LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Wednesday, May 31, 2017

KIM TIỀN THẢO - chữa sỏi thận, sỏi mật


http://skds3.vcmedia.vn/Images/Uploaded/Share/2010/10/15/f28194.jpg

Tên Khác:
Tên dân gian: Kim tiền thảo còn gọi Bạch Nhĩ Thảo, Bản Trì Liên, Biến Địa Hương, Biến Địa Kim Tiền, Cửu Lý Hương, Nhũ Hương Đằng, Phật Nhĩ Thảo, Thiên Niên Lãnh (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Đại Kim Tiền Thảo, Giang Tô Kim Tiền Thảo, Quá Lộ Hoàng, Quảng Kim Tiền Thảo, Tứ Xuyên Đại Kim Tiền Thảo (Trung Dược Học), Đồng Tiền Lông, Mắt Rồng, Mắt Trâu, Vảy Rồng ( Việt Nam).
Tên Khoa Học: Herba Jinqiancao, Desmodium styracifolium (Osbeck) Merr.
Họ khoa học: Họ Cánh Bướm (Fabaceae).
Cây kim tiền thảo
(Mô tả, hình ảnh cây kim tiền thảo, phân bố, thu hái, chế biến, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...)
Mô Tả:
Cây kim tiền thảo là một cây thuốc nam quý. Dạng cây thảo, sống lâu năm, bò sát đất, dài khoảng 1m. Lá mọc so le, gồm 3 lá chét hình tròn, có lông &1 vàng. Hoa tự hình chùm. Tràng hoa hình bướm, màu tía. Quả loại đậu, dài 14-16mmm, chứa 4-5 hạt.
Phân bố:
Cây mọc hoang khắp càng vùng đồi núi nước ta, hiện nay có nhiều nơi đã tiến hành trồng đại trà cây thuốc này. Ví dụ: Hà Nội, Lào Cai, Yên Bái….
Thu Hái, Sơ Chế:
Thu hái vào mùa hè,lúc cay có nhiều lá và hoa. Phơi khô.
Bộ Phận Dùng: Toàn cây.
Bào Chế:
Rửa sạch phơi khô, để dùng.
Bảo Quản:
Để chỗ kín, tránh ẩm mốc.
Thành Phần Hóa Học:
Trong Kim tiền thảo có:
·Loại Herba Glechomae Longitubae: L-Pinocamphone, L-Menthone, L-Pulegone, a-Pinene, Limonene, p-Cymene, Isopinocamphone, Isomenthone, Linalôl, Menthol, a-Terpinol, Ursolic acid, b- Sitosterol, Palmitic, acid, Amino acid, Tannins, Choline, Succinic acid, Potassium nitrate.
·Loại Herba Desmodii Styracifolii: Ancloid, Tannin, Flavones, Phenols.
·Loại Lysimachiae Christinae: Phenols, Sterols, Flavones, Tannín, Essential oils (Trung Dược Học).
Cây kim tiền thảo còn có tên gọi là mắt trâu, đồng tiền lông, vảy rồng, mắt rồng. Là cây cỏ, cao 30-50cm, mọc bò. Ngọn non dẹt và có phủ lông tơ, màu trắng. Lá mọc so le, gồm một hoặc 3 lá chét tròn dài 1,8 - 3,4cm, rộng 2 - 3,5cm, do đó có tên là đồng tiền, mặt dưới có lông trắng bạc, mặt trên có những đường gân rất rõ. Hoa màu tía, mọc thành chùm xim ở kẽ lá. Quả đậu nhỏ, giữa các hạt thắt lại.
Cây mọc hoang ở các vùng rừng núi và được trồng bằng hạt làm thuốc. Thu hái chủ yếu vào mùa hè - thu, dùng tươi, phơi hoặc sao khô.
Các nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy kim tiền thảo có tác dụng: lợi tiểu, lợi mật, kháng sinh, kháng viêm, giãn mạch, hạ huyết áp. Công dụng chủ yếu lợi mật, thông tiểu tiện, thường dùng chữa sỏi thận, sỏi mật, sỏi bàng quang, phù thũng, viêm đường tiết niệu, khó tiêu.
Ngày dùng 10 - 30g dưới dạng thuốc sắc.
Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.

Cơ chế trị sỏi của kim tiền thảo được giải thích như sau: Trước hết là lợi tiểu, pha loãng dòng nước tiểu, làm ngưng sự gia tăng kích thước của hòn sỏi. Sau đó nhờ tác dụng chống viêm, kháng khuẩn mà làm giảm sự phù nề của niệu quản, tạo điều kiện thuận lợi cho sỏi di chuyển xuống dưới và tiểu tiện ra ngoài. Thời gian điều trị phụ thuộc vào kích thước và vị trí của sỏi trong đường tiết niệu

Tác Dụng Dược Lý:
+Tác Dụng Lên Tim Mạch: nước sắc Kim tiền thảo của Quảng Đông, chích vào chó bị gây mê thấy tuần hoàn mạch vành tăng, hạ áp lực động mạch, làm chậm nhịp tim, giảm lượng oxy ở tim. Tuần hoàn của Thận và não cũng tăng. Thí nghiệm trên heo, thấy cơ tim co lại.
+Tác Dụng Trên Mật: Thí nghiệm trên chó bị gây mê thấy thuốc có tác dụng tăng nhanh bài tiết mật nhờ vậy có tác dụng tống sạn mật, làm giảm đau ở ống mật, hết vàng da.
+Tác Dụng Đối Với Hệ Bài Tiết: nước sắc Kim tiền thảo có tác dụng lợi tiểu đối với chuột và thỏ, có thể do chất Potasium chứa trong thuốc.
+Tác Dụng Đối Với Sỏi, Sạn: nước sắc Kim tiền thảo liều cao ( trên 80g), thường được dùng trị sạn ở mật hoặc đường tiểu.
+Đối Với Bệnh Nhiễm Khuẩn: nước sắc Kim tiền thảo trị 10 ca ho gà, có 7 ca khỏi, 2 ca có tiến triển. Loại Lysimachia (Quá Lộ Hoàng) đối với tụ cầu vàng, loại Glechoma ( Hoạt Huyết Đơn) đối với tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn, lỵ, trực khuẩn mủ xanh đều có tác dụng ức chế.
+Điều trị bệnh ở ngực: Dùng nước cốt Kim tiền thảo tươi trị 13 ca tuyến vú viêm, có kết quả rất tốt. Tất cả khỏi trong vòng 6 ngày. Có 8 ca khỏi trong 3 ngày hoặc ngắn hơn. 2 trong số những ca này không thích ứng với trụ sinh.

Vị thuốc kim tiền thảo
(Công dụng, liều dùng, quy kinh, tính vị...)
Tính vị, quy kinh
Vị ngọt mặn tính hơi hàn, qui kinh Can đởm thận bàng quang (theo sách Dược điển nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa xuất bản năm 1985).

Tác Dụng:
+Thanh nhiệt, lợi thủy, tiêu sạn, giải độc, tiêu viêm (Trung Dược Học).
+Lợi thủy, thông lâm, tiêu tích tụ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
 “Trị chứng nga chưởng phong dùng Kim tiền thảo xát vào là khỏi. Dùng nước cốt Kim tiền thảo ngậm, súc miệng rồi nhổ đi trị răng đau rất hay. Vì Kim tiền thảo khứ phong, tán độc do đó, nấu nước Kim tiền thảo mà tắm rửa trị ghẻ lở rất thần hiệu...” (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
. “Có thể dùng độc vị Kim tiền thảo sắc uống thay nước trà để tống sỏi ra” (Trung Dược Học).
. “Kim tiền thảo có nhiều chủng loại, chia làm 5 loại họ thực vật khác nhau:
1)Đại Kim tiền thảo Tứ Xuyên , thuộc họ Anh thảo, trị bệnh sỏi ở gan mật đạt hiệu quả tốt.
2)Tiểu Kim tiền thảo Tứ Xuyên, thuộc họ Toàn hoa, có thể dùng trị lỵ, bệnh mắt, ghẻ lở.
3)Kim tiền thảo Quảng Đông, thuộc họ Đậu, thường dùng trị bệnh sỏi ở gan mật và Thận.
4)Kim tiền thảo Giang Tây, thuộc họ Hoa tán, thường dùng trị bệnh Thận viêm, sỏi Thận.
5)Kim tiền thảo Giang Tô, thuộc họ Hoa Môi, những năm gần đây phát hiện thấy có thể trị sỏi bàng quang” (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Chủ Trị:
+ Trị các chứng nhiệt lâm, thạch lâm, sỏi mật, hoàng đản, ung nhọt do nhiệt độc (Trung Dược Học).
+Trị gan mật kết sỏi, sỏi Thận, tiểu buốt, hoàng đản (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng: 20-40g.

Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc kim tiền thảo
Trị sỏi thận, sỏi tiết niệu, sỏi bàng quang:
Đau bụng dưới, đau lan ra phía sau, có những cơn đau quặn kéo dài, đau kéo dái hàng tháng lúc tăng lúc giảm. Đi tiểu buốt, lúc thông lúc bí, thường phải đi nhiều lần, lượng nước tiểu ít, nước tiểu đỏ.
Bài thuốc: kim tiền thảo 16g, ké đầu ngựa 16g, cối xay 16g, rễ cỏ xước 16g, Đinh lăng (rễ) 16g, cỏ tranh rễ 16g, mã đề 16g, thổ phục linh 16g, vỏ bi ngò 16g, mộc thông 10g. Sắc ngày 1 thang.
Trị mụn nhọt, ghẻ lở:
Kim tiền thảo  Xa tiền thảo tươi, giã nát, cho rượu vào, vắt lấy nước cốt, lấy lông ngỗng chấm thuốc bôi vào vết thương (Bạch Hổ Đơn - Chúc Thị Hiệu Phương).
Trị sạn mật:
Bài 1: Chỉ xác (sao) 10-15g, Xuyên luyện tử 10g, Hoàng tinh 10g, Kim tiền thảo 30g, Sinh địa 6-10g (cho vào sau). Sắc uống (Trung Dược Học).
Bài 2: Kim tiền thảo 30g, Xuyên phá thạch 15g, Trần bì 30g, Uất kim 12g, Xuyên quân (cho vào sau) 10g. Sắc uống (Trung Dược Học).Kim tiền thảo, hình ảnh cây kim tiền thảo
Trị sạn mật:
Bệnh viện ngoại khoa thuộc Viện nghiên cứu Trung Y Trung Quốc báo cáo 4 cas sạn mật được trị bằng Kim tiền thảo có kết quả tốt (Trung Y Tạp Chí 1958, 11:749).
Trị sạn đường tiểu:
Kim tiền thảo 30-60g, Hải kim sa (gói vào túi vải) 15g, Đông quỳ tử 15g, Xuyên phá thạch 15g, Hoài ngưu tất 12g, Hoạt thạch 15g, sắc uống (Trung Dược Học).
Trị sỏi đường tiểu:
Kim tiền thảo 30g, Xa tiền tử (bọc vào túi vải) 15g, Xuyên sơn giáp (chích) 10g, Thanh bì 10g, Đào nhân 10g, Ô dược 19g, Xuyên ngưu tất 12g. Sắc uống (Trung Dược Học).
Trị sỏi đường tiểu do thận hư thấp nhiệt:
Hoàng kỳ 30g, Hoàng tinh 15g, Hoài ngưu tất 15g, Kim tiền thảo 20g, Hải kim sa (gói vào túi vải), Xuyên phá thạch 15g, Vương bất lưu hành 15g. Sắc uống (Trung Dược Học).
Trị trĩ:
Mỗi ngày dùng toàn cây Kim tiền thảo tươi 100g (nếu khô 50g) sắc uống. Nghiêm Tư Khôn đã theo dõi trên 30 ca sau khi uống 1-3 thang thuốc, thấy hết sưng và đau. Đối với trĩ nội và ngoại đều có kết quả như nhau (Tạp chí: Bệnh Hậu Môn Đường Ruột Trung Quốc 1986, 2:48).
Trị đường mật viêm không do vi khuẩn:
Tác giả Lý Gia Trân theo dõi 52 cas bệnh đường mật viêm không do vi khuẩn, có sốt nhẹ và triệu chứng điểnhình, dùng Kim tiền thảo sắc uống sáng 1 lần hoặc nhiều lần trong ngày. Mỗi ngày dùng 30g, có khi 20g hoặc 10g/ ngày. 30 ngày là 1 liệu trình. Thông thường uống trong 2-3 tháng có kết quả với tỉ lệ 76,9% (Trung Y Bắc Kinh Tạp Chí 1985, 1:26)
Trị quai bị:
Đắp Kim tiền thảo vào chỗ sưng đau để trị 50 ca tuyến mang tai viêm (quai bị), thời gian giảm sưng là 12 giờ.
Trị Phỏng:
Đắp Kim tiền thảo trị 30 ca bị phỏng độ 2 và 3 có kết quả tốt tất cả. (Trung Dược Học). .
Tham Khảo:
Kiêng Kỵ:
+Tỳ hư, tiêu chảy: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Độc Tính:
Kim tiền thảo không độc. Cho dùng liều 20g/kg liên tục trong tuần đối với súc vật thí nghiệm không thấy có tác dụng phụ (Trung Dược Học).
Chữa viêm đường tiết niệu: Kim tiền thảo 60g, mã đề, bòng bong, kim ngân hoa, mỗi vị 15g, sắc uống 1 tháng.
Chữa sỏi thận (thể thấp nhiệt): với biểu hiện người trì trệ, nước tiểu vàng hoặc đỏ, đái đục có cặn, có sỏi, đau, nặng, tức vùng thắt lưng: Kim tiền thảo 30g, quả dành dành 20g, vỏ núc nác 16g, hoa, lá mã đề 20g, xương bồ 8g, mộc thông 12g, tỳ giải 30g, cam thảo đất 16g, ý dĩ nhân 20g, quế chi 4g. Cho các vị thuốc vào ấm đất với 4 bát nước, đun nhỏ lửa, còn 2 bát, chắt ra, cho nước sắc tiếp, mỗi lần lấy 1,5 bát, trộn chung cả 3 lần, chia uống nhiều lần trong ngày. Uống liên tục 2-3 tháng.
Chữa sỏi đường mật: Kim tiền thảo, nhân trần mỗi vị 40; sài hồ, mã đề mỗi vị 16; chi tử 12g chỉ xác, uất kim mỗi vị 8g; nha đạm tử 6g, đại hoàng 4g. Sắc uống ngày một thang. Uống trong 2 tháng.
Chữa sỏi đường tiết niệu: Kim tiền thảo 40g; mã đề, tỳ giải mỗi vị 20g; trạch tả, uất kim, ngưu tất mỗi vị 12g; kê nội kim 8g. Sắc uống ngày  một thang. uống liên tục 1-2 tháng.

Chú ý: Phụ nữ có thai không nên dùng. Người đau dạ dày nên uống thuốc vào lúc no.






1. Giới thiệu chung về cây kim tiền thảo

- Tên khoa học là Desmodium styracifolium, thuộc họ cánh bướm.

- Tên gọi khác là mắt trâu, vảy rồng, mắt rồng, đồng tiền lông.

- Cây nhỏ, thân rạp xuống, đâm rễ ở gốc rồi mọc đứng, cành non hình trụ, khía vằn và có lông nhung màu gỉ sắt.

- Lá mọc so le gồm một hoặc ba lá chét, lá giữa hình mắt chim, các lá bên hình bầu dục, mặt trên lá màu lục và nhẵn, mặt dưới có lông trắng, mềm.

- Hoa màu hồng, mọc thành chùm ở nách hay ở ngọn, có lông mềm màu hung hung.

- Quả thõng, hơi cong hình cung, có ba đốt.

- Ở Việt Nam, cây thường gặp ở các tỉnh thuộc vùng núi thấp và trung du phía Bắc, từ Nghệ An trở ra.

2. Thành phần hoá học và tính vị của kim tiền thảo

- Trong cây có rất nhiều các hợp chất như polysaccharid, flavonoid và các chất khác như desmondimin, lupenon, acid stearic,...

- Cây kim tiền thảo có vị ngọt, mùi thơm và tính mát.

3. Công dụng của kim tiền thảo

Kim tiền thảo là vị thuốc đã được ông bà ta sử dụng từ bao đời nay với nhiều công dụng:

 Giúp tán sỏi, hỗ trợ điều trị sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi túi mật

 Hỗ trợ điều trị phù thũng, viêm thận, thận ứ nước

 Thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, hỗ trợ trị đái rát, đái buốt, ung nhọt

 Hỗ trợ điều trị tiểu đường, cao huyết áp.

4. Kim tiền thảo hỗ trợ điều trị sỏi thận

Sỏi thận là gì?

Sỏi thận được tạo thành bởi muối và chất khoáng trong nước tiểu kết lại với nhau để hình thành những “hòn sỏi”. Chúng có thể nhỏ như hạt cát hay lớn như trái banh golf.

Chúng có thể lưu lại ở trong thận hay đi ra khỏi cơ thể thông qua đường tiểu.

Nguyên nhân của sỏi thận

Sỏi thận gây ra do không uống đủ nước hoặc do yếu tố di truyền. Nếu những người khác trong gia đình bạn mắc bệnh này thì bạn cũng có thể.

Triệu chứng của sỏi thận

Sỏi thận thường không gây đau khi chúng ở trong thận, nhưng chúng có thể gây những cơn đau đột ngột, đau dữ dội khi chúng di chuyển từ thận đến bàng quang.

- Đau bên sườn, bụng, hay háng.

- Nước tiểu có màu hồng hoặc đỏ.

- Dạ dày không khỏe (buồn nôn) và có thể nôn mửa.

 Kim tiền thảo - Vị thuốc quý hỗ trợ trị sỏi thận

- Hoạt chất soyasaponin I chứa trong kim tiền thảo đã được chứng minh có tác dụng ức chế sự hình thành sỏi calci axalat ở thận.

- Thí nghiệm trên động vật cho thấy thành phần polysacchorid chứa trong kim tiền thảo có tác dụng ức chế sự hình thành sỏi calci axalat ở thận, đồng thời làm tăng lượng bài tiết nước tiểu.

 Có thể dùng cây kim tiền thảo hỗ trợ chữa bệnh sỏi thận một cách riêng biệt hay kết hợp cây kim tiền thảo và một số loại thảo dược khác bào chế thành bài thuốc nam hỗ trợ chữa bệnh sỏi thận hiệu quả và an toàn.

5. Cách sử dụng kim tiền thảo

Theo kinh nghiệm dân gian, có thể sử dụng toàn cây kim tiền thảo tươi hay phơi hoặc sao khô để dùng làm thuốc hỗ trợ chữa bệnh.

Để hỗ trợ trị sỏi thận bằng kim tiền thảo bạn có thể áp dụng một số cách sau:

- Cách 1: Sắc nước uống:

Lấy khoảng 10-30g kim tiền thảo khô sắc với 1 lít nước uống trong ngày.

Sử dụng mỗi ngày liên tục tình trạng trong vòng 1 tháng sẽ làm giảm dần kích thước sỏi.

- Cách 2: Sử dụng trà túi lọc:

Dùng từ 3-5 gói trà túi lọc kim tiền thảo cho vào khoảng 1 lít nước nóng dùng uống trong ngày.

- Cách 3: Dùng viên nén:

Các bệnh nhân sỏi thận cũng có thể sử dụng kim tiền thảo dạng viên nén, mỗi lần uống 4 viên và uống 3 lần trong ngày.

 Lưu ý: Nên kiên trì hỗ trợ điều trị và kết hợp với chế độ dinh dưỡng hợp lý để có kết quả tốt nhất.

Một số bài thuốc hỗ trợ chữa bệnh khác

 Hỗ trợ chữa viêm thận, phù, viêm gan, viêm túi mật:

Kim tiền thảo: ......... 40g; - Mộc thông, ngưu tất: 20g mỗi vị; - Dành dành, chút chít: 10g mỗi vị. - Sắc uống ngày 1 thang.

 Hỗ trợ chữa sỏi túi mật:

Kim tiền thảo, nhân trần mỗi vị 40g - Sài hồ, mã đề mỗi vị 16g - Chi tử 12g - Chỉ xác, uất kim, mỗi vị 8g - Khổ luyện tử 6g - Đại hoàng 4g - Sắc uống ngày 1 thang.

 Hỗ trợ chữa sỏi đường tiết niệu:

Kim tiền thảo: ....... 40g; - Mã đề, tỳ giải: mỗi vị 20g; - Trạch tả, uất kim, ngưu tất: mỗi vị 12g; - Kê nội kim: ........... 8g. - Sắc uống ngày 1 thang.





Friday, May 26, 2017

MẠCH HỌC TỔNG HỢP


LỜI NÓI ĐẦU
Trong lâm sàng thực nghiệm, đối với các thầy thuốc YHCT, một trong những yếu tố chẩn đoán được coi là khó nhất, đó là việc xem mạch. Mạch tượng (hình thể của mạch) vừa là thực tại ( sờ, bắt được) nhưng cũng rất trừu tượng. Xét về từng ý nghĩa của mạch, mỗi loại mạch có thể chủ một loại bệnh khác nhau. Ngoài ra mạch ở các vị trí khác nhau cũng biểu hiện bệnh lý khác nhau. Thí dụ: Mạch Trầm (thuộc Thận - Thủy), nếu ở vị trí bộ xích bên tay trái ( bộ vị của Thận) thì rất tốt nhưng nếu ở vị trí bộ thốn tay trái (thuộc Tâm) lại rất nguy hiểm, vì đó là biểu hiện của thủy khắc hỏa, bệnh nặng hơn... Muốn hiểu tại sao cũng mạch Trầm, ở bộ vị này thì tốt, ở bộ vị khác lại xấu... đòi hỏi phải hiểu biết về y lý...
Sách chuyên đề về mạch bằng tiếng Việt hiện nay tương đối rất ít và ngay cả trong các sách giáo khoa cũng chỉ bàn sơ qua về các bộ mạch, khó đáp ứng được nhu cầu ngày càng có chiều hướng muốn nghiên cứu sâu hơn về YHCT (trong đó có mạch học).
Hiện nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều nước đã nghiên cứu và sử dụng một số máy để chẩn đoán mạch. Với đà phát triển như vũ bão của khoa thông công nghệ thông tin, rất có thể trong tương lai, việc sử dụng máy móc thiết bị hiện đại để thay thế đôi bàn tay của thầy thuốc trong việc xem mạch. Tuy nhiên, vẫn cần đến sự khéo léo, tinh tế của bàn tay thầy thuốc trong việc xem mạch. Vì vậy, chúng tôi cũng sẽ giới thiệu một cách tổng quan về những thiệt bị hiện đại dùng trong việc hỗ trợ ghi nhận mạch. Các chuyên gia về máy tính nhận xét rằng, khi chúng mua một máy tính, ra khỏi cửa, có thể máy của chúng ta đã bị tụt hậu rồi. Các thiết bị chúng tôi giới thiệu bây giờ, có thể chỉ vài năm nữa thôi sẽ trở thành tụt hậu, nhưng hy vọng sẽ phần nào đem đến cho người đọc một số nét chấm phá về việc ứng dụng các thiết bị mới trong việc ghi nhận hình sóng mạch.
Vì vậy, trong tinh thần nghiên cứu, học hỏi, chúng tôi cố gắng tổng hợp lại các sách mạch (đa số dựa theo các sách mạch bằng tiếng Hán) xưa và nay, sắp xếp lại thành hệ thống trong từng vấn đề chuyên sâu về mạch.
Nội dung của từng mạch được triển khai dưới 9 tiêu đề:
1- Đại cương: Nêu lên phần xuất xứ hoặc định nghĩa về từng loại mạch đó.
2- Mạch tượng: Cách mô tả hoặc hình vẽ biểu diễn của các mạch đó theo các sách chuyên khoa. Trong phần này, chúng tôi giới thiệu thêm (nếu có thể) hình vẽ biểu diễn của các mạch đó theo những sách mạch hiện đại: trình bày đường biểu diễn mạch qua các dạng sóng, được đo bằng các máy tương đối hiện đại, giúp người đọc có được sự so sánh hoặc dễ nhận xét về các sóng mạch.
3- Nguyên nhân phát sinh mạch: Dựa theo quan điểm của các sách xưa và nay, theo YHCT lẫn YHHĐ. Thí dụ: Nguyên nhân phát sinh ra mạch PHÙ:
+ Theo YHCT có thể do tà khí xâm nhập vào 3 kinh dương bức bách mạch khí ra ngoài...
+ Theo YHHĐ có thể do lượng máu của tim tống ra được tăng lên...
Những quan niệm tuy khác nhau giữa hai nền YHCT và YHHĐ có thể giúp người đọc hiểu rõ hơn về nguyên nhân phát sinh ra loại mạch đó.
4- Mạch chủ bệnh: Mỗi mạch, tùy từng bộ vị (thốn, quan xích) khác nhau, có thể biểu hiện loại bệnh chứng khác nhau... Các y gia, qua kinh nghiệm, đã ghi chép tương đối khá đầy đủ... ở đây, chúng tôi chỉ tổng hợp lại và sắp xếp theo thứ tự thời gian của các tác phẩm trích dẫn. Thí dụ cũng về mạch PHÙ, theo lịch sử phải kể đến sách Nội kinh Tố Vấn rồi đến Thương hàn luận, Kim quỹ...
5- Mạch chủ kiêm mạch bệnh: Mỗi mạch, khi kết hợp với mạch khác, có thể đem lại ý nghĩa bệnh lý khác nhau. Thí dụ: mạch Phù Sác chủ cảm phong nhiệt nhưng Phù Khẩn lại chủ cảm phong hàn...
6- Mạch và trị liệu: Qua kinh nghiệm, các nhà mạch học đã tổng hợp được các phác đồ điều trị cho từng loại mạch, làm cơ sở cho việc lập luận và nghiên cứu về mạch.
7- Các lời bàn về mạch: Trình bày các quan điểm riêng của các sách về mạch có uy tín, kể cả những lời bình luận, tranh cãi... giúp hiểu sâu hơn về ý nghĩa và ứng dụng của các loại mạch đó trong nghiên cứu và trị liệu.
8- Các y án liên quan đến mạch: Nêu những kinh nghiệm thực tiễn của các danh y và đó cũng là cách hay nhất để hiểu rõ hơn về lý luận và ứng dụng mạch trong chẩn đoán và trị liệu.
9- Sự liên hệ: (nếu có) giữa mạch đó với các mạch khác giúp cho dễ nhận xét và dễ nhớ.
Vì tài liệu có hạn, sự hiểu biết có chừng mực mà đề tài về mạch quá rộng... chắc chắn trong lúc biên soạn khó tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để việc biên soạn được tốt đẹp và hoàn hảo hơn.
Biên Hoà, ngày 01 tháng 04 năm 2006.
HOÀNG DUY TÂN

