới)
44. Dị tật, mất trí khôn: L7 + lọc máu
45. Dị ứng da ngứa: L3, L5 + lọc máu
46. Dị ứng mũi (allergy), sổ mũi: L5 + 2 ngón tay ở sống mũi
47. Dời ăn: L5 + lọc máu. Thuốc gia truyền: Đậu xanh có vỏ, ngâm nước,
đắp vô cho mát
48. Dỡng thai: Bắt đầu từ khi mang thai, mỗi ngày L2 + lọc máu
49. Dứt kinh (tính tình thay đổi): L2, L3, L7 + lọc máu
50. Dứt kinh (50 55 tuổi) trớc khi dứt kinh: L2 + L7 mỗi ngày 1 lần.
Kinh sẽ ra nhiều gấp 2, 3 lần, đừng sợ sẽ dứt luôn
51. Đau nhức: L7 + một tay đặt nơi đau nhức (tay hoặc chân)
52. Đau ót: L7 + một tay sau ót (gáy)
53. Đeo kính bị nhức mắt: L7 + 2 ngón tay ở trên 2 chân mày
54. Điện giật: L7 + cấp cứu
55. Đồng tính luyến ái (khi có yêu cầu mới trị): L7, L5, HT3, đặt
tay đúng 5 phút, không lọc máu (chỉ trị 1 lần)
56. Đốt xương sống đau
a) Đau toàn cột sống: Một tay lọc máu, trong khi đó tay kia từ từ di
chuyển trên cột xương sống từ L5 xuống L2
b) Đau từng đốt sống: Đặt tay ngay đốt xương sống đó
57. Đứt mạch máu khẩn cấp: L7
58. Gan bị cứng, teo, khô: L3 + lọc máu
59. Ghép thận, ghép xương bị phản ứng: Bộ phận nào thì trị ở bộ phận
đó
60. Ghép tim: L4 + lọc máu
61. Giảm rượu: Mượn ly rượu của người mà mình muốn giúp cho giảm rượu,
nhấp môi một chút rồi đa lại cho người đó uống. Kết quả là người đó sẽ giảm rượu
khoảng 70 đến 80% (chứ không bỏ hẳn). Giúp giảm rượu thì không cần thiết cho người
đó biết
62. Giang mai
a) Nếu mới bị: L2, L7 + lọc máu
b) Nếu nổi mụn trên người: L2, L5, L7 + lọc máu
63. Hạch cổ: L7 + một tay ở cổ
64. Hiếm muộn do đàn bà (có buồng trứng bị teo): L2 + lọc máu
65. Hiếm muộn do đàn ông: L2 + lọc máu
66. Hoa liễu: L2 + lọc máu
67. Hói tóc: Do tế bào da trên đầu bị yếu, để tay lên đầu chỗ hói
tóc để kích thích tế bào
68. Hôi nách: Vò hai lá trầu tơi, kẹp vào 2 nách, lấy băng keo dán lại
mỗi đêm, liên tiếp 4 đêm
69. Hôn mê (người lớn cũng nh trẻ em): L6, L7, HT3, để đúng 5 phút,
không lọc máu. mỗi ngày trị 2 lần, cách nhau ít nhất khoảng 6 tiếng đồng hồ.
