LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Friday, March 31, 2017

Thở mệnh môn

 

Thở mệnh môn


Công dụng tập thở ở Mệnh Môn


Tập thở ở mệnh môn với “hai tay chồng lên nhau, bàn tay trái nữ để dưới rốn 5cm, bàn tay phải chồng lên trên” giúp tăng thận dương, làm sáng mắt.

Phân biệt cách đặt tay, dẫn ý, dẫn khí có công dụng khác nhau ::

1- Tập thở ở mệnh môn với “hai tay chồng lên nhau, bàn tay trái nữ để dưới rốn 5cm, bàn tay phải chồng lên trên” giúp tăng thận dương, làm sáng mắt. Bài này hơi thở tự nhiên, ý đặt ở Mệnh Môn theo dõi khí chuyển động ở Mệnh Môn mà không có dẫn khí từ đâu đến đâu cả..

2-Trong cách tập thở các loại Đan Điền, để tăng thận dương thì phải đặt 2 tay tại đan điền thần, có công dụng ” mạnh thận âm, nuôi duỡng thận, tăng thận thủy…”

Có 3 cách tạo ra 3 công dụng khác nhau :

a-Dùng ý dẫn hơi thở hỏa khí ở Đan Điền Thần sang Mệnh Môn có công dụng làm tăng thận dương như câu : Còn để tăng thận dương thì phải đặt 2 tay tại đan điền thần

b-Dùng ý dẫn hơi thở chuyển thủy khí ở Đan Điền Tinh sang Mệnh Môn có công dụng làm mạnh thận âm, nuôi duỡng thận, tăng thận thủy

c-Dùng ý dẫn hơi thở tử Đan Điền Thần xuống Đan Điền Tinh, từ Đan Điền Tinh qua Mệnh Môn, có công dụng : Chuyển tinh hóa khí, tay dương tại Đan Điền Thần và khí hóa thần, tay âm đặt tại Đan Điền Tinh.



MỆNH MÔN - NIỀM TÂM ĐẮC CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG


Trong đông y học còn có các khái niệm: khí Tiên thiên, khí Hậu thiên. Khí Thiên tiên có năng lượng vượt xa các năng lượng khí hậu tiên là khí do thức ăn sản sinh ra. Hiện nay, trong vật lí hiện đại đã xuất hiện những cấu trúc có năng lượng rất cao. Mật độ cao nhất của vật chất đã biết là 10 luỹ thừa 14 gam trên một xăng - ti - mét khối. Đó là mật độ hạt nhân. Nhưng với cái vacuum (chân không vật lí) bí ẩn, thì các tính toán cho rằng mật độ của nó phải là 10 luỹ thừa 94 gam trên một xăng - ti - mét khối, nghĩa là bằng mật độ hạt nhân, nhân với một con số 1 kèm theo 80 con số 0... Và con 10 luỹ thừa 93 được xem là giới hạn nào đó trong vật lí học, tại đó sẽ có bao nhiêu sự thay đổi về vũ trụ quan...
Gần đây, viện sĩ Mackốp cho rằng mỗi electron (điện tử) cũng là một vũ trụ. Còn nhà vật lí lỗi lạc Uylơ cho rằng tất cả các điện tử chỉ là một điện tử. Ngoài ra, các tính toán của nhà vật lí học xuất sắc Okun cho thấy rằng để tạo ra một hạt tương tự như điện tử nhưng lại mang tính từ, thay cho tính điện - thường gọi là đơn cực từ - thì phải làm xáo động cả vũ trụ... Như vậy là vật lí học hiện đại đang giã từ không gian, thời gian bốn chiều đến các không gian khác có nhiều chiều hơn, như 10 chiều hay 11 chiều... Vật lí đang lái mình sang phương Đông.
Từ những kiến thức mới của vật lí học hiện đại, quan niệm về hai loại khí trong đông y học không phải là hoang đường! Dân tộc ta có một đại danh y, Cụ Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác. Cụ là người có tầm tư tưởng lớn của thời đại, chưa nói đó là khuôn mặt lớn về lương tâm người thầy thuốc. Cụ hiểu con người là một tiểu vũ trụ một cách rất sâu sắc. Cụ đã nghiên cứu một khái niệm hết sức khó hiểu, để lại một dấu hỏi lớn trong Nội Kinh là khái niệm Mệnh Môn. Theo cụ, với tư tưởng cơ bản trên về con người, cụ khẳng định rằng "Mệnh Môn là thiên tiên Thái cực trong thân người"... Nó nằm giữa hai quả thận và điều khiển mọi tiềm năng năng lượng và nhiệt năng của con người.