A- Đại cương

Chữ MẠCH theo nguyên nghĩa có thể hiểu là:
1- Chữ Mạch (脈) một bên là chữ Huyết (血) một bên là chữ Phái (派) (là ngành, là chi phái, nhánh), ý nói rằng mạch là một phái, một ngành của huyết, ở trong đó, huyết lưu thông.
2- (血永) Một bên là chữ Huyết (血) một bên là chữ Vĩnh (永) là lâu dài, ý nói có mạch (có huyết), còn mạch thì có thể còn sống lâu dài (mất mạch, mạch không đập nữa là chết).
3- Một bên là chữ Nguyệt (đúng ra là bộ Nhục 月) một bên là chữ (Vĩnh 永) là lâu dài, ý nói có mạch thì sống lâu ( không còn mạch thì chết).
Như vậy, theo YHCT, mạch là biểu hiện của Khí, Huyết, lưu hành ngày đêm khắp cả cơ thể con người.
Theo YHHĐ, mạch là làn sóng áp huyết, từ tim chuyển ra động mạch, lan truyền dài theo ống mạch với tốc độ bình thường là 9m/giây.
Theo YHCT, chẩn mạch là thầy thuốc dùng ngón tay của mình, bắt mạch của người bệnh để phân biệt mạch tượng rồi kết hợp với các phép Vọng (nhìn), Văn (nghe), Vấn (hỏi), để chẩn đoán âm dương biểu lý, hàn nhiệt, hư thực của bệnh chứng.
Giá Trị Của Việc Chẩn Mạch
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Chẩn đoán mạch tượng có thể hiểu rõ được sự biến hóa của bệnh tà, theo đó mà phân biệt chứng hậu, mặt khác lại có thể dò được sự thường hoặc biến của khí huyết, theo đó mà suy đoán được sự thịnh suy của chính khí, làm cho thầy thuốc có thể nắm vững được chiều hướng tiêu trưởng trên lâm sàng".
- Thiên 'Nghịch thuận' (Linh khu 55) ghi: "Sự thịnh suy của mạch là để xét biết được sự hư hoặc thực, hữu dư hoặc bất túc của khí".
- Thiên 'Phương thịnh suy luận' (Tố vấn 80) nêu lên cụ thể giá trị của việc chẩn mạch: "... Đem những tình hình tỉ mỉ đã xem xét được mà tổng hợp lại, suy tìm sự biến hóa của âm dương, hiểu rõ bệnh tình của ngũ tạng, rút ra được kết luận đúng đắn rồi căn cứ vào điểm cốt yếu của hư thực, ngũ chẩn, ngũ độ để phán đoán".
B- Lịch Sử Mạch Học
- Cuốn sách cổ nhất đề cập đến mạch là cuốn 'Nội kinh Tố vấn' ( khoảng 200 - 300 năm trước Công nguyên), đáng kể nhất là các thiên: 'Mạch yếu tinh vi luận (Tố vấn 17), Bình nhân khí tượng luận (Tố vấn 18), Kinh mạch biệt luận (Tố vấn 21), Mạch giải ( Tố vấn 49), Thị thung dung luận (Tố vấn 76)...
- Khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Tần Việt Nhân (Biển Thước) trong tác phẩm 'Nan kinh' đã để ra 24 Nan (trong tổng số 81 Nan) bàn về mạch.
- Thế kỷ 2-3 sau Công nguyên, Trương Trọng Cảnh, trong sách 'Thương hàn luận' và 'Kim quỹ ngọc hàm kinh' đã ghi lại kinh nghiệm và nhận định về từng loại mạch và chứng.
- Thế kỷ thứ 3, Vương Thúc Hòa lần đầu tiên đã hệ thống hóa toàn bộ mạch học trong tác phẩm 'Mạch kinh'.
- Đời nhà Nguyên, có hai quyển sách về mạch đáng được chú ý đến là:
1- 'Khiết Cổ chú Thúc Hòa mạch học' của Trương Nguyên Tố (Trương Khiết Cổ) chú giải về sách mạch của Vương Thúc Hòa.
2- 'Mạch chứng chỉ chưởng' của Chu Đan Khê bàn về mạch và chứng.
- Đời nhà Minh (1368) tài liệu về mạch có:
Chẩn gia chính nhãn của Lý Trung Tử (Lý Sĩ Tài).
Mạch lý minh biện của Lữ Quý.
Đồ chú mạch chứng phụ trương của Trương Thế Hiền.
Tần Hồ mạch học của Lý Thời Trân.
Chẩn mạch đại chỉ của Chúc Nhạc.
Tứ chẩn pháp của Trương Tam Dương.
- Đời nhà Thanh (1644) sách bàn về mạch có:
Mạch học hợp bích của Trầm Kích.
Chẩn mạch tam thập nhị biện của Quản Ngọc Hành.
Mạch lý vị tham của Từ Chi Tuấn.
Mạch học chú thích của Vương Văn Kỳ.
Mạch pháp nhiên tri của Tiền Kinh Luân.
Mạch chứng điều biện của Hạ Chính.
Trì tố mạch hậu chứng của Du Chính Tiếp.
Tứ chẩn quyết vi của Lâm Chi Hàn.
Hoạt nhân tâm pháp chẩn thiệt kính của Lưu Dĩ Nhân.
- Lý Sĩ Tài (1624) cũng dành hẳn một chương ('Tứ Ngôn Mạch Quyết' trong sách 'Y tôn tất độc') để bàn về mạch.
- Trương Cảnh Nhạc (1624) trong bộ 'Cảnh Nhạc toàn thư' cũng có hẳn một chương 'Mạch thần' bàn khá sâu về mạch.
Thế kỷ 18 với bộ 'Y tông kim giám' Ngô Khiêm và các cộng sự đã có hẳn một tập 'Tứ chẩn tâm pháp yếu quyết' bàn về mạch...
Qua thế kỷ 20, với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhiều học viện Trung Y nổi tiếng như Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thành Đô... đã dùng các thiết bị hiện đại đo và ghi lại được các dạng sóng mạch, đồng thời cũng nêu lên được sự tương quan giữa mạch và các chức danh bệnh lý theo thuật ngữ y học hiện đại...
Tại Việt Nam, vào thế kỷ 18, Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) trong sách 'Hồng nghĩa giác tư y thư' có nhiều chỗ bàn về mạch. Và Hải Thượng Lãn Ông, trong chương 'Y gia quan miện' cũng có hẳn một phần bàn về các mạch và cách xem mạch...
Riêng sách chuyên về Mạch ( tiếng Việt), có rất ít:
Phương pháp xem mạch đông phương của Nguyễn Văn Minh.
Định Ninh tôi học mạch của Lê Đức Thiếp.
Cẩm nang mạch học của Nguyễn Khắc Nhân.
Mạch lý và phương dược của Nguyễn Hữu Khai.
Sách dạy xem mạch của Nguyễn An Nhân, in 1942.
C- CƠ CHẾ CỦA MẠCH
a- Theo Y Học Cổ Truyền
- Thiên 'Tuyên minh ngũ khí luận' (Tố vấn 23) ghi: 'Tâm chủ mạch', dựa vào câu này, sách 'Mạch học giảng nghĩa' giải thích như sau: "Mạch với Tâm có quan hệ với nhau theo từng nhịp thở. Tâm lại có quan hệ mật thiết với toàn bộ cơ thể. Vì vậy, cơ thể bị bệnh chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mạch".
- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch là phủ của huyết, mạch Trường thì khí được trường, mạch Đoản thì khí bị bệnh, mạch Sác thì tâm phiền, mạch Đại thì bệnh đang tiến triển...".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' giải thích ý của thiên 17 sách Tố vấn như sau: "Mạch là phủ của huyết, Vinh khí dựa vào mà đi trong mạch, Vệ khí dựa vào mà đi ở ngoài. Mạch theo khí đi, huyết theo mạch chạy. Vinh Vệ điều hòa, khí và huyết thông ứng, đó là người bình thường".
b- Theo Y Học Hiện Đại
Qua nghiên cứu một số mạch YHCT bằng các thiết bị hiện đại, sách ' Tân biên Trung y học khái yếu' (1973), 'Trung y học cơ sở' (1974) và sách 'Trung y biện chứng luận trị giảng nghĩa' (1976) cùng nhận định: "Những liên quan về hình ảnh điện tim, tiếng tim ghi đồng thời với đường cong động mạch cảnh và động mạch quay nói lên trương lực tăng hoặc giảm của mạch... làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi hình thái của mạch...
Những sự thay đổi đó, hoặc do bệnh của tim mạch gây ra hoặc do bệnh của toàn thân tác động đến tim mạch gây ra. Ngoài ra, yếu tố thần kinh, tâm lý, thời tiết... cũng có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi của mạch.
Thí dụ: Khi theo dõi mạch PHÙ, các tác giả nhận thấy:
Mạch PHÙ có thể phát sinh do:
Lượng máu ở tim tống ra được tăng lên.
Sức co bóp của thành mạch kém.
Hoặc sự thay đổi của mạch TRẦM có thể do:
Lượng máu ở tim tống ra bình thường hoặc hạ thấp.
Các mạch máu ngoại biên co lại...
D- CÁC BỘ VỊ ĐỂ CHẨN MẠCH
Bộ vị để chẩn mạch, theo các sách xưa, có nhiều cách khác nhau, có thể tóm vào ba cách sau:
1- Cách chẩn mạch toàn thân (Biến chấn pháp), thiên 'Tam bộ cửu hậu luận' (Tố vấn 20) trình bày như sau:
a- Thượng bộ (Đầu) chia là ba vùng:
Thượng bộ thượng : động mạch hai bên trán (Thái dương) để chẩn bệnh khí ở cạnh bên đầu.
Thượng bộ trung: động mạch trước tai (tương ứng vùng huyệt Nhĩ môn) để chẩn bệnh về tai và mắt.
Thượng bộ hạ: động mạch hai bên má (tương ứng vùng huyệt Cự liêu) để chẩn bệnh ở miệng và răng.
b- Trung Bộ (Tay), chia làm ba vùng:
Trung bộ thượng: thủ Thái âm (vùng thốn khẩu - huyệt Thái uyên) để chẩn bệnh về Phế.
Trung bộ trung: thủ Thiếu âm ( vùng huyệt Thần môn - chỗ lõm ở lằn chỉ trong cổ tay, thẳng ngón tay út lên ) để chẩn bệnh về tạng Tâm.
Trung bộ hạ: thủ Dương minh (vùng hổ khẩu - huyệt Hợp cốc) để chẩn bệnh về khí ở trong ngực.
c- Hạ bộ (Chân), chia làm ba vùng:
Hạ bộ thượng: túc Quyết tâm (vùng huyệt Ngũ lý hoặc Thái xung) để chẩn bệnh về tạng Can.
Hạ bộ trung: túc Thái âm (vùng huyệt Cơ môn hoặc Xung dương) để chẩn bệnh về Ty, Vị, xem Vị khí.
Hạ bộ hạ: túc Thiếu âm (vùng huyệt Thái khê) để chẩn bệnh về tạng Thận.
Học
THỐN
QUAN
XÍCH
Thuyết
Phải
Trái
Phải
Trái
Phải
Trái
Nội kinh
Phế
Hung trung
Tâm
Hung trung
Vị
Tỳ
Can
Cách
Thận Phúc
Thận
Phúc
Nan kinh
Phế,
Đại trường
Tâm
Tiểu trường
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Thận
Mệnh môn
Thận
Bàng quang
Mạch kinh
Phế
Đại trường
Tâm
Tiểu trường
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Mệnh môn
Bàng quang
Thận
Bàng quang
Thiên kim phương
Phế
Tâm
Tỳ
Can
Thận
Thận
Thôi thị tứ nguyên cử yếu
Phế
Cách thượng
Tâm
Cách thượng
Tỳ
Cách hạ
Can
Cách hạ
Mệnh môn
Thận
Lý Đông Viên
Phế
Đại trường
Tâm
Tiểu trường
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Mệnh môn
3. Tiêu
Thận
Bàng quang
Hoạt Bá Nhân
Phế Đ. trường
Tâm
Tiểu trường
Tỳ
Vị
Can
Đởm
3. Tiêu
Tâm bào
Thận
Bàng quang
Lý Thời Trân
Phế
Hung trung
Tâm
Chiên trung
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Thận Đại trường
Thận
Tiểu trường
Dụ Gia Ngôn
Phế
Tâm
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Thận
3. tiêu
Tiểu trường
Thận, B. quang
Đại trường
Y tôn tất độc
Phế
Vị trung
Tâm
Chiên trung
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Thận Đại trường
Thận
Tiểu trường
Cảnh Nhạc toàn thư
Phế
Chiên trung
Tâm
Tâm bào
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Mệnh môn
3. Tiêu
T. trường
Thận
B. quang Đ. trường
Y tông
kim giám
Hung trung.
Phế
Chiên trung.
Tâm
Tỳ
Vị
Can
Đởm
Đại trường Thận
Tiểu trường
Bàng quang
Thận
Chẩn gia khu yếu
Phế
Đại trường
Tâm
Tiểu trường.
Phế
Vị
Can Đởm
T. bào
3 tiêu
M.môn
Thận
Bquang
Việc chia làm ba vùng (Tam bộ) và 9 khu (Cửu hậu) theo sách Tố vấn ở trên là để dò tìm các mạch máu ở phần (lớp) nông (cạn) của toàn thân, qua đó phân tích sự biến hóa về khí huyết trong cơ thể con người suy hoặc thịnh. Hiện nay trên lâm sàng ít khi dùng đến.
Trong trường hợp bệnh nặng hoặc nguy hiểm, người ta mới chẩn mạch ở Xung dương ( xem vị khí còn hoặc mất, tiên liệu được việc dung nạp thuốc hay không ) hoặc xem ở mạch Thái khê để dự đoán sống (còn đập) hoặc chết (không đập nữa).
2- Cách Chẩn Mạch Theo Tam Bộ
Theo sách 'Thương hàn luận', có thể chỉ xem mạch ở tam (ba) bộ:
Nhân nghinh (động mạch cổ) để chẩn về Vị khí.
Thốn khẩu (động mạch tay quay - huyệt Thái uyên) để chẩn bệnh của 12 đường kinh.
Phu dương (động mạch mu bàn chân - huyệt Xung dương) để chẩn về Vị khí.
3- Cách Chẩn Mạch Thốn Khẩu
Sách 'Nan Kinh', ở Nan thứ I cho rằng, chỉ cần xem mạch ở thốn khẩu, và cũng chia ra làm ba bộ: Thốn, Quan và Xích. Mỗi bộ lại chia ra làm ba hậu: Phù, Trung và Trầm, hợp lại cũng thành tam bộ cửu hậu. Chỉ dùng một bộ thốn khẩu để xem sự thịnh suy khí huyết của toàn thân.
Để giải Vấn nạn (Nan) I là: "12 kinh đều có động mạch nhưng chỉ xem mạch thốn khẩu để chẩn đoán việc lành dữ, sống chết của lục phủ, ngũ tạng là thế nào?" Tần Việt Nhân trả lời như sau: "Thốn Khẩu là chỗ đại hội của mạch, là động mạch của thủ Thái âm... là chung thỉ của ngũ tạng, lục phủ, vì vậy, phép chẩn phải lấy ở thốn khẩu. ( Thốn khẩu giả, mạch chi đại hội, thủ Thái âm chi mạch động dã... Thốn khẩu giả, ngũ tạng lục phủ chi sở chung thỉ, cố pháp thủ ư thốn khẩu dã ).
Trong thiên 'Ngũ tạng biệt luận' (Tố vấn 11) Hoàng Đế hỏi: "Khí khẩu tại sao lại làm chủ riêng của ngũ tạng?" Kỳ Bá đáp: "Vị là bể chứa thức ăn, là nguồn gốc của lục phủ. Như vậy, tuy việc chẩn mạch ở thốn khẩu do sách Nan kinh đề xuất nhưng cũng bắt nguồn từ sách Nội kinh Tố Vấn.
(Ghi chú: Vương Thúc Hòa trong sách 'Mạch kinh' gọi bộ thốn bên trái là Nhân nghinh và bộ thốn bên phải là Khí khẩu ).
E- MẠCH VÀ TẠNG PHỦ
Theo Nan thứ 18 (Nan kinh) thì bộ vị xem mạch ở thốn khẩu được chia làm ba bộ và được gọi theo thứ tự: Thốn, Quan và Xích. Các bộ vị này sẽ tương ứng với Tạng Phủ trong cơ thể.
Việc sắp xếp (định vị) các bộ vị tương ứng với các tạng phủ ra sao đã được các sách kinh điển ghi chép lại. Tùy theo quan điểm của mỗi tác giả, cách định vị có hơi khác nhau về danh xưng, nhưng về cơ bản lại rất giống nhau. ( Xem 'Biểu đồ của các học thuyết về bộ vị mạch').
Các học thuyết trên, việc phân bố vị trí của tạng phủ đều dựa theo ý của thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) chỉ riêng vị trí của Đại trường, Tiểu trường và Tam tiêu là có nhiều khác biệt:
- Theo Vương Thúc Hòa trong sách 'Mạch kinh' thì: "Tiểu trường tương ứng với Tâm, vì vậy, Tiểu trường ở bộ thốn bên trái cùng với Tâm, Đại trường biểu lý với Phế, vì vậy, Đại trường ở bộ thốn bên tay phải cùng với Phế. Tam tiêu ở bộ Xích bên tay phải cùng với Mệnh môn hỏa vì Mệnh môn hỏa và Tam tiêu đều là tướng hỏa".
- Theo Trương Cảnh Nhạc trong 'Cảnh Nhạc toàn thư' thì Tiểu trường ở bộ xích bên tay phải, cùng vị trí với Mệnh môn hỏa vì hỏa ở Tiểu trường gần với hỏa ở Thận hơn là hỏa ở Tâm. Ngoài ra, Tiểu trường cũng tương thông với Thận và Bàng quang. Đại trường ở bộ xích bên tay trái, cùng vị trí với Thận thủy vì kim (Đại trường) sinh thủy (T hận).
- Theo Lý Thời Trân trong 'Tần Hồ mạch học' thì Tiểu trường ở dưới Tâm, vì vậy ở bộ xích bên trái. Đại trường ở dưới Phế, vì vậy ở bộ xích bên phải.
Đặc biệt Trương Cảnh Nhạc và Lý Thời Trân không đề cập đến Tam tiêu (Xem thêm chi tiết trong biểu đồ).
Nhận định về việc phân bố các bộ vị tạng phủ với mạch, Trần Tu Viên đã bình luận như sau: "Đại và Tiểu trường ở trong sách Nội kinh không đề cập đến, các nhà (nghiên cứu) sau đều theo lý mà dựa vào, (điều này) không thể câu nệ, chỉ dùng để tham khảo trong việc biện chứng". Lý Thời Trân, trong sách 'Tần Hồ mạch học' cũng nhận định: "Sáu bộ ở hai tay đều là mạch của Phế, chỉ cần lấy đó mà chẩn đoán khí của ngũ tạng lục phủ chứ không phải là vị trí của ngũ tạng lục phủ".
Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu chọn dùng theo học thuyết của Lý Đông Viên như sau:
TAY PHẢI
TAY TRÁI
THỐN
Phế
Đại trường
Tâm
Tiểu trường
QUAN
Tỳ
Vị
Can
Đởm
XÍCH
Mệnh môn
Tam tiêu
Thận
Bàng quang
5- Sự Liên Hệ Giữa Các Bộ Vị Mạch
Dựa theo đặc tính sinh khắc của Ngũ hành, áp dụng vào cách phân định bộ vị của mạch và tạng phủ theo Lý Đông Viên, ta có:
+ Tương sinh:
Thận Thủy (bộ xích tay trái) sinh Can Mộc (Quan), Mộc sinh Hỏa (Thốn) và Hỏa (Mệnh môn - xích bên phải) sinh Tỳ Thổ (Quan), Tỳ Thổ sinh Phế Kim (Thốn).
TAY TRÁI
TAY PHẢI
THỐN
Tâm HỏaPhế Kim
QUAN
Can MộcTỳ Thổ
XÍCH
Thận Thủy Mệnh môn (Hỏa)
+ Tương khắc:
Nhìn vào hàng ngang, giữa 2 tay phải và trái, và giữa các bộ vị cùng tên, ta thấy có sự tương khắc: Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Thận Thủy khắc Mệnh môn Hỏa.
TAY TRÁI
TAY PHẢI
THỐN
Tâm Hỏa ≠Phế Kim
QUAN
Can Mộc ≠Tỳ Thổ
XÍCH
Thận Thủy ≠Mệnh Môn Hỏa
Nếu nhìn chéo sẽ thấy: Phế Kim khắc Can Mộc, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy và như vậy sẽ có một vòng liên hợp tương khắc như sau:
Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Phế Kim khắc Can Mộc, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy, Thận Thủy khắc Mệnh môn Hỏa, và vòng tương khắc cứ như vậy mà tiếp diễn.
Có lẽ vì vậy mà hình thái định vị này đươc nhiều người chú ý và chấp nhận.
Sách 'Y học nhập môn' của Lý Diên đã diễn ca các vị trí của tạng phủ như sau:
"Tả Tâm, Tiểu trường, Can, Đởm, Thận,
Hữu Phế, Đaị Trường, Tỳ, Vị, Mệnh (Môn).
- Tâm dữ Tiểu trường cư tả thốn
Can, Đởm đồng quy tả quan định,
Thận mạch nguyên tại tả xích trung,
Bàng quang thị phủ thường tương ứng.
- Phế dữ Đại trường cư hữu thốn,
Tỳ, Vị mạch tùng hữu quan nhận,
- Tâm bào hữu xích phối Tam tiêu
Thử vi sơ học nhập môn quyết".
E. PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH
1- Thời gian xem mạch
- Thiên ' Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn, do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh".
Tuy nhiên, Uông Thạch Sơn, trong 'Thạch Sơn y án' đã nhận định rằng: "Nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cần chẩn mạch vào lúc sáng sớm mới được".
- Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghỉ một lát cho khí huyết được điều hòa.
- Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặc mới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi...
- Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanh ồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch.
2- Tư thế lúc xem mạch
- Theo sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' thì : "Người bệnh nên ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên, bàn tay để ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đến mạch".
Sách 'Y tông kim giám' nêu rõ: "Người bệnh nằm nghiêng thì cánh tay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bị bế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạch bị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lại thì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn mà mạch chạy nhanh..."
Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái để chẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ở tay trái.
3- Định hơi thở
Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hít vào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tập trung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượng và số mạch đếm của người bệnh. Do đó, thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh".
4- Cách đặt tay chẩn mạch
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' trình bày cách đặt tay xem mạch như sau: "Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan ( mé trong chỗ xương cao - ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và 4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốn khẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặt ngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau".
- Sách 'Trung y học khái luận' nhấn mạnh rằng: "Khi đặt ngón tay (xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của da ở đầu các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vì vậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ ( chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợi chỉ) để sờ, ấn".
- Sách 'Mạch nghĩa giản ma' giải thích rõ hơn như sau: "Ba ngón tay của người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưng da thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngón thứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngón tay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch".
- Sách 'Trung y học khái luận' còn lưu ý rằng: "Điều quan trọng hơn nữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầm với mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng có động mạch. Điều này cần chú ý trên lâm sàng".
Sau khi đặt tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biết vận dụng năng lực nặng nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng.
Hoạt Bá Nhân, trong sách 'Chẩn gia khu yếu' nêu rõ: "Chẩn mạch có 3 điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩn mạch gọi là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm".
Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau:
+ Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của người bệnh để chẩn bệnh ở phủ.
+ Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí.
+ Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống một ít để chẩn bệnh ở tạng.
Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên:
Xem chung cả 3 bộ (Tổng khán) để nhận định về tình hình chung (thường được dùng nhất).
Xem riêng từng bộ phận (Đơn khán) để đánh giá riêng từng cơ quan, tạng phủ.
Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ý đến 3 yếu tố là Vị khí, Thần và Căn.
1) Vị khí
Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 18) ghi: "Có Vị khí thì sống, không có Vị khí thì chết", vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc.
Trương Cảnh Nhạc trong chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) đã trình bày về Vị khí như sau: Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vị khí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: "Thí dụ, hôm nay mạch còn hòa hoãn mà ngày mai lại Huyền, Cấp thì biết rằng tà khí đang tiến triển, tà khí càng tiến, bệnh càng nặng. Hoặc hôm nay mạch rất Huyền, Cấp nhưng ngày mai lại thấy hòa hoãn thì biết là Vị khí đã đến, Vị khí đến thì bệnh nhẹ dần. Nếu như trong chốc lát mà mới đầu thấy mạch Cấp mà sau đó Hoãn là Vị khí đến, lúc đầu Hoãn mà sau đó Cấp là Vị khí mất".
2) Thần
Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' giải thích: "Gọi là thần của mạch tức là mạch đi nhu hòa. Thí dụ như bắt được mạch Vi Nhược thì tuy là Vi Nhược nhưng không đến mức vô lực là có thần, hoặc bắt được mạch Huyền Thực mà trong cái Huyền Thực vẫn thấy nhu hòa, là có thần. Tóm lại, mạch có Vị khí, có Thần đều là có hiện tượng xung hòa. Có Vị khí là có Thần khí, vì vậy, trên lâm sàng, cách chẩn đoán Vị khí và Thần như nhau".
3) Căn
- Sách 'Mạch quyết' ghi: "Mạch ở bộ thốn và bộ quan tuy không còn nữa nhưng mạch ở bộ xích vẫn còn, những bệnh gặp mạch đó, không lo chết".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' giải thích: "Mười hai kinh mạch trong cơ thể đều nhờ ở chỗ động khí của Thận mà phát sinh. Thận khí còn cũng như cây có gốc (căn) cành lá tuy khô mà gốc chưa khô thì có hy vọng sống được. Thận khí chưa tuyệt thì mạch nhất định có căn. Mạch Trầm để chẩn tạng Thận, bộ xích để chẩn về Thận, mạch ở bộ xích mà Trầm, có lực là dấu hiệu mạch có căn".
- Hoạt Bá Nhân trong sách 'Chẩn gia khu yếu' lại cho rằng khi chẩn mạch phải chú ý đến sáu yếu tố: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, ông viết: "Chẩn mạch nên biết sáu chữ: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, không hiểu sáu chữ đó thì không phân biệt được âm dương hư thực. Thượng, Lai, Chí là dương; Hạ, Chỉ là âm. Thượng là từ bộ xích lên tới thốn khẩu đến bộ xích, âm sinh ở dương, Lai là từ trong thịt xuất ra chỗ trong da ngoài, sự tăng lên của khí. Khứ là từ chỗ trong da ngoài thịt đi vào thịt vào xương, sự giáng xuống của khí. Ứng là Chí, nghỉ là Chỉ".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' khi giải thích câu này đã nhận xét: "Câu danh ngôn sáu chữ (Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ) của Hoạt Bá Nhân, các y gia của các thời đại đều cho rằng đã tìm được điều cốt yếu của việc chẩn mạch.
Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' giải thích về các yếu quyết chẩn mạch của Hoạt Bá Nhân như sau:
Thượng, Hạ là chỉ mạch chí thông suốt từ bộ xích đến bộ thốn, chỉ chẩn sát 1 bộ mà phải chú ý đến tình hình cả ba bộ thốn, quan, xích như chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Ở bộ thốn, mạch Hạ không đến bộ quan là dấu hiệu dương tuyệt, ở bộ xích, mạch Thượng không tới bộ quan là âm bị tuyệt".
Lai, Khứ là chỉ sự thăng giáng của mạch. Thăng giáng không cấp bách, nhẹ nhàng, điều hòa là mạch tượng của mạch không có bệnh. Mạch Lai mà Tật, mạch Khứ mà Từ là dấu hiệu trên thực dưới hư ( hoặc trong hư ngoài thực). Mạch Lai mà Từ, Mạch Khứ mà Tật là dấu hiệu trên hư dưới thực (hoặc ngoài hư trong thực).
'Chí Chỉ' là chỉ vào chí và trong thời gian ngắn hay dài của các bộ mạch. Chí để chẩn mạch đến, thời gian ngắn hoặc dài của các bộ mạch. Chỉ thời gian ngắn dài ở bộ thượng có thể xét sự thịnh suy của chân dương để biện về yếu mạch của chân âm. Chỉ thời gian dài ngắn ở bộ hạ có thể xét sự thịnh suy của chân âm để biện về sự mạch yếu của chân dương".
Ngô Hạc Cao nhận xét: "Mạch có thượng hạ là âm dương tương sinh, bệnh tuy nặng cũng không chết. Mạch có lai, khứ là biểu lý giao hòa, bệnh tuy nặng rồi cũng khỏi. Mạch không có Thượng, Hạ, lai, khứ thì chết đã gần ngày".
5- Biện Luận Về Mạch
Theo sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' thì khi biện luận về mạch cần chú ý đến hai yếu tố chính là:
1- Không nên câu nệ về tính chất đặc thù của từng mạch.
Thí dụ: Khi nói đến biểu là phải quy về mạch Phù, nhiệt là Sác, lý là Trầm, hàn là Trì, mạch Huyền, Cường là Thực; Tế, Vi là Hư... tuy nhiên, phải cần lưu ý đến các yếu tố chân, giả.
Bàn về vấn đề này, Trương Cảnh Nhạc trong chương 'Mạch thần' của bộ 'Cảnh Nhạc toàn thư' đã giải thích như sau: "Mạch Phù tuy thuộc về biểu nhưng hễ âm hư, huyết thiếu, khí trung tiêu suy tổn sẽ thấy mạch Phù mà vô lực, vì vậy, không thể cho rằng mạch Phù hoàn toàn liên hệ với phần biểu. Mạch Trầm tuy thuộc về phần lý nhưng hễ ngoại tà mới cảm mà đã vào sâu thì hàn tà bó lấy kinh lạc, mạch khí không thông đạt được, sẽ thấy mạch Trầm, vì vậy, không thể cho rằng mạch Trầm hoàn toàn thuộc về phần lý. Mạch Sác là nhiệt, nhưng chân nhiệt chưa hẳn đã là Sác. Chứng hư tổn, âm dương đều bị khốn quẩn, khí huyết hỗn loạn, hư nhiều, mạch Sác cũng nhiều, vì vậy không thể nói là Sác hoàn toàn thuộc nhiệt được. Trì là hàn nhưng bệnh thương hàn, tà khí mới lui, nhiệt chưa hết, mạch phần nhiều là Trì Hoạt, vì vậy đừng cho rằng Trì hoàn toàn là hàn. Huyền, Cường thuộc thực nhưng chân âm, vị khí hư quá và các chứng âm dương quan cách (bị ngăn trở), mạch sẽ Huyền, Cường, vì vậy Huyền cũng không hẳn là Thực. Mạch Vi, Tế thuộc hư trường hợp bị đau quá, khí bị bế, vinh vệ bị ủng trệ không thông, mạch sẽ phải ẩn nấp (Phục), vì vậy mạch Phục không phải hoàn toàn là Hư... từ đó có thể suy ra... trong các mạch đều có vấn đề".
2- Sự khác nhau lúc mới đặt tay vào mạch và lúc xem mạch một lúc thật lâu
Có khi mạch mới xem và xem một lúc lâu có sự khác biệt. Thí dụ: Lúc mới xem thấy mạch nổi to, xem một lúc thấy mạch chìm lặng. Hoặc mới xem thấy mạch mềm nhũn, xem lâu lại thấy bật dưới tay. Có khi lúc đầu thấy mạch Huyền, một lúc sau lại là Hoãn.
Bàn về vấn đề này, Trương Đăng trong chương 'Vấn sơ chẩn cửu án bất đồng thuyết' (Chẩn tông tam muội) nhận định rằng: "Khi chẩn mạch loại khách tà bạo bệnh mà mạch Phù là đúng. Nếu bệnh đã lâu, sức đã hư tổn, nên chẩn căn khí làm gốc. Nếu thấy Phù, Đại, ấn tay lâu thấy chìm mất, là hiện tượng chính khí quá hư, không cần hỏi là bệnh lâu hoặc mới nhiễm, tuy rằng chứng mà thấy nóng nhiều, phiền nhiễu do chính khí suy không tự chủ được mà hư dương thoát ra ngoài. Khi mới xem mạch thấy Nhu, Nhuyễn, bắt đầu thấy bật dưới tay là dấu hiệu bệnh ở phần lý, phần biểu không bệnh. Không phải tạng khí bị thụ thương thì là kiên tích ẩn phục bên trong, trường hợp này không thể cho đó là mạch Trầm mà lầm là bị hư hàn. Mới xem thấy mạch hơi Huyền, xem lâu lại thấy hòa hoãn, hễ bệnh đã lâu thì sắp khỏi, khí huyết tuy kém nhưng tạng khí chưa bại. Cách chung, mạch của người bệnh lúc mới đặt tay vào tuy thấy vô lực hoặc Huyền Tế, không hòa hoãn, xem lâu trên mười chí lại thấy điều hòa dần, thì bệnh có thể chữa. Nếu mới xem mạch thấy hòa hoãn nhưng xem lâu lại thấy Vi, Sác không ứng tay hoặc dần dần Huyền, cứng ( ngạnh) thì bệnh khó chữa".
6- Bỏ Mạch Theo Chứng - Bỏ Chứng Theo Mạch
(Xả Mạch Tòng Chứng - Xả Chứng Tòng Mạch)
Thông thường thì mạch và chứng tương ứng với nhau, nhưng có nhiều trường hợp mạch và chứng lại không đi đôi với nhau như dương chứng mà lại thấy mạch âm hoặc âm chứng mà thấy mạch dương... Sách ' Y biên' giải thích rõ như sau: "Phàm bệnh mà mạch và chứng không hợp thì một bên thật, một bên giả, cần phân biệt kỹ. Như bên ngoài tuy phiền nhiệt mà thấy mạch Vi, Nhược thì hư hỏa, hư tướng, lại chịu được công phạt sao?. Nên theo mạch mà chữa chứng chân hư chứ không theo chứng là giả tượng. Hoặc trường hợp bệnh vốn không có phiền nhiệt mà thấy mạch Hồng, Sác thì không phải là hỏa tà. Bệnh vốn không có trướng đầy, ứ trệ mà thấy mach Huyền, Cường thì không phải là chứng thực ở bên trong. Không nhiệt, không trướng lại có thể chịu được phép tả hay sao?. Nên theo chứng hư chứ không theo mạch giả thực... Nếu là tà làm thương tổn bên trong hoặc thực trệ, khí trệ mà bụng trên đau thắt đến nỗi mạch Trầm, Phục hoặc Xúc hoặc Kết, đó là tà bế tắc kinh lạc gây ra. Đã có chứng thực làm căn cứ thì mạch hư tức là gỉa, trường hợp này nên theo chứng chứ không theo mạch. Hoặc như bệnh thương hàn, tay chân gía lạnh, rét run mà mạch thấy Hoạt, Sác, đó là do nội nhiệt làm cách âm. Làm sao có thể biết được? Vì bệnh truyền từ kinh này sang kinh khác chứ không phải trực trúng âm kinh, từ chứng nhiệt chuyển sang hàn. Đã có mạch Sác, Hoạt làm căn cứ thì ngoại chứng là giả hư, cũng theo mạch chứ không theo chứng vậy".
Trường hợp nào nên bỏ mạch mà theo chứng, Lê Đức Thiếp trong sách ' Định Ninh tôi học mạch' đã nhận định:
Nên bỏ mạch theo chứng trong các trường hợp sau:
- Những bệnh mà nhận xét về mạch khó chính xác như những người không thể chỉ căn cứ vào mạch hoặc những người không có bộ mạch để xem.
- Những người thanh cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé nhỏ.
- Những người mạch tay trái thường rất nhỏ hơn tay phải hoặc ngược lại.
- Những người có mạch 'Phản quan'.
- Những người không may bị cụt một hoặc cả hai tay.
- Những người bị thương ngay vị trí để xem mạch.
G- QUAN HỆ GIỮA MẠCH
VỚI NHÂN TỐ TRONG NGOÀI
1- Quan Hệ Giữa Mạch Và Ngũ Hành
Dùng ngũ hành áp dụng vào mạch ta thấy:
Tay Bên TRÁI: Thận thủy (bộ xích) sinh Can mộc (quan), can mộc sinh Tâm hỏa ( thốn).
Tay Bên PHẢI: Mệnh môn hỏa (bộ xích) sinh Tỳ thổ (quan), tỳ thổ sinh Phế kim (thốn).
2- Mạch Và Khí Huyết
Xét về khí huyết với mạch ta có:
+ Bên trái thuộc Huyết: Thận, Can và Tâm. Thận (tàng tinh, tinh sinh huyết ) - Can tàng huyết - Tâm chủ huyết.
+ Bên phải thuộc Khí: Mệnh môn (Tam tiêu), Tỳ và Phế. Tỳ là trung khí - Mệnh môn là nơi chứa nguyên khí - Tam tiêu là đường dẫn khí - Phế chủ khí. Vì vậy, mạch ở bên phải liên hệ với khí.
TAY PHẢI
TAY TRÁI
KHÍ
HUYẾT
Mệnh môn (Tam tiêu), Tỳ, Phế.
Thận, Can và Tâm
3- Quan Hệ Giữa Mạch Và Mùa
Mỗi mùa ứng với một tạng nhất định, dù mùa đó cũng chi phối toàn thể các mạch khác trong suốt thời gian đó.
+ Mùa Xuân: Mạch Huyền.
Cây cối xanh tốt vào mùa này, màu xanh ứng với màu của Can, do đó có mạch Huyền (mạch của Can).
Mùa xuân dương khí bắt đầu phát (Thiếu dương) nhưng khí lạnh vẫn chưa hết, khí cơ còn có hiện tượng ước thúc, vì vậy mạch tượng thấy đầu thẳng mà dài, giống như giây đàn (Huyền).
+ Mùa Hè: Mạch Hồng.
Cây cối lớn lên, sức nóng của mùa hè bùng lên, thiêu đốt vạn vật như lửa bùng lên (Hồng).
Vào mùa này, vạn vật tươi tốt, thịnh vượng, mạch đến thì thịnh mà đi thì suy, vì vậy sách 'Nội kinh' gọi là mạch Câu.
+ Mùa Thu: Mạch Mao.
Mọi vật bắt đầu thu lại, lá cây khô đi và rụng giống như lông, do đó mạch của mùa thu là mạch Mao.
Thời điểm này, dương khí bắt đầu suy, thế mạch đã giảm chỉ thấy Phù. Sách 'Nội kinh' gọi là mạch Mao là hình dung thể mạch đến ứng dưới tay thấy nhẹ như lông (Mao).
+ Mùa Đông: Mạch Thạch.
Mọi vật thu giữ lại, tàng trữ tất cả khả năng mạnh mẽ của mình để sống qua cái lạnh giá, vì vậy, mạch của mùa đông là mạch Thạch.
Mùa đông vạn vật bế tàng, thế đến của mạch khí trầm mà có sức bật vào ngón tay, sách 'Nội kinh' gọi là mạch Thạch là hình dung mạch đến ứng vào tay có lực cứng như cục đá (Thạch).
+ Tứ Quý: Tứ quý là chuyển tiếp giữa các mùa, vì vậy thường mang đặc tính ôn hòa, do đó mạch của Tứ quý là mạch Hoãn.
4- Quan Hệ Giữa Mạch Và Lục Dâm (Ngoại Tà)
Hàn làm hại (thương) Thận vì vậy có mạch Khẩn.
Thử làm hại (thương) Tâm vì vậy có mạch Hư.
Táo làm hại (thương) Phế vì vậy có mạch Sáp.
Thấp làm hại (thương) Tỳ vì vậy có mạch Nhu.
Phong làm hại (thương) Can vì vậy có mạch Phù.
Nhiệt làm hại (thương) Tâm bào vì vậy có mạch Nhược.
5- Mạch Và Thất Tình (Nội Nhân)
Hỷ thương (làm hại) Tâm gây nên mạch Hư.
thương Tỳ gây nên mạch Kết.
Ưu thương Phế gây nên mạch Sáp.
Nộ thương Can gây nên mạch Nhu.
Khủng thương Thận gây nên mạch Trầm.
Kinh thương Đởm gây nên mạch Động.
Bi thương Tâm bào gây nên mạch Khẩn.
6- Mạch Và Nam Nữ
- Sách 'Thiên kim phương' ghi: "Mạch của phụ nữ thường nhu nhược ( yếu) hơn mạch của nam giới".
- Sách 'Y học nhập môn' ghi: "Xem mạch 'Nam tả Nữ hữu'. Xem mạch, phái nam xem bên tay trái (làm chính), phái nữ xem bên tay phải (làm chính). Sách ' Định Ninh tôi học mạch' giải thích ý của câu này như sau: "Xem mạch phái nam, mạch tay trái (dương) mạnh hơn tay phải (âm) là dương nhiều hơn âm là thuận. Ngược lại, mạch tay phải mà mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương không thuận, tức là người nam đó bị âm thịnh dương suy. Xem mạch người nư, mạch tay phải (âm) mạnh hơn tay trái ( dương) là âm nhiều hơn dương là thuận. Ngược lại, nếu mạch tay trái mạnh hơn tay phải là dương nhiều hơn âm không thuận, tức là người nữ đó bị dương thịnh âm suy. Như vậy, việc xem 'Nam tả Nữ hữu' chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hoặc nghịch đối với người đó chứ không nhất thiết phải theo đúng quy cách trên.
Điều chủ yếu trong câu 'Nam tả nữ hữu' là chú ý vào hai bộ xích của cả nam lẫn nữ.
+ 'Nam dĩ tả xích nhi tàng tinh' hoặc 'Nam dĩ tả xích vi tinh phủ' ( Nam tàng trữ tinh khí ở bộ xích bên tay trái). Xem mạch người nam, nếu bộ xích tay trái hòa hoãn, có lực thì biết rằng người đó tinh khí sung mãn, khỏe mạnh. Nếu bộ xích tay trái Trầm, Vi vô lực thì không khỏe...
+ 'Nữ dĩ hữu xích nhi bào hộ' hoặc 'Nữ dĩ hữu xích vi huyết hải' ( Nữ liên hệ với bào thai và chứa huyết ở bộ xích). Xem mạch người nữ, nếu bộ xích tay phải hòa hoãn, có lực thì biết rằng tử cung và huyết của họ tốt. Nếu bộ xích tay phải Trầm, Vi vô lực thì không khỏe.
H- PHÂN LOẠI MẠCH
Có nhiều cách phân chia các loại mạch, tùy quan điểm của các tác giả hoặc các trường phái. Trong tài liệu này, để rộng đường tham khảo, chúmg tôi trình bày các cách phân chia mạch theo các trường phái lớn để dễ nghiên cứu:
- Theo 'Nội kinh' (được coi là cổ nhất): Sách 'Y nguyên' ghi: "Tinh xác của phép chẩn mạch không ai hơn sách 'Nội kinh'. Nội kinh lấy 8 mạch PHÙ, TRẦM, HOÃN, CẤP, ĐẠI, TIỂU, HOẠT, SÁC để biện về biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực, thuận, nghịch, (vì) mọi mạch Phù là bệnh ở dương, mọi mạch Trầm là bệnh ở âm, mọi mạch Cấp thì phần nhiều hàn, mọi mạch Hoãn thì phần nhiều nhiệt. Mạch Đại nhiều khí huyết, mạch Tiểu thì khí huyết đều ít. Hoạt là dương khí thịnh, Sác là âm huyết bị thiếu. Tức là trong 8 mạch phân ra làm 3 mức tương phản nhau(như loại Phù, Trầm, Hoạt, Sác), nhiều ít ( như loại hơi Phù, Phù nhiều, hơi Trầm, Trầm nhiều), huyền tuyệt (như loại thái quá đến cấp 3, cấp 4 hoặc bất cập chỉ 1 chí, 2 chí, mất hẳn... ) để xét bệnh tiến thoái, thuận nghịch, sống chết, lại không tinh và gọn hay sao?"
- Thiên 'Bát mạch yếu chỉ vi cương" trong 'Cảnh Nhạc toàn thư' chia 28 mạch ra làm 8 loại mạch chính là Phù, Trầm, Trì, Tế, Sác, Đại, Đoản, Trường còn 20 mạch kia thì quy nạp vào với 8 mạch chính này, gọi là kiêm mạch.
- Sách 'Lục mạch cương lĩnh' của Hoạt Thọ lại lấy 6 mạch làm gốc: Phù, Trầm, Trì, Sác, Hoạt, Sáp theo bảng dưới đây:
1- Nhóm Mạch PHÙ gồm 6 mạch:
Trầm mà rất hữu lực, như đè vào da trống là mạch CÁCH.
Phù mà vô lực, như lụa ngâm trong nước là mạch NHU.
Phù, Trầm hữu lực, mạch chắc dưới tay là mạch THỰC.
Phù, Trầm đều vô lực, nấp dưới tay thoang thoảng là HƯ.
Phù, Trầm, Đại, giữa rỗng ngoài chắc như ống lá hành là mạch KHÂU.
2- Nhóm Mạch TRẦM gồm 5 mạch:
Trầm mà rất có lực, đè tay sát xương mới thấy là PHỤC.
Trầm, rất có lực, ở giữa khoảng Trầm và Phù là mạch LAO.
Trầm mà không có lực, tìm kỹ mới thấy là mạch NHƯỢC.
Một hơi thở 4 lần là mạch HOÃN.
3- Nhóm Mạch SÁC gồm 4 mạch:
Mạch Sác ở bộ quan, không có đầu đuôi là mạch ĐỘNG.
Mạch Sác, thường dừng lại rồi lại đi tiếp là mạch XÚC.
7 - 8 lần đến là mạch TẬT.
4- Nhóm Mạch TRÌ gồm 4 mạch:
Khi Trì, khi Sác, dừng lại có số nhất định là mạch ĐẠI (Đợi).
Đến không đều số, đè tay thấy Phù mà tán loạn là TÁN.
Mạch Hoãn mà có khi đứng lại là mạch KẾT.
5- Nhóm Mạch HOẠT gồm 6 mạch:
Như đè tay vào dây đàn là mạch HUYỀN.
Đi lại như xoắn dây là mạch KHẨN.
Không to không nhỏ như vót cần câu dài là mạch TRƯỜNG.
Đến thịnh đi suy, đến to đi dài là mạch HỒNG.
Như hình hột đậu, đụng tay vào xuống ngay là mạch ĐOẢN.
6- Nhóm Mạch SÁP gồm 3 mạch:
Rất nhỏ mà mềm, ấn tay vào muốn tuyệt là mạch VI.
Như mạch Vi mà rõ hơn là mạch TẾ.
Lý Sĩ Tài trong thiên 'Tứ mạch cương lĩnh' lại chỉ quy về 4 mạch chính, gọi là Tứ đại mạch: Phù, Trầm, Trì, Sác.
- Lê Hữu Trác trong tập 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) lại chia mạch theo ÂM DƯƠNG:
+ Nhóm Dương, có 7 mạch: Phù, Hồng, Hoạt, Thực, Huyền, Khẩn, Hồng gọi là Thất biểu mạch.
+ Nhóm Âm, có 8 mạch: Vi, Trầm, Trì, Hoãn, Sắc, Phục, Nhu và Nhược gọi là Bát lý mạch.
Nhóm còn lại gọi là Cửu đạo mạch (9 mạch) gồm: Trường, Đoản, Hư, Kết, Đại (Đợi), Xúc, Tán, Động, Tế.
- Sách 'Tân biên Trung y học khái yếu' chia mạch ra làm 6 loại gồm:
+ Loại mạch Phù (có 6 mạch): Phù, Hồng, Nhu, Tán, Khâu, Cách.
+ Loại mạch Trầm (có 5 mạch): Trầm, Phục, Nhược, Lao, Huyền.
+ Loại mạch Sác (4 mạch): Sác, Xúc, Tật, Động.
+ Loại mạch Trì (4 mạch): Trì, Hoãn, Sáp, Kết.
+ Loại mạch Hư (5 mạch): Hư, Tế, Vi, Đại (Đợi), Đoản.
+ Loại mạch Thực (4 mạch): Thực, Hoạt, Khẩn, Trường.
BẢNG PHÂN LOẠI TÍNH CHẤT MẠCH YHCT
(Theo sách 'Tân biên Trung y học khái yếu')
Hình Thức
Tính Chất
Loại Mạch
Ý Nghĩa
Cách Phân Biệt
Về vị trí nông sâu.
Sóng mạch nổi lên trên hoặc chìm.
Phù
Trầm
Để phân biệt bệnh ở biểu hoặc lý.
Ấn khẽ, vừa, mạnh mới thấy.
Về cường độ đập.
Xem chấn động mạch mạnh, yếu.
Thực
Để nhận ra sự thịnh suy của tà và chính khí.
Mạch đập có lực hoặc không có lực.
Về tốc độ mạch đập.
Tần số mạch nhanh hoặc chậm.
Trì
Sác
Để nhận ra chứng hàn hoặc nhiệt.
Phân biệt theo hơi thở thầy thuốc hoặc đồng hồ.
Về nhịp đập.
Mạch đập đều hay không.
Kết
Xúc
Đại (Đợi)
Để nhận ra khí có lưu thông hoặc không.
Theo mức độ đập đều hoặc không đều.
Về thể tích mạch.
Sóng mạch lớn hay nhỏ.
Hồng (Đại)
Tế (Tiểu)
Để nhận ra khí huyết suy hoặc thịnh.
Theo thể to hoặc nhỏ của mạch.
Về hình thái sóng
mạch.
a- Độ đập lưu loát, sóng mạch rõ, đều.
Hoạt
Sáp
Để nhận ra từng trạng thái bệnh lý của tạng phủ khí huyết , đờm trệ.
Qua cảm giác về từng hình thù của các sóng mạch.
b- Độ dài, yếu.
c- Độ căng, cứng.
Trường, Đoản, Huyền, Khẩn,
Tán.
MẠCH VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ VIỆC CHẨN MẠCH
Đối với YHCT, thường thầy thuốc để tay vào các bộ vị quy định để xem mạch, từ đó, dựa vào kinh nghiệm, kiến thức của thầy thuốc để xác định ra các loại mạch và các tạng phủ liên hệ cũng như bệnh lý tương ứng, đây là điều mà không phải thầy thuốc nào cũng có thể làm được một cách chính xác và đáng tin. Vì vậy, làm cách nào có thể ghi nhận lại các biểu tượng của mạch để dễ theo dõi và có tính hiện đại, chính xác hơn, là điều mà các nhà nghiên cứu mạch đã và đang chú tâm.
Trong ngành tim mạch, để ghi lại hoạt động của tim mạch, người ta có các thiết bị điện tâm đồ, tâm thanh đồ, tĩnh mạch đồ, động mạch đồ¿ Qua phương pháp ghi động mạch đồ, có thể thu được hình ảnh của các loại mạch YHCT giúp cho việc nhận định, phân biệt mạch YHCT thêm dễ dàng và rõ ràng hơn.
Tại Trung quốc, để ghi hình thái mạch YHCT, các thầy thuốc thường dùng máy động mạch ký (sphygmograph), ở Pháp có loại máy ảnh động mạch loại ký (photo-sphymographe électronique) tự sáng chế lấy.
Tại Việt Nam, rải rác có nhiều thầy thuốc tự mày mò dùng Osiloscope, một loại dùng để ghi sóng của các máy xung điện, từ đó dùng vào việc kiểm tra độ sóng của mạch, tuy nhiên loại sóng này không đủ mạnh đối với sóng điện nơi con người, do đó hiệu quả không cao. Mãi đến năm 1980, nhóm của bác sĩ Lê Nguyên Khánh, lần đầu tiên dùng máy điện tâm thanh có động ký (electro phono cardio mecanograph (được trang bị ở phòng thăm dò huyết động của bệnh viện Bạch Mai - Hà Nội) để ghi lại đường biểu diễn của mạch học YHCT. Đây là loại máy có thể ghi được hình thù loại mạch bắt được ở cổ tay người bệnh tại vị trí mạch tay quay (nơi các thầy thuốc bắt mạch), đồng thời ghi thêm được cả động mạch cảnh đồ, điện tâm đồ và điện thanh đồ của bệnh nhân trên mặt bằng giấy cùng một lúc.
Từ thế kỷ 17, Vương Kỳ trong sách 'Tam tài đồ hội', có lẽ dựa vào sự cảm nhận đã cụ thể hóa 15 loại mạch bằng hình vẽ đơn giản, nhưng có thể coi là bước đầu để các thầy thuốc chú ý đến hình ảnh biểu hiện của mạch. Tại Trung quốc, từ năm 1970 các nhà nghiên cứu về mạch đã tập trung nghiên cứu và ghi lại hình ảnh biểu thị của tất cả các loại mạch kinh điển bằng các thiết bị tương đối hiện đại vào lúc đó. Tuy nhiên, để bảo đảm công việc được thuận lợi và chính xác, trước khi ghi lại hình ảnh của mạch, các nhà nghiên cứu mời những lão y có kinh nghiệm cao về bắt mạch để hội chẩn và nhất trí đưa ra kết luận về tên mạch đó trước, sau đó mới dùng máy ghi động mạch (sphygmograph) tại động mạch quay của bệnh nhân để ghi lại thành đường cong biểu diễn của loại mạch đó. Đây là một công việc có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hệ thống hoá, hiện đại hoá việc ghi lại các đường biểu diễn của mạch YHCT, tạo bước ngoặc cho việc nghiên cứu và hiện đại hoá mạch YHCT.
Cuối thế kỷ 20, chúng ta chứng kiến bước nhảy vọt khó tưởng tượng được của ngành công nghệ thông tin với những thiết bị 'siêu xử lý', chắc chắn sẽ có nhiều bước tiến trong việc nghiên cứu về hình ảnh biểu thị của sóng mạch YHCT.
Một số hình ảnh biểu thị mạch của Trung quốc (trích trong 'Trung Quốc Mạch Chẩn Học' Nxb Thiên Tân, năm 2001).