70. H thai: L2 + lọc máu
71. Huyết trắng: L2 + lọc máu
72.Khạc đờm (do trẻ em không biết khạc): L5 + một tay ở phổi, đờm sẽ
xuống bao tử
73. Khó ngủ: L7 + một tay để ở sau cục xương sau vành tay trái hoặc
phải, bệnh nhân sẽ ngủ được
74. Khó tính đổi thành dễ tính: L7
75. Khó tính do thời tiết, mệt: Hít thở 3 cái (người đã học nhân điện)
76. Khô cổ: L5, L7
77. Không rõ bệnh thuộc Luân Xa nào ?: L7 + chỗ bị đau
78. Khớp tay đau nhức: L7 + một tay ở chỗ bị đau
79. Khớp xương bị kẹt, 2 chân không cử động: L7 + một tay áp vào hệ
thần kinh của xương bàn toạ (2 bên), trị trong 7 ngày (nếu bệnh nhẹ), nghỉ 1
ngày rồi tiếp 7 ngày nữa sẽ cử động được (nếu bệnh nặng)
80. Khử độc trong đồ ăn, đồ uống: Cầm ly, tách, chén, đĩa từ tay này
đưa sang tay kia rồi sử dụng. Phương pháp này chỉ có kết quả đối với chính bản
thân, không thể áp dụng được cho người khác
81. Kiết lỵ: L3 + lọc máu + thuốc gia truyền (nấu 3 muỗng (muỗng cà
phê) đậu xanh có
vỏ, 3 lát cam thảo, 3 chén nước, đun cạn nước, ăn cam thảo nhả bã, đậu
xanh ăn hết. Trị bệnh và ăn trớc khi đi ngủ trong 7 ngày liên tiếp
82.Kinh kỳ đau bụng (điều hoà kinh nguyệt): L2 + lọc máu
83. Kinh phong trẻ em: L7 + lọc máu
84. Lạnh bàn tay, bàn chân (máu không lu thông)
a) Trị cho bệnh nhân
- Bàn tay lạnh: Lấy tay mình áp vào tay bệnh nhân
- Bàn chân lạnh: Lấy 2 bàn tay đặt lên 2 bàn chân của bệnh nhân
b) Nếu tự trị
- Bàn tay lạnh: Lấy tay này áp qua tay kia
- Bàn chân lạnh: Lấy 2 bàn tay đặt lên 2 bàn chân
85. Lang ben nguyên cơ thể: Lấy 2 cục phèn chua pha vào 4 xô nước ấm.
Xối nước phèn
tắm, lau khô, liên tục trong 3 tuần thì hết.
86. Lãng tai: L7 + chỗ tai bị ù (nếu có máy nghe, yêu cầu lấy máy
nghe ra mỗi khi trị bệnh)
87. Lãnh cảm: L2 + lọc máu
88. Lao: L5 + một tay ở phổi chỗ đau
89. Liệt: Không trị được nếu trên 65 tuổi hoặc bị đứt mạch máu
chính. Trị được nếu chỉ bị
đứt mạch máu phụ
a) Liệt tay, chân bên phải đồng thời bị ngọng (Trị thần kinh bên
trái): L7 + một ngón tay cạnh lỗ tai bên trái và một ngón tay gần cổ bên trái
b) Liệt bên trái (Trị thần kinh bên phải): L7 và không cần để tay ở
thần kinh dưới cổ bên phải vì không bị ảnh hởng đến tiếng nói
90. Liệt 2 tay và 2 chân
a) Bình thường: Hai tay đặt vào hai đầu gối/2 cùi chỏ (mỗi nơi 1,5
phút). Sau đó đặt L7 và lọc máu 2 phút
b) Trường hợp phát âm bị nghẽn: Hai tay đặt vào hai đầu gối/2 cùi chỏ
(mỗi nơi 1,5 10 phút). Sau đó đặt một tay ngay gần cổ trái và lọc máu 2 phút
91. Lỡi nổi mụn nh đẹn, ăn uống bị rát: L7 + một tay dưới cằm + lọc
máu
92. Mạch máu làm cứng tay: Trị hai xương cổ tay
93.Mạch máu ở chân bị sng (vì đứng nhiều hay do sinh con đi sớm): Để
2 tay trên 2 đầu gối và bàn chân bị sng
94. Máu cam: L7 + một tay ở sống mũi
95. Máu đặc trong óc: L7 + lọc máu
96. Máu loãng: L2, L4 + lọc máu
97. Mắc nghẹn: Khẩn cấp L7
98. Mập làm cho ốm (béo làm cho gầy): Tự trị hoặc chồng/vợ học qua lớp
cao cấp trị cho vợ/chồng. Một tay lọc máu, 2 ngón bàn tay kia bóp 2 bên rốn,
HT3, để tối đa 2 phút, mỡ sẽ tan, sẽ tiêu đi nhiều lần trong ngày