Mệnh là sinh mệnh chứ không phải là số mệnh hoặc định mệnh đã có thời từng làm cho người ta sợ... không dám nói đến niềm tâm đắc của Cụ. Niềm tâm đắc này đã cho phép Cụ sáng tạo ra bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, gồm 28 tập, 66 quyển. Những nghiên cứu về ngoại cảm sau này, không thể đặt ra ngoài thuyết Mệnh Môn của Hải Thượng Lãn Ông. Đến một lúc nào đó, chúng ta phải đưa một tài năng như thế, một tâm hồn như thế, một khuôn mặt y học lớn như thế lên địa bàn xứng đáng của khoa học thế giới.
Cụ đã nhắc khái niệm Mệnh Môn ở nhiều nơi trong các tác phẩm của Cụ: Đại Lưu Dư Vận, Y Hải Cầu Nguyên, Y Gia Quan Miên, Huyền Tẩn Phát Vi.
Cụ viết (Y Gia Quan Miên): "Thận giữ chức năng tác cường, tàng tinh và chí. Thận chủ xương, dẫn khí thông vào cốt tuỷ, nó là các bể chứa khí huyết, là nơi nương tựa của tinh thần, và là căn bản của sinh mệnh. Có hai quả cật nằm song song với nhau áp sát ở hai bên xương sống, ở giữa là Mệnh Môn, tức là Thiên tiên Thái cực trong thân người. Mệnh Môn có thể sánh ngang với Tâm, đều là quân chủ, không có hình thể để nhìn thấy, nó gọi là Hoàng Đình, là nơi tàng tinh của nam giới, và là chỗ liên hệ bào cung của nữ giới. Các nhà Đạo dẫn thì gìn giữ để tu luyện, người thường thì thuận theo sự phát dục để đẻ sinh ra người".
Cụ lại viết (Huyền Tẩn Phát Vi): "Chính ở chỗ bên đốt sống số 8, có một quả tiểu tâm, bên tả là một quả Thận thuộc Âm Thuỷ, bên hữu là một quả thận thuộc Dương Thuỷ, đều cách ra ngang một thốn 5 phân, khoảng giữa là cung Mệnh Môn... Nguyên Dương, Long Hoả, Chân Dương, đều là tên riêng của Mệnh Môn."
Cụ còn viết (Y hải cầu Nguyên): "Trong nhân thể, trái tim sánh với quẻ ly mà sinh ra huyết, là trong dương có âm, tức là Chân Âm. Quả Thận sánh với Quẻ Khảm mà sinh khí, là trong Âm có Dương, tức là Chân Dương (Mệnh Môn Hoả)...
Như thế, Cụ đã nghiên cứu rất sâu sắc khái niệm Mệnh Môn một cách rất độc đáo. Và tính độc đáo của Cụ còn nằm ở chỗ đã đặt được Mệnh Môn vào một cấu trúc quan trọng nhất của nhân thể là Thận và đã sử dụng được hai Quẻ Ly, Khảm làm biểu tượng cho Tâm, Thận. Và còn nhiều hơn thế nữa...





Huyệt Mệnh môn

MỆNH MÔN ( Mingmén - Ming Menn). Huyệt thứ 4 thuộc Đốc mạch ( GV 4).

Tên gọi : Mệnh có nghĩa là những sự cùng, thông, được, hỏng, hình như có cái gì chủ trương, sức người không sao làm được gọi là mệnh. Cần cho sự sống và cuộc sống.

Môn có nghĩa là cổng.

Là huyệt quan trọng, mang hàm ý cửa ngõ của đời sống. Huyệt Mệnh môn nằm giữa hai huyệt Thận du là một huyệt quan trọng trong việc chữa trị những rối loạn liên quan tới thận dương là nền móng cơ bản của sự sống.


Người ta đã có lấy ví dụ về huyệt Mệnh môn như là cái Bu-ri phát lửa và huyết như là xăng ở trong động cơ máy nổ, máy hoạt động được là nhờ có lửa đốt vào nhiên liệu.