HUYẾT ĐỘNG CỦA ĐƯỜNG CONG ĐỘNG MẠCH CẢNH VÀ ĐỘNG MẠCH QUAY
Động mạch cảnh đồ và đưỡng cong biểu diễn động mạch quay là hình ảnh của luồng sóng mạch phát ra từ thất trái và động mạch chủ truyền lên đến động mạch cảnh và ra đến động mạch quay. Trong hình vẽ của một sóng mạch, điểm C là chỗ đường cong động mạch bắt đầu uốn vọt lên, đánh dấu lúc sóng mạch khởi đầu sự phun máu của thất trái truyền lên đến động mạch cảnh và ra đến động mạch quay.
Nơi người bình thường, thời gian trung bình từ tiếng tim thứ nhất (đóng van 2 lá) cho đến khi sóng mạch đến được điểm C ở động mạch cảnh đồ là 80m giây (0.080 giây) và thời gian trung bình từ điểm C ở động mạch cảnh đồ đến điểm C ở đường cong động mạch quay là 80m giây (thời gian trung bình từ chỗ đường cong động mạch chủ bắt đầu uốn vọt lên cho đến khi sóng mạch đến được điểm C ở động mạch cảnh đồ là 30m giây). Vì vậy, trong hình vẽ mới thấy có hiện tượng xê dịch một ít giữa các đường cong biểu diễn của động mạch quay và động mạch cảnh được ghi đồng thời với điện tâm đồ và tâm thanh đồ.
Sóng mạch truyền từ động mạch chủ lên cho đến các động mạch ngợi biên có những thay đổi hơi khác nhau ở từng nơi, vì vậy hình dáng động mạch cảnh đồ có hơi khác hình dáng của đường biểu diễn động mạch quay một ít.
Đường cong biểu diễn động mạch nào cũng gồm có 2 nhánh : Nhánh anacrot từ chân mạch đi lên đến đỉnh mạch và nhánh catacrot từ đỉnh mạch rẽ xuống chân mạch.
Nhánh anacrot : Từ điểm C, sóng mạch uốn vọt lên nhanh và nhẹ, đến điểm D là điểm cao nhất của sóng mạch tính từ chân mạch, hình thành nhánh ancacrot. Sóng mạch truyền ra ngoại biên càng xa bao nhiêu thì nhánh ancarrot càng dốc. Vì vậy, trong hình vẽ, nhánh ancarot ở động mạch quay dốc hơn nhánh ancarot ở động mạch cảnh.
Đỉnh mạch : Là điểm Đ cao nhất của động mạch cảnh đồ hoặc của đường cong biểu diễn động mạch quay. Hình ảnh đỉnh mạch có thể khác nhau (nhọn hoặc tròn hoặc đi hơi ngang theo hình cao nguyên v.v¿) tuỳ từng dạng sóng mạch.
Nhánh catarot : Từ đỉnh Đ (thuộc thời gian tống máu tâm thu), sóng mạch rẽ xuống ít dốc hơn nhánh ancarot đến tận điểm C của chân mạch, để hình thành nhánh catarot. Nhánh catacrot trên đường rẽ xuống bị lõm vào thành một cái móc gọi là móc dicrot, nơi bị lõm vào thường rõ nét nhưng cũng có khi rất ít rõ nét, đánh dấu vào chính lúc van động mạch chủ khép lại, kết thúc phun máu.
Tiếp ngay móc dicrot là sóng dội dicrot, chủ yếu tạo bởi các luồng sóng dội lại từ ngoại biên ngay sau lúc van động mạch chủ khép lại. Sóng dội dicrot có thể nhô lên cao nhiều hoặc ít tuỳ từng dạng sóng.
Chân mạch : Là đường ngang nối liền điểm bắt đầu đi lên của nhánh anacrot đến điểm tận cùng đi xuống của nhánh catacrot.
Nếu điện tâm đồ, tâm thanh đồ được ghi đồng thời với động mạch cảnh đồ và đường biểu diễn động mạch quay thì có thể ghi được toàn thời gian tâm thu điện cơ học. Trong hình vẽ, toàn thời gian tâm thu điện cơ học là quãng QT2. bắt đầu từ khởi điểm của khử cực thất, tức là sóng Q của điện tâm đồ (hoặc sóng R nếu không có sóng Q) cho đến mốc kết thúc ở tiếng tim thứ hai (T2).
Toàn thời gian tâm thu điện cơ học gồm có 2 thời gian tiếp theo nhau : Thời gian tiền tống máu và thời gian tống máu.
Thời gian tiền tống máu là giai đoạn đầu của thời kỳ tâm thu : lúc tâm thất đã co nhưng van tổ chim chưa mở, máu chưa phun ra, thể tích thất trái chưa thay đổi. Trong hình vẽ, thời gian tiền tống máu là hiệu số của quãng QT2 trừ đi quãng CI' (QT2 - CI').
Thời gian tiền tống máu phản ảnh sự co bớp của thất trái.
Thời gian tống máu : Là giai đoạn thứ hai của thời kỳ tâm thu, bắt đầu từ lúc máu phun ra khỏi thất trái cho đến khi hết phun. Trong hình vẽ, trên động mạch cảnh đồ và trên đường biểu diễn của động mạch quay, đó là quãng CI'.
Thời gian tống máu tỉ lệ nghịch với tần số tim và tỉ lệ thuận với thể tích máu được tống ra, vì vậy, muốn cho nó có giá trị chẩn đoán, phải sửa theo tần số tim bằng cách đo lấy trị số tuyệt đối quãng CI' và quãng RR liền trước nó (tức là thời gian chu chuyển tim trước rồi tính theo công thức Wood :
Thời gian tống máu đã sửa:

Để có giá trị chẩn đoán ở mức chính xác cao, người ta thường tính thời gian tiền tống máu QT2 - CI' và thời gian tống máu tâm thu CI' ở 5 - 6 nhát bóp tim liên tiếp rồi lấy trung bình cộng và cho băng giấy ghi chạy với tốc độ thật nhanh.

Sóng Đập và Sóng Trào : Trên đường biểu diễn động mạch quay và động mạch cảnh thuộc quãng CI' của thời gian tống máu, thường xuất hiện 2 sóng chính mà đỉnh của sóng này có thể cao hơn đỉnh của sóng kia. Sóng đầu tiên được gọi là sóng đập, sóng thứ hai được gọi là sóng trào. Giữa 2 đỉnh của sóng đập và sóng trào, mạch có thể đi lên hoặc đi xuống hoặc đi hơi ngang theo hình ảnh cao nguyên.
Thời gian đỉnh là thời gian lên hết của nhánh ancarot, tức thời gian sóng mạch từ điểm C ở chân mạch uốn vọt lên, đạt đến đỉnh cao nhất tại sóng đập hoặc sóng trào. Trong hình vẽ, thời gian đỉnh là quãng CĐ ở động mạch cảnh đồ cũng như ở đường biểu diễn động mạch quay.
Có nhiều trường hợp do thời gian lên hết của nhánh ancarot rất khó chính xác, thí dụ như ở những người bình thường có đỉnh cong quá nhiều hoặc ở những người hẹp động mạch chủ có đường cong dạng mào gà hoặc ở trường hợp giữa 2 đỉnh sóng đập và sóng trào, mạch đi ngang theo hình cao nguyên¿ Vì vậy, thường dùng thời gian nửa đỉnh chính xác hơn thời gian đỉnh.
Thời gian nửa đỉnh là thời gian lên nửa chừng của nhánh anacrot, tức thời gian sóng mạch từ điểm C ở chân mạch uốn vọt lên đạt đến nửa chiều cao toàn bộ của động mạch cảnh đồ hoặc của đường biểu diễn động mạch quay. Trong hình vẽ, thời gian nửa đỉnh là quãng CN.
Thương số huyết động là tỉ số % giữa thời gian tống máu và thời gian tiền tống máu
TSHĐ = TGTM
TGTTM
Qua thương số huyết động bị giảm nhiều hoặc ít, có thể đánh giá được mức độ suy tim nhẹ hoặc nặng, chủ yếu về mức độ suy thất trái.
Trường hợp thương số huyết động tăng cao như trong trường hợp cường tuyến giáp, do TGTM tăng cao mà TSHĐ tăng cao, đó cũng là bệnh lý về mặt huyết động.
PHƯƠNG PHÁP GHI MẠCH YHCT QUA MÁY ĐIỆN TÂM THANH CƠ ĐỘNG KÝ CỦA VIỆT NAM.
Tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Lê Nguyên Khánh, đã nghiên cứu áp dụng máy điện tâm thanh cơ động ký để ghi lại một số mạch chính thường gặp của YHCT để phục vụ công tác nghiên cứu hiện đại hoá mạch YHCT. Những công trình này đã được giới thiệu trong quyển sách 'Kết hợp Y học dân tộc với Y học hiện đại trong lâm sàng' (Nxb Y học 1982).
Dụng cụ dùng để khảo sát là máy điện tâm thanh cơ động ký Mingograf của hãng Elema - Schonander (Thuỵ Điển), đặt tại phòng thăm dò huyết động của bệnh viện Bạch Mai.
Đường biểu diễn động mạch quay được ghi đồng thời với động mạch cảnh đồ, điện tâm đồ và tâm thanh đồ.
Đầu dò tâm thanh đồ đặt tại liên sườn III bên trái và ghi các dải tần số theo chương trình của máy, từ thấp, trung bình đến cao, ghi song song với điện tâm đồ ở đạo trình ngoại biên D2.
Đầu dò động mạch quay đặt tại vị trí quy định bắt mạch YHCT tại cổ tay. Đầu dò động mạch cảnh đặt tại vị trí YHHĐ thường đặt, ở cổ, tại bờ sụn giáp.
Hai đầu dò động mạch quay và động mạch cảnh bằng chất áp điện titanat baryum, chuyển các xung động của động mạch cảnh và động mạch quay qua máy. Các xung động đó được kim phun mực Mingograf ghi thành đường cong động mạch trên giấy Minograf với tốc độ thống nhất là 50mm/giây và độ khuyếch đại thống nhất là 1 milivolt cho tất cả 123 bản động mạch đồ. Hình ảnh động mạch quay và động mạch cảnh đều được ghi ở bên trái cơ thể. Các đường cong động mạch và tâm thanh đồ, điện tâm đồ đều được theo dõi trên màn điện sóng và chỉ được ghi lên giấy khi đã có dạng thích hợp.
Xem chi tiết các dạng mạch ở từng loại mạch.
Sau một thời gian nghiên cứu việc ghi lại mạch qua máy, các nhà nghiên cứu đưa ra nhận định như sau:
+ Cách chung, một loại mạch YHCT có thể gặp ở nhiều bệnh khác nhau, ngay cả ở nơi cơ thể bình thường, khoẻ mạnh.
+ Những liên quan về hình ảnh điện tim, tiếng tim ghi, đồng thời với đường cong động mạch cảnh và động mạch quay nói lên sức co bóp mạnh hay yếu, đều hay không đều của tim, nói lên trương lực tăng hoặc giảm của mạch¿ làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi hình thái mạch YHCT, mà những sự thay đổi đó hoặc do bệnh của tim gây ra hoặc do bệnh của toàn thân tác động đến tim mạch gây ra. Ngoài ra, yếu tố thần kinh tâm lý hoặc yếu tố thời tiết ngoại lai cũng có thể làm thay đổi hình thái mạch YHCT.
Dựa vào những khảo sát của biểu đồ mạch có thể nhận thấy rằng không thể chỉ có bắt mạch mà có thể chẩn đoán ra một bệnh nào thật chi tiết cụ thể như nhiều người từ trước đến nay vẫn nhận định. Một loại mạch YHCT không đặc trưng cho một bệnh riêng biệt nào cả. Mạch chỉ là một biểu hiện, phải kết hợp với rất nhiều biểu hiện khác của toàn thân mới có thể cho biết được chứng nào thuộc trạng thái bình thường hoặc bệnh lý.
Sự phân biệt được một cách khách quan cụ thể một số loại mạch YHCT thường gặp qua các nhận định sau đây trên một dưỡng cong động mạch:
+ Sự thay đổi về thời gian đỉnh và thời gian ½ đỉnh.
+ Sự thay đổi về tỉ lệ giữa chiều cao đỉnh mạch với chiều cao móc dicrot và với chiều cao sóng dicrot.
+ Sự thay đổi về hình thái sóng đập và sóng trào.
+ Sự thay đổi về khoảng cách RR giữa hai nhát bóp tim dài hay ngắn.
+ Sự thay đổi về các khoảng giữa RR nhiều nhát bóp tim liên tiếp đều hay không đều.
Động mạch đồ giúp thấy rõ được từng nét của loại mạch YHCT hơn là bắt mạch, nhất là đối với những người chưa có nhiều kinh nghiệm về bắt mạch. Nếu có được bảng ghi động mạch đồ sau khi bắt mạch vẫn có lợi vì nắm được hình thái mạch qua xúc giác của đầu ngón tay của thầy thuốc vẫn có những khó khăn nhất định trong những loại mạch cùng chung một gốc. Hơn nữa, việc nhận định hình thái mạch YHCT qua bắt mạch khó lòng khách quan được bằng việc nhận định qua động mạch đồ, vì trong lúc bắt mạch, không thể nào loại trừ được yếu tố chủ quan của thầy thuốc.
Một số mạch được ghi bằng máy của nhóm nghiên cứu Việt Nam (xem thêm mô tả chi tiết ở từng mạch):
Mạch Hồng Mạch Hoạt
Mạch Huyền Mạch Phù

MẠCH Y HỌC CỔ TRUYỀN
Dù trong các sách kinh điển nêu lên 27 - 28 mạch, nhưng kinh nghiệm thực tiễn khám bệnh lâm sàng đa số các thầy thuốc cho biết rằng trong tổng số 28 loại Mạch người xưa truyền lại, có một số mạch kể ra rất ít gặp. Vì vậy các sách phổ biến về Đông y hiện nay ở Trung quốc như 'Trung y học cơ sở', 'Tân biên Trung y học khái yếu', 'Trung y biện chứng luận trị giảng nghĩa'¿ đã lược bỏ bớt một số mạch ít gặp, chỉ nhắc đến khoảng 15 - 18 loại mạch thường gặp.
Tuy nhiên, để phục vụ công tác nghiên cứu, chúng tôi sẽ giới thiệu đầy đủ các mạch (28 mạch) với những chi tiết tương đối kỹ và sâu về từng loại mạch.
Những mạch nào có thể có được các hình vẽ, hình ghi bằng máy, chúng tôi cũng sẽ gới thiệu cụ thể để có cái nhìn hiện đại hơn về mạch lý của Đông y.

MẠCH CÁCH
( 革 脈 - Leather Poulse - Pouls Separe Void - Tight Pulse )
A- Đại cương
- Chương 'Bình mạch pháp'(Thương hàn luận) và chương 'Huyết tý hư lao bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Huyền mà Đại. Huyền tức là giảm, Đại tức là Khâu. Giảm tức là hàn, Khâu là hư. Hư hàn tương bác gọi là mạch Cách".
- Sách 'Tam nhân phương' ghi: "Cách là đầy, là cấp".
- "Cách là da thuộc, ý nói tượng mạch cố kết không di động".
B- Hình tượng mạch Cách
- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch Cách đến cuồn cuộn như suối chảy".
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Cách giống như Trầm, Phục, Thực, Đại mà Trường, hơi Huyền".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Từ Xuân Phủ nói rằng Cách là da thuộc, là Phù, Huyền, Đại, Hư, như ấn tay lên da trống".
- Chương 'Chính mạch toàn thư' (Cổ kim y thống) ghi : "Mạch Cách là da thuộc, là Phù, Huyền, Đại, Hư, như ấn tay lên da trống, trong hư, ngoài cấp".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Cách... lớn mà Huyền, Cấp, đặt nhẹ tay thấy ngay, ấn xuống thì không thấy, như ấn tay vào da trống, ngoài căng trong rỗng".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Cách đi nổi mà dán vào tay, trong rỗng ngoài cứng, như đè lên mặt trống".
- Sách 'The web that has no weaver' ghi: "Mạch Cách là sự kết hợp giữa mạch Huyền và Phù, có hình dạng như mạch rỗng, giống như da trống".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH CÁCH
Sách 'Mạch chẩn' ghi lại Hình vẽ biểu thị mạch Cách:
C- Nguyên Nhân Phát Sinh Mạch Cách
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' giải thích: "Mạch Cách... do khí hư không kiên cố, tinh huyết không tàng được, làm cho khí không có chỗ dựa mà phù việt ra ngoài".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : "Mạch Cách là sự tương hợp giữa mạch Huyền và Khổng, do tinh huyết bên trong bị hư, khí không giữ được mà phù việt ra ngoài ".

D- Mạch Cách chủ bệnh

- Chương 'Huyết tý hư lao' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch cách... đàn bà thì xảy thai, đàn ông thì mất tinh, mất huyết, đàn bà thì đẻ non, rong huyết, băng huyết".
THỐN QUANXÍCH
Chẩn gia chính nhãn. Tâm huyết hư thống (Trái).
. Kim suy, khí ủng (Phải).
. Sán hà (Trái).
. Bên trên hư, đau.
Tinh loãng (Trái).
. Sinh non, lậu hạ (Phải)
Mạch quyết hối biện. Tâm huyết hư thống (Trái).
. Kim suy, khí ủng (Phải).
. Sán hà (Trái).
. Bên trên hư, đau.
Tinh loãng (Trái).
. Sinh non, lậu hạ (Phải)
Mạch quyết khải ngôn chú thích. Tâm huyết hư thống (Trái).
. Kim suy, khí ủng (Phải).
. Sán hà (Trái).
. Thổ hư, mộc đông (Phải).
Tinh loãng (Trái).
. Sinh non, lậu hạ (Phải)
Mạch học xiển vi. Ngực bứt rứt, hơi thở ngắn, hồi hộp, đau thắt ngực, tâm phiền (Trái).
. Ho, khó thở, khí ngắn không đủ, đờm nhiều (Phải).
Hông sườn bên phải trướng đau, tâm phiền, không muốn ăn uống (Trái).
. Bụng trướng đầy, ăn ít, tiêu hoá trì trệ, dạ dày đau (Phải).
. Lưng đau, di tinh, tảo tinh, tiết tinh, mất ngủ, tiểu nhiều, hay quên (Trái).
. Bụng trướng, mệt mỏi, băng lậu, sinh non, lưng đau (Phải).
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Cách... mất máu, mất tinh, đẻ non, băng huyết, rong huyết".
-Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch cách chủ biểu hàn, trung hư, xẩy thai, lậu hạ, đàn ông thì mất tinh, huyết".
Tả Thốn CÁCH
Tâm hư, đau.
Hữu Thốn CÁCH
Phế hư, khí ủng trệ.
Tả Quan CÁCH
Sán Hà.
Hữu Quan CÁCH
Tỳ hư, dạ dầy đau.
Tả Xích CÁCH
Di tinh.
Hữu Xích CÁCH
Xẩy thai, lậu hạ.
E - Mạch Cách kiêm mạch bệnh
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi :
Cách mà phù cứng là biểu tà cực thịnh.
Cách mà Hoãn, không có thần là âm khí tiêu tan, khó chữa.
F- Mạch Cách và các lời bàn
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: "Mạch Cách hình tượng như da thuộc, là biểu tà có thừa mà trong thì không đủ, giống như da trống, ngoài thì căng chặt, trong thì rỗng hư ấn nhẹ tay thấy Huyền Đại, trong thì khí huyết suy yếu, vì vậy tượng mạch rỗng như vậy".
- Chương 'Biện mạch hình cập biến hóa sở chủ bệnh chứng pháp' ( Toàn sinh chỉ mê) ghi: "Tượng mạch Cách đến cuồn cuộn như suối chảy là nói mạch đi mà không trở lại, là âm khí cách dương cũng là mạch Dật, vì vậy mạch khí đi từ bộ Xích ra, lên đến Ngư tế, cũng gọi là ly kinh, là không có căn bản vậy".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Các sách viết về mạch đều cho mạch Cách là mạch Lao, vì vậy, hễ ghi là mạch Lao thì không ghi mạch Cách hoặc có mạch Lao thì không ghi mạch Cách, lẫn lộn không phân biệt. Đó là vì chẳng biết rằng mạch Cách thì Phù, mạch Lao thì Trầm, mạch Cách thì Hư, mạch Lao thì Thực, hình chứng đều khác nhau vậy".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Xét các lời trích dẫn về mạch Cách trong sách 'Kim qũy yếu lược' và sách 'Tam nhân phương' thì biết là khác phần biểu Thực, là Lý Hư ắt thấy mạch Cách".
- Sách 'Hoàng hán y học' ghi: "Xét rằng Đức Trọng Cảnh đã nói: "Mạch Huyền mà Đại. Huyền có nghĩa là sút kém, Đại có nghĩa là rỗng giữa, sút kém thì là hàn, rỗng giữa là hư. Hư với hàn xung đột nhau, gọi là mạch Cách. Đàn bà có chứng tiểu sản, rong huyết, đàn ông thì mất tinh, mất máu. Xem thế thì những điều lầm của ông Lý Thời Trân và các y gia rõ lắm, không còn nghi ngờ gì nữa".
Bài ca mạch CÁCH (Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa)
Mạch tượng: Cách như da trống thẳng căng,
Chủ bệnh : Khâu Huyền hợp tượng, mạch rằng hàn hư.
Nữ băng lậu đẻ non ư?,
Nam thì di mộng dinh hư chẳng lầm.
Tương loại: Cách kiêm khẩn hồng phù lên,
Cách hư lao thực phải nên rõ ràng.
Cách là khâu lại đới huyền,
Khâu chủ thất huyết, Cách bèn huyết hư.
Bài ca mạch CÁCH (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Cách ta cũng phải hay,
Mạch đi phù đại và nay cấp huyền.
Như da mặt trống sờ lâu,
Nhẹ thì thấy mạch, ấn liền mất ngay.
Chủ bệnh: Mạch Cách chủ bệnh sẽ bàn,
Hoặc chủ biểu hàn hoặc thuộc trung hư.
Tả thốn đau tâm huyết suy,
Hữu thốn khí ủng Phế suy đó mà.
Tả quan Cách chủ bán, là,
Hữu quan đau bụng thực là Tỳ hư.
Tả xích tinh kiệt không ngờ,
Hữu xích mạch Cách đến giờ tử vong.
Nữ nhân mạch Cách bảo cùng,
Đẻ non, rong huyết, quyết không còn ngờ.

MẠCH ĐẠI
( 大 脈 - Huge (Big) Pulse - Pouls Grand )
A- Đại cương
- Đại là to lớn.
- Trong sách 'Nội kinh Tố Vấn' có đến 7 thiên nhắc đến mạch Đại nhưng trong sách Mạch kinh lại ít ghi về mạch Đại.

B- Hình tượng mạch Đại

- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi : "Mạch Đại tràn đầy, ứng dưới ngón tay lớn bình thường".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi :"Mạch Đại, rộng và to khác thường, chỉ không cuồn cuộn như mạch Hồng mà thôi".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi : "Mạch Đại... để tay thấy như tràn đầy nhưng ấn tay lại thấy mạch đi không có sức".
- Sách 'Định Ninh tôi học mạch' ghi : "Mạch Đại... sức mạnh đi phù án thì như nước nổi lên tràn đầy dưới ngón tay mà trầm án thì lại lan rộng ra mà mềm yếu đi, tức là phù án thì hữu lực còn trầm án thì vô lực".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH ĐẠI
- Sách 'Mạch chẩn' biểu diễn hình vẽ mạch Đại:
( So sánh với mạch Vi)
C- Mạch Đại chủ bệnh
- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch Đại là bệnh nặng thêm. Tượng mạch thô, Đại là âm không đủ, dương có dư, sẽ gây nên chứng nóng (nhiệt) ở trung tiêu".
- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi: "Tiêu chảy mà mạch Đại... khó chữa".
- Thiên 'Bệnh năng luận' (Tố vấn 46) ghi: "Phế khí thịnh thì mạch Đại, mạch Đại thì không thể nằm ngửa".
- Thiên 'Đại kỳ luận' (Tố vấn 48) ghi: "Mạch Tâm đầy, Đại sẽ phát ra chứng giản khiết, gân co quắp".
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Các mạch Đại, Phù, Sác, Động, Hoạt, gọi là các mạch Dương, bệnh âm thấy mạch dương thì sống".
- Chương 'Trì tật đoản trường tạp mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Đại là huyết và khí đều thịnh. Mạch thấy Đại mà cứng là huyết khí đều thực".
- Chương 'Biện tam bộ cửu hậu mạch chứng' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở bộ quan Phù mà Đại là phong ở Vị, gây ra há miệng, so vai mà thở, vị quản khó chịu, ăn vào thì muốn nôn".
- Chương 'Châm đạo ngoại sưu tửng xã' (Giáp ất) ghi: "Mạch mà Đại là đau tê".
- Chương 'Tục yểu hình chẩn bệnh hậu lai thống bất lai thống đại luận' ( Giáp ất) ghi: "Hình thể sung mãn mà thấy mạch Đại cứng là thuận".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Mạch Đại chủ tà khí thịnh, chính khí suy. Bệnh thấy mạch Đại là bệnh sắp phát nặng. Bệnh mới bị mà thấy Đại là thuộc thực, bệnh lâu ngày thấy mạch Đại thuộc Hư".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đại chủ tà nhiệt cảm nặng, thấp nhiệt, tích khí, ho suyễn, trường tiết, khí đưa nghịch lên làm mặt bị phù, hư lao nội thương".
Tả Thốn ĐẠI
Tâm phiền, phong nhiệt, kinh sợ.
Hữu Thốn ĐẠI
Khí nghịch, mặt phù, ho suyễn.
Tả Quan ĐẠI
Sán khí, phong huyễn.
Hữu Quan ĐẠI
Tích khí, vị thực, bụng đầy.
Tả Xích ĐẠI
Thận tý.
Hữu Xích ĐẠI
Tiểu đỏ, táo bón.
B- Mạch Đại kiêm mạch bệnh
- Thiên 'Ngũ tạng sinh thành luận' (Tố vấn 10) ghi: "Mạch Tỳ hiện đến thì mạch Đại mà hư là trong bụng có tích khí, nếu có quyết khí thì gọi là quyết sán. Nam nữ cùng một chứng trạng như nhau, do chân tay đang ra mồ hôi mà gặp gió. Mạch thận hiện đến thì trên cứng mà Đại, đó là có tích khí ở vùng giữa bụng dưới với tiền âm, gọi là chứng thận tý, bị chứng này là do tắm gội nước lạnh xong mà đi nằm ngay".
- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 18) ghi: "Mạch Thái dương đến thì Hồng, Đại mà Trường... Mạch Dương minh đến thì Phù, Đại mà Đoản".
- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi; "Mạch chân tạng của Phế hiện ra thì Đại mà Hư, như cầm lông chim phết vào da, sắc mặt trắng đỏ, không bóng, lông tóc rụng thì chết".
- Thiên 'Tam bộ cửu hậu luận' (Tố vấn 20) ghi: "Thân hình gầy, mạch Đại trong ngực hơi nghẹn thì chết mà ra lẫn mủ và máu là thế nào? Kỳ Bá đáp: "Mạch Tuyệt thì chết, mạch Hoạt Đại thì sống". Còn chứng trường tiết mà cơ thể không nóng, mạch không tuyệt thì sao? Kỳ Bá đáp: "Nếu mạch Hoạt Đại thì sống, mạch Sáp thì chết. Nên theo từng tạng để biết ngày chết". Bệnh biến thì như thế nào? Kỳ Bá đáp: "Tượng mạch thấy Đại mà Hoạt thì lâu ngày cũng khỏi". Chứng tiêu thì hư thực thế nào? Kỳ Bá đáp: "Tượng mạch thực mà Đại thì bệnh dù đã lâu ngày cũng chữa được".
- Thiên 'Đại kỳ luận' (Tố vấn 48) ghi; "Mạch của Thận Đại mà Cấp, Trầm, mạch của Can Đại, Cấp mà Trầm đều là chứng sán".
- Thiên 'Điều kinh luận' (Tố vấn 62) ghi: "Âm thịnh sinh nội hàn là thế nào? Kỳ Bá đáp: "Quyết khí nghịch lên, hàn khí tích ở trong ngực mà không tả ra được thì ôn khí sẽ tiêu đi mà chỉ còn có hàn khí, huyết do đó mà ngưng đọng lại. Ngưng đọng lại thì mạch không thông, làm cho tượng mạch thịnh, Đại mà Sác, cho nên lạnh ở trong".
- Nan thứ 7 (Nan kinh) ghi: "Kinh văn có ghi: 'Mạch của Thiếu dương đến thì Phù, Đại, khi Tiểu khi Đoản, khi Trường. Mạch của Dương minh đến thì Phù, Đại mà Đoản. Mạch Thái dương đến thì Hồng, Đại mà Trường. Mạch Thái âm đến thì Khẩn, Đại mà Trường".
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch Huyền mà Đại. Huyền tức là giảm, Đại tức là Hồng. Giảm là hàn, Hồng là hư. Hàn và Hư tương bác gọi là Cách. Đàn bà gặp mạch này thì lậu hạ, xảy thai, đàn ông thì vong huyết, thất (mất) tinh. Mạch ở thốn khẩu Phù, Đại... Phù là vô huyết, Đại là hàn, hàn khí tương bác gây ra bụng sôi".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Phù mà Đại. Phù là hư, Đại là thực, (mạch này) thấy ở bộ thốn là chứng "Cách", thấy ở bộ xích là chứng 'Quan'. Quan thì không tiểu được, Cách thì ói ngược".
- Chương 'Thương hàn lệ' (Thương hàn luận) ghi: "Phàm bệnh huyết mà thấy mạch động Sác, sau khi uống thuốc mạch lại Trì, mạch Phù, Đại giảm thành Tiểu, trước đang động sau lại yên tĩnh thì đó là triệu chứng sắp khỏi. Nói xàm, cơ thể nóng mạch Phù, Đại, chân tay ấm thì sống. Nếu lạnh nghịch thì thấy mạch Trầm, Tế, không quá 1 ngày thì chết".
- Chương 'Trì tật đoản trường tạp mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Hồng, Đại, khẩn cấp là bệnh đang tiến nhanh ở bên ngoài, đầu đau, phát sốt, nhọt sưng. Mạch bộ thốn Đại mà bộ xích lại Tiểu là đầu đau, mắt hoa. Mạch ở bộ thốn Tiểu mà ở bộ xích lại Đại là ngực đầy, hụt hơi".
- Chương 'Bình tam quan bệnh hậu tịnh trị nghi' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Hồng Đại thì ngực sườn đầy tức".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Đại, Phù, Hồng, Trường là chứng phong huyễn, điên tật".
- Chương 'Biển Thước âm dương mạch pháp' (Mạch kinh) ghi: "Mạch của Thái dương thì Hồng, Đại mà Trường. Mạch của Thiếu dương thì khi Đoản khi Trường, khi Đại khi Tiểu, mạch của Dương minh thì Hồng, Đại mà Phù".
- Chương 'Kinh mạch - Phần thượng' (Giáp ất) ghi: "Mạch khí ở nhân nghinh Đại, Khẩn mà Phù là bệnh nặng thêm, ở bên ngoài... bệnh ở tạng, thấy mạch Trầm, Đại thì dễ chữa. Nếu bộ thốn thấy mạch Tiểu là nghịch. Bệnh ở phủ, thấy mạch Phù mà Đại thì dễ khỏi... thấy mạch Hoạt, Đại mà lại Đại, Trường là bệnh từ bên ngoài xâm nhập vào".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch Đại mà Phù là hư hoặc biểu bị nhiệt.
Mạch Đại mà Trầm là phần lý bị nhiệt, bệnh ở Thận.
Mạch Đại mà Huyền là nóng lạnh.
Mạch Đại mà Nhu là hư nhiệt.
Mạch Đại mà Hoãn là thấp nhiệt.
Mạch Đại mà Hồng là Vị bị thực.
Mạch Đại mà Thực là có tích khí.
E - Mạch Đại và trị liệu
- Chương 'Biện thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Sau khi uống bài 'Quế chi thang' ( Quế chi, Bạch thược, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo), mồ hôi ra nhiều rồi mà phiền khát vẫn không giảm, mạch Hồng, Đại thì cho uống bài 'Bạch hổ thang' (Thạch cao, Tri mẫu, Ngạnh mễ) thêm Nhân sâm. - Chứng kết hung, thấy mạch Phù, Đại thì không thể dùng phép hạ để chữa được".
- Chương 'Phế nuy, Phế ung bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Ho mà hơi đưa ngược lên đó là chứng phế trướng, mắt như lồi ra, mạch Phù Đại, cho uống bài 'Việt tỳ gia bán hạ thang' ( Ma hoàng, Thạch cao, Cam thảo, Sinh khương, Táo, Bán hạ)".
- Chương 'Phúc mãn hàn sán bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Phù mà Đại, ấn tay xuống lại thấy Sáp, ở bộ xích thì Vi mà Sáp, biết là chứng ăn không tiêu, cho uống bài 'Đại thừa khí thang' ( Đại hoàng, Chỉ thực, Hậu phác, Mang tiêu)".
G - Mạch Đại qua các lời bàn
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi: "... Phàm mạch Đại mà Sác thịnh có lực đều là thực nhiệt. Như mạch ở nhân nghinh, khí khẩu thấy Đại, Khẩn mà Phù là bệnh nặng thêm, ở bên ngoài. Mạch ở khí khẩu hơi Đại là người bình thường. Mạch Đại cứng mà Sáp là bệnh trướng. Mạch Đại thấy ở phụ nữ cho con bú là sẽ bị trúng phong nhiệt. Người bệnh suyễn, so vai mà thở, nếu thấy mạch Thực, Đại mà Hoãn thì sống, thấy mạch Cấp thì chết. Sau khi sinh, mạch nên thấy Tiểu, rất kỵ Thực, Đại, Trường hợp thấy suyễn so vai mà thở là tà khí bạo ngược thì lại cần thấy mạch Thực Đại mà Hoãn thì mới hợp với chứng bệnh... Nếu Thực, Đại cấp là tà thắng, chính suy. Thương hàn nhiệt bệnh mà thấy nói xàm, phiền khát, mạch Thực Đại, tuy bệnh nặng vẫn dễ chữa. Sau khi đã ra mồ hôi mà nóng không bớt, mạch lại táo, Tật, Thực, Đại thì chết. Ôn bệnh mà sốt cao, không ra mồ hôi được, mạch lại Sác, Cấp, Đại là chết. Nếu thấy Tế, Tiểu, Hư, Sáp cũng chết. Quyết âm bệnh mà kiết lỵ, mạch Đại là hư. Thấy âm chứng mà lại sốt cao, mạch Hư, Đại, vô lực đó là biến chứng. Nguyên khí không đủ mà phát nóng, mạch Đại mà Hư là thường. Chứng hư lao mà mạch Đại là huyết hư khí thịnh. Sách 'Kim qũy' có ghi: "Đàn ông bình thường mà thấy có mạch Đại là hư lao", khí có thừa tức là hỏa vậy. Vì vậy người bệnh trong ngực hơi bị mạch Đại hoặc là bệnh lâu ngày, khí suy, mạch Đại đều là triệu chứng của âm dương ly tuyệt"... Mạch Đại tràn đầy, ứng dưới ngón tay lớn hơn bình thường, không giống như mạch Trường chỉ dài mà không lớn, mạch Hồng thì lại vừa lớn mà vừa Sác".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' chú giải lời ghi của sách ' Chẩn tông tam muội' về mạch Đại như sau: "Mạch Đại là nói hình thể mạch nhỏ, lớn, lớn hơn mạch Tiểu. Nếu nói là 'Tràn đầy ứng dưới ngón tay' thì chưa chắc đã đúng ".
- Sách 'Định Ninh tôi học mạch' ghi: "Mạch Đại chủ bệnh đang phát nặng - vì khí huyết suy không đủ sức chế ngự tà khí, tà khí mạnh hơn khí huyết thì bệnh phát nặng".