99. Mập quá cân (nếu bị bệnh): L7 + một tay bóp 2 bên rốn (bớt mập)
chỉ trị những bệnh nhân nặng từ 200 cân Anh trở lên (hoặc 100 kg cân Việt trở
lên)
100. Mất ngủ: L7 + một tay để ở cục xương sau lỗ tai
101. Mất ngủ kinh niên: L7 + một tay để ở cục xương sau lỗ tai. Một
lần thôi nếu đã ngủ được
102. Mật bị sạn: L3 + lọc máu
103. Méo miệng bên trái: Mới bị thì dễ trị hơn. L7 + một tay ở ngay
chỗ đau bên phải
104. Mề đay: L3, L5 + lọc máu
105. Mọc nhánh: Trị chỗ đau (không tăng sụn nữa)
106. Mỏi mắt: 2 ngón tay để trên hai chân mày + lọc máu
107. Mồ hôi tay, chân (do yếu thần kinh hay thận): L3, L7 + lọc máu
108. Mộng du: L5, L7 khỏi phải thở ra trị một lần thôi
109. Mụn bọc (có mủ và có cùi): Nguyên bàn tay bọc ngay chỗ mụn, các
ngón tay vây quanh mụn cô lập lại
110. Mụn nổi đỏ hoặc trắng trong miệng: Một tay dưới cằm + lọc máu
111. Mụn nổi ở dơng vật: L2 + một tay ngay dơng vật + lọc máu
112. Mụn trứng cá: Nếu sống độc thân, khi có gia đình thì sẽ hết.
L3, L5 + lọc máu. Trước khi đi ngủ uống một ly nước lạnh, sáng dạy uống một ly nước
lạnh
113. Nấc cục: L3, L5
114. Nấm mọc ngoài da: L5 + lọc máu
115. Nghẽn đờng phát âm: L7 + một tay ở cổ phía trái
116. Nghẹt mũi kinh niên: L5 + một tay sống mũi
117. Nghĩ ngợi, lo lắng: L7
118. Ngủ đổ mồ hôi trộm: L3, L7 + lọc máu
119. Ngứa da: L3, L5 + lọc máu
120. Ngừa xẩy thai: L2 + một tay trên xương mu (dành riêng cho chồng
đã học cao cấp trị cho vợ, hoặc phụ nữ trị cho phụ nữ) + lọc máu.
121. Nhổ răng chảy máu: Tay đặt ngoài xương hàm chỗ chảy máu
122. Nhút nhát, thần kinh yếu: L7 + lọc máu
123. Nhức đầu hoặc chóng mặt: L7 + lọc máu
124. Nói được, nghe không được: L7 + chỗ tai bị ù (nếu có máy nghe,
hãy lấy máy nghe ra trước khi trị)
125. Nước trong đầu: L7 + lọc máu
126. ói: L3, L7 + lọc máu (khẩn cấp, dứt ngay)
127.ốm thành mập (gầy thành béo): L3 + lọc máu
128. Phong đòn gánh: Tay để ở vết thơng + lọc máu
129. Phong thấp
a) Tổng quát toàn thân: L2, L3, L7 + lọc máu
b) Từng phần: Nhức chỗ nào thì đặt tay ở chỗ đó
130. Phong tình: L2 + lọc máu
131. Phóng xạ hoành hành do chiến tranh nguyên tử hoặc hoá học hoành
hành do chiến tranh hoá học:
- Ngày đầu: Trị L7, HT3 đặt tay đúng 5 phút
- Từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 16: Đặt tay lên L2, L3 và tay kia lên
L7, HT3, để đúng 5 phút. Sau đó lọc máu đúng 5 phút (không HT3). Không được
gián đoạn trong 15 ngày trị bệnh. Nếu gián đoạn dù chỉ 1 ngày, bệnh sẽ không cứu
được
132. Phỏng: L5 + L7 (sẽ không bị thẹo)
133. Phổi có nước: L5 + lọc máu
134.Răng bị lỏng nuớu, chân răng ló dài ra:
- Nếu bị hàm trên: Tay để ở hàm trên, trị trong 7 ngày
- Nếu bị hàm dưới: Tay để ở hàm dưới, trị trong 7 ngày
135. Rắn cắn chỗ chân: Bịt vết thơng lại tay chận liền, nếu chận
không kịp, dùng L7 chất độc quay ngược ra khỏi vết thương
136. Ruột du có mủ: Phải mổ
137. Ruột du có triệu chứng đau: L3 + lọc máu. Thuốc gia truyền (sắp
sửa bị mổ) ăn đậu xanh 7 ngày và trị L3 (xem đoạn kiết lỵ về cách ăn và chữa
cho khỏi mổ).