Người ta quan niệm rằng : Tạng Tâm ở trên thuộc Hỏa, thuộc dương ; Tạng Thận ở dưới thuộc Thủy, thuộc âm và hai tạng giao nhau để được thế quân bình gọi là “ thủy hỏa ký tế “ hay “ tâm thận tương giao “ được giải thích bằng sự khí hóa bởi Y – Dịch. Tâm là tượng ứng với quẻ Ly (lửa) |||, bên ngoài có sức nóng trần đầy, bên trong có nước (là huyết dịch) lưu chuyển tức là dương ngoại âm nội, dương bao lấy âm thúc đẩy trôi chảy mãi, tuần hoàn chẳng nghỉ.

Thận là tượng ứng với quẻ Khảm(nước) :|:, ở ngoài có thủy chấp (thận dịch) mát dịu, bên trong có khí nóng (chân khí, khí chân dương, mệnh môn hỏa) xông ra tức là âm ngoại dương nội, âm giữ gìn lấy dương lưu hành điều hòa khắp cơ thể.

Huyết thuộc âm ở trong Tâm là cung Ly (lửa) ||| chủ phần dương khí thuộc dương, ở trong Thận là cung Khảm (nước) :|: chủ phần âm.

Như thế là trong dương có âm, trong âm có dương. Hai khí ấy lẫn lộn trao đổi với nhau để bảo dưỡng cơ thể.

Huyết thuộc âm ở trên Tâm, Khí thuộc dương ở dưới Thận. Âm chất (chất nước) thì hay ngưng hạ xuống dưới, dương khí (hơi nóng) thì hay xông bốc lên trên. Vì thế mà có sự giao hợp điều hòa chảy khắp cơ thể.

Nếu dương khí ở Thận xông bốc lên không đủ sức vận hành huyết dịch ở Tâm thì sẽ sinh ra phù thũng, tê bại hay âm huyết ở Tâm kém, không đầy đủ sức ngăn cản giao hợp với dương khí thì sẽ sinh ra những chứng táo nhiệt nóng uất. Trên lâm sàng nếu Thận thủy không đầy đủ khống chế Tâm hỏa thì sẽ gây các chứng hồi hộp, mất ngủ, mê man, lưỡi miệng lở loét, nhức đầu, chân lạnh gọi là chứng “ Tâm Thận bất giao “ hay “ Âm hư hỏa vượng “ pháp nên Tư âm giáng hỏa. Vì thế cho nên huyệt Mệnh môn (:|:) tức chân dương nằm ở giữa hai quả Thận (Thận du) là huyệt quan trọng để bổ nguyên dương, nên gọi là Mệnh môn.

Theo “ Du huyệt mệnh danh hội giải “ ghi rằng : Mệnh môn nằm ở giữa hai quả thận, là cửa ngõ quan trọng của sinh mệnh con người, nên được gọi là Mệnh môn.

Mệnh môn có các nghĩa :


Mệnh môn là quả thận bên phải. Theo Nạn Kinh Tập Chú: "Tả giả vi thận, hữu giả vi mệnh môn. Mệnh môn giả, chư thần tinh chi sở xá, nguyên khí chi sở hệ." (Bên trái là thận, bên phải là mệnh môn. Mệnh môn là nhà của tinh là các thần, là chỗ ràng buộc nguyên khí).

Mệnh môn là trung điểm giữa thận trái và thận phải. Huỳnh Đình Kinh Bí Nghĩa của Lãnh Khiêm giảng: "Tả hữu tương đối, trung hư nhất khiếu vi mệnh môn, tức sinh môn." (Thận trái và thận phải đối xứng nhau, khoảng trống ở giữa là một cái khiếu tên mệnh môn, cũng gọi là sinh môn). Sinh môn thì Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh xác định vị trí: Tự tề hậu tam thốn (sau rốn 3 thốn).

Mệnh môn là hai mắt. Hoàng Đế Tố Vấn Linh Khu Kinh giải: "Thái Dương căn vu Chí Âm kết vu mệnh môn. Mệnh môn giả mục dã." (Thái Dương gốc ở Chí Âm và liên kết ở mệnh môn. Mệnh môn là hai mắt vậy).