H- Các Y Án Mạch Đại
Y án Mạch Bên Trái ĐẠI
( Trích trong 'Nội khoa học' của Viện Trung y Thượng Hải)
"Vương XX. Sau khi bị thổ huyết, âm phận chưa phục hồi đã vội làm việc mệt nhọc, dương khí bốc lên làm hoa mắt, chóng mặt, tay chân tê dại, hồi hộp không yên, đang ngủ có cơn nóng đột ngột, mồ hôi tự ra, mạch ở bên trái Đại".
Điều trị: Dưỡng huyết, khu phong, dục âm, tiềm dương.
Cho dùng: Sinh địa 16g, A giao (châu) 12g, Nữ trinh tử 12g, Miết Giáp 20g, Câu đằng 12g, Bạch thược (sống) 8g, Mẫu lệ 201g, Cúc hoa 6g, Đơn bì 6g, Hà thủ ô ( chế) 12g.
Khám lần 2: Hơi đỡ chóng mặt hoa mắt, ngủ vẫn giật mình, phát sốt, ra mồ hôi, hồi hộp, ngủ kém. Đây là dấu hiệu mất huyết, phần âm bị tổn thương, mệt nhọc làm cho dương khí bị động, dương khí chưa thu về.
Cách chữa: Liễm âm, tiềm dương.
Cho dùng: Quy bản 20g, Sinh địa 16g, Nữ trinh tử 12g, Miết giáp (sống) 20g, Tiểu mạch 20g, Mẫu lệ 20g, Bạch thược (sống) 12g, Vỏ đậu đen 12g, Toan Táo nhân ( sao ) 8g, Thanh cao 12g.
Khám lần 3: Hết hoa mắt chóng mặt, ngủ yên, mồ hôi ngừng ra, ăn khá hơn, dương khí hồi phục dần, mọi tình trạng phức tạp gỡ được gần hết. Tiếp tục điều trị theo hướng cũ, bệnh khỏi".
Y án Mạch ĐẠI, Huyền, Sác
(Trích trong 'Lâm chứng y án bút ký')
"Kinh Kha Tra Tiểu Sơn có người con gái lớn bị bế kinh đã lâu, gần đây phát sinh ra chứng nóng âm ỉ trong xương (cốt chưng), ăn ít, đã dùng nhiều thuốc nhưng không bớt. Tôi nói rằng: "Mạch, Đại, Huyền, Sác là do âm hư, huyết khô ráo, hỏa ở bào lạc thịnh lên vì uống nhiều thuốc dương và ôn bổ quá làm cho hỏa bùng lên, thủy bị kiệt, chân âm bị đốt cháy vì vậy huyết bị khô mà gây ra bế kinh". Dùng bài 'Thanh cốt tán' (Sài hồ, Sinh địa, Nhân sâm, Phòng phong, Thục địa, Tần cửu, Xích Phục linh, Hoàng liên, Bạc hà (lá ), trước hết là thanh cơ, làm cho xương hết lao nhiệt, sau đó mới dùng phép hoạt huyết điều kinh. Uống liên tục 10 thang thấy có kết quả liền cho dùng bài 'Bát vị tiêu dao tán' ( Đương quy, Xuyên khung, Thược dược, Thục địa, Sinh địa, Đan sâm, Huyền hồ, Đơn bì, Hương phụ, Trần bì, Bạch truật, Sa nhân, Hồng lam hoa ) và bài 'Trạch lan thang' (Trạch lan, Đương quy, Thược dược, Chích thảo). Mỗi ngày theo chứng mà đổi phương.
Điều trị 2 tháng, các chứng đều bớt, chỉ còn chứng kinh nguyệt không thông. Dùng bài sau: Bá tử nhân, Ngưu tất, Quyển bá, Trạch lan diệp, Tục đoạn, Thục địa, Quy vĩ, Xích thược, A giao, Đan sâm, Diên hồ sách, Lưu ký nô, Hồng hoa. Tất cả tán thành bột. Dùng cao Ích mẫu luyện mật làm viên, to bằng hạt Ngô đồng. Uống mỗi lần 3 - 5 viên với nước nóng, lúc bụng đói. Ngày 2 lần. Uống 3 tháng, không những huyết hoạt kinh hành mà cơ thể, khí lực, ăn uống lại như thường".
Y án Mạch ĐẠI, Sác
(Trích trong 'Thiên gia diệu phương)
"Mã X... công nhân. Ho khạc ra máu gần 4 ngày. Trước khi vào viện, trong 12 giờ đã ói ra máu 3 lần, khoảng 1 lít. Kèm sốt, đau váng đầu, ngực tức, mệt mỏi, không có sức. Khám thấy tình trạng người bệnh trầm trọng, gầy yếu, hố mắt trũng sâu kết mạc sung huyết, tiếng phổi bên phải trầm thô rít, tiếng gõ đục, tim đập yếu. Chụp X. quang xác định phổi bị thâm nhiễm cả 2 phần trên. Xét nghiệm máu: Huyết sắc tố: 80%, Hồng cầu: 3.900.000/mm 3. Chẩn đoán lâm sàng: lao phổi cả 2 bên có ho ra máu ồ ạt. Sau khi vào viện đã dùng thuốc cầm máu, trấn tĩnh, chống lao và truyền máu. Tuy đã dùng nhiều biện pháp nhưng vẫn ho ra máu, lại mất thêm 1.000ml nữa. Họng khô, miệng khát, gò má đỏ, tròng mắt đỏ, tiểu khó, táo bón. Mạch Đại mà Sác. Xác định là chứng thổ huyết do nhiệt. Không những huyết nhiệt hỏa thịnh mà còn làm tổn thương tân dịch. Vì vậy, ngừng dùng tất cả các thuốc tây y, chỉ còn dùng sinh tố K, chỉ cho uống bài 'Chỉ huyết ẩm' ( Sinh địa (tươi), Hoàng cầm, Sơn chi (sao đen), Đại kế, Tiểu kế, Hạn liên thảo, Thục quân, Giả thạch (sống), Long cốt (sống), Mẫu lệ (sống), Tiên hạc thảo, Bồ hoàng (sao), Thiến thảo (than), A giao, Tam thất (phấn), thêm Thạch cao (sống) 60g, Nguyên sâm 12g, Mạch môn 12g). Sắc uống nguội. Sau khi uống thuốc, bớt ho ra máu. Sau 12 giờ chỉ ra mất 400ml, Lúc đó, tuy thấy hỏa đã bị khống (ức) chế nhưng mạch lại chuyển sang Hư mà Sác, thở ngắn mà yếu. Sợ rằng khí theo huyết mà thoát ra ngoài. Mặt khác vì mạch có vẻ Sác, khi hỏa còn chưa tắt, nếu như hoàn toàn đổi dùng thuốc loại ôn, ích khí, cố thoát thì lại sợ rằng sau khi thoát khí, hỏa sẽ trở lại. Vì vậy, đầu tiên cho dùng bài 'Độc sâm thang' để bổ khí cố thoát sau đó lại dùng 1 thang 'Chỉ huyết ẩm', thang này có thêm Nhân sâm, trong đó Sinh địa, Hoàng cầm, Đại kế, Tiểu kế ( đều sao thành than). Đồng thời có phối hợp chích tĩnh mạch 50mg Cortison, truyền 250ml máu. Vài giờ sau, tuy có ra máu lần nữa nhưng chỉ mất chưa đến 120ml máu. Sau đó không còn ra máu ồ ạt nữa. Như vậy, trong vòng 24 giờ đã khống chế được chứng ho ra máu ồ ạt. Hôm sau, tình trạng người bệnh khá dần lên..."
MẠCH ĐỢI ( ĐẠI )
( 代 脈 - Intermittent Pulse - Pouls Changeant)
A - Đại cương
- Chương 'Biện Thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Thương hàn luận) ghi: "Mạch khí đến động, ngừng rồi lại tiếp, gọi là Đợi, thuộc âm".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Đại có nghĩa là thay đổi, mạch bình thường mà bất thình lình thấy Nhuyễn, Nhược hoặc lúc sác lúc sơ, đều gọi là mạch Đại ( Đợi )".

B - Hình tượng mạch Đợi

- Chương 'Hình trạng chỉ hạ bí quyết'(Mạch kinh) ghi: "Mạch Đợi đến Sác, ngừng rồi lại tiếp".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch đi thay đổi, cứ mấy lần đến thì ngưng lại 1 lần, không trở lại được, lâu lâu lại thấy động".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch đến động rồi lại ngưng, rồi không tiếp tục ngay, lâu lâu mới lại động, ngừng có số nhất định".
HÌNH VẼ BIỂU THỊ MẠCH ĐỢI
Sách 'Mạch chẩn' biểu thị hình vẽ mạch Đợi:
C - Nguyên nhân phát sinh mạch Đợi
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' giải thích: "Mạch Đợi là do một tạng không còn khí, vì thế tạng khác phải thay... Hoặc do khí huyết bị tổn thương làm cho nguyên khí bị đứt đoạn".
- Sách 'Tân biên Trung y học khái yếu' ghi: "Ở người bệnh có mạch Đợi, khi ghi điện tâm đồ thấy có hình ảnh bloc nhĩ thấp cấp 2 hoặc hình ảnh nhịp đôi, nhịp ba. Ngộ độc Digitalin có thể phát sinh ra mạch Đợi'.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' viết: "Sách Nội kinh dạy rằng mạch Đợi là tạng khí suy vi hoặc là dấu hiệu của Tỳ khí thoát tuyệt. Nhưng những chứng phong, chứng đau, thất tình, kinh sợ hoặc bị vấp ngã tổn thương mà thấy mạch Đợi vì bệnh mà mạch khí không tiếp nối, cho nên mạch thấy thỉnh thoảng lại ngừng lại. Phụ nữ có thai đôi khi cũng thấy mạch Đợi. Các điều này khác với mạch Đợi của tạng khí suy vi hoặc một tạng nào đó bị mất khí, không thể cho là bệnh nguy được'.
D - Mạch Đợi chủ bệnh
- Thiên 'Cấm phục' (Linh khu) ghi: " Mạch Đại (Đợi) thì lúc đau lúc không".
- Chương 'Kinh mạch - Phần thượng' (Giáp ất kinh) ghi: "Đợi thì khi hàn khi nhiệt, trên nhiệt dưới hàn".
- Chương 'Lục kinh thụ bệnh phát thương hàn nhiệt bệnh trung' (Giáp ất) ghi: "Bệnh nhiệt mà thấy mạch Đại (Đợi), một ngày thì chết".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: "Mạch Đợi chủ về tạng khí suy yếu, Tỳ thổ quá hư, nôn mửa, tiêu chảy, trúng hàn không ăn được mà đau bụng".
- Sách 'Trung y khái luận' ghi: "Mạch Đợi chủ tạng khí suy bại. Bệnh thấy mạch Đợi là nguy".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đợi chủ tạng khí suy vi, chứng phong, chứng đau, thất tình sợ hãi, té ngã tổn thương. Mạch Đợi là tạng khí suy yếu hoặc là dấu hiệu của Tỳ khí thoát".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đợi chủ tạng khí suy yếu, Tỳ hư hàn không ăn được, nôn mửa, tiêu chảy, bụng đau".
Tả Thốn ĐỢI
Hồi hộp.
Hữu Thốn ĐỢI
Khí suy.
Tả Quan ĐỢI
Hông sườn đau dữ dội.
Hữu Quan ĐỢI
Tỳ suy, bụng trướng.
Tả Xích ĐỢI
Chân lạnh.
Hữu Xích ĐỢI
Dương tuyệt.
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Đại ( Đợi) chủ khí bị hao tổn".
- Sách 'Định Ninh tôi học mạch' ghi: "Mạch Đại (Đợi) chủ tạng khí suy. Nguyên khí của 1 tạng nào đó đã suy. Nguyên khí của tạng khác phải đến thay vào đó. Tức là 1 tạng đã tuyệt khí, dần dần sẽ đến tại khác bị tuyệt khí. Mạch này là chết".
E - Mạch Đợi (Đại ) kiêm mạch bệnh
- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch Sác mà động, thỉnh thoảng lại Đợi là bệnh ở phần dương, tiêu chảy hoặc đại tiện ra mủ, máu".
- Thiên 'Tam bộ cửu hậu luận' (Tố vấn 20) ghi: "Mạch Đợi mà Câu (Hồng ) là bệnh ở lạc mạch".
- Chương 'Kinh mạch' [Phần Thượng] (Giáp ất) ghi: "Tượng mạch thấy Hoạt, Đại (lớn) mà lại Đại (Đợi), Trường là bệnh từ ngoài xâm nhập vào".
- Sách ' Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch
Đại (Đợi)
Mạch phối
Biểu hiện
HồngBệnh ở lạc mạch.
SácTiêu tiểu ra máu mủ.
Trì HoãnTỳ khí tuyệt.
Trầm TếTiêu chảy, kiết lỵ.
Vi TếTân dịch khô kiệt.
G - Mạch Đợi (Đại) và trị liệu
- Chương 'Biện Thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn mà mạch Kết, Đại (Đợi), hồi hộp, cho uống bài Chích Cam thảo thang ( Chích thảo, Nhân sâm, A giao, Sinh địa, Mạch môn, Ma nhân, Quế chi, Sinh khương).

H - Mạch Đợi qua các lời bàn

- Chương 'Mạch âm dương loại thành' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Mạch Đại ( Đợi) chủ về hình thể gầy ốm, do một tạng vô khí , vì vậy tạng khác thay đi, là triệu chứng nguy vậy. Nếu do bệnh mà khí bị tổn thương làm cho nguyên khí bị đứt đoạn, hoặc do phong, do đau mà thấy mạch Đại, thì chỉ là mạch bệnh. Vì vậy, bệnh thương hàn thấy hồi hộp mà mạch Đại (Đợi), vùng tim đau, cũng thấy cả mạch Kết, Sáp mà Đại không đều. Đàn bà có thai thấy mạch Đại (Đợi) là thai đã được hơn 2 tháng".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: " Mạch đập 2 lần rồi ngưng, rồi lại tiếp: 3 - 4 ngày sau sẽ chết. Mạch đập 4 lần, ngưng rồi tiếp: 6 - 7 ngày thì sẽ chết".
- Sách ' Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Xem mạch chẩn bệnh thì 5 chí ( lần đập) làm chuẩn, nếu trong khoảng thời gian đó không ngưng nghỉ, gián đoạn, là mạch của người bình thường, không bệnh. Nếu đang đập mà bất thình lình ngưng 1 lát lại đập tiếp thì biết là tạng khí đã suy, khí và huyết không liên hệ được với nhau, đó là mạch Đại (Đợi). 'Nếu không bệnh mà gầy ốm, mạch Đợi thì rất nguy hiểm".
Bài ca MẠCH ĐỢI (Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Mạch Đợi đang đi bỗng ngừng,
Lâu lâu lại thấy mạch bùng nổi lên.
Người ấm may chữa được yên,
Người thường mạch ấy tất nhiên chẳng lành.
Tương loại: Xúc đi mau có lúc ngừng,
Đi chậm mà dừng mạch Kết chẳng sai.
Đợi thì ngừng, chẳng lại ngay,
Kết sinh, Đợi tử hai loài khác nhau.
Chủ bệnh: Mạch Đợi do tạng khí suy,
Hạ nguyên suy thì kiết ly bụng đau,
Tỳ hư thổ tả đáng lo,
Gái chửa ba tháng chối sao được mà...
Bài ca MẠCH ĐỢI (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Đợi là có ý đổi thay,
Đang đi ngừng lại không hay trở về.
Số ngừng giữ đúng như y,
Ngừng lâu rồi mạch lại đi theo lề.
Chủ bệnh: Đợi thì chủ tạng khí suy,
Bệnh mà mạch Đợi thì nguy lắm rồi.
Thổ tả Tỳ bại hoại rồi,
Không ăn, đau bụng ai người cứu cho.
Mạch đi hai động một ngừng,
Ba bốn ngày chết đã từng nghiệm thay.
Mạch bốn động một ngừng đây,
Chỉ 6, 7 ngày là chết chẳng sai.
Suy ra theo thứ tự này,
Với trong kinh chỉ thực nay không lầm.
Y án Mạch ĐỢI
(Trích trong 'Chẩn gia chính nhãn')
"Hoàng Quế Nham, tim thường bị đau, ăn ít, mạch đập 2 lần thì ngưng, lát sau mới đập tiếp. Có thầy thuốc họ Trị nói: " Khí của ngũ tạng không đến (tức là mạch Đợi) sẽ chết trong sớm tối". Tôi nói: "Người xưa nói rằng đau dữ dội thì thường thấy mạch ĐỢI', và có thêm rằng : "Người trẻ tuổi mà thấy mạch Đợi thì chết, lớn tuổi thấy mạch Đợi thì sống". Người bệnh này, tuổi đã cao mà vùng ngực bụng lại đau, do đó, tuy thấy mạch Đợi nhưng cũng không đáng lo. Quả nhiên sau 2 tuần điều trị thì bệnh khỏi. Đó là, thầy thuốc mà không đọc rộng, hiểu nhiều thì khó mà nắm được lẽ biến hóa của mạch vậy!".
Y án Mạch Đợi
(Trích trong 'Cổ kim y án')
"Ông Lục Phương Bá, gần 70 tuổi, nhân gặp tiết mùa đông trời nóng bức khác thường, cảm nhiễm khí trái mùa, phát ho. Thầy thuốc lúc đầu cho uống 'Khung tô tán' ( Xuyên khung, Tô diệp, Chỉ xác, Cát cánh, Sài hồ, Bán hạ, Trần bì, Phục linh, Can cát, Chích thảo ) làm cho mồ hôi ra không ngừng và ho liên tục không nghỉ. Ăn uống không được, nằm mê man hơn 1 tuần. Người nhà lo sợ, cho mời cụ Lục Tiểu Ngu đến khám bệnh. Cụ xem mạch thấy 6 mạch Phù, Đợi vô lực. Nhân dùng phép đếm mạch nhẩy 50 động, thấy cứ 20 -30 cái nhẩy động thường ngừng nghỉ rồi lại nhẩy lại. Cụ nói rằng: Bệnh này nguyên vì tuổi già sinh mệt nhọc, ắt là có vi tà, nay chỉ nên nâng đỡ lấy chính khí để cho thêm mạnh sức, để lướt qua cơn bệnh, sao lại lầm mà cho thuốc phát hãn (làm cho ra mồ hôi). Dù bệnh mê man, thở gấp, chứng này chữa có thể khỏi được nhưng rồi không ngoài 3 năm nữa người bệnh cũng chết. Lúc đó, cụ cho uống bài 'Bổ khí dưỡng vinh thang' ( Bạch truật, Thục địa, Hắc khương, Chích thảo, Hoàng kỳ, Trần bì, Đương quy, Nhân sâm, Xuyên khung ), thêm Táo nhân để trợ sức, Tỳ bà diệp, Tang bạch bì, Tử tô và Thạch hộc để giáng khí, định suyễn. Uống được 2 thang thì hết mồ hôi. Uống 2 thang thì hết ho. Uống đến 15 thang thì khỏi. Nhưng không đầy 3 năm sau, cụ được tin người bệnh đó đã chết".
MẠCH ĐOẢN
( - Short Pulse - Pouls Court)
A- Đại cương
- Chương 'Cửu đạo mạch' (Mạch kinh) ghi: " Mạch đi dưới tay, thấy không đến bản vị (vị trí của mạch), gọi là mạch Đoản'.
- Chương 'Cửu đạo' (Mạch quyết san ngộ) ghi: "Mạch ở bộ xích, thốn đều thụt lại, gần bộ quan thấy một nửa, như con rùa rụt đầu, rụt đuôi, đó là âm dương không đến bản vị, vì vậy gọi là mạch Đoản".
- Cao Dương Sinh trong sách 'Mạch quyết' nói : "Mạch Đoản thuộc âm mạch, mức độ ngắn, không đến được bản vị, gọi là Đoản".

B- Hình tượng mạch Đoản

- Sách 'Mạch quyết san ngộ' ghi : "Mạch Đoản, giống như con rùa nằm phục, co đầu co đuôi".
- Sách 'Y biên' ghi : Mạch Đoản, ngắn, không đến được vị của 3 bộ".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch ngắn mà Sáp, nhỏ, đầu đuôi như không có, ở giữa nổi lên, không đầy đủ bộ vị".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đoản, đầu đuôi đều ngắn, không cùng bộ vị".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH ĐOẢN
- Sách 'Mạch chẩn'(M.Kinh) biểu diễn hình vẽ mạch Đoản như sau:
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Đoản
- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch Đoản... do khí không được điều hòa, hư thì thuộc Phế, thực thì thuộc về Vị".
- Chương 'Cửu đạo' (Mạch quyết san ngộ) ghi: "Mạch Đoản... do âm dương không đến bản vị".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Vị khí ủng tắc không thông đều được các mạch, hoặc do đàm khí, ăn không tiêu làm trở ngại đường vận hành của khí, vì vậy thấy mạch Đoản. Cũng có khi do dương khí không thông".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đoản là vì khí bị hư không đủ sức để dẫn huyết. Hoặc do huyết trệ, khí uất hoặc đàm trệ khí uất, hoặc đàm trệ thực tích làm cho khí đạo và mạch khí không thông cũng thấy mạch Đoản".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học" ghi : "Mạch Đoản mà có lực, chủ khí thực, do khí bị uất hoặc khí của Tam tiêu bị ứ, hoặc do đờm, thức ăn ngăn trở ở hoành cách mô gây ra mạch Đoản".
D- Mạch Đoản chủ bệnh
- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn) ghi: "Mạch ở thốn khẩu đụng vào ngón tay là Đoản thì đầu đau".
- Chương 'Biện Dương minh mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Mồ hôi ra nhiều mà lại phát hãn, thấy triệu chứng vong dương, nói xàm, mạch Đoản thì chết".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch bộ thốn Đoản là đầu đau, bộ xích Đoản thì bụng đau".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi : "Mạch Đoản... thuộc âm trung phục dương, chủ khí của Tam tiêu bị ứ tắc, ăn uống không tiêu".
- Sách 'Y biên' ghi : "Mạch Đoản chủ khí bị hư".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: " Mạch Đoản thấy ở chứng bất túc, nguyên khí hư suy '.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đoản, nếu hữu lực thì chủ về khí bị uất, nếu vô lực thì chủ về khí bị tổn thương".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đoản chủ hơi thở ngắn, huyết hư, Phế hư, ăn không tiêu, mồ hôi ra nhiều, dương khí bị vong".
Hữu Thốn ĐOẢN
Phế hư, đầu đau.
Tả Thốn ĐOẢN
Tâm thần, bất túc.
Hữu Quan ĐOẢN
Vị quản đầy, tức, không thông.
Tả Quan ĐOẢN
Phế khí, tổn thương.
Hữu Xích ĐOẢN
Chân dương suy yếu.
Tả Xích ĐOẢN
Bụng dưới đau.

E - Mạch Đoản kiêm mạch bệnh

- Chương 'Tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Phù, Đoản là Phế bị tổn thương, các khí đều ít, không quá 1 năm thì chết. Mạch Đoản mà Sác thì tim đau, buồn bực".
- Sách 'Mạch học tập yếu' ghi: "Mạch Xúc, Đoản mà Sác là do độc khí phạm vào Tâm, mạch đạo bị quẫn bách mà ra, là chứng chết".
- Sách 'Mạch quyết san ngộ' ghi : "Phù mà Đoản thì doanh vệ không hành, Trầm mà Đoản là tạng phủ có bỉ khối, ứ trệ".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch Đoản
Phối mạch
Chủ bệnh
SácTim đau, buồn bực.
Hoạt, SácDo uống rượu làm hại thần trí.
PhùHuyết bị sáp tre, Phế bị tổn thương.
TrầmBí kết.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : " Mạch Đoản mà Phù là Phế khí bị hư hoặc huyết bị sáp, Đoản mà Sáp là Tâm khí bị hư hoặc Tâm mạch bị ứ trệ, Đoản mà Trầm là có bỉ khối, Đoản mà Trì là hư hàn".

G- Mạch Đoản qua các lời bàn

- Sách 'Thiên kim phương' ghi: "... Thấy vị quản khó chịu, suyễn thở không ngừng hoặc ra mồ hôi trắng nhiều lần, hoặc lúc nóng, lúc lạnh, mạch Xúc, Đoản mà Sác nôn mửa không cầm thì chết".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Đoản thì chỉ thấy ở 2 bộ xích và thốn. Đoản mà Hoạt là do uống rượu làm hại thần. Đoản mà Phù là huyết bị trệ. Đoản mà Trầm là có bỉ khối. Ở bộ thốn Đoản thì đầu đau, bộ xích Đoản thì bụng đau".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: "Mạch Đoản ứng với thời lệnh là mùa thu, ứng với người ở Phế. Phế ứng với mùa thu, kim, thu liễm khí của trời đất, tượng mạch ứng theo, vì vậy thấy mạch Đoản. Sách 'Nội kinh' có ghi: "Mạch Đoản thì khí bị bệnh" là vì khí thuộc dương mà sung mãn ở Phế, vì vậy, nếu chỉ thấy mạch Đoản thì đó là triệu chứng của khí bị suy yếu. Nếu Đoản mà thấy hòa hoãn là khí vẫn còn thịnh. Nếu Đoản mà Trầm Sác thì khí mới bị suy. Cao Dương Sinh nói: "Mạch Đoản thì chỉ có ở giữa mà không có ở 2 đầu, là bất cập ở bản vị". Xét thấy (câu này) là không đúng vì mạch phải quán thông, nếu trong 1 hơi thở mà mạch khí không liên tục thì sinh cơ phải tuyệt, có lý nào mà dứt đoạn không thông được sao? Nếu trên không thông là dương bị tuyệt đều là mạch mà nếu thấy thì phải chết vậy".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Sách 'Nội kinh' ghi: "Mạch Đoản thì khí bị bệnh" đó là do Vị khí bị ủng tắc không thông đều được các mạch, hoặc do đàm khí hoặc thức ăn không tiêu tích chứa lại làm trở ngại dương khí, vì vậy tượng mạch thấy Đoản, Sác, Kết, Xúc, cũng có khi do dương khí không đủ mà thấy mạch Đoản. Mạch ở thốn khẩu đụng vào ngón tay thấy Đoản thì đầu đau vậy. Trương Trọng Cảnh cũng nói: "Mồ hôi ra nhiều mà lại phát hãn làm cho dương khí bị vong, nói xàm, mạch Đoản thì chết, mạch hòa hoãn thì sống". Đái Đông Phụ nói: "Mạch Đoản chỉ tìm thấy ở 2 bộ xích, thốn... ở bộ quan không có lý thấy mạch Đoản được. Nếu chấp vào 6 bộ mạch thì sẽ mất đi ý nghĩa của mạch Đoản vậy".
- Sách 'Mạch học tập yếu' ghi: "Nếu thấy mạch Đoản Xúc thì đáng sợ lắm".
- Sách 'Y thuật' ghi: "Mạch Đoản cùng một loại với mạch Động nhưng suy yếu hơn. Mạch Động có hình tượng Hoạt mà Sác, mạch Đoản có hình tượng Sắc mà Trì".
- Sách 'Mạch quyết san ngộ' ghi: "Nếu bộ quan mà Đoản, ở trên là thốn, xuống không đến quan, ở dưới là xích, lên không đến quan là mạch của âm dương bị ly tuyệt, sẽ chết mà không chữa được, vì vậy, bộ quan không dùng mạch Đoản để xem bệnh".
- Sách 'Hoàng hán y học' ghi: "Xét sách 'Thiên kim phương' bàn về bệnh cước khí rằng: thóp ngực đau thắt, thở suyễn không ngừng hoặc mồ hôi tự ra, hoặc lúc nóng lúc lạnh, thấy mạch Đoản, Xúc mà Sác, nôn không cầm là bệnh chết vì mạch Đoản mà Sác. Nghiệm rằng khi xem cho người bệnh thấy có mạch Đoản mà Sác, Tật, đó là độc khí xung (xông ) lên tim, đến nỗi mạch đạo bị quẫn bách, là bệnh chết. Như vậy thì mạch Đoản rất đáng sợ, vì vậy chép thêm vào đây".
Bài ca MẠCH ĐOẢN (Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Đoản thường bị ngắn 2 đầu,
Tương loại: Sáp, Đoản, Trì, Tế dễ hầu gian nan,
Đoản phú, thu (mùa) gặp thì nên,
Ba xuân mà thấy tà can (phạm) chẳng lành.
Chủ bệnh: Đoản thì ở xích thốn thôi,
Đoản là Hoạt Sác rượu rồi thần thương,
Phù huyết (sáp) Trầm bì phải tường,
Thốn chủ đầu nhức, xích thường bụng đau.
Bài Ca MẠCH ĐOẢN (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Lại xem mạch đoản thế nào?
Mạch kiêm sáp tiểu, không đầu không đuôi.
Chỉ thấy ở khoảng giữa thôi,
Phải nên suy xét hẳn hoi mới tường.
Chủ bệnh: Mạch Đoản chủ bệnh nói qua,
Chủ chứng bất cập hoặc là khí hư.
Tả thốn Đoản thần mơ hồ,
Hữu thốn Đoản thuộc Phế hư đau đầu,
Tả quan thương Can khí sao ?
Hữu quan cách mạc khỏi đau tức đầy.
Tả xích bụng dưới đau thay,
Hữu xích Đoản rầy chân hỏa suy vi.
H- CÁC Y ÁN MẠCH ĐOẢN
Y án Mạch Bộ Thốn Hai Tay Đều ĐOẢN Nhược
(Trích trong 'Tôn Văn Viên y án')
"Một phụ nữ bị đau nhức cả cơ thể. Sốt mà ra mồ hôi nhiều, tinh thần mê muội như say rượu, nằm không dậy được, mạch bộ thốn ở cả 2 tay đều Đoản, Nhược, 2 tay đều Sác mà vô lực. Đây là do mệt nhọc quá sức gây ra. Cho uống Hoàng kỳ 12g, Bạch thược 16g, Cam thảo 6g, Quế bì 3,2g, Đương quy 4g, Thạch hộc 8g, uống 1 thang thì hết đau, bớt nóng, không ra mồ hôi nữa, chỉ còn mệt mỏi không dậy được. Dùng phương thuốc cũ, thêm Nhân sâm và Trần bì. Uống 2 thang thì khỏi".
MẠCH HOÃN
( 緩 - Moderate Pulse - Pouls Retarde )
A- Đại cương
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Vệ khí hòa gọi là Hoãn.
- Âm mạch và dương mạch điều hòa gọi là Hoãn".
- Sách 'Thiên kim dực' ghi: "Ấn tay thấy mạch vẫn y nguyên gọi là Hoãn".
- Sách 'Y học nhập môn' ghi: "Hoãn là hòa hoãn "
B- Hình tượng mạch Hoãn
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Hoãn qua lại cũng chậm, nhanh hơn Trì một ít".
-Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi : "Mạch Hoãn, 1 hơi thở 4 chí, nư sợi tơ ở dưới tay...".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi: "Hoãn là không cấp bách, qua lại thong thả".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Hoãn đi khoan hòa, đều đặn, số mạch đập không thay đổi mấy".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hoãn, 1 hơi thở 4 chí, đi lại khoan thai".
HÌNH VẼ BIỂU THỊ MẠCH HOÃN
- Sách 'Mạch chẩn' ghi hình vẽ mạch Hoãn như sau:
- Sách 'Tam tài đồ hội' và sách 'Đồ chú Nan kinh mạch quyết' ghi hình vẽ biểu diễn mạch Hoãn:
- Sách 'Kết hợp YHCT với YHHĐ trong lâm sàng' ghi: "Mạch Hoãn thuộc loại tần số trung bình từ 60 - 80 lần / phút".
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Hoãn
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Khí huyết đều hư vì vậy mạch đến thong thả [Hoãn]".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Tỳ thuộc thổ mà chủ thấp, khí cơ bị thấp tà mà khốn đốn vì vậy thấy mạch Hoãn".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' giải thích : "Do khí cơ bị thấp tà dính lại gây nên. Tỳ Vị hư yếu, mà Tỳ Vị là nguồn của khí huyết, khí huyết bất túc, không vận hành được, kết lại gây nên mạch Hoãn"
D- Mạch Hoãn chủ bệnh
- Chương 'Thương hàn lệ' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch ở bộ xích và thốn mà đều và Hoãn thì bệnh ở Quyết âm".
- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thái dương bệnh, mạch bộ thốn Hoãn, bộ quan Phù, bộ xích Thực, phát sốt, ra mồ hôi sợ lạnh, không nôn mửa, chỉ thấy mạch Vi, Hoãn, đầy tức, đó là do thầy thuốc sử dụng phép hạ gây ra".
- Chương 'Biện Thái âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn, mạch Phù Hoãn, bì phu mất cảm giác là phong hàn ở cơ nhục", "Mạch bộ quan Hoãn, biếng ăn là do Vị khí không điều hòa, Tỳ khí không đủ. Mạch bộ xích Hoãn thì chân yếu, tiểu tiện không thông".
- Chương 'Bình tam quan mạch chứng tịnh nghi' (Mạch kinh) ghi: "Mạch thốn khẩu Hoãn, bì phu mất cảm giác là phong hàn ở cơ nhục". "Mạch bộ quan Hoãn, biếng ăn là do vị khí không điều hòa, Tỳ khí không đủ. Mạch bộ xích Hoãn thì chân yếu, tiểu tiện không thông".
- Chương 'Bình tạp bệnh' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Hoãn là hư".
- Sách 'Giáp ất' ghi: "Mạch Hoãn là nhiệt nhiều".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi: "Mạch Hoãn là phong, là hư, là tý, là yếu, là đau, ở trên là gáy cứng, ở dưới là chân yếu. Mạch bộ thốn bên trái Hoãn là Tâm khí không đủ, hồi hộp, hay quên, gáy và lưng đau cấp. - Mạch bộ quan (trái) Hoãn là phong hư, chóng mặt, khí kết ở bụng sườn. - Mạch bộ xích (trái) Hoãn là Thận hư hàn, tiểu khó, kinh nguyệt ra nhiều. - Mạch bộ thốn (phải) Hoãn là Phế khí phù lên, thở ngắn. - Mạch bộ quan (phải) Hoãn là Vị khí hư yếu. - Mạch bộ xích (phải) Hoãn là chân lạnh yếu, phong bí, khí trệ".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Hoãn là phần vinh (huyết) bị suy mà phần vệ (khí) lại dư, là phong hoặc thấp hoặc Tỳ hư, trên là gáy cứng đau, dưới là chân tê bại".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Hoãn chủ bệnh do thấp tà gây ra".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hoãn chủ bệnh về thấp".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hoãn chủ về phong thấp, trúng phong, đau nhức, hoa mắt, chóng mặt, hư nhức, ung nhọt, tiểu khó".
Tả Thốn HOÃN
Tâm khí không đủ.
Hữu Thốn HOÃN
Thương phong.
Tả Quan HOÃN
Can hư.
Hữu Quan HOÃN
Tỳ thấp.
Tả Xích HOÃN
Âm hư.
Hữu Xích HOÃN
Dương suy.