Đậu xanh và Cam thảo tạo nên thuốc trị đờng ruột non và ruột già
138. Sa tử cung: L2 + lọc máu (nếu biết châm cứu, kim chính châm
ngay L2 + 2 cây kim ở 2 dây chằn, mỗi ngày một lần, liên tục từ 4 đến 7 ngày. Tử cung sẽ
rút lại
139. Sạn trong thận: L3 + lọc máu (sạn sẽ vỡ và đi tiểu ra nước đục)
140. Sinh dễ: Tháng 6, 7, 8 mỗi tháng trị 1 lần (tất cả 3 lần) bằng
cách đặt 3 ngón tay vào rốn của người mang thai, tay kia lọc máu, HT3 để đúng 5 phút. Nếu 3
tháng trớc cha trị thì khi vào phòng sinh: Dùng nguyên bàn tay vuốt từ chấn thuỷ xuống cửa mình 3 lần, xương chậu sẽ nở ra, khỏi chích thuốc dục (chồng cao cấp trị
cho vợ hoặc phái nữ trị cho nữ)
141- Sinh trai/gái theo ý muốn: Cả hai vợ chồng đều phải được mở Luân Xa
100%.
- Muốn sinh con trai: Vợ phải trị mỗi ngày cho chồng.
- Muốn sinh con gái: Chồng phải trị mỗi ngày cho vợ. Một tay lọc
máu, tay kia đặt ở L2
142.Sinh xong bị yếu, suy nhợc thần kinh: L2, L3, L7 + lọc máu
143.Say rượu, bất tỉnh: L7
144.Say xe/sóng: Trớc khi lên xe, tầu thuỷ hay máy bay: L7
145.Siêu vi trùng hoành hành: Một tay lọc máu trong khi tay kia đ ặt L2 +
L3, HT3 để tối đa 2 phút, rồi L7, HT3 để tối đa 2 phút. Trị trong 3 tuần liên tục, không được gián đoạn. Bệnh nhân không được uống rượu trong thời gian trị bệnh. Sau 3
tuần lễ khuyên bệnh nhân đi khám. Nếu bệnh nhân hết bệnh thì ngừng trị.
146. Sót nhau: L2 + một tay ở dưới rốn chỗ xương mu, người đàn bà khi
sinh con, nhau sẽ tuôn ra (dành riêng cho chồng học cao cấp trị cho vợ hoặc phụ nữ trị
cho phụ nữ)
147. Sốt: L7 + lọc máu
148.Sốt rét: L2, L3, L4 + lọc máu. Thuốc gia truyền: Bảy trái ớt hiểm
đâm nhỏ, gói vào khăn, bó vào mạch máu ở cổ tay; 3 ngày không tắm sẽ khỏi (vi trùng sốt rét tập trung vào ớt). Sau đó L7, L2 một lần
149.Suyễn: L5 + lọc máu
150. Tai bị nhiễm trùng có mủ: Tay đặt ở trớc lỗ tai + lọc máu
151. Tai nạn xe cộ, xương sống bị rút lại: Một tay áp vào nơi xương
sống bị đau, một tay lọc máu (mỗi ngày trị 1 lần)
152. Tính cộc cằn: L7
153.Táo bón và bệnh đờng ruột (tiêu chảy): L3 + lọc máu + thuốc gia truyền: nấu 3
muỗng Đậu xanh có vỏ (loại muỗng cà phê), 3 lát Cam thảo, 3 chến nước
đun cạn nước. ăn Cam thảo nhả bã, Đậu xanh ăn hết. Trị và ăn trớc khi đi ngủ trong
7 ngày liên tiếp.