Theo kinh điển Đạo giáo, cụ thể là Huỳnh Đình Kinh, mệnh môn (hoặc sinh môn) được đề cập trong Nội Cảnh với ý nghĩa là rốn.

Theo phép xem tướng mặt, mệnh môn là hai lỗ tai.

Mệnh môn – Vị trí – Phối huyệt


Thận khí là gốc của cơ thể. Huyệt nằm giữa 2 huyệt Thận Du, là cửa trọng yếu của sinh mệnh, vì vậy gọi là Mệnh Môn (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Mạng Môn, Thuộc Lũy, Tiểu Tâm, Tinh Cung, Tinh Thất, Trúc Trượng.

Xuất Xứ Mệnh Môn: Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính Mệnh Môn:

Huyệt thứ 4 của mạch Đốc.

Vị Trí Mệnh Môn:

Ở chỗ lõm dưới đầu mỏm gai đốt sống thắt lưng 2.

Giải Phẫu:

Dưới da là cân ngực-thắt lưng của cơ lưng to, chỗ bám của cơ răng bé sau-dưới, cơ gian gai, cơ ngang gai, dây chằng gian gai, dây chằng trên gai, dây chằng vàng, ống sống.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh sống.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D.11.

Tác Dụng Mệnh Môn:

BỒI NGUYÊN, BỔ THẬN, CỐ TINH, CHỈ TRỆ, THƯ CÂN, HÒA HUYẾT, SƠ KINH, ĐIỀU KHÍ, THÔNG LỢI VÙNG LƯNG VÀ CỘT SỐNG.

     - Tại chỗ: Đau vùng thắt lưng, cứng hay yếu thắt lưng.

     - Theo kinh: Đau lưng, đau đầu.

     - Toàn thân: Chân hỏa hư (lạnh từ đầu gối trở xuống), di mộng tinh, liệt dương,khí hư, đái đục, sốt không ra mồ hôi, trẻ em lên cơn giật, uốn ván.

Chủ Trị Mệnh Môn: TRỊ VÙNG THẮT LƯNG ĐAU, YẾU, CỨNG, ĐẦU ĐAU, LƯNG ĐAU, LẠNH TỪ ỐNG CHÂN TRỞ XUỐNG (CHÂN DƯƠNG (HOẢ ) HƯ), DI MỘNG TINH, LIỆT DƯƠNG, ĐÁI HẠ, SỐT KHÔNG RA MỒ HÔI, ĐÁI ĐỤC, TRẺ NHỎ LÊN CƠN CO GIẬT, PHONG ĐÒN GÁNH.

Phối Huyệt:

1. Phối Khí Hải (Nh.6) + Nhiên Cốc (Th.2) + Thận Du (Bàng quang.23) trị liệt dương (Loại Kinh Đồ Dực).

2. Phối Thận Du (Bàng quang.23) trị người lớn tuổi lưng bị đau (Châm Cứu Tập Thành ).

3. Phối Thận Du (Bàng quang.23) trị tiểu nhiều, tiểu không tự Chủ (Ngọc Long Ca).

4. Phối Khí Hải (Nh.6) + Quan Nguyên (Nh.4) + Thiên Xu (Vi.25) trị Thận tả (Thần Cứu Kinh Luân).

5. Phối cứu Quan Nguyên (Nh.4) trị tiêu chảy do Tỳ, Thận bất túc (Thần Cứu Kinh Luân).

6. Phối Thần Khuyết (Nh.8) + Trung Cực (Nh.3) đều cứu 7 tráng trị bạch đới (La Di Biên).

7. Phối Cứu Bá Hội (Đốc.20) + Quan Nguyên (Nh.4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Liêu (Bàng quang.33) trị di tinh, đái dầm (Châm Cứu Học Thượng Hải).

8. Phối Bàng Quang Du (Th.28) + Thận Du (Bàng quang.23) + Thuỷ Đạo (Vi.28) trị Thận viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).

9. Phối Cách Du (Bàng quang.17) + Đại Chùy (Đốc.14) + Khúc Trì (Đại trường.11) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị thiếu máu do thiếu chất sắt (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Châm Cứu:

Châm kim chếch lên, luồn dưới mỏm gai, hướng vào khoảng gian đốt sống thắt lưng 2 – 3, sâu 0, 3 – 1, 5 thốn. Cứu 5 – 10 phút.