F- Mạch Hoãn kiêm mạch bệnh
- Thiên Bình nhân khí tượng luận (Tố vấn) ghi: ¿Mạch Hoãn mà Hoạt là chứng nhiệt bên trong¿.
- Chương Biện thái dương mạch chứng tịnh trị (Thương hàn luận) ghi: ¿Thương hàn mạch Phù Hoãn, mạch Vi Hoãn là bệnh sắp khỏi¿.
- Chương Trúng phong lịch tiết bệnh mạch chứng tịnh trị (Kim quỹ yếu lược) ghi: ¿Mạch ở thốn khẩu Trì mà Hoãn, Trì là hàn, Hoãn là hư. Phần vinh thấy mạch Hoãn là ung huyết, vệ thấy mạch Hoãn là trúng phong ¿.
- Chương Hoàng đản bệnh mạch chứng tịnh trị (Kim quỹ yếu lược) ghi: ¿Mạch ở thốn khẩu Phù mà Hoãn, phù là phong, Hoãn là chứng tý¿.
- Sách Mạch ngữ ghi: ¿Mạch Phù mà Hoãn là vệ khí bị tổn thương, Trầm mà Hoãn là vinh khí suy yếu¿.
- Sách Chẩn gia chính nhãn ghi: ¿Mạch Phù Hoãn là thương phong, Trầm Hoãn là hàn thấp. Hoãn Đại là phong hư. Hoãn Tế là thấp tý. Hoãn Nhược là khí hư ¿.
- Sách Chẩn gia khu yếu ghi: ¿Mạch Phù Hoãn hoặc Trầm Hoãn là khí huyết suy yếu¿.
- Sách Mạch học giảng nghĩa ghi:
Mạch Hoãn
Phối mạch
Chủ trị
PhùThương phong ở phần biểu.
TrầmThấp tý.
HoạtNóng ở trong.
SápHuyết hư.
Trầm, Tế vô lựcDương hư.
G- Mạch Hoãn và điều trị
- Chương 'Biện Thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn mạch Phù Hoãn, cơ thể không đau mà chỉ nặng nề, có khi nhẹ bớt, không có chứng của Thiếu âm, dùng bài 'Đại thanh long thang' ( Ma hoàng, Hạnh nhân, Thạch cao, Cam thảo, Quế chi) để phát hãn".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch bộ thốn Hoãn là cổ gáy cứng, cho uống bài 'Trừ thấp thang' ( Phục linh, Can cát, Bạch truật, Chích thảo). - Mạch bộ quan (trái) Hoãn: Can hư thấp thịnh. Bộ quan (phải) Hoãn: Tỳ thấp quá nhiều. Nên cho uống bài 'Nhất khí thang' hoặc bài 'Kiến trung thang' ( Hoàng kỳ, Nhân sâm, Quế, Bạch thược, Đương quy). Khí kết trong bụng không duỗi ra được, cho uống bài 'Ôn bạch thang' ( Tử uyển, Ngô thù du, Xương bồ, Sài hồ, Hậu phác, Cát cánh, Tạo giác, Ô đầu, Phục linh, Quế tâm, Hoàng liên, Thục tiêu, Ba đậu, Sinh khương ). Mạch tả xích Hoãn là hàn, trưng hà, nằm mơ thấy ma quỷ, cho uống bài 'Ngũ linh tán' (Trư linh, Trạch tả, Bạch truật, Phục linh, Quế chi) thêm Thương truật.
H- Mạch Hoãn qua các lời bàn
- Sách 'Mạch ngữ' ghi: "Các bộ mạch thấy Hoãn là không đủ vì mạch khí không bật lên vậy".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi: Mạch Hoãn có âm dương có 3 nghĩa:
Một là mạch khí thong dong, hòa hoãn, là mạch khí của người bình thường.
Hai là Hoạt mà Đại là thực nhiệt như sách Nội kinh ghi: "Mạch Hoãn mà Hoạt là nóng ở trong".
Ba là Hoãn mà Trì Tế là hư hàn.
Nếu thực nhiệt thì phải là Hoãn mà kiêm Đại có lực, là phiền nhiệt, miệng hôi, bụng đầy, ung nhọt, đại tiểu tiện không thông hoặc thương hàn, ôn ngược mới khỏi mà dư nhiệt chưa hết thì thường thấy mạch này. Nếu hư hàn thì phải Hoãn mà kiêm Trì, Tế, là dương hư, sợ lạnh, đau nhức, chóng mặt, hồi hộp, hay quên, ăn uống không tiêu, tiêu chảy, tiêu sống phân, thận tinh hàn, tiểu nhiều, đàn bà thì kinh nguyệt bị bế, thiếu, mất máu. Phàm các chứng sang độc, trúng phong, sản hậu mà gặp mạch Hoãn đều là sắp khỏi".
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Thái dương bệnh phát sốt, đầu đau, mồ hôi tự ra, mạch Phù Hoãn là do phong tà làm hại phần vệ biểu. Mạch Hoãn là gốc của Tỳ, tất phải hòa hoãn, có thần, là triệu chứng Tỳ khí sung mãn. Nếu Hoãn nhiều mà Nhược là Tỳ khí không đủ. Hoãn mà hoạt lợi là Vị khí xung hòa. Người xưa cho mạch Hoãn là thương phong. - Trầm Hoãn là hàn thấp. - Hoãn Đại là phong hư. - Hoãn Trầm là có thấp ở trong âm".
- Sách 'Mạch ngữ'' ghi: "Mạch Hoãn chủ bệnh, có Hoãn của Trì, Nhược. Hoãn Trì là thương thấp. - Hoãn Nhược là khí hư. - Hoãn kiêm Sắc là huyết hư. - Phù Hoãn là phong thương kinh lạc. - Trầm Hoãn là thấp thương tạng phu. - Hồng Hoãn là thấp nhiệt. - Tế Hoãn là hàn thấp. Còn có âm hư thấy mạch Phù Hồng vô lực mà Hoãn, dương hư thì Trầm Tế vô lực mà Hoãn. Nếu thấy mạch Huyền ở bộ vị của thổ (hữu quan), mạch Hoãn ở bộ vị của thủy (tả xích) là trạng thái mạch khắc. Khi gặp mạch này càng phải xem xét Vị khí ít hoặc nhiều bật nhảy cao hoặc thấp, qua lại chậm hoặc mau thì mới nắm được bệnh tình".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Hoạt Bá Nhân hình dung mạch khí thư thả, hòa hoãn là rất đúng, còn Vương Thúc Hòa cho rằng: "Mạch Hoãn qua lại cũng chậm" thì chưa ổn".
Bài ca Mạch HOÃN (Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Mạch hoãn bốn chí khoan hòa,
Như cành dương liễu la đà gió xuân.
Biết mạch có lực có thần,
Thung dung hòa hoãn ấy phần khoe vui.
Tương loại: Mạch đi 3 chí là Trì,
Mạch Hoãn thì Trì còn có chút nhanh.
Chủ bệnh: Hoãn mạch vệ thịnh dinh suy,
Hoặc phong, hoặc thấp, hoặc là Tỳ hư.
Chân bại liệt, cổ cứng đờ,
Cũng theo đại, tiểu, trầm, phù mà chia.
Thốn Hoãn lưng gáy có phong,
Quan Hoãn choáng váng lại cùng Vị hư.
Xích Hoãn khấp khểnh chân co,
Hoặc là phong bí hoặc nhu tiết rầy.
Bài ca Mạch HOÃN (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Hoãn ứng tay khoan hòa,
Một tức bốn chí thật là đều thay.
Suy xem thể tượng mạch này,
Như cành dương liễu gió lay nhẹ nhàng.
Chủ bệnh: Hoãn không chủ riêng bệnh chi,
Muốn đoán chứng thì kiêm mạch mới xong.
Kiêm mạch: Mạch phù Hoãn ấy thương phong,
Trầm Hoãn hàn thấp, ta không còn ngờ.
Mạch Hoãn đại ấy phong hư,
Mạch mà Hoãn tế thấp tê rõ ràng.
Hoãn sáp Tỳ hư phải chăng?
Mạch mà Hoãn nhược đoán rằng khí hư.
Tả thốn phù Hoãn phong tà,
Hữu thốn sáp Hoãn ấy là Tỳ (huyết) hư,
Tả quan phù Hoãn can phong,
Hữu quan trầm Hoãn thấp xông hại Tỳ.
Tả xích Hoãn sáp tinh khuy,
Hữu xích Hoãn tế dương suy lắm rồi.
I- CÁC Y ÁN MẠCH HOÃN
Y án Mạch HOÃN Đại Vô Lực
(Trích trong 'Lục Thị tam thế y nhiệm')
"Lục Thiên Ngu chữa một người đã già tên là Ngô Nan Khâu, ông này vào khoảng tháng 8, sau khi no say lại nhập phòng, qua ngày hôm sau phát đi lỵ, 1 ngày đi tiêu cả trăm lần, trắng đỏ lẫn lộn, trong bụng đau ngầm, tay chân lạnh. Xem mạch thì thấy Hoãn, Đại vô lực, 2 bộ xích càng Nhược. Tôi nói, chứng này phải nên bổ và cho toa có vị Nhân sâm, Nhục quế. Các con của người bệnh thấy đều sợ hãi nói rằng không có tích trệ thì không thành chứng lỵ, nay mới có 1-2 ngày mà đã dùng thuốc bổ sao? Bất đắc dĩ tôi mới cho uống bài 'Điều khí dưỡng vinh thang' nhưng bệnh tình cũng chẳng tăng hoặc giảm. Hôm sau tôi xem lại, nói rằng phải nên dùng bổ gấp. Trong nhà lại tranh cãi và không chịu dùng, bệnh tình cũng không thuyên giảm. Nhân dịp tôi có người mời, nên người nhà người bệnh đi mời thầy thuốc khác. Thầy này cho uống các vị như Hoàng cầm, Hoàng liên, Tân lang, Mộc hương... thì bụng đau dữ như cắt, chân lạnh như băng, ra mồ hôi lạnh, thiếu hơi không đủ thở, thức ăn ăn vào thì đại tiện ra hết... Đến nửa đêm cho người nhà đến mời tôi. Đến xem thấy người bệnh không tự xoay trở được, đại tiện như chảy máu, bệnh tình rất nguy hiểm, nhưng còn may là mạch và thần khí chưa tuyệt. Liền cho uống 'Nhân sâm phụ tử lý trung thang' ( Bạch truật, Chích thảo, Nhân sâm, Can khương, Phụ tử) thêm Nhục quế. Uống 1 thang thì bụng bớt đau, thêm mấy thang thì chân ấm, đại tiện ngừng; Lại dùng đến 2 cân (1.280g) Nhân sâm thì mới khỏi, râu và tóc đều rụng".
Y Án 6 Mạch Đều HOÃN
(Trích trong 'Lục Thị tam thế y nhiệm').
"Lục Thiên Ngu chữa một người bệnh tên là Ngô Tồn Trai, người mập mà thường hay uống rượu,vị quản thường đau nay lại thấy đau các khớp, nửa người phía dưới nặng hơn. Có thầy thuốc cho là phong, cho dùng bài 'Sử quốc công tửu', thì lúc đau lúc bớt. Lại thấy lâu ngày không bớt, cho là do tinh huyết không đủ mà ra, lại cho dùng Hổ trượng, Hà xa... thì chỗ đau lại sưng lên. Lúc đó mới mời tôi xem bệnh. Xem mạch thì thấy 6 bộ đều Hoãn mà bộ quan lại hơi Huyền. Tôi liền nói rằng: Xem mạch thì thấy đây là do đàm thấp, không thấy phong cũng chẳng thấy hư. Thuốc chữa phong tuy không trừ thấp nhưng lại hành khí, vì vậy có lúc bớt. Nếu cho là hư chứng rồi tự bổ tức là làm cho ủng trệ thêm, như vậy không nặng thêm sao được? Cách chữa, trước hết là dùng thuốc hoàn để thanh đờm tích ở trung cung, sau đó dùng thuốc thang để sơ hoãn kinh lạc bị ủng trệ thì không những các khớp hết đau mà chứng đau ở vị quản cũng hết. Về thuốc hoàn, dùng Hà thiên khúc, Sơn tra nhục, Quất hồng, Bạch truật, Phục linh, Chỉ thực, Thần khúc, Trúc lịch. Dùng hồ làm hoàn.
Thuốc thang dùng : Thương truật, Ý dĩ nhân, Bán hạ, Nam tinh, Bạch giới tử, Uy linh tiên, Chích thảo, Thanh Mộc hương, Tần giao. Sắc thuốc xong rồi cho vào 1 chung rượu, uống lúc bụng hơi no. Sau 1 thời gian điều phục thì khỏi bệnh".

MẠCH HOẠT

( - Slippery Pulse - Pouls Glissant)
A- Đại cương
- Hoạt là trơn tru, sức mạch đi trơn tru như chuỗi hạt châu (viên ngọc) lăn (động) dưới ngón tay.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Người thường mạch Hoạt mà xung hòa là dấu hiệu vinh vệ đầy đủ. Phụ nữ không bệnh mà thấy mạch Hoạt thì nên xét xem có thai hay không".
B- Hình tượng mạch Hoạt
- Thiên 'Đại kỳ luận' (Tố vấn 48) ghi: "Mạch khí đến tròn như hoàn thuốc, trơn không dính tay".
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Hoạt qua lại tới lui lưu lợi, liên tiếp nhau, giống như mạch Sác".
- Sách 'Hồi Khê mạch học' ghi: "Mạch Hoạt qua lại lưu lợi, như hạt châu lăn trong mâm, như mưa móc đọng trên lá sen".
-Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi : " Mạch Hoạt qua lại lưu lợi, hình dáng như hạt châu, như sương đọng trên lá sen".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Hoạt đi qua lại lưu lợi, trơn tròn".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HOẠT
- Sách 'Tam tài đồ hội' và sách 'Đồ chú Nan kinh mạch quyết' mô tả mạch Hoạt như sau:
- Sách 'Mạch chẩn' ghi lại hình vẽ biểu diễn mạch Hoạt như sau:
- Sách 'Tân biên Trung y học khái yếu' mô tả mạch Hoạt như sau:
- Sách 'KHYHCT và YHHĐ trong lâm sàng' mô tả hình vẽ biểu diễn của mạch Hoạt như sau:
"Sóng đầu tiên của mạch Hoạt hiện lên tròn trĩnh và có bước sóng rộng hơn sóng đầu tiên của người mạch bình thường. Điều này hợp với sự mô tả của sách mạch xưa là mạch Hoạt khi bắt được, thấy có cảm giác như hạt châu (ngọc) lăn trên mâm". - Tần số mạch Hoạt tương ứng trong 1 phút dao động ở 54 lần / phút đến 100 lần / phút và đa số ở khoảng 81 - 100 lần /phút".
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Hoạt
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Khí thực, huyết vọt lên làm cho mạch đi lại lưu lợi, ứng vào tay thấy trơn tròn, hoặc đàm thực kết trệ bên trong, tà khí thịnh, thực, cũng gây ra mạch Hoạt".
- Sách 'Tân biên Trung y học khái yếu' ghi: "Nguyên nhân phát sinh mạch Hoạt có thể do:
Lượng máu ở tim tống ra bình thường hoặc tăng cao.
Thành mạch co dãn bình thường.
Tăng vận tốc tuần hoàn.
Dòng máu chảy thông suốt.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : "Do tà khí ủng thịnh bên trong, chính khí bất túc, khí thực, huyết dũng, khiến cho mạch đi lưu lợi, ứng dưới tay thấy Hoạt, tròn".
D- Mạch Hoạt chủ bệnh
- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 18) ghi: "Nếu bộ xích không nhiệt mà lại Hoạt là bệnh về phong".
- Thiên 'Tứ thời thích nghịch tùng luận' (Tố vấn 64) ghi: "Quyết âm... mạch Hoạt là mắc bệnh phong hồ sán". - "Thái âm... mạch Hoạt là bị chứng Tỳ phong sán". - "Thái dương... mạch Hoạt là bị chứng Thận phong sán". - "Thiếu dương... mạch Hoạt là bị chứng Can phong sán".
- Thiên 'Tà khí tạng phủ bệnh hình' (Linh khu 4) ghi: "Mạch Tâm... Hoạt thậm thì khát nước, hơi Hoạt là chứng Tâm sán kéo xuống đến rốn, bụng dưới sôi". - "Mạch Phế... Hoạt thậm thì hắt hơi, khí nghịch lên, hơi Hoạt là trên dưới đều ra máu". - "Mạch Can... Hoạt thậm là chứng đồi sán, hơi Hoạt là chứng đái dầm". - "Mạch Tỳ... Hoạt là chứng đồi sán, bí tiểu, dịch hoàn viêm, loét, hơi Hoạt là chứng cốt nuy ( xương mềm yếu), ngồi không dậy được, dậy thì tối mắt không nhìn thấy gì".
- Chương 'Biện quyết âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn mạch Hoạt mà tay chân quyết lãnh là phần lý có nhiệt".
- Thiên 'Bệnh hình mạch chẩn' (Giáp ất) ghi: "Mạch Hoạt là dương khí thịnh, hơi có nhiệt".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi: "Mạch Hoạt là đờm nghịch, là thực trệ, nôn mửa, đầy tức".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Bộ thốn Hoạt chủ về ói mửa, đờm ẩm. Bộ quan Hoạt chủ về Vị bị nhiệt không ăn uống được, ăn vào thì ói. Bộ xích Hoạt chủ về tiểu đỏ, tiểu ít, dương vật đau buốt".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi:
Nếu huyết thịnh thì mạch Hoạt là không có bệnh.
Đàn bà có thai thì mạch Họat cũng là không bệnh.
Chứng đờm và ăn không tiêu thì cũng mạch Hoạt.
Khi tà khí nặng thì mạch cũng Hoạt.
Có bệnh mà thấy mạch Hoạt thì đều thuận lợi.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hoạt chủ bệnh đờm, thực nhiệt".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hoạt chủ ói nghịch, ho khạc, phục đờm, thủy ẩm, súc huyết, trung mãn, ăn không tiêu, kiết lỵ, sán khí. - Phụ nữ bộ xích Hoạt là khí ủng trệ gây ra kinh nguyệt không thông. Hoạt mà lưu lợi là có thai".
Tả Thốn HOẠT
Tâm nhiệt, kinh sợ, mất ngủ.
Hữu Thốn HOẠT
Đờm ẩm, nôn mửa.
Tả Quan HOẠT
Can nhiệt, đầu váng.
Hữu Quan HOẠT
Tỳ nhiệt, ăn không tiêu.
Tả Xích HOẠT
Lậu, tiểu đỏ, tiểu khó.
Hữu Xích HOẠT
Bụng sôi, tiêu chảy hoặc tướng hỏa bốc lên.

D- Mạch Hoạt kiêm mạch bệnh

- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 16) ghi: "Mạch Hoạt Phù mà Tật là mới bệnh". "Mạch Hoãn mà Hoạt là chứng nhiệt ở trung (bộ)". - "Bộ xích Sáp mà mạch lại Hoạt là chứng ra mồ hôi".
- Thiên 'Thông bình hư thực luận' (Tố vấn 28) ghi: "Hoàng Đế hỏi: Chứng trường tích ra lẫn mủ, máu thì như thế nào? - Kỳ Bá thưa: mạch Tuyệt thì chết, mạch Hoạt Đại thì sống. - Hoàng Đế hỏi: chứng trường tích mà cơ thể không nóng, mạch không Tuyệt thì sao? - Kỳ Bá thưa: mạch khí bật lên, Đại mà Hoạt thì lâu ngày sẽ tự khỏi, nếu mạch Tiểu Cấp và cứng thì sẽ chết, không chữa được".
- Thiên 'Đại kỳ luận' (Tố vấn 48) ghi: "Mạch khí của Tâm bật lên, Hoạt mà Cấp là chứng Tâm sán".
- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Chứng tiểu kết hung ngay ở dưới tim, đè vào thì đau, mạch Phù Hoạt, đó là biểu có nhiệt, lý có hàn". - Thái dương bệnh lại dùng phép hạ... thấy mạch Trầm Hoạt là chứng nhiệt lỵ, thấy Phù Hoạt sẽ tiểu ra máu".
- Chương 'Tạng phủ kinh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch bộ thốn Trầm, Đại mà Hoạt, Trầm là Thực, Hoạt là khí thực, khí tương bác, huyết khí vào tạng thì chết, vào phủ thì sẽ khỏi, đó là chứng 'thốt quyết' ".
- Chương 'Trúng phong mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch phu dương Phù mà Hoạt; Hoạt là cốc khí thực, Phù thì tự nhiên ra mồ hôi".
- Chương 'Phế nuy mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: ".. trong miệng khô ráo, ho thì đau ở ngực, mạch lại Hoạt Sác, đó là chứng Phế ung, khạc ra mủ máu".
- Chương 'Phúc mãn mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Sác mà Hoạt là thực, có thức ăn tích lại không tiêu".
- Chương 'Đàm ẩm mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Phù mà Tế Hoạt là chứng thương ẩm".
- Chương 'Thủy khí mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Trầm Hoạt, trong có thủy khí, mắt mặt sưng phù, có nhiệt, gọi là chứng phong thủy".
- Chương 'Trì tật... mạch pháp' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Hoạt mà hơi Phù là bệnh ở Phế".
- Chương 'Biện tam bộ cửu hậu mạch chứng' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Hoạt mà Trì, không Trầm, không Phù, không Trường không Đoản là không có bệnh, bên trái và bên phải giống nhau. Mạch bộ quan Hoạt mà lại Đại, Tiểu không đều là bệnh đang tiến, không quá 1-2 ngày thì phát. Người bệnh muốn uống nhiều, uống vào thì đi tả ngay, nếu ngừng thì sống. không ngừng thì chết. Mạch bộ xích Hoạt mà Tật là huyết hư".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Trì mà Hoạt là đầy trướng. Hoạt mà Sác là âm kết nhiệt. Hoạt Tật là có nhiệt ở Vị. Hoãn mà Hoạt là nhiệt ở trung (bộ). Trầm mà Hoạt là mót rặn, lưng đau".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi : " Mạch Phù Hoạt là phong đờm, Trầm Hoạt là đờm tụ do thức ăn, Hoạt Sác là đờm hỏa, Hoạt Đoản là không muốn ăn".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch
hoạt
Phối mạch
Chủ trị
PhùBiểu nhiệt hoặc phong đờm.
TrầmLý nhiệt hoặc đờm ẩm.
SácVị bị nhiệt, ăn không tiêu.
TrìTiêu chảy.

E- Mạch Hoạt và trị liệu

- Chương 'Biện Thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Chứng tiểu kết hung ngay ở dưới tim, đè vào thì đau, mạch Phù Hoạt, đó là phần biểu có nhiệt, lý có hàn. Cho uống bài 'Bạch hổ thang' ( Thạch cao, Tri mẫu, Ngạnh mễ)".
- Chương 'Biện Dương minh mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Dương minh bệnh, nói xàm, triều nhiệt, mạch Hoạt mà Tật, cho uống bài 'Tiểu thừa khí thang' (Đại hoàng, Hậu phác, Chỉ thực). Dương minh và Thiếu dương hợp bệnh ắt bị kiết lỵ, nếu mạch không trái nghịch là thuận, thấy mạch Hoạt Sác là ăn không tiêu, nên hạ bằng bài 'Đại thừa khí thang' (Đại hoàng, Hậu phác, Chỉ thực, Mang tiêu)".
- Chương 'Biện Quyết âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn, mạch Hoạt mà tay chân quyết lãnh là lý có nhiệt, cho uống bài Bạch hổ thang (Thạch cao, Tri mẫu, Ngạnh mễ)".
- Chương 'Phúc mãn mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Sác mà Hoạt là thực, có thức ăn tích lại không tiêu, dùng phép hạ thì khỏi. Cho uống bài 'Đại thừa khí thang' ( Đại hoàng, Hậu phác, Mang tiêu, Chỉ thực)".
- Chương 'Ẩu thổ mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Kiết lỵ mà mạch Trì Hoạt là thực, nếu đi lỵ chưa ngừng thì phải hạ ngay bằng bài Đại thừa khí thang. - Kiết lỵ mà mạch lại Hoạt dùng phép hạ thì khỏi, cho uống bài Đại thừa khí thang".
- Chương 'Phụ nhân tạp bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược ) ghi: "Mạch Thiếu âm (bộ xích) Hoạt mà Sác, âm hộ lở loét, dùng Lang nha thang mà rửa".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch bộ thốn Hoạt là khí ủng trệ gây ra nôn mửa, cho uống bài Sinh khương bán hạ thang ( Bán hạ, Sinh khương trấp). Mạch bộ quan Họat là trung tiêu hư, ăn uống không tiêu, mùa xuân và hạ cho uống bài Bình vị tán (Thương truật, Trần bì, Hậu phác, Cam thảo). Mùa thu và đông cho uống bài Lý trung thang (Bạch truật, Nhân sâm, Can khương, Cam thảo). Nếu có chứng biểu, cho uống bài Tiểu sài hồ thang ( Sài hồ, Bán hạ, Nhân sâm, Hoàng cầm, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo) thêm Quan quế". - "Mạch bộ xích Hoạt là hàn kết ở bàng quang, dưới rốn có nước đọng sôi ùng ục, cho uống bài Phụ tử tứ nghịch thang ( Sài hồ, Bạch thược, Chỉ thực, Chích thảo, Phụ tử).
- Mục 'Hiệu chính Tần Hồ mạch học' (Đồ chú Nan kinh mạch quyết) ghi: "Mạch bộ thốn Hoạt dùng bài Bán hạ thang (Bán hạ, Phục linh). Mạch bộ quan Hoạt dùng bài Tiểu sài hồ thang gia giảm ( Sài hồ, Xích thược, Hoàng cầm, Nhân sâm, Cam thảo, Quế chi). Mạch bộ xích Hoạt dùng bài Phụ tử tứ nghịch thang ( Bạch truật, Bào khương, Phụ tử, Cam thảo, Quế)".
G- Các lời bàn về mạch Hoạt
- Sách 'Cảnh Nhạc toàn thư' ghi: "Các bệnh hư tổn thường hay thấy mạch Huyền Hoạt, đó là do Tỳ, Thận tổn thương, không thể bàn là hỏa được".
- Sách 'Mạch học tập yếu' ghi: "Sách Thương hàn luận cho rằng mạch Hoạt là loại mạch thực nhiệt, như: "Mạch lại Hoạt, dùng phép hạ thì khỏi". - "Mạch Hoạt Tật thì cho dùng bài Tiểu thừa khí thang". - "Mạch Phù mà Hoạt là nhiệt ở biểu, hàn ở lý". - "Mạch Hoạt mà chân tay quyết lạnh là lý có nhiệt"... Các câu trên đây đều là các triệu chứng của dương thịnh, nhiệt thực. Các chứng hư mà lại thấy mạch Hoạt là triệu chứng nguyên khí tiết ra ngoài, người học không thể không xét kỹ".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hoạt trôi chảy như muốn thoát, bên trong thấy Phù như có lực vì mạch khí trôi chảy qua lại hơi nhanh, vì vậy mới nói là hơi giống mạch Sác. Nói trôi chảy như muốn thoát, trong Phù như có lực là nói trạng thái hoạt lợi của mạch chứ không phải nói là mạch khí không có căn, vì vậy, không thể lầm lẫn được".
Bài Ca Mạch HOẠT (Âm trong Dương) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng : Mạch Hoạt như hạt châu lăn,
Lại qua lưu lợi trước sau đều đều.
Tương loại : Sác với Hoạt khác nhau nhiều,
Sác theo 6 chí, Hoạt đều như châu.
Chủ bệnh : Hoạt là dương, nguyên khí suy,
Do đờm hoặc thực đó là bệnh sinh.
Thổ nghịch súc huyết đáng kinh,
Phụ nữ mạch Hoạt rành rành có thai.
Thốn Hoạt nôn bởi cách đờm,
Sinh ho, cứng lưỡi, thôn toan chẳng kỳ.
Quan túc thực nóng Can Tỳ,
Xích Hoạt khát lợi cùng thì đồi lâm.
Bài ca Mạch HOẠT (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Hoạt thì trơn có phải không?
Dưới tay tượng mạch lưu thông dễ dàng.
Như hạt châu lăn trên mâm,
Móc (hạt) lăn trên lá sen càng rõ hơn.
Chủ bệnh: Hoạt là dương chủ đàm diên,
Thốn Hoạt nôn xốc, ho hen, ngực đầy.
Quan Hoạt vị nhiệt hẳn đầy,
Chứng kia khí ứng, chứng này thực thương,
Xích lâm tích, lỵ cho tường,
Trai thì niệu huyết, gái thường uất kinh.
Kiêm mạch: Mạch phù Hoạt chủ phong đàm,
Trầm Hoạt đờm thực chẳng râm mảy may.
Hoạt sác đờm hỏa bệnh này,
Hoạt đoản khí tắc biết rầy làm sao ?
Hoạt mà phù đại thế nào?
Mỗi khi đi đái lại đau âm hành.
Hoạt mà phù tán rành rành,
Trúng phong than hoán bệnh tình hiện ra.
Còn như Hoạt mà xung hòa,
Xem mạch đàn bà quyết đoán có thai.
H- Các Y Án Mạch Hoạt
Y án 6 Mạch Đều Huyền HOẠT Mà Sác
(Trích trong 'Cổ kim y án' )
"Hạng Nhan Chương chữa 1 thiếu nữ bị đau bụng, bụng trướng như cái trống, tay chân nổi xương, 6 bộ mạch đều Huyền Hoạt mà Sác. Ông nói: "Mạch Huyền là khí kết, Hoạt là huyết tụ, đây là do khí suy yếu (bạc) huyết bị mất (thất), là thực tà vậy". Cha của cô ta nói: Đã có uống nhiều vị chữa huyết như Xuyên khung, Bối mẫu... Hạng Nhan Chương cho rằng khí không vận hành thì huyết không thông, vì vậy muốn chữa huyết trước hết phải làm cho thuận khí. Cho uống bài 'Tô hợp hương hoàn' ( Tê giác, Trầm hương, Hương phụ, Mộc hương, Nhũ hương, Bạch truật, Xạ hương, Băng phiến, An tức hương ). Uống 3 ngày thì thấy đau ở thắt lưng, đó là huyết sán ra. Dùng Mang tiêu, Đại hoàng để trục huyết ứ ra thì khỏi".
Y án Mạch HOẠT Mà Có Lực
(Trích trong 'Y tôn tất độc' của Lý Sĩ Tài)
"Trương Cương Am, vào mùa thu bị kiết lỵ, đã dùng các vị như Hương, Liên, Chỉ, Phác đã 2 tháng mà bệnh không giảm. Tôi xem mạch thấy Hoạt mà có lực. Đó là do dùng 'Hạ pháp' không đúng mà ra. Cho uống Hoắc hương, Liên kiều, Đương quy, Bạch thược, Trần bì, Chỉ xác thêm Đại hoàng, xổ ra nhiều đồ dơ. Xem lại mạch thấy còn có lực, vẫn dùng phương trên, uống xong đi tiêu ra các thức tích, tích trệ như ruột cá, khoảng vài chén (bát). Điều dưỡng hơn 10 ngày thì khỏi".

MẠCH HỒNG
( - Flooding Pulse - Pouls Ample, Grand)
A- Đại cương
- Trong sách 'Nội kinh' chỉ nói đến mạch Câu, mạch Thịnh không có mạch Hồng. Sách 'Thương hàn luận' và 'Mạch kinh' gọi là mạch Hồng.
- Thiên 'Tuyên minh ngũ khí luận' (Tố vấn 23) ghi: "Tâm mạch Câu, ứng với thời lệnh là mùa hè, ở tạng là Tâm, thuộc hỏa, phương nam, muôn vật nhờ đó mà thịnh trưởng. Vì thế mạch khí lúc đến thì thịnh, lúc đi thì suy, do đó gọi là Câu".

B- Hình tượng mạch Hồng

- Thiên 'Mạch hình tượng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Hồng cực đại dưới ngón tay". "Mạch Hồng là dương trong dương vì vậy mạch khí lúc đến thì thịnh, lúc đi thì suy ".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi : "Mạch Hồng to mà thực, nhấc tay lên hoặc ấn xuống đều có lực".
-Sách 'Mạch quyết san ngộ' ghi : "Mạch Hồng, thấy rất to ở dưới ngón tay, đến thấy lớn, dài mà đầy".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Hồng, mạch tới cuồn cuộn đầy dẫy dưới ngón tay, khi đến mạch lớn, lúc đi mạch kém dần".
- Sách'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hồng, mạch đến cuồn cuộn như sóng vỗ, đến thịnh, đi suy".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HỒNG
- Sách 'Tam tài đồ hội' và sách 'Đồ chú Nan kinh mạch quyết' vẽ hình mạch Hồng:
- Sách 'Mạch chẩn' biểu diễn hình vẽ mạch Hồng:
- Sách 'Tân biên Trung y học khái yếu' mô tả hình vẽ mạch Hồng như sau :
- Sách 'KH YHCT và YHHĐ trong lâm sàng' ghi lại hình vẽ biểu diễn mạch Hồng như sau:
"Sóng đầu tiên của mạch Hồng đặc biệt dâng lên rất cao, đi lên đỉnh thẳng dốc và đổ xuống rất nhanh. Điều này phù hợp với sự mô tả của sách mạch xưa là khi bắt được mạch Hồng có cảm giác lúc đến thì mạnh, lúc đi thì yếu. Sóng dội về sau của mạch Hồng cũng nhô cao hơn các sóng dội về sau của những mạch khác nhưng đỉnh sóng dội của mạch Hồng bao giờ cũng nằm phía nửa dưới của thân mạch . Tần số của mạch Hồng trong 1 phút dao động ở mức 79-136 lần / phút".