154.Tay bị liệt: Trị ngay xương bả vai và cùi chỏ
155. Tay, chân lạnh, máu giảm luu thông hoặc không luu thông được: 2
tay đặt vào đầu gối và cùi chỏ
156. Tay cứng vì trời lạnh: Đặt tay ngay gò mu cổ tay
157. Tay bị ca mất sau lâu năm bị đau nhức: Trị nơi bị đau nhức + lọc
máu
158. Tê mặt: Một tay để ở trên mặt bị tê + lọc máu
159. Tê tay: Đặt chỗ tê
160. Thai hành: L3 + một tay dưới ngực bên mặt 12
161. Tiểu đuờng: L3 + lọc máu
162. Tiểu hoài: L3, L7 + lọc máu
163. Tiểu ri rí: L2, L3 + lọc máu
164.Tinh thần yếu: L7 + lọc máu
165. Trái rạ: L2, L5, L7 + lọc máu
166. Trật cổ: 2 ngón tay ở hai gân sau cổ
167. Trật gân, trẹo chân: Trị ngay chỗ bị trật. Mới bị trị hết ngay
168. Trật xương: Trị ngay chỗ bị trật. Mới bị trị hết ngay. Trật xương
thì thấy xương sng từ từ. Gãy xương thì thấy sng ngay vì máu bị dồn lại, phải đi bện viện băng
bột
169. Trĩ mạch lơn, trĩ ngoại, nội: L7 + hậu môn + lọc máu. ăn rau dấp
cá tơi. Phân của rau sẽ làm lành bệnh trĩ
170. Tử cung hoặc buồng trứng bị teo hoặc bị nghẹt: L2 + lọc máu. Tử cung sẽ nở ra bình thường trở lại. Kinh nghiệm cho thấy có trường hợp buồng trứng bị cột,
sau khi trị ở L2 vẫn có thai, vì ống dẫn trứng thông trở lại (nhớ phổ biến cho bệnh
nhân)
171. Tự tử bằng thuốc, sùi bọt mép: L7 cấp cứu. Sau đó đa ngay vào bệnh
viện
172. Ung thu da: L5 + lọc máu
173. Ung thu tổng quát: L2, L3, L7 + lọc máu
174.Ung thu máu: Một tay lọc máu trong khi đó tay kia đặt L2, L3, HT3 để
tối đa 2 phút, rôi L4, HT3, để tối đa 1,5 phút, và L7, HT3 để tối đa 1,5 phút. Chữa
trị trong vòng 3 tuần liên tục, không được gián đoạn. Bệnh nhân không được uống rượu
trong thời gian trị bệnh. Sau 3 tuần lễ trị bệnh khuyên bệnh nhân đi tái khám. Nếu bệnh
nhân hết bệnh thì ngừng trị
175. Ung thu ngoài Luân Xa: Trị ngay mụn ung th + lọc máu: Tế bào chết
bị thải ra, sẽ được thay thế bằng tế bào mới
176. Ung thu ngực: Một tay đặt vào chỗ ngực đau + lọc máu
177. Ung thu phổi: L5 + lọc máu
178. Ung thu tử cung và buồng trứng: L2 + lọc máu
179. Ung thu xương: L2, L3, L7 + lọc máu
180. Uống lầm phải thuốc độc: L7 cấp cứu. sẽ ói (nôn) chất độc ra
vào bệnh viện trị tiếp
181. ù tai:
- Trường hợp 1 lỗ tai bị ù: L7 + 2 ngón tay trớc lỗ tai ( nếu có
mang máy nghe, lấy máy nghe ra rồi mới trị, nếu không máy sẽ bị hết điện)
- Trường hợp 2 lỗ tai bị ù: Đặt lần lợt mỗi bên lỗ tai
182. Vọp bẻ: 2 tay bóp ở 2 gân sau nhợng chân
183. Xì ke ma tuý: Một tay đặt L7, một tay đặt L6, HT3 để đúng 5
phút (không lọc máu).
bệnh này chỉ trị trong phạm vị gia đình mà thôi (vợ chồng, con cái,
con gái, con dâu, con rể, hoặc một người bạn trai hay một người bạn gái).