Tham khảo :

• Thiên Thích Cấm Luận viết: “Châm vào giữa cột sống, trúng nhầm tủy sẽ bị còng lưng” (Tố Vấn 52, 23). “Thận bại, thắt lưng yếu tiểu gắt, ban đêm tiểu luôn khổ nhọc thần, Mệnh Môn nếu được kim vàng giúp, Thận Du cứu ngải khỏi truân chuyên” (Ngọc Long Ca). “Mệnh Môn, di tinh không tự chủ, cứu 5 tráng khỏi bệnh ngay” (Loại Kinh Đồ Dực). “Chứng tiêu ra máu, đã dùng nhiều phương pháp trị mà không có kết quả, chọn huyệt ở giữa cột sống, ngang với rốn, đè vào chỗ xương nhô cao lên có cảm giác đau, đó là huyệt (huyệt Mệnh môn), cứu 7 tráng là khỏi. Nếu tái phát, cứu thêm 7 tráng nữa, có thể khỏi hẳn... Tục truyền rằng, khi cơ thể lạnh, cứu ấm huyệt này cũng có kết quả tốt” (Loại Kinh Đồ Dực). “Sách Loại Kinh Đồ Dực viết rằng: “Châm vào quá sâu, trúng nhằm tủy sẽ làm tổn thương tinh khí ở trong cột sống lưng, vì vậy làm cho người ta bị co rút lại, không thể duỗi ra được”. Điều này cho thấy rằng châm sâu vào giữa Du huyệt ở giữa cột sống gây nên tác dụng phụ. Dựa vào thực tế lâm sàng, khi châm vào Du huyệt giữa cột sống có cảm giác như điện giật thì rút kim ra hoặc không được châm sâu thêm nữa” (Châm Cứu Học Từ Điển). “Chứng liệt dương nơi người lớn tuổi, dùng huyệt Mệnh môn rất hay nhưng nơi thanh niên hoặc trẻ nhỏ thì phải cẩn thận khi dùng, vì có thể làm cho hỏa bốc lên” (Trung Quốc Châm Cứu Học).



Hỏi cách thở Mệnh Môn đúng hay sai, đầu choáng váng ê ẩm….

Kinh Thầy.

a-Con có vài thắc mắc xin Thầy giúp, mấy hôm nay con xem video Thầy dạy nên con cũng bắt chước tập để tay dưới rốn đưa 2 chân lên (Nạp Khí Trung Tiêu), và tập thở Mệnh Môn, Kéo Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, nhưng không lâu tập xong con ra mồ hôi, khi thở Mệnh Môn thì chỉ 1 - 2 phút thì con đã ngủ, chỉ thấy nóng đến giữa lưng.

b-Riêng hôm nay khi đặt tay phía dưới rốn và ý ở Mệnh Môn thi toàn thân nóng và giống như có điện trong người rất mạnh con có cảm giác như muốn đứt mạch máu, thật ra lúc đó vì con cảm nhận được giòng điện chỉ đi đến ngang mũi mà không cách nào lên được tới định đầu, mấy hôm đầu thì con không tập được vị đầu óc không tập trung, thêm vào đó lúc nhắm mắt được 1 chút thì con choáng váng, như vậy có phải còn tập sai hay không? xin Thầy chỉ dạy thêm cho con.

c-Thêm 1 điều nữa con xin Thầy giúp con vì dạo này con bị khủng hoảng vì sợ bị tiểu đường vì thời gian gần đây trong người con thấy mau mệt, trên đỉnh đầu lúc nào cũng thấy ê ẩm, trong người thấy nóng nhất là từ bụng đến cổ họng, lưỡi và cổ cảm thấy nóng và rát, con ăn vào từ xương ức và Trung Quản thấy đau.

d-Có khi đang đứng tự dưng nước tiểu chảy ra không cầm được, bác sĩ nói con bị viêm đường tiểu và cho trụ sinh, con thấy kỳ quá vì con đau bụng bao từ mà bác sĩ không cho thuốc, con đi tiểu không đau gì cả, nước tiểu trắng.

e-Con đo huyết áp trước khi ăn 112/72 mạch 66 tay trải, tay phải 112/70 mach 65 sau khi ăn tay trái 106/67mach 80, tay phải 100/64 mach 76, bụng con nóng làm như lửa đốt, xin Thầy giúp con cách chữa, con tạ ơn thầy.