C- Nguyên nhân phát sinh mạch Hồng

- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Nhiệt tràn đầy ở bên trong, đường mạch to ra và đẩy trào lên, gây ra mạch Hồng". "Nhiệt làm thương tổn phần âm, âm khí hư ở bên trong mà dương khí phù việt ra bên ngoài cũng gây ra mạch Hồng".
- Sách 'Trung y biện chứng luận trị giảng nghĩa' ghi: Phát sinh ra mạch Hồng có thể do:
Lượng máu ở tim tống (đẩy) ra tăng lên.
Mạch máu ngoại biên bị dãn.
Huyết áp tâm thu cao.
Huyết áp tâm trương thấp.
Mạch áp lớn.
Tốc độ máu chảy nhanh.

D- Mạch Hồng chủ bệnh

- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi: "Mạch Thịnh da nóng, bụng trướng, đái tiểu tiện không thông là ngũ thực".
- Thiên 'Bình nhiệt bệnh luận' (Tố vấn 33) ghi: "Mồ hôi đã ra mà mạch còn táo Thịnh thì chết".
- Thiên 'Bệnh năng luận' (Tố vấn 16) ghi: "Hoàng đế hỏi: Người mắc bệnh vị quản ung chẩn đoán thế nào mới biết được? Kỳ Bá thưa: Muốn chẩn đoán bệnh đó, phải sát ở mạch vị, sẽ thấy mạch Trầm Tế. Trầm Tế là do khí nghịch, khí nghịch thì mạch ở nhân nghinh tất phải Thịnh, rất Thịnh nên nhiệt, nhân nghinh là mạch của vị. Nếu nghịch mà Thịnh là do nhiệt tụ ở vị khẩu, không dẫn đi được, vì vậy gậy ra chứng ung ở vị quản".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Hồng chủ về nhiệt... đó là cả vinh lẫn vệ đều rất nóng, khí huyết bị nung đốt, nóng cả ở phần biểu và lý". "Bộ thốn Hồng chủ về thượng tiêu, trong lồng ngực có nhiệt. Bộ quan Hồng chủ về nhiệt ở Vị, ói mửa, phiên vị. Bộ xích Hồng chủ về nhiệt ở nửa người, đại tiện khó, tiêu ra máu".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Hồng gặp ở chứng tà khí thịnh, hỏa quá mạnh. Nhưng nếu mạch Hồng mà vô lực đó là hư Hồng, là hiện chứng của hỏa bốc lên mà thủy bị cạn".
- Chương 'Nhị thập tứ mạch chủ bệnh' (Tam nhân phương) ghi : "Mạch Hồng chủ đầy, đau, nhiệt, phiền".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi : "Mạch Hồng chủ phần doanh và lạc có nhiệt nhiều, họng khô, đại tiểu tiện không thông".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hồng chủ nhiệt thịnh".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: " Mạch Hồng chủ bệnh phiền táo, tráng nhiệt, phiền khát, ói ra máu, đầy trướng, ra mồ hôi, thử nhiệt".
Tả Thốn HỒNG
Tâm phiền, lưỡi lở loét.
Hữu Thốn HỒNG
Ngực đầy, khí nghịch.
Tả Quan HỒNG
Can Mộc quá vượng.
Hữu Quan HỒNG
Vị nhiệt, đầy tức.
Tả Xích HỒNG
Thủy khô kiệt, tiểu gắt.
Hữu Xích HỒNG
Long hỏa thiêu đốt.

E- Mạch Hồng kiêm mạch bệnh

- Mục 'Sang ung mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Trường ung, thấy mạch Hồng Sác là đã thành mủ".
- Chương 'Mạch phụ quyết mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Trong bụng đau thì mạch phải nên Trầm, nếu lại thấy Huyền mà Hồng Sác là có giun đũa".
- Chương 'Trì tật... mạch pháp' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Đại, Hồng, Khẩn, Sác là bệnh tiến triển nhanh, ở bên ngoài là đầu đau, phát sốt, ung thủng".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi; "Mạch Phù, Hồng, Đại, Trường là phong huyễn, điên tật". "Mạch Hồng, Đại là thương hàn nhiệt bệnh". "Dương tà xâm nhập thì mạch Phù, Hồng".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch Hồng Đại là nhiệt thịnh.
Hồng Phù là biểu nhiệt hoặc hư nhiệt.
Hồng Trầm là lý nhiệt hoặc nhiệt bị hàn bao bọc.
Hồng Khẩn là ngực đầy tức, đại tiện khó mà ra máu.

F- Mạch Hồng và đều trị

- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Uống 'Quế chi thang', thấy mồ hôi nhiều, mạch Đại Hồng thì lại cho uống tiếp Quế chi thang". "Uống Quế chi thang thấy sau khi đã ra mồ hôi nhiều mà không hết phiền khát, mạch Hồng Đại thì cho uống bài 'Bạch hổ gia nhân sâm thang' ( Thạch cao, Tri mẫu, Ngạnh mễ, Nhân sâm)".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch bộ thốn Hồng là nhiệt ở Phế, trong ngực nóng ran, nên uống bài 'Đại sài hồ thang' ( Sài hồ, Bán hạ, Hoàng cầm, Thược dược, Sinh khương, Đại táo). Mạch tả quan Hồng là phong nhiệt lấn vào Vị, ăn vào là ói ra, cho uống bài 'Điều trung thang' (Bạch thược, Bạch truật, Phục linh, Mạch môn, Sinh địa, Trần bì, Cát cánh, Ô mai, Cam thảo ). Mạch bộ xích Hồng là tiểu khó, tiểu gắt, chân đau nhức, cho uống bài 'Trạch tả tán ( Trạch tả, Mẫu đơn bì, Quế tâm, Chích thảo, Du bạch bì, Bạch truật, Xích phục linh, Mộc thông )".
- Mục 'Hiệu chính Tần Hồ mạch học' (Đồ chú Nan kinh mạch quyết) ghi:
. "Mạch Hồng, cách chung, dùng bài 'Đại thừa khí thang' (Đại hoàng, Hậu phác, Chỉ thực, Mang tiêu)".
. Mạch bộ thốn Hồng dùng bài 'Liên kiều thang ( Liên kiều, Sài hồ, Đương quy, Sinh địa, Xích thược, Hoàng cầm, Đại hoàng ).
. Mạch bộ quan Hồng dùng bài 'Điều trung thang' ( Đại hoàng, Hoàng cầm, Thược dược, Cát cánh, Phục linh, Cảo bản, Cam thảo, Bạch truật, Lô căn ).
. Mạch bộ xích Hồng dùng bài 'Trạch tả tán' ( Trạch tả, Xích phục linh, Sơn Chi tử, Tang bạch bì)".

G- Mạch Hồng qua các lời bàn

- Chương 'Hạ học' sách' Mạch ngữ' ghi: "Hồng nghĩa là nước lụt, mạch khí đến to rồi lại bật lên. Nếu mạch khí không bật lên thì hình tượng mạch tuy to cũng không đủ để gọi là Hồng. Giống như sông lớn mà không có sóng to tràn lên thì không gọi là nước lụt được".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi: "Mạch Hồng là Đại mà thực, ấn tay nhẹ hoặc mạnh đều có thừa. Mạch Hồng là dương, cùng loại là các mạch Phù, Khẩn, Thực, Đại, là huyết khí bị thiêu đốt, là triệu chứng đại nhiệt. Phù Hồng là biểu nhiệt, Trầm Hồng là lý nhiệt, là đầy trướng, phiền khát, cuồng táo, ban chẩn, đầu đau, mặt nóng, họng khô, họng đau, miệng lở, ung nhọt, tiểu không thông, động huyết. Đó là các triệu chứng dương hư, âm hư, khí thực, huyết hư. Nếu mạch Hồng Đại hết mức, thậm chí gấp 4 lần trở lên, đó là âm dương ly tuyệt, là mạch của chứng quan cách, không thể chữa được".
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi: "Mạch Hồng là Đại mà Sác, mạch khí đến tiếp nối như chuỗi hạt châu, ấn tay thấy hơi hoãn, không giống như loại mạch Thực là ấn tay nhẹ hoặc mạnh đều thấy bật lên. Mạch Hồng là triệu chứng của hỏa khí nung đốt. Trương Trọng Cảnh có nói: Sau khi uống bài 'Quế chi thang', mồ hôi đã ra nhiều mà phiền khát vẫn không giải, mạch Hồng... là bệnh ôn... đã dùng phép hạ nhiều lần mà nhiệt không giải, mạch vẫn Hồng không giảm, gọi là chứng 'hoại', khó chữa. Hồng là mạch biểu hiện của dương khí tràn đầy, âm khí sắp tuyệt. Mạch Phù mà Hồng cơ thể ra mồ hôi như dầu là Phế tuyệt. Tạp bệnh thấy mạch Hồng đều là triệu chứng của hỏa khí vượng. Nếu sau khi bệnh hư nhược, hư lao, mất máu, tiêu chảy, chân khí thoát mà thấy mạch Hồng thịnh là nghịch, khó trị".
- Sách 'Y cấp' ghi: "Mạch Hồng là tượng của hỏa, là tượng vượng khí của mùa hạ, mạch hình thịnh mà Đại. Nếu cho rằng Phù Đại có lực là Hồng thì Trầm thịnh Đại chẳng phải là Hồng sao? Vì vậy tượng mạch thấy thịnh Đại đều phải lấy mạch Hồng mà luận vậy".
Bài ca Mạch HỒNG (Dương) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Mạch Hồng lại thịnh đi suy,
Dưới tay lai láng, ứng khi mùa hè.
Xuân, thu, đông thấy Hồng thì,
Thăng dương tán hoả còn nghi ngại gì.
Tương loại: Mạch Hồng khi lại chứa chan,
Đi suy lại thịnh như làn sóng lên.
Thực cũng tựa Hồng chớ quên,
Xem thấy Trường Huyền mà rắn rỏi hơn.
Chủ bệnh: Mạch Hồng dương thịnh huyết hư,
Tướng hỏa bốc mạnh có dư nhiệt tà.
Tiết lỵ còn thể dần dà,
Trướng đầy, phiên vị liệu mà chữa ngay.
Thốn Hồng hỏa Thượng tiêu viêm,
Là Tâm hỏa khắc Phế kim chẳng vừa.
Quan Hồng Can hỏa vi hư,
Xích Hồng âm hỏa Thận hư rõ ràng.
Bài ca Mạch HỒNG (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Hồng xem cực lớn thay,
Mông mênh nước lớn so nay khác gì.
Khi lại thịnh, khi đi suy,
Dưới tay gờn gợn ấy thì chẳng sai.
Chủ bệnh: Mạch Hồng chủ bệnh phải hay,
Chủ bệnh thịnh dầy, khí ủng hỏa công.
Tả thốn lưỡi lở tâm phiền.
Hữu thốn Hồng khí nghịch lên, ngực đầy.
Tả quan Can mộc thịnh thay,
Hữu quan Tỳ thổ trướng đầy nóng ran.
Tả xích thủy khô tiện nan,
Hữu xích long hỏa cháy tràn bốc lên.
H- Y án Mạch Hồng
Y án Mạch HỒNG - Sác
(Trích trong 'Danh y loại án')
"Chu Đan Khê chữa cho một người già vốn đã nghèo khó bị chứng đau đầu, sợ lạnh, phát sốt, xương khớp đau, không ra mồ hôi, thỉnh thoảng nói xàm. Người bệnh đã tự ý uống bài 'Sâm tô ẩm' để phát hãn nhưng mồ hôi đã ra nhiều mà sốt vẫn không giảm. Đến ngày thứ 4, Chu Đan Khê xem mạch thì thấy Hồng Sác, bên trái rõ hơn. Đó là do đói, vì vậy Vị hư, lại thêm khó nhọc, tuy Dương minh bị hàn khí xâm phạm nhưng không được dùng phép công kích mà phải dùng phép đại bổ, chờ đến khi vị khí sung mãn thì sẽ tự ra mồ hôi mà khỏi. Cho uống Nhân sâm, Đương quy, Bạch truật, Trần bì, Chích thảo, mỗi thang lại uống thêm 1 lát Phụ tử. Trong ngày uống luôn 5 thang. Đến ngày thứ 5 thì miệng hơi khô, lời nói đã có thứ tự, các chứng tuy bớt nhưng nóng vẫn chưa giảm, liền bỏ Phụ tử, thêm Thược dược. Qua 3 ngày nữa, mồ hôi tự ra, hết sốt, mạch tuy không tán nữa nhưng vẫn còn Hồng Sác... Qua mấy ngày nữa thì thấy tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy tức khó chịu, nằm ngửa thì nước tiểu rỉ ra. Chu Đan Khê nói: "Đó là do thuốc bổ chưa đủ sức". Dùng phương thuốc cũ, tăng gấp bội Nhân sâm, Hoàng kỳ, được 2 ngày thì tiểu tiện thông. Lại dùng thuốc bổ thêm nửa tháng thì khỏi hẳn".
Y án Mạch Phù HỒNG
(Trích trong 'Cổ kim y án').
"Uông Thạch Sơn chữa một người tuổi gần 60, người mập mà trắng, đàm suyễn kêu như kéo cưa, đêm không nằm được. Xem mạch thấy Phù Hồng, trong 6-7 lần đập có khi thấy kết. Uông Thạch Sơn nói rằng: "Suyễn mà thấy mạch Hồng thì chữa được, mạch Kết là do đờm ngưng trệ gây ra. Nên dùng bài 'Sinh mạch thang' (Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị tử) thêm Trúc lịch". Uống đến 10 thang thì bệnh mới yên. Người bệnh thấy vậy, cho là chậm, tự ý dùng bài 'Tam húc thang', 'Ngũ húc thang'... thì bệnh lại trầm trọng, vì vậy lại phải dùng phương thuốc cũ. Uống hơn 30 thang mới khỏi bệnh".
Y Án Mạch HỒNG Đại
(Trích trong 'Cổ kim y án')
"Tiết Lập Trai chữa một người bệnh tên Vương Dĩ Đạo, nguyên khí vốn đã suy nhược lại thêm lo học thi, vì vậy đến mùa đông thì phát sốt cao, mắt đỏ, chảy nước mắt, hơi thở trầm trầm, muốn tuyệt, mạch Hồng Đại bật lên ngón tay, ấn tay xuống lại thấy như không có, lưỡi khô nổi gai, đây là biểu hiện chân (thực) hàn ở bên trong, giả nhiệt ở bên ngoài. Cho uống bài 'Thập toàn đại bổ thang' (Bạch truật, Bạch thược, Bạch linh, Nhân sâm, Thục địa, Cam thảo, Đương quy, Xuyên khung, Hoàng kỳ, Nhục quế ) và nói: uống thuốc này vào thấy mạch khí thu liễm lại là tốt. Uống vào một lát thì ngủ say, lại sợ lạnh, phải mặc thêm áo, mạch Vi Tế như sợi dây. Đây là chân tượng của hư hàn đã hiện ra. Cho uống Nhân sâm 40g, Thục Phụ tử 12g. Đến tối mạch lại thoát. Cho uống Nhân sâm 80g, Thục Phụ tử 20g, thì mới đỡ. Sau đó cho uống đại tễ Nhân sâm, Hoàng kỳ, Quy thân, Chích thảo để điều dưỡng thì bệnh mới khỏi".
Y án Mạch HỒNG Hoạt
(Trích trong 'Tạp chí Đông Y' số 164/ trang 9)
"Bùi Thị M. 25 tuổi. Có thai 3 tháng, đi chợ về gặp trời nắng nên phát sốt cao, nhức đầu, mệt, muốn ói, cơ thể tay chân nặng nề, nhức mỏi, tiếng nói hơi nặng, mặt đỏ, rêu lưỡi nhờn, mạch Hồng hoạt.
Chẩn đoán: Thử kiêm thấp.
Điều trị: An thai, hóa thấp, trừ thử.
Dùng: Trữ ma căn 16g, Bố chính sâm 16g, Tô diệp, Hương nhu, Biển đậu, Bạch truật đều 10g, Hoắc hương, Trần bì đều 6g, Chi chi 4g, Ô mai 1 quả, Táo 3 quả, Gừng sống 3 lát. Sắc uống nóng. Uống 3 thang thì khỏi".
Y án Mạch HỒNG Sác
(Trích trong sách 'Thiên gia diệu phương ').
"Mẫu XX, nam 37 tuổi, cán bộ. Vì nguyên nhân kinh tế mà tình chí bị u uất, sau đó sinh ra liệt dương, xuất tinh sớm, làm cho vợ chồng bất hòa, tư tưởng càng thêm nặng nề, thường hay bị váng đầu, mất ngủ. Tiếp theo phát hiện bị đái tháo đường. Đã đi khám và xác định bệnh, được nhận nằm điều trị. Kiểm tra: cơ thể gầy ốm, đầu váng, mất ngủ, khát nước, uống nhiều đi tiểu nhiều lần, hay ra mồ hôi trộm, mạch Hồng Sác, lưỡi không rêu. Kiểm tra đường niệu vào sáng, trưa, tối đều dương tính. Cho dùng bài 'Sinh mạch bạch hổ thang gia vị ( Đảng sâm 50g, Mạch môn 40g, Ngũ vị tử 10g, Tri mẫu 20g, Cam thảo 10g, Hồng mai 16g), lại thêm Thạch cao 50g, Phấn hoa 50g. Uống 6 thang, các chứng giảm nhiều nhưng vẫn ra mồ hôi trộm. Cho uống 3 thang bài 'Đương quy lục hoàng thang' (Đương quy, Sinh địa, Huyền sâm, Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá, Hoàng kỳ, Bối mẫu ) thì mồ hôi mất hẳn. Tiếp theo lại dùng bài 'Sinh mạch bạch hổ thang gia vị' đồng thời động viên an ủi giúp cho tinh thần vui vẻ, dặn chú ý ăn uống điều độ. Hơn 1 tháng, bệnh khỏi, trở về làm việc bình thường".
MẠCH HUYỀN
( - Wiry (Tight) Pulse - Pouls Tendu)
A- Đại cương
- Huyền là dây (đàn, cung...) sức mạnh đi trong đường của mạch như có sợi dây cứng thẳng, nên gọi là Huyền.
- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 18) nhắc đến mạch Huyền là mạch tượng của Can, mùa xuân.
- Chương 'Phúc trướng hàn sán túc thực bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Sác mà Khẩn là mạch Huyền".

B- Hình tượng mạch Huyền

- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi : "Mạch Huyền thẳng mà dài".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi : "Mạch Huyền hình dạng giống dây cung, đè mạnh tay vào không thay đổi".
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Huyền ấn vào căng thẳng như ấn vào dây cung".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Huyền như sợi dây dài căng thẳng".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Huyền ấn vào thấy căng thẳng như ấn vào dây cung, thỉnh thoảng thấy Sác".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HUYỀN
- Sách 'Tam tài đồ hội' và sách 'Đồ chú Nan kinh mạch quyết' ghi hình vẽ mạch Huyền như sau:
- Sách 'Mạch chẩn' vẽ hình biểu diễn mạch Huyền như sau:
- Sách 'Kết hợp YHCT Và YHHĐ trong lâm sàng' ghi nhận về hình vẽ mạch Huyền qua máy và nhận xét như sau: "Trên đường biểu diễn, sóng đầu tiên của mạch sau khi lên đến đỉnh còn đi ngang thêm 1 đoạn nữa rồi mới đổ xuống, vì vậy đỉnh của sóng đầu tiên có hình bằng phẳng (cao nguyên). Điều này phù hợp với mô tả của các sách xưa là khi bắt được mạch Huyền, có cảm giác như sờ vào dây cung hoặc dây đàn căng cứng dưới tay".
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Huyền
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Huyền... do hư lao, nội thương, khí trung tiêu không đủ, thổ (Tỳ Vị) bị mộc (Can) khắc".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi :"Can chủ sơ tiết, điều sướng khí cơ, nếu tà khí uất kết ở Can, làm mất chức năng sơ tiết, khí uất không thông lợi, sẽ sinh ra mạch Huyền. Hoặc các chứng đau, đờm ẩm, khí cơ ứ trệ, âm dương không hòa, mạch khí do đó bị căng ra, gây nên mạch Huyền".
- Sách 'Trung y biện chứng luận trị giảng nghĩa' ghi: Nguyên nhân phát sinh mạch Huyền thường do:
Lượng máu ở tim tống ra tăng lên.
Sức co của thành mạch máu tăng.
Huyết áp cao.
Động mạch bị xơ cứng, trương lực của động mạch cao hơn bình thường.
D- Mạch Huyền chủ bệnh
- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 18) ghi: "Mạch án về mùa xuân, có vị khí mà mạch hơi Huyền là bình thường, Huyền hơi nhiều mà vị khí ít là bệnh ở Can, chỉ thấy mạch Huyền mà không có vị khí thì sẽ chết".
- Chương 'Biện thái dương bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn mà thấy mạch ở bộ thốn Sáp, bộ xích lại Huyền thì trong bụng đau nhiều".
- Chương 'Ngược tật bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Thầy nói: Bản mạch của bệnh sốt rét là mạch Huyền".
- Chương 'Thấp kính trúng thử mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Ôi mạch của bệnh kính, đè xuống thấy Khẩn như Huyền, đi lên xuống thẳng băng".
- Chương 'Đờm ẩm, khái thấu mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch song Huyền là hàn, đều là do sau khi cho xổ mạnh, trong người dễ bị hư. Mạch thiên Huyền là bệnh ẩm".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Mạch kinh) ghi: "Mạch có Huyền, Phù, Khẩn, Hoạt, Trầm, Sáp, 6 mạch này gọi là tàn tặc, đều là mạch có bệnh".
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Các mạch Trầm, Sáp, Nhược, Huyền, Vi là các mạch âm... bệnh thuộc dương mà thấy mạch âm thì chết".
- Chương 'Ẩu thổ uế hạ lợi mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Tiêu chảy mà mạch lại Huyền, phát sốt, ra mồ hôi là bệnh sắp khỏi".
- Chương 'Phúc trướng hàn sán mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Thốn khẩu mạch Huyền là dưới hông sườn bị đau nhiều, gai rét, sợ lạnh".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Huyền chủ đờm ẩm, sốt rét lâu ngày. Bộ thốn Huyền là đầu nhức, đờm nhiều. Bộ quan Huyền thì nóng lạnh, trưng hà. Bộ xích Huyền chỉ đồi sán, chân bị co rút".
- Mục 'Hiệu chính Tần Hồ mạch học' (Đồ chú Nan kinh mạch quyết) ghi: "Mạch bộ thốn Huyền chủ đầu đau, hàn nhiệt (sốt rét). Bộ quan Huyền là Vị bị hàn, ngực bụng đau. Bộ xích Huyền là trúng âm sán".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Bộ thốn Huyền thì nước đọng ở hạ tiêu, đầu đau, bụng đau cấp. Bộ quan Huyền thì mộc khí bị hại không sinh được nhiệt, bụng đau do Vị bị hàn. Bộ xích Huyền thì thủy khí đọng hạ tiêu, ruột đau, dưới rốn gò đau".
- Sách 'Mạch học tinh nghĩa' ghi: "Mạch Huyền chủ mắt đỏ, chóng mặt, huyết áp cao, hồi hộp, hay quên, thần kinh suy nhược".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Huyền thấy ở chứng Can phong, khí uất, đờm ẩm mà đau".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Huyền chủ tà ở Can vượng, Tỳ yếu, bệnh ngược (sốt rét), đờm ẩm, đầy trướng, đau 2 bên hông sườn, sán khí, tích kết, chứng tý".
Tả Thốn HUYỀN
Đầu đau, lo sợ, mồ hôi trộm.
Hữu Thốn HUYỀN
Phế cảm phong hàn, ho.
Tả Quan HUYỀN
Sườn đau, sán khí.
Hữu Quan HUYỀN
Tỳ Vị bị hàn, bụng đau.
Tả Xích HUYỀN
Bụng dưới đau.
Hữu Xich HUYỀN
Quanh rốn đau, thủy tích ở hạ tiêu.
E- Mạch Huyền kiêm mạch bệnh
- Thiên 'Thị thung dung luận' (Tố vấn 76) ghi: "Mạch Phù mà Huyền là Thận bất túc".
- Chương 'Biện Thiếu dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn mà mạch Huyền Tế, đầu đau, phát sốt là thuộc về Thiếu dương".
- Chương 'Ẩu thổ, uế, hạ lợi mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Tiêu chảy mà mạch Trầm Huyền thì phần dưới nặng nề".
- Chương 'Đờm ẩm khái thấu mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Trầm mà Huyền là huyền ẩm, đau ở trong. Mạch Huyền Sác mà có huyền ẩm, mùa đông và mùa hạ khó chữa. Người bệnh ho kinh niên, mạch Huyền là có nước đọng".
- Chương 'Hồi trùng bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Trong bụng đau thì mạch phải Trầm Huyền, nếu Hồng Đại là có giun".
- Chương 'Huyết tý hư lao mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Đàn ông bình thường mà mạch Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh là hư lao".
- Chương 'Kinh qúy thổ nục mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Người bệnh mặt nhợt nhạt, không nóng lạnh, mạch Trầm Huyền thì chảy máu cam. Thốn khẩu mà mạch Huyền Đại. Huyền là giảm, Đại là khâu. Giảm là hàn, Khâu là hư. Hư hàn kích bác nhau gọi là mạch Cách. Đàn bà có mạch này thì đẻ non, lậu hạ, đàn ông thì mất máu".
- Chương 'Ngược tật bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Huyền, Sác là nóng nhiều, Huyền, Trì là lạnh nhiều".
- Chương 'Huyết tý hư lao mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Đàn ông mạch Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh, hơi thở ngắn, bụng đau nhiều, tiểu không thông, sắc mặt trắng, thỉnh thoảng hoa mắt, chảy máu cam, bụng dưới đầy, các chứng này do bệnh lao gây ra".
- Chương 'Phúc trướng hàn sán mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch phu dương Vi, Huyền, đáng lẽ bụng phải đầy, nếu không đầy thì phải táo bón, 2 bên sườn đau nhức. Đó là hư hàn từ dưới xông lên. Dưới hông 1 bên đau, phát sốt, mạch Huyền, Khẩn, đó là hàn. Bụng đầy, mạch Huyền mà Khẩn. Huyền thì vệ khí không vận hành tức là sợ lạnh, Khẩn thì không muốn ăn. Tà và chính kích bác gây ra chứng hàn sán".
- Chương 'Thủy khí bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Thốn khẩu mạch Huyền mà Khẩn. Huyền là vệ khí không vận hành tức là sợ lạnh, thủy không thấm nhuần đến các nơi liền chạy vào giữa ruột".
- Chương 'Thấp kính trúng thử mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Thái dương trúng nắng phát sốt, sợ lạnh, cơ thể nặng mà đau nhức, mạch Huyền, Tế, Khâu, Trì, đi tiểu xong thì rùng mình, tay chân lạnh, hễ làm việc một tí thì người nóng lên, miệng há ra, hàm răng trên khô".
- Chương 'Tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Huyền Tiểu là chứng hàn tiết".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Trầm Huyền là bị chứng huyền ẩm gây đau ở trong".
- Chương 'Trì tật đoản trường mạch bệnh' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Trường mà Huyền là bệnh ở tạng Can".
- Chương 'Can bệnh chứng' (Mạch kinh) ghi: "Can bệnh thì sắc mặt xanh, tay chân co quắp, 2 bên sườn đầy tức hoặc thường bị chóng mặt. Thấy mạch Huyền Trường thì dễ chữa".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Đại mà Huyền là nóng lạnh. Nhuyễn mà Huyền là chóng mặt, hoa mắt, ngón tay tê. Nhược mà Huyền, Tế là huyết hư, gân teo. Thực mà Huyền là hàn thịnh ở bên trong. Trầm mà Huyền là thực, chủ về hạ trọng. Tế Huyền là tạng Can bị hư".
- Mục 'Hiệu chính Tần Hồ mạch học' (Đồ chú Nan kinh mạch quyết) ghi: "Huyền Trầm là chứng huyền ẩm gây ra đau ở bên trong, Huyền Hư là hoa mắt chóng mặt. Huyền Trì là quá nhiều hàn. Huyền Tế là co rút cấp (kinh phong cấp )".
- Sách 'Định Ninh tôi học mạch' ghi: "Huyền Khẩn là sợ lạnh, sán khí, tích tụ. Huyền Hồng là hông sườn đau như dùi đâm".
G- Mạch Huyền và trị liệu
- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận ) ghi: "Thương hàn mà thấy mạch ở bộ thốn Sáp, bộ xích thấy Huyền là trong bụng đau dữ dội. Cho uống bài Tiểu kiến trung thang ( Bạch thược, Nhục quế, Cam thảo, Gừng, Táo). Nếu không bớt, cho dùng bài ''Tiểu sài hồ thang'' ( Sài hồ, Bán hạ, Hoàng cầm, Nhân sâm, Cam thảo, Gừng, Táo)".
- Chương 'Ngược tật bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Huyền, Tiểu, Khẩn thì dùng phép hạ (xổ) sẽ bớt. Mạch Huyền Trì dùng phép làm cho ấm (ôn). Mạch Huyền Khẩn có thể dùng châm cứu để phát hãn".
- Chương 'Phúc trướng hàn sán mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch phu dương thấy Vi, Huyền, đáng lẽ bụng phải đầy, nếu không đầy thì phải táo bón, 2 bên sườn đau nhức, đó là hư hàn từ dưới xông lên, phải dùng thuốc ấm (ôn) mà chữa". Dưới hông một bên đau, phát sốt, mạch Huyền Khẩn, đó là hàn, dùng thuốc ấm mà xổ. Nên dùng bài 'Đại hoàng phụ tử thang' ( Đại hoàng, Phụ tử, Tế tân). Gặp mạch Sác Huyền thì phải xổ cho hàn tà ra".
- Mục 'Hiệu chính Tần Hồ mạch học' (Đồ chú nan kinh mạch quyết) ghi: "
Mạch bộ thốn Huyền dùng bài 'Tiểu sài hồ thang' (Sài hồ, Hoàng cầm, Bán hạ, Nhân sâm, Cam thảo).
Mạch bộ quan Huyền dùng bài 'Phụ tử lý trung thang' ( Bạch truật, Phụ tử, Nhân sâm, Chích thảo).
Mạch bộ xích Huyền dùng bài 'Truật phụ thang' ( Bạch truật, Cam thảo, Phụ tử).
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi:
Mạch bộ thốn Huyền là nước đọng ở hạ tiêu, cho uống bài 'Bát vị địa hoàng hoàn' ( Thục địa, Bạch linh, Hoài sơn, Sơn thù, Trạch tả, Đơn bì, Nhục quế, Phụ tử ).
Mạch bộ quan Huyền là mộc khí bị hại không sinh được nhiệt mà sinh ra hàn, cho uống bài 'Tiêu dao tán' (Sài hồ, Bạch thược, Bạch truật, Đương quy, Phục linh, Chích thảo).
Mạch Hữu quan Trầm Huyền là hàn, cho uống bài 'Phụ tử lý trung thang' (Bạch truật, Phụ tử, Nhân sâm, Chích thảo). Hoặc bài 'Lục quân tử thang' ( Bạch truật, Bạch linh, Nhân sâm, Cam thảo, Bán hạ, Trần bì) thêm Can khương.
Mạch bộ xích Huyền là thủy khí đọng ở hạ tiêu, cho uống bài 'Ngũ linh tán' (Trư linh, Phục linh, Bạch truật, Trạch tả, Quế chi) hoặc bài 'Truật phụ thang' (Bạch truật, Cam thảo, Phụ tử).
H- Mạch Huyền qua các lời bàn
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Huyền... có thuyết cho rằng mạch Huyền ấn nhẹ không thấy gì, lại có thuyết cho rằng Phù Khẩn là mạch Huyền".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) viết: "Mạch Huyền¿ thuộc loại dương trung phục âm, là khí huyết bất hoà, khí nghịch, uất thắng, Can cương, Tỳ hư, hàn nhiệt, đờm ẩm, trú thực, tích tụ, trướng mãn, hư lao, đau đớn, ngược lỵ, sán tý, ngực sườn đau".
- Chương 'Sơ mạch mạch quyết' (Y học nhập môn) viết: "Mạch Huyền là huyết suy yếu, có lao thương, trung hư, hàn ngưng trệ, ẩm đình trệ, hông sườn đau, cơ thể co rút, sốt rét, kinh hoảng. Mạch Huyền Khẩn thì sợ lạnh, hàn sán, chứng tích¿".
- Sách 'Hoàng hán y học' ghi: "Ông Lý Trung Tử nói rằng: Vương Thúc Hòa nói rằng mạch Huyền như dây cung dương thẳng, Sào Thị nói rằng ấn vào không dời đổi, căng như ấn vào dây đàn cầm, đàn sắt. Ông Đới Đồng Phủ nói rằng từ giữa suốt qua thẳng giăng dưới ngón tay. Các nhà (y gia) bàn về mạch Huyền như vậy, có thể nói rằng thực là sâu xa mật thiết rõ ràng lắm. Ông Ngô Sơn Phủ nói rằng: mạch song Huyền chạy lại như kéo 2 sợi dây là chứng Can bị thực mà đau, nếu đơn Huyền thì chỉ như 1 sợi dây thôi. Ông Từ Trung Khả nói rằng khi nào 1 tay có 2 mạch cũng gọi là song Huyền như thế là người nguyên khí không được mạnh, thường thường hiện ra mạch này, cũng là thuộc về loại hư chứng. Xét rằng mạch Huyền có 3 điều cốt yếu:
1. Tà khí phạm vào kinh Thiếu dương, cho nên sách Kim quỹ ghi: mạch của bệnh sốt rét tất Huyền.
2. Huyết khí thu gân mạch co lại.
3. Vị khí suy bại, mộc tà lẫn thổ.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Nếu mạch Huyền mà lại nhỏ, căng cứng (tế kính) như sờ lên sống dao là hoàn toàn không có vị khí, đa số là khó chữa".
Bài ca Mạch HUYỀN (Âm trong Dương) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Mạch Huyền căng thẳng dây dài,
Can kinh mộc vượng, Thổ này chẳng an.
Giận dầy, thường muốn kêu van,
Mắt mờ, lại nước mắt tràn ra luôn.
Tương loại: Huyền như dây cung thẳng ngay,
Khẩn thì hữu lực như dây sắt cầm (đàn).
Một tượng, một lực chớ lầm,
Lao nhận ở khoảng phục trầm kẻo sai.
Chủ bệnh: Huyền ứng phương đông Đởm Can,
Đờm ẩm, nhiệt hàn, sốt rét liên miên.
Phù trầm, trì, sác, song, đơn,
Phải tuỳ kiêm mạch mà bàn trọng khinh.
Thốn Huyền đầu nhức, nhiều đờm,
Trưng hà nhiệt hàn, Huyền ở tả quan.
Hữu quan đau bụng, vị hàn,
Xích Huyền đồi sán, cước loan phải tường.
Bài ca Mạch HUYỀN (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Huyền giống tựa dây đàn,
Nhưng lại nhẹ nhàng, hư hoạt trơn thay.
Mạch dài mà lại thẳng ngay,
Khi xem mạch ứng dưới tay rành rành.
Chủ bệnh: Mạch Huyền vốn thuộc Can phong,
Thống, ngược, đờm ẩm thuộc trong mạch Huyền.
Tả thốn thì chủ Tâm đau,
Hữu thốn thì chủ nhức đầu, ngực đau.
Tả quan đờm ngược trưng hà,
Hữu quan đau ngực Vị gia có hàn.
Tả xích âm tích hạ tiêu,
Hữu xích bán thống đau nhiều chân co.
Kiêm mạch: Phù Huyền chi ẩm phải tường,
Trầm Huyền huyền ẩm rõ ràng chẳng sai.
Mạch Huyền sác thường nóng thay,
Huyền trì mạch ấy thực nay nhiều hàn.
Hư thì Huyền đại rõ ràng,
Mạch mà Huyền tế thường thường cấp câu.
Thốn dương Huyền hẳn nhức đầu,
Xích âm Huyền hẳn bụng đau dài ngày.
Đơn Huyền ẩm tích phải hay,
Trầm hàn cố lãnh mạch nay song Huyền.
I- Các Y Án Mạch Huyền
Y án Mạch HUYỀN Tế Sác
(Trích trong 'Lâm chứng y án bút ký')
"Quan Thiêm Thái Địch Đường kể rằng: "Con gái tôi, từ lúc nhỏ, vốn tính cao ngạo, sau khi có chồng sinh đẻ nhiều và kinh nguyệt bị bế hẳn, đêm ra mồ hôi trộm thân hình gầy ốm, ăn uống giảm sút". Tôi trả lời rằng: "Mạch Huyền Tế Sác là do lo nghĩ quá sức, huyết bị hư, Can bị táo, vì ưu sầu làm tổn thương Tâm, khiến cho huyết nghịch khí trệ, thần sắc tan mất, vì vậy kinh nguyệt bị bế không thông".
Cho dùng bài 'Bát vị tiêu dao tán' ( Đương quy, Bạch thược, Bạch truật, Sài hồ, Phục linh, Đơn bì, Sơn chi, Chích thảo ) thêm Mẫu lệ, Bối mẫu. Trước hết là phải ức Can khí, kèm theo giải uất, hành kinh.
Uống vài thang thấy có kết quả, đổi dùng tiếp bài 'Bá tử nhân hoàn' (Bá tử nhân, Ngưu tất, Quyển bá, Trạch lan (lá), Tục đoạn, Thục địa ) gia giảm. Uống xong thì khỏi bệnh".
Y án Mạch HUYỀN Tế Không Lực
(Trích trong 'Nữ khoa y học giảng nghĩa')
"Vệ Hữu, cơ thể vốn hư yếu, kinh nguyệt ít. Có khi 4 tuần thấy 1 lần, có khi 3 tháng thấy 2 lần. Đó là kinh nguyệt (thiên quý) không đủ sức đẩy được kinh nguyệt. Huyết dịch ở Thái xung không vượng, không đủ để hoá được kinh thuỷ, sắc mặt không tươi, bụng lạnh đau, đau mà đè vào thì lại dễ chịu, đi tiêu không thoải mái, chất lưỡi trắng nhạt, ít rêu, Mạch Huyền Tế vô lực. Tham khảo cả chứng lẫn mạch chẩn đoán là do gốc thiên quý quá suy. Xung mạch hư hàn. Dùng bài 'Thẩm thị quyết tâm tiễn' làm chủ ( Toàn Đương quy 12g, Đại Thục địa 16g, Tử Đan sâm 12g, Bảo Phục thần 16g, Linh Từ thạch 20g, Tử thạch anh 28g (tán nhỏ), Ô dước 4g, Hương phụ chế 8g, Huyền hồ sách 4g, Quảng uất kim 2,8g, Can Xương bồ 2g, Trầm hương phiến 2,8g, Nhục quế tâm 12g). 2 vị Quế và Trầm tán bột, hoà với cơm. Các vị khác sắc với vài lát Gừng) . Uống 3 thang, chứng đau bụng giảm, bớt chóng mặt, tinh thần tương đối linh hoạt hơn.
Chẩn bệnh lại, bỏ Từ thạch, Xương bồ, Trầm hương và Nhục quế, thêm Bá tử nhân 12g, Trạch lan 12g, Ngưu tất 12g, Trầm hương khúc 12g. Uống liền 8 thang như vậy.
Lần thứ ba khám lại, thấy kinh đến đúng kỳ, các chứng khỏi hết. Kế tiếp cho uống bài 'Bát trân thang' ( Bạch thược, Bạch truật, Bạch linh, Đương quy, Thục địa, Cam thảo, Đảng sâm, Xuyên khung ) gia giảm...".
Y án Mạch HUYỀN Hoạt Kết Đại
(Trích trong 'Thiên gia diệu phương' )
"Vương X, 29 tuổi. Năm 1976, vì thấy trong ngực bực bội, tim hồi hộp nên đi khám và phát hiện ra bị chứng nhịp tim sớm. Trước khi có bệnh bị cảm nhẹ và có bệnh sử đau khớp. Bắt đầu từ năm 1977, sau khi làm việc mệt nhọc thì toàn thân đau mỏi, mệt lả, nhịp sớm dưới dạng tam liên. Đã từng dùng nhiều thuốc tây nhưng không có kết quả rõ. Ngày 5-5-1978, một bệnh viện đã làm điện tâm đồ thấy nhịp sớm tâm thất thành nhịp tam liên. Chẩn đoán là di chứng viêm cơ tim do virus. Ngày 8-5-1978, đến xin điều trị. Trước khi điều trị thì IgA hơi cao. Khám thấy: ngực bực bội, thở dốc, tim hoảng, hồi hộp, nhịp sớm thành nhịp như tam liên. 1 năm nay chưa gián đoạn, ngoài ra thì váng đầu, yếu sức, dạ dày và ruột khó chịu, bụng đầy hơi, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng bẩn, mạch Huyền, Hoạt, Kết, Đại.
Chẩn đoán: Chứng nhịp sớm nhanh do chứng viêm cơ tim do virus (theo YHHĐ) và khí âm lưỡng hư (theo YHCT).
Điều trị: Ích khí dưỡng âm. Cho dùng bài 'Phục phương sinh mạch tán' ( Đảng sâm 12g, Mạch môn 10g, Ngũ vị tử 6g, Đan sâm 16g, Thanh long xỉ (Bạch long xỉ) 16g, Hổ phách (phấn) 1,6g (uống với nước thuốc), thêm Hoàng kỳ 10g, Bạch truật 10g, Bạch thược 10g, Hoài sơn 12g, Sa mễ nhân 30g, Chỉ xác 10g, Trần bì 10g, Mộc hương 10g ). Sắc uống ngày 1 thang. Sau khi uống 14 thang thì nhịp sớm cơ bản đã hết, trong 24 giờ chỉ còn một vài lần. Lúc đến phòng khám thì nhịp tim tốt. Sau khi vận động đứng lên ngồi xuống 20 lần cũng không thấy nhịp sớm xuất hiện. Các triệu chứng về dạ dầy và ruột đã bớt. Vẫn tiếp tục điều trị bằng bài thuốc trên hơn 2 tháng nữa thì cảm thấy các triệu chứng đã khỏi hết. Điện tâm đồ và IgA đều hồi phục như thường, đại tiểu tiện cũng bình thường. Theo dõi một năm rưỡi sau chưa thấy còn nhịp sớm".
MẠCH HƯ
( - Empty Pulse - Pouls Vide)
A- Đại cương
- Thiên 'Chung thỉ' (Linh khu 9) ghi: "Mạch Đại như cũ mà không cứng là Hư".
- Sách 'Mạch quyết san ngộ' ghi : "Hư nghĩa là ở giữa bất túc, nhược mà không lực, vì vậy gọi là Hư".
- Sách 'Y biên' ghi: "Hư là không Thực".
B- Hình tượng mạch Hư
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (M.Kinh) ghi: "Mạch Hư thì Đại, Trì mà Nhuyễn, ấn xuống thì không đủ mà rỗng".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Hư là tổng hợp 4 mạch Phù, Đại, Trì, Nhuyễn, ấn tay xuống không thấy có gì".
- Sách 'Ngoại khoa tinh yếu' ghi : "Mạch Hư, ấn vào không thấy, Trì, Đại mà Nhuyễn, đè tay xuống, nhấc tay lên đều thấy trống không".
- Sách 'Trung y học khái luận ' ghi: "Mạch đi Phù, Trì mà Nhuyễn, ấn tay xuống không thấy".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hư, 3 bộ mạch ấn nhẹ tay thì vô lực, ấn nặng tay thì mất".
-Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : "Mạch Hư, cả 3 bộ, nhấc tay lên thì không lực, ấn xuống thì trống rỗng".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HƯ
- Sách 'Mạch chẩn' biểu diễn hình vẽ mạch Hư như sau:
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Hư
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Khí không đủ để khua động huyết thì mạch đến vô lực () - Huyết không đủ để nuôi dương khí thì mạch cũng Hư".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' giải thích : "Do khí hư không vận chuyển được huyết, mạch khí hư, huyết hư không thúc đẩy được huyết mạch, cho nên ấn tay xuống thấy trống rỗng. Do khí hư không thu liễm được nên mạch khí tràn ra ngoài. Huyết hư, khí không phù trợ được nên phù ra ngoài, vì vậy bắt mạch thấy lớn mà nhuyễn".
D- Mạch Hư chủ bệnh
- Thiên 'Ngũ tạng sinh thành luận' (Tố vấn 10) ghi: "Mạch của Vị đến Đại mà Hư là có tích khí ở trong bụng, gọi là chứng quyết sán".
- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch của Vị mà Thực là trướng bụng, Hư thì tiêu chảy - Mạch khí lúc đến nhanh, lúc đi chậm, trên Thực dưới Hư, sẽ bị chứng quyết và bệnh ở đầu. Nếu mạch khí lúc đến chậm, lúc đi nhanh, trên Hư dưới Thực là chứng ác phong".
- Thiên 'Thông bình hư thực luận' (Tố vấn 28) ghi: "Mạch khí ở bộ xích và thốn đều Hư thì gọi là chứng trùng Hư - Bị chứng điên thì mạch Hư Thực ra sao? Kỳ Bá đáp: Thấy mạch Hư thì có thể chữa, thấy mạch Thực thì chết".
- Thiên 'Đại kỳ luận '(Tố vấn 48) ghi: "Mạch của Can và Thận đều Hư thì chết".
- Thiên 'Thích chí luận' (Tố vấn 53) ghi: "Mạch Thực thì huyết thực, mạch Hư thì huyết hư, đó là lẽ thường; Trái nghịch như trên là bệnh".
- Chương 'Thương hàn lệ' (Thương hàn luận ) ghi: "Mạch Hư mà cơ thể sốt đó là do thương thử - Mạch ở bộ xích và thốn đều Hư, nóng không bớt thì chết".
- Chương 'Đờm ẩm khái thấu mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Ho đã lâu năm, thấy mạch Hư thì thường chóng mặt, hoa mắt".
- Chương 'Bình tam quan bệnh hậu tịnh nghi trị' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Hư ắt sinh hàn ở Tỳ Vị, gây ra ăn không tiêu".
- Chương 'Âm dương thanh trọc tinh khí tân dịch huyết mạch' (Giáp ất) ghi: "Huyết thoát thì sắc mặt trắng nhạt, mạch thoát thì mạch rỗng Hư".
- Chương 'Kinh mạch [phần Thượng] (Giáp ất) ghi: "Hư thì rỗng ở trong, đại tiện nát, hụt hơi, tiểu tiện đổi màu".
- Sách 'Hoàng đế nội kinh thái tố' ghi: "Mạch Hư là tiêu chảy, là đoạt huyết".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: 'Mạch Hư là cơ thể sốt ( do thương thử ), trống ngực hồi hộp, tự ra mồ hôi, phát nóng, âm hư. Mạch bộ thốn Hư là huyết không nuôi Tâm - Bộ quan Hư là bụng trướng, ăn không tiêu - Bộ xích Hư là nóng âm ỉ ở trong xương, chân tê bại, tinh huyết bị tổn thương".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi : "Mạch Hư chủ chính khí hư, không lực".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Hư chủ chứng huyết hư, thương thử".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hư chủ khí huyết đều hư".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Phù chẩn thấy mạch Hư là huyết hư, trầm chẩn thấy mạch Hư là khí hư".
- Sách 'Định Ninh tôi học mạch' ghi: "Trẻ nhỏ thấy mạch Hư là có kinh phong, người mạnh khỏe có mạch Hư là bị thương thử".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hư chủ khí và huyết đều hư, phế nuy, thương thử, mồ hôi ra nhiều, hồi hộp, chân mềm, ăn không tiêu".
Tả Thốn HƯ
Hồi hộp.
Hữu Thốn HƯ
Khí suy, tự ra mồ hôi.
Tả Quan HƯ
Huyết không nuôi gân.
Hữu Quán HƯ
Hư trướng, ăn không tiêu.
Tả Xích HƯ
Thắt lưng đau, đầu gối tê bại.
Hữu Xích HƯ
Dương suy hoặc trầm hàn.