184. Xổ trợc: Sau bữa điểm tâm (ăn ít hơn bình thường) uống 1/2 ly sữa
tơi rồi
1/2 ly nướcdừa (trái). Sẽ đi cầu nhiều hơn ngày thường. Những chất ô trợc trong
cơ thể được bài tiết ra ngoài, cơ thể được thanh lọc. Việc xổ trợc được tiến hành 2 năm một
lần
185. Xương sống cong vì tai nạn: Đặt tay chỗ xương sống bị đau + lọc
máu. nếu do dị tật hay lớn tuổi thì trị không được
186. Xương sống dãn hay cụp xương: Đặt tay chỗ đau + lọc máu, xương
sẽ dãn ra
187. Xương sống mọc nhánh (do calcium đóng ở xương): Một tay áp vào nơi
Calcium
đóng + lọc máu
188. Xuất tinh: L2 + lọc máu (5 ngày). Sau đó trị L2, L3, L7 + lọc
máu
189. Thai khó đậu: L2, L3, L7 + lọc máu cho 2 vợ chồng cùng lúc
190. Thần kinh bị kẹt ở xương sống, làm liệt: L2, L7 + lọc máu
191.Thần kinh giả (ma nhập, bùa ngải): Một tay đặt ở L5, tay kia đặt ở
L7 và
thở ra 3hơi (thở ra 3 hơi có nghĩa là một hơi đang thở ra phải dừng lại làm
2 lần để thở ra cho
hết) phải giữ 2 tay nh vậy đủ 5 phút. Ngày hôm sau, 2 tay nắm 2 ngón chân cái của bệnh nhân và thở ra 3 hơi, phải giữ 2 tay nh vậy đủ 5 phút
192. Thần kinh thiệt: L7 + lọc máu. Trị trong vòng 2-3 tuần
193. Thần kinh căng thẳng: L7
194.Thần kinh toạ: L7 + cạnh lỗ tay ở bán cầu não đối xứng và lọc máu (2 phút). Sau đó
một tay áp vào hệ thần kinh của xương bàn toạ (ngón cái ở cạnh xương
hông, ba ngón kia ở hông), một tay đặt vào đậu gối của chân đau (2 phút) 13
195. Thận bị mổ, mệt: L3, L7 + lọc máu
196. Thấp trị cho cao (chiều cao của cơ thể người): Một tay lọc máu, tay
kia đặt vào L2 và cạnh phía sau hậu môn (đàn ông cho đàn ông, phụ nữ cho phụ nữ). Chỉ
áp dụng cho độ tuổi từ 12 đến 40 và chiều cao tăng trởng tối đa 10 cm
197. Thiền bị tẩu hoả nhập ma: Một tay đặt vào L5 và tay kia đặt vào
L7, thở ra hơi, phải giữ 2 tay nh vậy đủ 5 phút. Chỉ trị nh vậy 1 lần duy nhất
198. Thiếu máu: L2, L3 + lọc máu
199. Thông minh: Để giúp sinh viên, học sinh tăng cờng sự thông
minh, mỗi ngày đặt tay ở L6 và L7 trong vòng 2 phút (không lọc máu). Ngày nào mà có trị bệnh cho sinh viên, học sinh đó thì không trị thông minh (hoặc là trị bệnh hoặc là
trị thông minh, một trong hai)
200. Thủng: L2, L3, L7 + lọc máu
201. Thuợng mã phong: Đàn ông yếu sức do gần đàn bà là tinh khí phun
ra ngay 100% có thể gây sốc, ngất : L7 cấp cứu
202. Tiêu chảy: L3 + lọc máu (nếu khẩn cấp L3, L7)
203. Tiểu dầm, tiểu đêm: L3, L7 + lọc máu
No comments:
Post a Comment