Con đợi email trả lời của thầy. Cầu chúc Thầy luôn mạnh khỏe để tiếp tục chỉ dạy chúng con.
A-Nguyên nhân :

a-Tập sai thứ tự, trước khi tập để chữa bệnh, cần phải đo áp huyết xem âm dương khí huyết là hư hay thực, hàn hay nhiệt, rồi mới chọn bài tập, giống như chọn vị thuốc đúng mà cơ thể cần để điều chỉnh lại cho âm dương khí huyết được quân bình.

Kết qủa đo áp huyết, số đầu là khí thuộc khí hư, còn huyết thiếu là âm hư, mạnh thuộc hàn, người cảm thấy nóng, nhưng cần phải đo nhiệt kế ở lưỡi, ở nách, thấy bình thường không bị nhiệt, thì đông y có câu : âm hư nội nhiệt, dương hư ngoại hàn.

Áp huyết sau khi ăn bị thấp do ăn thức ăn không có chất bổ máu, ăn nhiều chất hàn, vì tưởng mình bị nhiệt. Có một y án của các bậc tiền bối viết :

Một bệnh nhân ho thổ huyết, cơ thể nóng hừng hực, mời thầy thuốc thứ nhất đến nhà, bắt mạch cho thuốc. Thầy chẩn đoán bệnh thuộc nhiệt, thầy cho uống thuốc mát, uống xong, bệnh nhân thổ huyết nhiều hơn. Thầy thuốc mời thêm thầy thuốc thứ hai, cũng chẩn đoán cơ thể nhiệt, hỏi thầy thứ nhất, ông cho thuốc mát liều lượng bao nhiêu, rồi thầy thứ hai bảo đúng là phải cho vị này, nhưng liều lượng chưa đủ, phải tăng thêm, bệnh nhân uống xong, ho thổ huyết nhiều hơn nữa. Hai thầy lại mời thêm thầy thứ ba cùng hội chẩn và tăng liều thuốc mát, bệnh nhân uống xong ho ra máu nhiều hơn hai lần trước, cơ thể suy nhược mất sức trầm trọng, ba thầy bó tay hết cách chữa. Một ông nhà bên cạnh đang học nghề y, theo dõi bệnh tình, mới khám phá ra 3 thầy chữa sai, ông sang nhà bệnh nhân đề nghị với 3 thầy thuốc, cách chữa là phải tăng nhiệt chứ không tăng hàn, vì đây là bệnh hư hàn giả nhiệt, thầy thuốc thứ tư dùng quế tâm mài với nước cho uống, bệnh nhân hết ho thổ huyết, lại còn khen thuốc mát qúa, cơ thể thấy khỏe rồi.

Bệnh hư hàn giả nhiệt, hư nhiệt giả hàn, ngày xưa các thầy thuốc không kinh nghiệm rất khó định bệnh, nhưng ngày nay nhờ máy đo áp huyết thấy rõ, mạch dưới 70 là mạch trì, theo đông y bắt mạch là hàn, tại sao bệnh nhân lại cảm thấy nóng như lửa đốt. Đó là hư hàn giả nhiệt, tại sao lại giả nhiệt, vì cực âm sinh dương. Chúng ta có thể thử nghiệm, bước vào một phòng đông lạnh, cơ thể muốn chống lạnh phải tăng thân nhiệt khiến người nóng dần mới chịu nổi cái lạnh, nếu tiếp tục ở trong phòng đông lạnh nữa thì lại cực dương sinh âm, cơ thể lạnh dần, máu đông lại thì chết. Vì thế muốn định bệnh phải theo nguyên lý âm dương mới biết tình trạng bệnh rõ ràng.

b-Tập thở Mệnh Môn dùng để chuyển âm ra dương, cơ thể không đủ âm lấy gì mà chuyển, để dương khí chạy một mình đã là sai, một lỗi lầm nữa, ý chỉ tập trung ở Mệnh Môn làm sao biết dòng điện chỉ ở ngang mũi, đó là ý đã chuyển lên mũi. Tập trụ ý ở Mệnh Môn giống như đang sạc bình điện, mà vừa sạc vừa nối dây ra để xài điện thì bình điện làm sao mà đầy.