E- Mạch Hư kiêm mạch bệnh

- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi: "Mạch chân tạng của Phế hiện ra thì Đại mà Hư, như cầm sợi lông chim phết nhẹ vào da".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Bệnh do phong thì mạch phải Phù Hư".
- Chương 'Huyết tý hư lao mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Đàn ông bình thường mà thấy mạch cực Hư là bị hư lao. Đàn ông mà mạch lại Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh... là do hư lao gây ra. Đàn ông bình thường mà mạch Tế, Nhược, Vi thì thường ra mồ hôi trộm".
- Chương 'Phế nuy phế ung mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Sác, Hư là chứng phế nuy".
- Chương 'Ngũ tạng phong hàn mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch chân tạng của Phế hiện ra thì Phù mà phải Hư, ấn tay xuống thấy mềm rỗng như cọng hành, ở dưới không có gốc thì chết".
- Chương 'Biện tam bộ cửu hậu mạch chứng' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở bộ xích Hư Tiểu thì cẳng chân lạnh, đau, tê, bại".
- Chương 'Châm đạo ngoại sưu tửng xã' (Giáp ất) ghi: "Mạch Hoạt mà thịnh là bệnh đang tiến, - Mạch Hư mà Tế là bệnh đã lâu ngày".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch Hư mà Phù là khí hư.
Hư mà Sáp là huyết hư.
Hư mà Sác là âm hư, phế nuy.
Hư mà Trì là dương hư.
Hư mà Nhuyễn là mồ hôi tự ra.
Hư mà Tiểu là chân đau, tê bại.
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Hư mà Sác là âm hư, Hư mà Trì là dương hư".
- Sách 'Định Ninh tôi học mạch' ghi: "Mạch Hư mà Đại là nguyên khí và tinh huyết bị hao tổn vì lao động quá sức. Hư mà Sáp là do phòng lao quá làm cho Thận và khí huyết bị suy yếu".
G- Mạch Hư và điều trị
- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' ghi: "Thương hàn đã 8-9 ngày, phong thấp tương bác lẫn nhau vì vậy cơ thể đau nhức, không thể tự mình xoay trở được, không ói, không khát, mạch Phù Hư mà Cấp. Cho uống bài 'Quế chi phụ tử thang' ( Quế chi. Bạch thược, Phụ tử, Cam thảo, Sinh khương, Táo).
- Chương 'Biện quyết âm mạch chứng tịnh trị'(Thương hàn luận) ghi: "Thương hàn đã 5-6 ngày, không bị kết hung, bụng mềm, mạch Hư, tay chân giá lạnh, không thể dùng phép hạ vì đây là chứng vong huyết, nếu hạ thì sẽ chết".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Gặp mạch Hư thì phải dưỡng vinh ích khí ngay, không được chần chừ".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Bệnh điên mà thấy mạch Hư thì có thể chữa được, nên dùng phương pháp đại bổ. Nếu thấy mạch Thực, Đại mà do đờm kết tụ lâu ngày, dùng phép khu trục đờm không có hiệu quả thì khó chữa".
H- Mạch Hư qua các lời bàn
- Chương 'Mạch thần ' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi: "Mạch Hư là chính khí hư, là vô lực, vô thần (không có thần lực của mạch), có âm có dương. Phù mà vô lực là huyết hư, Trầm mà vô lực là khí hư, Sác mà vô lực là âm hư, Trì mà vô lực là dương hư. Tuy nói rằng mạch Vi, Nhu, Trì, Sáp là hư nhưng phải nói thêm rằng bất kể là mạch nào, nếu thấy vô thần, vô lực thì đều là mạch Hư. Vì vậy, các mạch Hồng, Đại mà không có thần là âm hư, mạch Tế Tiểu mà không có thần là dương hư. Âm hư mà kim và thủy bị hao tân (dịch), long lôi hỏa máy động vì vậy bệnh về thần, hồn và ngũ dịch. Thí dụ như ra mồ hôi, di tinh, kinh sợ, hồi hộp hoặc ho suyễn, tiểu gắt, tiêu ra máu. Dương hư thì hỏa và thổ bị tổn thương, chân khí suy kém vì vậy bệnh ở quân hỏa, tráng hỏa và trung châu như là váng đầu, hoa mắt, vị quản đầy tức, nôn, ợ, vong dương, tiêu chảy, kiết lỵ, bụng đau. Muốn cứu âm thì phải bổ gốc của hỏa. Thấy mạch khí vượng lên thì sống, nếu thấy nhỏ dần thì chết. Thấy mạch Hư mà không bổ thì nguyên khí lấy gì mà hồi phục lại được? Đúng là cửa ải của sự sống chết vậy".
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi: "Mạch Hư là triệu chứng của vinh huyết không đều. Vương Thúc Hòa cho rằng mạch Trì, Đại mà Nhuyễn là Hư. Người bị khí hư, suyễn thở thường thấy mạch Hư, Đại mà Sác. Thế mà lại nói huyết hư thì mạch Hư, đó là chẳng biết rằng Trương Trọng Cảnh đã có nói rằng: "Mạch Hư cả cơ thể nóng là do thương thử". Lý Đông Viên cũng nói: "Mạch ở khí khẩu Đại mà Hư là nội thương vệ khí". Nếu mạch Hư Đại mà Sáp thì mới là nội thương ở phần vệ huyết. Phàm mạch của người huyết hư, nếu không thấy rõ là Sáp, Nhược cũng là Huyền, Tế, Khẩn, Trì. Như chứng thương thử thấy mạch Trì là khí hư, nếu thấy mạch Huyền, Tế, Khẩn, Trì là huyết hư. Người bệnh hư lao tất phải thấy mạch cực Hư mà Khâu, Trì hoặc bộ xích thấy Vi, Tiểu, Tế, đó là huyết mất tinh... Lúc đầu tuy bình thường mà lại thấy mạch Hư, Nhược, Vi, Tế thì thường ra mồ hôi trộm. Xem trên đây thì phân rõ được mạch Hư thuộc khí hư hoặc huyết hư vậy. Thận Trai có nói: "Mạch Hồng Đại mà Hư thì phải đề phòng chứng bị tiêu chảy". Nếu mạch Hư thì phần nhiều là ở Tỳ khí. Thấy kiêm mạch Đại là do khí bị hư, không thu liễm được. Kinh ghi: "Mạch khí ở bộ xích và thốn đều Hư thì gọi là chứng trọng hư". Bệnh ở trong mạch lại Hư thì lại khó chữa. Trương Trọng Cảnh cũng nói: "Mạch Hư thì không thể dụng phép thổ ( làm cho ói ra). Bụng đầy mà mạch Hư, chân tay lạnh thì không thể dùng phép hạ (xổ ra). Mạch ở bộ xích và thốn đều Hư mà nóng không giảm thì chết, (các câu này) không thấy bệnh thực mà mạch lại Hư thì đều khó chữa... Nếu cực Hư mà vị như gió thổi qua lông hoặc cực Hư mà Sác, bềnh bồng như mỡ nổi trên nước, đều là triệu chứng của Phế bị tuyệt".
Bài ca Mạch HƯ (Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng : Mạch Hư trống rỗng phải tường.
Án thường không đủ chí thường có dư.
Tương loại : Mạch Khâu khác với mạch Hư,
Khâu thì Phù Đại rỗng như lá hành.
Chủ bệnh : Hư mình nóng, cảm nắng đây.
Hễ khi hồi hộp lại hay sợ sàng.
Âm hư phát sốt rõ ràng,
Ta phải vội vàng ích khí dưỡng sinh.
Tâm hư huyết chẳng vinh cân,
Quan hư bụng trướng sức ăn kém thường.
Xích hư tinh huyết đều thường,
Cốt chưng nuy tý rõ ràng chẳng sai.
Bài ca Mạch HƯ (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Hư phân biệt cho tinh,
Phù đại trì nhuyễn 4 hình hợp chung.
Mạch xem dường cũng trống không,
Khi ấn tay xuống thì không thấy gì.
Chủ bệnh: Hư chủ huyết hư, thử thương.
Tả thốn hồi hộp sợ sàng, Tâm khuy,
Hữu thốn Hư chủ Phế khuy,
Hoặc là hơi yếu, hoặc là mồ hôi.
Tả quan Hư thương Can rồi,
Vì chân huyết kém không nuôi cân hài.
Hữu quan Hư Tỳ hàn thay,
Ăn không tiêu hóa thực nay thương Tỳ.
Tả xích Hư ấy thủy suy.
Lưng đau gối mỏi cùng thì tề nuy.
Hữu xích Hư ấy hỏa suy,
Bao nhiêu hàn chứng ấy thì lung tung.
H- Các Y Án Mạch Hư
Y án Mạch HƯ Tế Vô Lực
(Trích trong 'Trịnh Hạnh Hiên y án')
"Con của Phương Tụy Nham, bẩm sinh vốn đã yếu lại học hành quá sức nên tâm thần hao tổn. Lúc mới bệnh, thấy hư hỏa bốc lên, sau đó bị hoạt tinh. Chẩn mạch thấy Hư, Tế mà vô lực. Cho uống bài 'Lục vị địa hoàng hoàn' (Đơn bì, Sơn thù, Thục địa, Bạch linh, Trạch tả, Hoài sơn ) nhưng bỏ bớt Bạch linh và Trạch tả đi, thêm Mạch môn, Ngũ vị tử, Viễn chí, Táo nhân, Mẫu lệ, Khiếm thực. Uống mấy thang chưa có kết quả nên lại mời tôi đến, tôi mới nói rằng: đây là do Thủy Hỏa không giao nhau, làm sao mà có hiệu quả nhanh được? Dùng phương thuốc cũ thêm Long cốt, Tật lê, Liên nhụy tu, Tang phiêu tiêu. Đó là hợp với lý của ý 'hoạt thì phải sáp'. Uống được 2 tuần thì hư dương thu liễm lại mà tinh cũng bớt chảy ra. Nhưng vì bệnh lâu ngày nên cơ thể gầy ốm biếng ăn, đó là do Tỳ Vị suy, sách 'Mạch kinh' có ghi: "Thận chủ thủy, nhận tinh của 5 tạng 6 phủ mà tàng giữ. Đó là tinh chứa ở Thận chứ không phải sinh ở Thận... Còn phải bổ Tỳ Vị hậu thiên. Sáng cho uống bài 'Sâm linh bạch truật tán' ( Liên tử nhục, Ý dĩ nhân, Sa nhân, Cát cánh, Bạch biển đậu, Bạch linh, Nhân sâm, Chích thảo, Bạch truật, Sơn dược ), chiều thì dùng phương thuốc cũ - Đó là phân ra Tỳ và Thận mà chữa. Ít lâu sau thì khỏi".
Y Án Mạch HƯ Tế Mà Sáp
(Trích trong 'Trịnh Hạnh Hiên y án')
"Bà già họ Trịnh, tuổi đã hơn 70, bị táo bón, bụng đau, hậu môn sưng, ăn ngủ đều bỏ, bệnh đã hơn 2 tuần, chữa mà không có hiệu quả. Khi mời tôi đến, nói là phải dùng phép hạ. Tôi xem mạch thấy Hư mà Sáp mới nói rằng: "Đây là chứng hư bế, dùng bài 'Bổ trung ích khí' ( Hoàng kỳ, Nhân sâm, Chích thảo, Bạch truật, Trần bì, Đương quy, Thăng ma, Sài hồ ) là đủ, cần gì phải hạ. Uống được 2 ngày đại tiện vẫn không thông. Người bệnh nói là ruột đau quá không thể chịu nổi, phải hạ ngay. Tôi nói rằng: Phép hạ không phải là tôi không biết, nhưng vì sợ rằng tuổi cao, chính khí đã hư hao, nếu dùng phép hạ tất chính khí phải thoát. Nếu bị trướng mà chết thì sao bằng thoát mà chết nhanh hơn. Nghĩ rằng trong sách 'Y học tâm ngộ' có ghi 'Có chứng bệnh không thể hạ mà cũng có chứng bệnh không thể không hạ, nếu hạ không đúng phép ắt hại người'. Tôi suy nghĩ giây lát rồi dùng phép cũ, thêm Đại hoàng 12g, đó là phỏng theo ý 'công ở trong bổ' của người xưa. Uống xong thì bụng sôi lên rồi phát trung tiện, đến chiều thì đại tiện ra được mấy cục phân cứng mới nằm yên được. Ngày hôm sau, thấy bụng dưới còn đau biết là phân chưa ra hết, dùng bài thuốc cũ, giảm bớt nửa liều Đại hoàng. Uống xong thì đi tiêu 2 lần, trước cứng sau lỏng, bụng hết đau, ăn được rồi khỏi".
Y án Mạch HƯ Tế Hoãn
(Trích trong 'Nội khoa học' của Thượng Hải')
"Lâm X, 49 tuổi... Bị bệnh đã hơn 8 năm, tái phát nhiều lần. Các năm 1958-1962 đã nằm viện 2 lần với chẩn đoán là bệnh tiểu đường. Điều trị bằng thuốc đặc hiệu nhưng ngừng thuốc bệnh lại tái phát, gần đây chứng trạng tiến triển, uống nhiều, ăn nhiều, tiểu nhiều, gầy ốm, da tróc vẩy, sắc mặt kém tươi, dáng vẻ thờ ơ, nhạt nhẽo, phản ứng chậm chạp, choáng váng, hoa mắt, tai ù, thị lực giảm, âm nang ẩm lạnh, rêu lưỡi trắng mỏng và trơn, chất lưỡi non nhạt, mạch Hư Tế mà Hoãn.
Xét nghiệm: Lượng đường trong huyết: 290mg%, Lượng đường trong nước tiểu 4 +. Tỷ trọng 1.038.
Chẩn đoán: Bệnh tiêu khát (tiểu đường).
Điều trị: Thục địa 16g, Hoài sơn 20g, Thiên hoa phấn 20g, Mạch môn 12g, Nhục quế 4g, Sơn thù 12g, Đơn bì 12g, Thiên Môn 12g, Hoàng kỳ (sống) 20g, Phụ tử 8g, Sắc uống chung với Kim qũy thận khí hoàn ( Thục địa, Hoài sơn, Đơn bì, Quế chi, Sơn thù, Phục linh, Trạch tả, Phụ tử ). Sau khi uống hết 24 tháng (2 năm), các chứng tạng tiêu trừ hết. Theo dõi thêm 12 tháng sau vẫn không tái phát. Kiểm tra lại lượng đường trong máu: 123mg%, lượng đường trong nước tiểu (-) (âm tính)".

I- Mạch HƯ Và Các Mạch Khác
(Theo sách 'Tân biên Trung y học khái yếu')
Mạch gốc
Đặc điểm
Tên mạch gốc
Hình thái mạch
Hội chứng tương ứng
Loại
mạch
(05 mạch)
Chạm
vào
ngón
tay
như
thiếu
sức,
không
sức.
Ấn tay xuống không thấy có gì, nâng tay lên thấy mạch yếu không có sức.Chứng hư, khí và huyết hư.
TẾ
Nhỏ như sợi chỉ thấy rõ dưới tay.Hư chứng, lao tổn, âm hư, thấp.
VI
Rất nhỏ, mềm như không có, mạch đập nghe không rõ.Hư chứng, dương suy. Bệnh nguy.
ĐẠI (ĐỢI)
Mạch đập có lúc dừng như không thấy trở lại, chờ khá lâu mới thấy trở lại.Khí của tạng do sợ hãi gây ra tổn hại.
ĐOẢN
Đầu đuôi đều ngắn, thân mạch không thấy được dù ở mọi bộ vị.Không có sức, khí bị hư tổn.

Trần Tu Viên nhận định:
- Mạch Hư mà đi ngắn là mạch Đoản.
- Hư mà Phù,Tế là mạch Nhu.
- Hư mà Trầm Tế là mạch Nhược.
- Hư mà có sự ngăn trở là mạch Sắc.
- Hư mà qua lại không rõ gọi là mạch Vi.
Vậy mạch Đoản, Nhu, Nhược, Sắc và Vi đều dựa vào mạch HƯ.

MẠCH KẾT
( - Knotted Pulse - Pouls Noue)
A- Đại cương
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch đến Hoãn có lúc ngừng rồi lại tiếp, gọi là mạch Kết".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư ) ghi: "Mạch đến chợt ngưng rồi lại tiếp thì gọi là Kết".
- Thuộc loại mạch âm.
B- Hình tượng mạch Kết
- Nan thứ 18 (Nan kinh) ghi: "Kết là mạch qua lại có lúc ngừng, số lần đập không nhất định".
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Kết qua lại Hoãn, có lúc ngừng rồi lại tiếp tục".
- Chương 'Mạch thần' (Cảnh Nhạc toàn thư) ghi: "Nếu thấy mạch có khi ngưng nghỉ gián đoạn thì phải gọi chung là mạch Kết".
- Chương 'Thương hàn thất trị' (Thương hn thích nghĩa tập) ghi: "Kết là đá kết tụ, mạch qua lại có lúc ngưng nghỉ gián đoạn như dây có thắt nút".
- Sách 'Mạch học tập yếu' ghi: "Mạch Kết... số lần đập không đều, hoặc đập 5-7 lần thì ngưng hoặc đập 10-20 lần mới ngưng".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Kết đến chậm chạp, có khi thấy ngưng hẳn".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Kết đến từ từ, thỉnh thoảng ngừng 1 cái, không có số nhất định".

HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH KẾT
- Sách 'Mạch chẩn' biểu diễn hình vẽ mạch Kết:
C- Nguyên nhân gây ra mạch Kết
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Kết là do khí huyết ngưng kết, táo đờm ủng trệ".
- Sách 'Cảnh Nhạc toàn thư' ghi: "Mạch Kết do phần nhiều khí huyết suy dần, tinh lực sút kém, vì vậy, mạch ngưng rồi lại đập, đập rồi lại ngưng".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' giải thích rằng :"Mạch Kết do khí bị hư, huyết bị Sáp, tà khí kết tụ ở kinh mạch. Hư suy thì khí lực kém, kết tụ thì làm cho kinh mạch bị trở ngại, vì vậy mạch khí trôi chảy không được lưu lợi mà lại có gián đoạn".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Kết do âm thịnh, dương khí không thể điều hòa, vì vậy mà mạch đến từ từ mà thỉnh thoảng lại ngừng".
- Sách 'Tân biên Trung y học khái yếu' ghi: "Nơi người bệnh có mạch Kết, điện tâm đồ thấy có hình ảnh ngoại tâm thu nhĩ hoặc hình ảnh rung nhĩ hoặc hình ảnh ngoại tâm thu thất hoặc hình ảnh bloc nhĩ thất. Trường hợp ngộ độc Digitalin có thể phát sinh ra mạch Kết".
D- Mạch Kết chủ bệnh
- Chương 'Biện tam bộ cửu hậu mạch chứng' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Kết ở bộ quan là trong bụng có tích tụ".
- Chương 'Biện quyết âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Người bệnh chân tay quyết lãnh, mạch bất thình lình thấy Kết là tà khí tích tụ ở ngực, vì vậy mà ngực đầy tức, đói mà không ăn được".
- Chương 'Mạch âm dương loại thành'(Chẩn gia khu yếu) ghi: "Mạch Kết... âm thịnh mà dương không vào được, là trưng kết, uất do thất tình".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Kết... trong là tích tụ, ngoài là ung nhọt, sán, hà".
- Sách 'Mạch học tập yếu' ghi: "Mạch Kết là khí huyết kết tụ".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Kết thấy ở chứng tích trệ, ngừng kết bên trong".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Kết chủ âm thịnh, khí kết, khí ủng tắc, đờm trệ, tích tụ, ứ huyết, trưng hà, hàn đàm, khí uất".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Kết chủ khí huyết ngưng trệ, ngoan đờm nội kết, túc thực đình trệ, trưng hà, tích tụ, sán thống, thất tình uất khí".
Tả Thốn KẾT
Tim đau.
Hữu Thốn KẾT
Khí trệ.
Tả Thốn KẾT
Sán hà.
Hữu Quan KẾT
Đờm trệ.
Tả Xích KẾT
Tiểu không thông.
Hữu Xích KẾT
Trưng hà.

E- Mạch Kết kiêm mạch bệnh
- Chương 'Âm dương loại thành' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Mạch Phù Kết là hàn tà trở trệ ở kinh lạc. Trầm Kết là tích tụ ở trong, Hoãn mà Kết là dương hư, Sác mà Kết là âm hư".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch Kết mà Phù là hàn tà ủng trệ ở kinh lạc.
Kết mà Trầm là khí tích ở bên trong.
Kết mà Sác là nhiệt.
Kết mà Hoạt là háo đờm, thủy ẩm.
Kết mà Sáp là tích ứ ở trong.
G- Mạch Kết và đều trị
- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thái dương bệnh, thân thể vàng, mạch Trầm Kết, bụng dưới cứng, tiểu không thông là chứng vô huyết. Nếu tiểu không thông, người bệnh như cuồng là chứng về huyết. Cho uống bài 'Để đương thang' ( Thủy điệt, Mang trùng, Đại hoàng, Đào nhân). Thương hàn mà mạch Kết, Đại, hồi hộp, cho uống bài 'Chích cam thảo thang' ( Chích thảo, Quế chi, A giao, Sinh địa, Mạch môn, Nhân sâm, Ma nhân, Sinh khương, Đại táo )".
- Chương 'Biện quyết âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Người bệnh tay chân quyết lãnh, mạch bất thình lình Kết, là tà khí kết tụ ở ngực... Bệnh ở ngực vì vậy phải dùng phép thổ ( làm cho ói ra )".
H- Mạch Kết qua các lời bàn
- Chương 'Mạch âm dương loại thành' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Mạch Kết... âm thịnh mà dương không vào được, là trưng kết, uất do thất tình. Phù Kết là hàn tà trở trệ ở kinh lạc, Trầm Kết là tích khí ở trong, là khí, huyết, ăn uống, đàm. Trước hết thì khí hàn làm ủng trệ gây ra mạch Kết. Vì vậy Trương Trường Sa (Trọng Cảnh) mới nói rằng mạch Kết Xúc đều là các mạch có bệnh".
- Sách 'Cảnh Nhạc toàn thư' ghi: "... Các đời trước đều nói rằng mạch Sác mà có gián đoạn là mạch Xúc. Xúc là nhiệt, là dương cực. Mạch Hoãn mà có gián đoạn là mạch Kết, Kết là hàn, là âm cực. Lại nói là do khí huyết, ăn uống, đàm, tích tụ. trưng hà, thất tình, uất kết... Theo tôi nghiệm thấy thì mạch Xúc cũng như mạch Sác, vị tất đã là nhiệt. Mạch Kết cũng như mạch Hoãn, chưa chắc đã là hàn. Nếu thấy mạch có khi bị ngưng nghỉ gián đoạn thì đều gọi chung là mạch Kết. Phần nhiều do khí huyết suy dần, tinh lực kém, vì vậy ngưng rồi lại đập, đập rồi lại ngưng. Các bệnh lâu ngày, hư lao hoặc dùng các phương pháp công kích, tiêu, phạt... thì thường thấy mạch này... Hoãn mà Kết là dương hư - Sác mà Kết là âm hư... Hoãn thì còn đỡ, Sác là bệnh nặng thêm, là kết càng nhiều. Xem đó thì có thể biết sự tiêu trưởng của nguyên khí. Thí dụ các chứng uất kết lưu trệ, vốn ứng với mạch Kết, nay thấy hình thể người bệnh suy yếu, khí thực, mạch ấn tay nhẹ hoặc mạnh đều có lực thì biết đó là do uất trệ. Nếu thấy không có bệnh mà hiện ra mạch Kết, đó là do bẩm phú khác thường, không phải lo. Ngoài ra, hễ bệnh có giảm mà thấy mạch Kết là khí huyết suy tàn, đầu đuôi không tiếp ứng, cần bồi bổ gấp phần căn bản chứ không thể nói là do ủng trệ được".
- Sách 'Mạch học tập yếu' ghi: "Phương Long Đàm nói rằng mạch Kết là khí huyết kết trệ, số lần đập không đều, hoặc đập 5-7 lần thì ngưng, hoặc đập 10-20 lần mới ngưng. Tên mạch Kết bắt đầu từ thiên 'Chung thỉ' sách Linh khu, và Nan thứ 18 sách Nan kinh. Trong chương 'Biện mạch pháp' sách 'Thương hàn luận' ghi rằng mạch Hoãn mà có gián đoạn là mạch Kết, mạch Sác mà có gián đoạn là mạch Xúc. Xét kỹ thì thấy lập luận trên nghịch với ý của Trương Trọng Cảnh. Huống chi nói Hoãn đối với Sác rồi nói Hoãn là chậm thì lại càng sai. Bản ý của Trọng Cảnh chỉ nói mạch Kết là tên gọi chung của các mạch có ngưng nghỉ, gián đoạn. Năm ngoái tôi có chữa một người bị ôn dịch, xem mạch thấy có lúc ngừng. Người con đến nhờ xem mạch cũng có mạch Kết. Nhân lúc đó mới thử xem mạch 3 người con khác thì cũng đều thấy mạch Kết giống như người cha. Vì vậy mới biết mạch Kết do bẩm phú của Trương Trọng Cảnh là không ngoa vậy".
Bài ca Mạch KẾT (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng : Kết thì hoãn có khi ngừng,
Trọc âm quá thịnh, muốn chùng vong dương.
Phù trệ, trầm tích phải tường.
Hãn hay hạ có chủ trương rõ ràng.
Tương loại : Đợi thì ngừng, chẳng lại ngay,
Kết sinh, Đợi tử hai loài khác nhau.
Chủ bệnh : Mạch Kết vì khí huyết ngừng,
Lão đàm tích trệ xem chứng chẳng thông.
Trong tích tụ, ngoài nhọt ung,
Sán hà các chứng đều cùng thuộc âm.
Bài ca Mạch KẾT (Chẩn gia chính nhãn).
Mạch tượng: Kết là có ý kết ngưng,
Mạch đi chầm chầm bỗng ngừng lại ngay.
Ngừng rồi đi, chẳng đổi thay,
Khi xem mạch cứ ý này mà suy.
Chủ bệnh: Mạch Kết vốn thuộc âm hàn,
Bệnh chủ tích trệ huyết đờm kết ngưng.
Tả thốn chủ đau, tâm hòa,
Hữu thốn phế khí hư hàn kết ngưng.
Tả quan hàn sán phải chăng?
Hữu quan đàm, thực trệ ngừng nên ghi.
Tả xích kết chủ tích nuy,
Hữu xích kết chủ chứng nuy âm hàn.
H- Các Y Án Mạch Kết
Y án Mạch KẾT
(Trích trong 'Tôn Văn Khiêm y án')
"Một người bệnh lớn tuổi, vốn bị đờm hỏa, nay lại bị đại tiện lỏng, mỗi ngày 3-4 lần, bụng sôi, vùng rốn căng trướng mạch đập 3-4 lần thì ngưng hoặc 7-8 lần lại ngưng. Có thầy thuốc không biết dùng phép ôn bổ mà lại dùng bừa bài 'Bình vị tán' ( Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo) thêm Hoàng liên, Sơn Tra, Bạch thược. Vì khắc phạt thái quá làm cho người bệnh phải đau bụng. Thầy thuốc đó không biết lỗi mà còn nói rằng người lớn tuổi mà thấy mạch Kết là chứng xấu rồi bỏ đi không chữa nữa. Đến lúc đó thì mời tôi đến chữa. Xét rằng sách mạch có ghi: "Mạch Hoãn mà có gián đoạn là mạch Kết, mạch Sác mà có gián đoạn là mạch Xúc". Đây là mạch Kết chứ không phải là mạch xấu (hung), chứng này là do hàn đờm ngưng kết gây ra. cách chữa phải nên ôn bổ hạ nguyên, bổ hỏa sinh thổ tức là áp dụng phép 'Hư bổ mẫu' vậy. Dùng Bổ cốt chỉ, Bạch truật, mỗi thứ 12g làm quân, Đỗ trọng 8g làm thần, Bạch linh, Trạch tả, Trần bì, Cam thảo đều 4g làm tá, Nhục đậu khấu, Ích trí nhân đều 2g làm sứ. Uống 4 thang thì đại tiện như thường, chỉ còn sôi bụng chưa bớt. Liền giảm Nhục đậu khấu, thêm Can khương 2g cho uống thì khỏi bệnh".
Y án Sáu Mạch Đều KẾT
(Trích trong 'Y tôn tất độc')
"Ông Niệm Sơn bị giáng chức quan đến tỉnh Triết Giang làm án sát. Đang lúc buồn giận lại gặp tiết trời vào mùa hạ đang thịnh gây ra tiểu tiện không thông, khí nghịch lên gây ra suyễn. Ông tự cho mình biết về thuốc, dùng bài 'Vị linh thang' ( Trư linh, Trạch tả, Bạch linh, Bạch truật, Quế chi, Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo ) sắc uống liền 4 thang mà không bớt. Tôi liền nói: "Sáu mạch thấy Kết đó là do khí bị trệ. Chỉ dùng Chỉ xác 32g, Sinh khương 5 lát. Uống 1 thang hơi thông, uống 4 thang thì khỏi".