c-Tại sao sợ có bệnh tiểu đường mà không đo thử đường cho chắc chắn có đường hay không, mà sợ hão huyền. Cơ thể thiếu đường làm áp huyết tụt, đường trong gan thiếu nên mau mệt, gan thiếu máu thiếu đường, gọi là âm hư nội nhiệt, chức năng gan hư không giúp gì cho chức năng tỳ vị hấp thụ và chuyển hóa thức ăn, thay vì phải ăn chất tăng máu, tăng nhiệt giúp bao tử làm việc, lại ăn những chất mát hàn lạnh làm bao tử không đủ nhiệt lượng làm việc nên thức ăn ứ đọng chặn nghẹn từ xương ức đến Trung Quản, vì thức ăn chứa trong bao tử không chuyển hóa bị lên men tại chỗ tăng nồng độ trong bao tử hóa nhiệt, nên bụng nóng như lửa đốt. Vậy bài thuốc Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần tập sau bữa ăn sao không đem ra áp dụng.

B- Cách điều chỉnh Tinh-Khí-Thần :

Tinh :

a-Không ăn chua, hàn lạnh làm mất máu là mất âm khiến âm hư nội nhiệt. Không ăn thức ăn hàn lạnh làm mạch chạy chậm. Ăn những chất tạo máu như củ dền, rau dền, lẩu đồ biển, hải sâm, phở, bún bò huế, cari..

b-Đề nghị bác sĩ chích thuốc bổ máu B12 và vào nước biển đề tăng âm, hay uống thuốc bổ máu sirop Đương Quy Tửu. Đo áp huyết và đo đường thường xuyên, khi áp huyết lên đủ tiêu chuẩn thì ngưng, chứ không phải dùng suốt đời. Cơ thể cần quân bình âm dương chứ không để tình trạng lại khiến cho cực âm sinh dương, hay cực dương sinh âm là hai thái cực mất quân bình âm dương gây nên bệnh tật.

Khí :

a-Tập toàn bài khí công theo DVD hướng dẫn.

b-Tập Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 200 lần làm tăng áp huyết, tăng âm, tăng hồng cầu, thân nhiệt, rồi tập tiếp bài Cúi Ngửa 4 Nhịp 20 lần giúp đưa máu lên đầu nuôi não để làm mạnh chức năng thần kinh hưng phấn.

c-Tập bài Nạp Khí Trung Tiêu 5 lần rồi tập tiếp bài Kép Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, giúp thông khí huyết toàn thân, tống thức ăn cũ còn ứ đọng trong bao tử ra ngoài, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu nuôi cơ thể.

Thần :

Trước khi đi ngủ 30 phút, nằm tập thở từ ở Đan Điền Thần xuống Đan Điền Tinh, giúp tâm-thận giao hòa, điều chỉnh âm dương.
Thân
doducngoc




NHỜ TẬP THỞ MỆNH MÔN ĐÃ TỰ CỨU CHỨC NĂNG THẬN PHỤC HỒI TRỞ LẠI BÌNH THƯỜNG KHÔNG CẦN MỔ

Hoa bị bệnh hư thận đã được thay thận, nhưng hai năm qua cô nói thận không ‘’work’’, vì khi thử máu và nước tiểu, protein vẫn cao trên 10, vẫn phải chích và uống thuốc để giúp thận làm việc, vì thế bị phản ứng thuốc khiến cơ thể càng ngày càng mệt mỏi suy nhược. Bác sĩ có đưa ra giải pháp thay lại thận khác, nhưng ông nghĩ, đã được thay thận tốt mà không ‘’work ’’ thì chưa chắc thay thận lại lần nữa sẽ tốt hơn, khiến ông đắn đo cân nhắc, và Hoa phải mất thêm một thời gian chờ đợi .

Sức khỏe của cô càng mệt mỏi suy nhược, không thể ngồi lâu hơn 15 phút, lúc nào cũng phải nằm, tuổi còn trẻ, tương lai trước mắt theo mơ ước không lẽ là ảo ảnh, hạnh phúc gia đình có thể b ịảnh hưởng nếu không thể sinh con được do qủa thận không làm việc thì còn gì là tương lai, mỗi lần nghĩ đến khiến cô lo lắng không vui. Có người thân gìới thiệu cô liên lạc với Hội Khí Công xem có thể giúp đỡ được gì không.

Cô đã liên lạc xin được một cái hẹn và cô sắp xếp đến Montréal một tuần điều trị. Hai vợ chồng cô lái xe, cô phải có một ghế nằm trong suốt đoạn đường dài. Sáng thứ bảy, chồng Hoa đón tôi đến nhà. Tôi hướng dẫn cho chồng cô biết cách giúp cô tập thở khí công để giúp thận dương chuyển hóa. Hoa nằm úp, chồng cô đặt hai bàn tay trên lưng dưới, đối diện với rốn, gọi là vùng huyệt Mệnh môn, cứ mỗi lần cô thở ra, chồng cô đè hai bàn tay ấn xuống theo hơi thở, khi hít vào thả lỏng để thận lại phình lên, cứ theo hơi thở để kích thích thận phình lên xẹp xuống tạo ra một cộng hưởng đều đặn 3000 lần, mới đầu hơi thở ngắn nhanh, từ từ hơi thở sâu, đều, chậm.

Cách thở này khí công gọi là thở bằng thận làm tăng cường chức năng của tuyến thượng thận, giúp thận chuyển hóa, chữa được các bệnh về áp huyết, đau lưng thận, mệt mỏi, tiểu đường, đái đêm, nước tiểu nhiều protein, tăng creatinine-huyết, sạn thận.. Phải đè ấn và nâng trên huyệt đều đặn theo hơi thở cho đồng bộ, đừng trật nhịp. Sau 3000 hơi thở, Hoa cảm thấy khỏe, khi ngồi dậy không cảm thấy mệt mỏi đau lưng như trước.

Hai vợ chồng Hoa mời tôi đi ăn bữa cơm trưa tại tiệm ăn, Hoa ngạc nhiên khi cô ngồi lâu ở tiệm ăn không cảm thấy cơ thể có bệnh. Theo lời mời của tôi hai vợ chồng Hoa đến tham dự lớp khí công buổi chiều để có thêm kiến thức hiểu biết về cách chữa bệnh bằng khí công tự điều chỉnh chức năng hoạt động của nội tạng.

Hoa hỏi tôi xem liệu sức khỏe cô có cho phép cô ngồi lâu trong lớp không?

Tôi nói : Không sao, cứ thử xem để biết kết qủa tập thở khí công vừa qua có thể giữ cho cơ thể được khỏe bao lâu.

Quả thật, Hoa tham dự lớp học, ngồi trong lớp từ 2 giờ đến 6 giờ chiều mà không thấy mệt mỏi. Thay vì hai vợ chồng Hoa dự định ở lại Montréal một tuần, nhưng chồng Hoa giúp cô tập thở thêm hai lần vào buổi chiều và tối thấy khỏe hẳn, hết mệt mỏi, hai vợ chồng cô lấy làm tự tin ở phương pháp này nên sáng hôm sau quyết định trở về Mỹ.

Mặc dù Hoa cảm thấy khỏe như không còn bệnh, nhưng Hoa vẫn muốn dựa vào kết qủa cuối cùng khi thử máu và nước tiểu mới tin là phương pháp này thành công. Hai tháng sau Hoa viết thư cho tôi báo tin mừng kết qủa thử máu và nước tiểu, protein từ trên 10 xuống còn 3,4.

Hoa khỏe mạnh hơn xưa, sáu tháng sau hai vợ chồng Hoa báo tin cô đã có thai được 4 tháng, vẫn tiếp tục tập thở thận, hy vọng của vợ chồng Hoa bây giờ là chờ sinh được một cháu bé khỏe mạnh thông minh. Cuối cùng cả gia đình vui mừng đón nhận một cháu gái xinh xắn, bụ bẫm, thông minh, Hoa đã sung sướng trở thành một người mẹ như cô hằng mơ ước.






Thở đan điền tinh







Thở thận








Thở động mạch tim

<iframe width="854" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/a1GmA_R6bKU" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Thở thông cột sống

<iframe width="854" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/OyuqACGR3J0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>




Khí công chữa bệnh bằng hơi thở, huyệt, tập thể dục khí công

 <iframe width="854" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/wz09L-ODJGw" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>