MẠCH KHẨN
( - Press (Tense) Pulse - Pouls Pressée )
A- Đại cương
- Khẩn là gấp, rít. Mạch đi có vẻ gấp và rít vì vậy gọi là Khẩn.
- Thuộc loại mạch Dương.
B- Hình tượng mạch Khẩn
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Khẩn đi lại như sợi dây bị vặn".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Khẩn tìm ấn dưới ngón tay thấy chạy suốt cả 3 bộ, ấn vào mạch chạy có dư, nhẹ tay thấy rất Sác, tựa như mạch Hồng, Huyền".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch đi khẩn trương có lực".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch đến gấp dưới tay thấy như kéo dây thừng".
- Sách 'Đồ chú Nan kinh mạch quyết' ghi hình vẽ biểu diễn mạch Khẩn:
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Khẩn
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Do hàn khí làm ngưng trệ ở trung tiêu không tiết ra ngoài được, gây trở ngại khí dương, không thông đạt được, dẫn tới hiện tượng chính và tà chống nhau, gây ra mạch Khẩn".
- Sách 'Hoàng hán y học' ghi: "Mạch Khẩn... do sự biến tính của màng huyết quản, hoặc do sự tống máu ở tim mà sinh ra".
D- Mạch Khẩn chủ bệnh
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Khẩn chủ chứng đau, chủ về hàn suyễn, ho, phong giản, đờm lạnh, nôn mửa. Bộ thốn thấy Khẩn là bụng đau lâm râm. Bộ xích thấy Khẩn là bệnh thuộc âm, bôn đồn, sán khí".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch bộ thốn Khẩn là đầu đau. Bộ quan thấy Khẩn là bên trong thấy đau. Bộ xích Khẩn là trong người bứt rứt, quanh rốn đau liên miên".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Khẩn thấy ở chứng hàn, đau".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Khẩn chủ hàn, đau, thức ăn ngưng trệ".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Mạch Khẩn chủ hàn bế và biểu hư. Phụ nữ mà thấy mạch Khẩn là kinh nguyệt chậm (thấy sau kỳ). Trẻ nhỏ thấy mạch Khẩn thường bị kinh phong. Bộ thốn (trái) thấy Khẩn: đầu nhức, hoa mắt, cổ đau, khí bị nghịch. Bộ thốn (phải) thấy Khẩn: hay sổ mũi, ngực đầy và đau. Bộ quan (trái) thấy Khẩn: bụng đầy, đau, 2 bên sườn và lưng đau. Bộ quan (phải) thấy Khẩn: ăn uống không tiêu, bụng đau, nãn mửa. Bộ xích (trái) thấy Khẩn: lưng và bụng dưới đau, tiểu khó. Bộ xích (phải) thấy Khẩn: hạ tiêu đau".
E- Mạch Khẩn kiêm mạch bệnh
- Nan thứ 7 (Nan kinh) ghi: "Mạch Thái âm đến thì Khẩn, Đại mà Trường".
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch thốn khẩu Phù mà Khẩn. Phù là phong, Khẩn là hàn".
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Hỏi: Có người bệnh phát run rồi ra mồ hôi, lại nhân đó mà bệnh giải, là tại sao? Đáp: Mạch Phù mà Khẩn, ấn tay xuống lại Khâu là chính khí hư, vì vậy mà phát run, thấy mạch Phù tất sẽ ra mồ hôi mà giải".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch có Khẩn, Phù, Huyền, Hoạt, Trầm, Sáp, 6 mạch này gọi là 'Tàn tặc', đều là các mạch bệnh".
- Chương 'Biện Thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Trường hợp bị kết hung, ăn uống như thường, kiết lỵ, mạch bộ thốn Phù mạch bộ quan Tiểu, Trầm, Khẩn là chứng tạng bị kết".
- Chương 'Biện Dương minh mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Dương minh bệnh. mạch Phù Khẩn thì sẽ nóng từng cơn, phát tác có lúc".
- Chương 'Biện Thiếu âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thiếu âm bệnh mạch Khẩn, đến 7-8 ngày sau thì đi lỵ".
- Chương 'Ẩu thổ uế hạ lợi bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch phu dương Phù mà Sáp gọi là chứng phản vị, mạch Khẩn mà Sáp thì khó chữa".
- Chương 'Huyết tý hư lao mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Bệnh huyết tý do đâu mà bị? Thầy đáp... Chỉ căn cứ mạch tự Vi, Sáp tại thốn khẩu và Tiểu Khẩn tại bộ quan thì biết. Thấy mạch Khâu, Động, Vi, Khẩn, đàn ông thì di tinh, đàn bà thì mộng thấy giao hợp".
- Chương "Đờm ẩm khái thấu mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Giữa chấn thủy có chi ẩm, bị suyễn đầy, dưới tâm có kiên bỉ (ngạnh cứng), màu da đen nâu, mạch Trầm, Khẩn".
- Chương 'Hoàng đản bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch phu dương Khẩn mà Sác. Sác là nhiệt, nhiệt thì tiêu cơm. Khẩn là hàn, ăn vào thì làm đầy. Phu dương mạch Khẩn là Tỳ bị tổn thương".
- Chương 'Ẩu thổ mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Tiêu chảy, thấy mạch Khẩn là chưa giải".
- Chương 'Phúc trướng, hàn sán mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Một bên hông sườn đau, phát sốt, mạch Khẩn, Huyền là hàn. Bụng đầy mạch Huyền Khẩn. Huyền thì vệ khí không vận hành tức là sợ lạnh. Khẩn thì không muốn ăn. Tà và chính kích bác nhau gây ra chứng hàn sán. Gặp mạch Khẩn, Đại mà Trì là dưới tim ắt phải cứng, Mạch Đại mà Khẩn là trong dương có âm. Mạch Khẩn như sợi dây vặn vẹo vô thường đó là có thức ăn cũ không tiêu".
- Chương 'Sang ung mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Chứng trường ung thì bụng dưới sưng, có bỉ khối, ấn thì đau như đứng lâu, tiểu thường hay phát sốt, tự ra mồ hôi mà lại sợ lạnh, mạch Trì Khẩn là đã thành mủ".
- Chương 'Thủy khí bệnh mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Thái dương bệnh, mạch Phù mà Khẩn, đáng lẽ xương khớp phải đau nhức nhưng lại không đau, cơ thể lại nặng mà tê buốt, đó là chứng phong thủy. Mạch phu dương đáng lẽ phải Phục nay lại thấy Khẩn là vốn tự có hàn, là chứng hàn sán, bụng đau".
- Chương 'Trúng phong lịch tiết phong mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch ở thốn khẩu thấy Phù mà Khẩn. Khẩn là hàn, Phù là hư. Hàn và hư tranh nhau, tà ở bì phu".
- Chương 'Trì tật... mạch pháp' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Đại, Hồng, Khẩn, Sác là bệnh tiến triển, ở bên ngoài là đầu đau, phát sốt, ung thủng".
- Chương 'Biện tam bộ cửu hậu mạch chứng' (Mạch kinh ) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Trầm mà Khẩn là lạnh ở dưới tim, thường hay đau, có tích tụ".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch'( Mạch kinh ) ghi: "Mạch Sáp mà Khẩn là chứng tý".
-Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Phù Khẩn là phong hàn, mạch Trầm Khẩn là lãnh thống".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Hồng Khẩn là ngực đầy tức, đại tiện khó mà ra máu, Phù Khẩn là hàn, Trầm Khẩn là tà khí thịnh - Tế Khẩn là hàn".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Mạch Khẩn mà Phù chủ về ngoại cảm. Khẩn mà Trầm là tim, 2 bên sườn, bụng dưới bị hàn bế và gây ra nôn mửa, tiêu chảy".
G- Mạch Khẩn và điều trị
- Chương 'Huyết tý hư lao bệnh mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch gặp các hiện tượng Khâu, Động, Vi, Khẩn thì đàn ông bị mất tinh, đàn bà mộng thấy giao hợp. Dùng bài 'Quế chi long cốt mẫu lệ thang' mà chữa ( Quế chi, Thược dược, Cam thảo, Long cốt, Mẫu lệ, Sinh khương, Táo). Chứng bệnh mà cơ thể bên ngoài tê dại, cấu vào không biết đau, giống như là chứng phong tý, dùng bài 'Hoàng kỳ quế chi ngũ vật thang' mà chữa ( Hoàng kỳ, Quế chi, Thược dược, Sinh khương, Táo).
- Chương 'Tâm thống, hung tý mạch chứng tịnh trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Chứng ngực đau, suyễn thở, ho khạc, ngực và lưng đau, hơi thở ngắn, mạch ở thốn khẩu Trầm mà Trì, bộ quan mạch Tiểu, Khẩn, Sác, dùng bài 'Qua lâu giới bạch bạch tửu thang' mà chữa (Qua lâu, Giới bạch, Bạch tửu).
- Chương 'Phúc trướng, hàn sán mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Hàn sán, quanh rốn đau, Nếu phát thì nước trắng chảy ra, tay chân móp lạnh, mạch Trầm Khẩn. Dùng bài 'Đại ô đầu tiễn' mà chữa (Ô đầu loại lớn sắc uống)".
- Chương 'Phúc trướng, hàn sán mạch chứng tịnh trị' ( Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch Đại mà Khẩn là trong dương có âm, có thể cho xổ được".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: " Mạch Phù Khẩn thì phải dùng phép phát hãn. Mạch Trầm Khẩn thì phải ôn tán".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch ở tả thốn chủ về Hồng (hỏa) nay thấy Khẩn (mộc) là hỏa giúp mộc mà sinh ra phong nhiệt ở trên, cho nên chủ về nhức đầu. Mạch hữu thốn chủ Sắc (kim) nay thấy Khẩn (mộc) là kim hư không bình được mộc cũng làm cho nhức đầu. Nên uống bài 'Tiểu sài hồ thang' ( Sài hồ, Bán hạ, Nhân sâm, Hoàng cầm, Cam thảo, Sinh khương, Táo). Mạch tả quan chủ về Huyền (mộc) nay thấy Khẩn (mộc) là mộc thịnh khắc thổ vì vậy sinh ra đau. Mạch hữu quan chủ mạch Hoãn (thổ) nay thấy mạch Khẩn (mộc) là mộc khắc thổ mà sinh đau, cho uống bài 'Thược dược thang' ( Bạch thược, Hoàng liên, Hoàng cầm, Đương quy, Đại hoàng, Binh lang, Mộc hương, Quế tâm, Cam thảo ). Mạch tả xích chủ Trầm (thủy) nay thấy mạch Khẩn (mộc) là phong nhiệt ở vào hạ tiêu làm cho đau bụng. Phép chữa có khác nhau: chữa bên tả bằng bài 'Quế chi thược dược thang' ( Quế chi, Thược dược, Táo, Chích thảo, Sinh khương ). Chữa bên hữu bằng bài 'Lục vị địa hoàng thang' ( Thục địa, Đơn bì, Bạch linh, Hoài Sơn, Sơn thù, Trạch tả) thêm Đương quy và một ít Ngô thù".
H- Mạch Khẩn qua các lời bàn
- Sách 'Hoàng hán y học' ghi: "Xét về mạch Khẩn, kinh sách xưa nay chưa rút được điều chủ yếu của nó, đều cho rằng nó tương tự với mạch Huyền. Cha tôi thường nói: mạch Khẩn mà sách Nội kinh Tố vấn và Trương Trọng Cảnh vẫn gọi chắc hẳn không giống với thuyết của các y gia, vì Khẩn nghĩa là xoắn là không tan rời được, bề rộng có giới hạn mà đường mạch cùng với thớ thịt chia rẽ rất rõ ràng mới đúng, vì hàn chủ thu rút nên đường mạch phải xoắn chặt mà không dám tan rời ra vậy".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Khẩn âm nhiều dương ít là dấu hiệu âm tà kích bác, không phải là biểu hàn bó ở ngoài mà là lý hàn độc thịnh".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Khẩn như xoắn dây thừng chằng chéo, là hàn, thuộc dương, ấn vào thấy trường, mới đặt tay vào như dây thừng xoắn chằng chéo. Một thuyết nói: tựa như xoắn dây thừng từng lúc, đó là tà khí va chạm, ẩn náu ở khoảng vinh vệ làm cho bị kích động".
Bài ca Mạch KHẨN (Dương) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Khẩn thì như thể vặn dây,
Bởi phân tượng mạch thực rầy khẩn trương.
Hàn tà ngoài lại rõ ràng,
Trong thường đau bụng, ngoài thường mình đau.
Tương loại: Huyền như dây cung thẳng ngay,
Khẩn thì hữu lực như dây sắt cầm (đàn).
Chủ bệnh: Khẩn chủ chứng đau, chủ hàn,
Suyễn ho, phong giản, lãnh đàm hay nôn.
Phù Khẩn thì phát hãn luôn,
Trầm Khẩn thì lại phải ôn tán liền.
Thốn Khẩn thương thực hoặc hàn,
Khẩn thấy ở quan đau bụng lâm râm.
Xích Khẩn thì bệnh thuộc âm,
Bôn đồn sán khí chẳng râm chút nào.
Bài ca Mạch KHẨN (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Khẩn mau kíp thuộc dương,
Đi lại có lực rõ ràng chẳng sai.
Mạch động ở dưới ngón tay,
Thẳng căng như thể sợi dây xoắn vào.
Chủ bệnh: Khẩn mạch chủ bệnh kể ra,
Hoặc chủ hàn tà, hoặc các chứng đau.
Tả thốn Khẩn tâm đầy đau,
Hữu thốn ho suyễn tại sao? Cảm hàn.
Hữu quan phù Khẩn thương hàn,
Trầm Khẩn thương thực tả quan chẳng cầm.
I- Các Y Án Mạch Khẩn
Y án Mạch KHẨN
(Trích trong sách 'Trị nghiệm' của Sinh Sinh Đường).
"Vợ của Binh Vệ, sau khi sinh (đẻ) non, sắc mặt xạm đen, thở dồn, đầu choáng váng, mời tiên sinh đến thăm bệnh. Tiên sinh thấy mạch Khẩn mà dưới rốn kết rắn (cứng), cho là chứng xúc huyết, cho dùng bài 'Để đương thang' (Đào nhân, Mang trùng, Thủy điệt, Đại hoàng) 3 ngày, thì thấy từ lưng trở xuống dễ chịu. Lại cho uống bài 'Đào nhân thừa khí thang' (Đào nhân, Đại hoàng, Cam thảo, Phác tiêu, Quế chi ). Một lúc sau, lên cơn rét rất dữ dội rồi sốt nóng, ra mồ hôi, nói mê sảng, tay chân co giật từng cơn, máu hòn theo âm đạo ra, to như quả trứng gà, ra như vậy 6 ngày liền, khoảng hơn 20 quả. Dùng tiếp phương thuốc trên chừng 2 tuần liền khỏi".
Y án Mạch KHẨN - Cấp
(Trích trong 'Nội khoa học của Thượng Hải').
"Mã X. Khám lần đầu: hình thể ớn lạnh, sợ lạnh, khắp cơ thể đau mỏi, đầu gáy cứng đau, muốn nôn, tiểu gắt, tiểu ít, không có mồ hôi, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Khẩn Cấp. Cho uống ngay bài 'Cát căn thang' ( Cát căn, Quế chi, Cốc nha (sao), Bội lan, Hương xị (sao), Ma hoàng, Phục linh, Trần bì, Bán hạ (chế), Sinh khương ).
Khám lần 2: Hôm trước uống bài 'Cát căn thang', đã hơi có mồ hôi, đầu gáy và xương đỡ đau nhức mỏi, cảm giác muốn nôn cũng hết, cơ thể nóng, đầu choáng, miệng khô, muốn uống nước, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng. Đây là tà khí ở Thái dương đã giải, nhiệt ở dương minh đang hun đốt. Vốn thể lực khỏe, bệnh không đến nỗi kéo dài. Bây giờ cho uống bài 'Quế chi thang', 'Bạch hổ thang', một mặt thanh nhiệt ở Dương minh, mặt khác, dồn cho sạch tà khí ở Thái dương. Cho dùng: Quế chi 4g, Xích thược 12g, Chỉ xác 6g, Thiên hoa phấn 12g, Trúc nhự (sao) 6g, Thạch cao (sống) 12g, Cốc nha (sao) 12g, Tinh dầu thảo 6g, Cát cánh 3g, Lô căn 20g, bệnh khỏi".

MẠCH KHÂU
( - Hollow Pulse - Pouls Dicrote )
A- Đại cương
- Sách Nội kinh không có mạch Khâu.
- Mạch Khâu chỉ bắt đầu xuất hiện trong sách Kim qũy.
- Cũng gọi là mạch Khổng (孔).
- Là một loại mạch âm.
B- Hình tượng mạch Khâu
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Khâu thì Phù, Đại mà Nhuyễn, ấn tay xuống thấy ở trong rỗng, 2 bên thì thực".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Mạch Khâu là Phù Đại mà Huyền Nhuyễn".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Khâu hình tượng giống như lá hành, ấn nhẹ, ấn nặng và ấn 2 bên đều có, nhưng ấn vừa vừa thì trống rỗng".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Khâu thì Phù, Đại mà trong rỗng, trên dưới, 2 bên đều thấy mạch, chỉ bên trong là rỗng, như đè lên cọng hành".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH KHÂU
- Sách 'Mạch chẩn' biểu thị hình vẽ mạch Khâu:
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Khâu
- Sách 'Cảnh Nhạc toàn thư' giải thích :"Mạch Khâu... do mất máu, khí không có chỗ quay về, dương không có chỗ nương tựa".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi: "Mạch Khâu... cách chung là khí có thừa mà huyết không đủ, huyết không nhiếp được khí, vì vậy mạch khí hư mà Đại, giống như cọng hành".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Do mất máu quá nhiều hoặc do âm huyết hư bên trong, dương khí không được phù trợ mà tán ra ngoài, vì vậy thấy có mạch Khâu".
D- Mạch Khâu chủ bệnh
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Khâu là doanh khí bị tổn thương".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi: "Mạch Khâu là triệu chứng mất máu... Bộ thốn ( trái) Khâu chủ về Tâm huyết bị vọng hành, ói ra máu, chảy máu mũi. Bộ quan (trái) Khâu chủ đau ở gian sườn hoặc huyết ứ trong bụng, ói ra máu, hoa mắt. Bộ xích (trái) Khâu là tiểu ra máu, đàn bà thì bệnh về kinh nguyệt. Bộ thốn (phải ) Khâu là huyết bị tích ở ngực, chảy máu mũi. Bộ quan (phải) Khâu là trường ung, ứ huyết, nôn ra máu, không ăn được. Bộ xích (phải ) Khâu là đại tiện ra máu".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Khâu chủ máu bị mất (thất huyết ), âm dịch bị thương tổn".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Khâu thấy ở các chứng mất máu ( thổ huyết, nục huyết [chảy máu mũi], băng huyết, lậu huyết...)".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Khâu chủ mất máu, nôn ra máu, chảy máu mũi, đại tiện ra máu, băng huyết, huyết ứ".
Tả Thốn KHÂU
Hỏa vượng, huyết tán.
Hữu Thốn KHÂU
Phế huyết thương âm.
Tả Quan KHÂU
Can không tàng huyết.
Hữu Quan KHÂU
Tỳ không thống huyết.
Tả Xích KHÂU
Tiểu ra máu.
Hữu Xích KHÂU
Di tinh, băng lậu.
E- Mạch Khâu kiêm mạch bệnh
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Hỏi: Có người bệnh phát run rồi ra mồ hôi, lại nhân đó mà giải là tại sao? Đáp rằng: Mạch Phù mà Khẩn, ấn tay xuống lại Khâu đó là chính khí hư vì vậy mà phát run, thấy mạch Phù tất sẽ ra mồ hôi mà giải. Nếu mạch Phù mà Sác, ấn tay không thấy Khâu là chính khí không hư, vì vậy, nếu sắp giải thì chỉ ra mồ hôi mà không thấy run".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch phu dương Phù mà Khâu. Phù là vệ khí bị tổn thương. Khâu là doanh khí bị tổn thương".
- Chương 'Kinh thấp yết mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Thái dương trúng thử, phát sốt, sợ lạnh, cơ thể nặng, đau, thấy mạch Huyền, Tế, Khâu, Trì".
- Chương 'Huyết tý hư lao mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Các chứng di tinh mà bụng dưới căng tức, đầu ấm, lạnh, hoa mắt, tóc rụng, mạch cực Hư, Khâu, Trì là đại tiện lỏng, mất máu di tinh". - "Thấy mạch Khâu, Động, Vi, Khẩn : đàn ông thì di tinh, đàn bà thì mộng thấy giao hợp".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi:
Mạch bộ thốn Khâu: phiền muộn, huyết tụ ở ngực.
Bộ quan Khâu: trường ung.
Bộ xích Khâu: Thận bị hư hàn, tiểu gắt, tiểu ra máu, mủ.
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
  • Mạch Khâu mà Phù là khí huyết đều bị thương tổn.
  • Khâu mà Sác là âm hư.
  • Khâu, Hư, Nhuyễn là huyết bị vong, tinh bị mất.
  • Khâu, Kết, Xúc là dương hư hiệp âm, huyết ứ nội kết.
  • Khâu, Trì là máu bị mất, chính khí hư, nóng ở trong.

F- Mạch Khâu và đều trị

- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tông tâm lĩnh) ghi:
  • Mạch bộ thốn Khâu: phiền muộn, huyết tụ ở ngực, cho uống bài 'Tứ vật thang' bỏ Xuyên khung, thêm Đơn bì, Liên nhục ( Đương quy, Bạch thược, Thục địa, Đơn bì, Liên nhục)
  • Mạch bộ quan Khâu: trường ung, cho uống bài 'Đào hồng tứ vật thang' ( Quy vĩ, Xích thược, Xuyên khung, Thục địa, Hồng hoa, Đào nhân).
  • Mạch bộ xích Khâu: Thận bị hư hàn, tiểu gắt, tiểu ra mủ máu, cho uống bài 'Tứ linh tán' (Phục linh, Trư linh, Bạch truật, Trạch tả).
- Mục 'Hiệu đính Tần Hồ mạch học' (Đồ chú Nan kinh mạch quyết) ghi:
Mạch Khổng, cách chung dùng bài 'Chi tử thang gia giảm' hoặc dùng bài 'Trư linh thang' (Trư linh, Phục linh, Trạch tả, Hoạt thạch, A giao) hoặc bài 'Tả hoàng tán' ( Phòng phong, Chi tử, Thạch cao, Hương nhu, Cam thảo).
Mạch bộ thốn Khổng dùng bài 'Tê giác địa hoàng hoàn' ( Sinh địa, Hoàng cầm, Hoàng liên, Tê giác, Đại hoàng).
Mạch bộ quan Khổng dùng bài 'Để đương hoàn' ( Đại hoàng, Mang trùng, Thủy điệt).
Mạch bộ xích Khổng dùng bài 'Đào nhân thừa khí thang' ( Đào nhân, Đại hoàng, Cam thảo, Quế).
G- Mạch Khâu qua các lời bàn
- Sách 'Ngoại khoa tinh nghĩa' ghi: "Các chứng ung nhọt mà thấy mạch Khâu, nếu đã vỡ mủ thì dễ chữa, vì mạch tương ứng với bệnh".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi: "Trước Đại sau Tế là bị thoát huyết, không phải mạch Khâu thì là gì ?"
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "... Phàm huyết thoát thì mạch Khâu, riêng một bộ lại Huyền hoặc kiêm Kết, Súc, Sáp, trệ, đó là dương khí không đến. Lại kiêm âm tà là huyết ứ, ngưng kết. Vì vậy khi thấy mạch Khâu thì phải xem xét ở 1 hoặc 2 bộ, ở 1 tay hoặc 2 tay, để công bổ cho đúng cách".
- Sách 'Cảnh Nhạc toàn thư' ghi: "Mạch Khâu tuy là mạch dương nhưng là dương thực mà không có gốc là đại hư".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch lấy huyết làm hình, mạch Khâu rỗng ở trong là dấu hiệu (tượng) của huyết bị thoát, các chứng mất máu hoặc phụ nữ sau khi sinh hay gặp mạch này - Nếu trong mạch Khâu mà thấy như có 1 sợi dây nhỏ cứng hoặc trong 3 bộ thốn, quan, xích có 1 bộ Đại mà bật lên ngón tay, hoặc mạch khí qua lại thấy Đại, Tiểu không đều, đó là trong hư có kèm thực. Khi chữa trị phải xét mức độ hư, thực, nặng, nhẹ thế nào thì xử lý mới thích hợp".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Khâu, nếu thấy chỉ một bộ Huyền hoặc kiêm Sắc thì có thể có kèm theo huyết ứ, đó là hiện tượng trong hư có thực".
Bài Ca Mạch KHÂU (Âm Trong Dương) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Khâu hình xem tựa cọng hành,
Hai bên thấy có giữa rành rỗng không.
Hỏa phạm dương kinh huyết xung,
Nhiệt vào âm, dưới ròng ròng máu ra.
Tương loại: Mạch Khâu phù đại mà trì,
Ở giữa trống rỗng ấy thì chớ quên.
Cách là Khâu lại đới huyền,
Khâu chủ thất huyết, Cách bèn huyết hư.
Chủ bệnh: Thốn khẩu tích huyết ở lưng,
Quan Khâu chủ bệnh trường cùng vị ung.
Xích Khâu thất huyết ròng ròng,
Lỵ, lâm, lậu hạ, băng trung phải tường.
Bài Ca Mạch KHÂU (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Khâu phải nhận cho tinh,
Dường như lá hành trong rỗng có chi.
Mức phù, trầm thấy mạch này,
Mức trung tìm mạch thấy gì nữa đâu.
Chủ bệnh: Mạch Khâu sở chủ bệnh gì,
Ấy chứng thất huyết phòng khi nào tìm.
Tả thốn thất huyết thuộc tâm,
Hữu thốn thất huyết phế âm thương rồi.
Tả quan can huyết không tàng,
Tỳ huyết không vững rõ ràng hữu quan.
Tả xích lỵ huyết chẳng an,
Hữu xích tinh lậu, hoả càng bốc lên.
H- CÁC Y ÁN MẠCH KHÂU

Y án Mạch Hơi Huyền Mà KHÂU

(Trích trong 'Tục danh y loại án')
"Chu Đan Khê chữa một người bệnh vì mệt nhọc mà phát sốt. Có thầy thuốc cho uống bài 'Tiểu sài hồ thang', 'Hoàng liên giải độc thang' và 'Bạch hổ thang', nhưng bệnh không bớt mà lại thấy đờm nghịch lên, mắt đỏ, trợn ngược lên, cơ thể nóng dữ dội. Sáu bộ mạch đều Hồng Sác, đập 7-8 chí, tay trái hơi Huyền mà Khâu, ấn tay xuống thì rỗng hư. Chu Đan Khê cho là do trung khí không đủ, nội thương các vật hàn (lạnh) lương (mát), vì vậy bị nội thương phát nóng, lại thêm uống quá nhiều thuốc khổ (đắng) hàn (lạnh) vì vậy gây ra chứng âm thịnh cách dương. Cho uống bài 'Bổ trung ích khí thang' ( Hoàng kỳ, Nhân sâm, Bạch truật, Đương quy, Sài hồ, Thăng ma, Chích thảo, Trần bì, Sinh khương, Đại táo ) thêm Phụ tử. Uống 2 thang thì khỏi bệnh".

MẠCH LAO
( - Confined Pulse - Pouls Laborieux - Hidden - Excessive Pulse)
A- Đại cương
- Sách 'Thiên kim dực' ghi: "Ấn tay thấy mạch khí thực mạnh, giống như Trầm, giống như Phục gọi là Lao".
- Sách 'Đồ chú Nan kinh mạch quyết' ghi: "Ấn tay thấy rất cứng gọi là mạch Lao".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Lao là vững bền".
B- Hình tượng mạch Lao
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi: "Mạch Lao là Huyền, Đại mà Trường, nhấc tay thấy giảm, ấn xuống thì thực mạnh".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi : "Mạch Lao, cứng, bền chặt, Trầm mà có lực, chuyển động mà không thay đổi".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Lao... lớn mà Huyền, Thực, ấn nặng xuống mới thấy, ấn nhẹ hoặc ấn vừa đều không thấy ".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Lao, ấn sâu thấy Thực, Đại, Huyền, Trường".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Lao giống như mạch Huyền, càng ấn nặng tay lại càng chắc".

HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH LAO
- Sách 'Mạch chẩn' biểu diễn hình vẽ mạch Lao:
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Lao
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Do bệnh khí kết tụ lâu ngày, âm hàn tích đọng gây ra mạch Lao".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : Mạch Lao phát sinh do khí bị kết lâu ngày, âm hàn tích bên trong, dương khí bị trầm xuống dưới vì vậy mà mạch mới Trầm mà Thực, Đại, Huyền, Trường, cứng, không xê dịch".
D- Mạch Lao chủ bệnh
- Chương 'Bình tam quan bệnh hậu tịnh trị nghi' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở bộ quan Lao là khí của Tỳ Vị bị bế tắc". -"Mạch ở bộ xích Lao là bụng đầy".
- Chương 'Bệnh kỳ kinh bát mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở bộ xích và thốn đều Lao, thẳng lên thẳng xuống, đó là mạch Xung bị bệnh, trong ngực có hàn, là chứng sán vậy".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Lao là hàn ở lý có thừa, ngực bụng lạnh đau, Mộc khắc Tỳ, là sán khí, trưng hà".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: "Mạch Lao chủ các bệnh thuộc âm hàn, kiên tích".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch Lao chủ về đầy (trướng)".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Lao chủ âm hàn thực ở trong, sán khí, trưng hà".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Lao chủ 5 chứng tích, hàn nhiệt ngưng kết, ngực bụng đau, sán khí, trưng hà, kinh phong".
Tả Thốn LAO
Chứng phục lương.
Hữu Thốn LAO
Chứng tức phần.
Tả Quan LAO
Huyết bị tích tụ.
Hữu Quan LAO
Chứng bỉ tích.
Tả Xích LAO
Chứng bôn đồn.
Hữu Xích LAO
Chứng sán khí, trưng hà.
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi:
Mạch Lao
ThốnHo, kéo suyễn.
QuanBụng đau, tiết tả do hàn tà phạm Vị.
XíchSán khí.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : "Mạch Lao gặp trong các bệnh động mạch bị xơ cứng : thận viêm mạn tính, động mạch xơ cứng, huyết áp cao lâu ngày".
- Sách 'Trung Hoa mạch học nghiên cứu' ghi : "Động mạch xơ cứng như thận viêm mạn... thấy xuất hiện mạch Lao".
E- Mạch Lao kiêm mạch bệnh
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Lao mà cứng thì hàn thủy đình trệ.
Lao mà Trì là lạnh lâu ngày.
Lao mà Sác là nhiệt tích.
F- Mạch Lao qua các lời bàn
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi: "Mạch Lao là Huyền, Đại mà Trường, nhấc tay thấy giảm, ấn xuống thì thật mạnh, giống như mạch Thực và Hoạt là mạch đi tới lui, không giống như mạch Phục là mạch ẩn nấp mà Sáp, rít. Mạch Cách thì ấn tay thấy rỗng ở trong và Hứa Thúc Vi nói: Mạch Lao là bệnh cố kết, các chứng hư hoàn toàn không thấy mạch này, chỉ có những chứng thần kinh, co quắp, hà sán, bạo ngược, kiên tích, phục ở trong mới thấy mạch Lao. Mạch Lao là bệnh cố kết, kiên thực mà sâu bên trong, vị khí suy kiệt, công thủ đều khó, vì vậy, gặp mạch này là bệnh nặng khó chữa".
- Chương 'Mạch âm dương loại thành' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Lao là cứng, thực, là mạch Trầm mà có lực, động mà không chuyển là lý thực, biểu hư, trong ngực khí nghịch là lao thương. Đại khái là mạch gần giống như không có vị khí, vì vậy các y gia đều cho mạch này là nguy hiểm. Cũng chủ về đau ở trong xương, khí ở biểu".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Các chứng âm hư, mất máu mà thấy mạch Lao đều rất đáng sợ".
- Sách 'Mạch quyết' ghi : " Các y gia luận về mạch Lao lộn xộn không rõ, vì vậy người đời sau đều bỏ quên".
- Sách "Thôi Thị mạch quyết' bàn về mạch Cách và mạch Lao ghi : "Cực Trầm là mạch Phục, có lực là mạch Lao, mạch Thực, Đại, Huyền, Trường".
- Sách 'Đông y lược khảo' ghi: "Những người mắc bệnh mất máu, ho lâu ngày, thấy mạch Lao thì khó chữa". -"Mạch Lao đi giống mạch Trầm nhưng khác ở chỗ nắn thấy mạch cứng thẳng".
Bài ca Mạch LAO (Dương trong Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Lao thì thực Huyền thì trường,
Tương loại: Tựa Trầm tựa Phục ấy thường chớ quên.
Cách kiêm khẩn hồng phù lên,
Cách hư lao thực phải nên rõ ràng.
Chủ bệnh: Mạch lao lý (phần) có thực hàn,
Bụng đau lạnh ấy mộc can phạm tỳ.
Trưng hà đồi sán lo chi,
Âm hư thất huyết ấy thì nên kiêng.
Bài ca Mạch LAO (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch Lao ta cũng phải hay,
Vi huyền, thực, đại mạch nay chớ lầm.
Mạch thường thấy ở mức trầm,
Phù, trung hai mức có tìm thấy đâu.
Chủ bệnh: Mạch Lao chủ bệnh phải tường,
Lao chủ kiêm tích, bệnh thường ở trong.
Tả thốn Lao chủ phục lương,
Hữu thốn rõ ràng chủ bệnh tức bôn.
Tả quan huyết tích ở can,
Hữu quan bĩ tích âm hàn phải hay.
Tả xích bôn đồn chứng này,
Hữu xích hàn sán, đau nay đau nhiều.
MẠCH NHU
( - Soggy (Soft) Pulse - Pouls Mou)
A- Đại cương
- Sách 'Nội kinh Tố Vấn' chỉ nói đến mạch Nhuyễn (軟) không thấy nói đến mạch Nhu (濡) hoặc mạch Nhuyễn ( 耎 ).
- Trương Sơn Lôi, trong bộ 'Mạch học chính nghĩa' cho là chữ Nhuyễn biến thành chữ Nhu là do người Hán đặt chữ Lệ mà ra.
- Sách 'Mạch kinh' gọi là Nhuyễn.
- Sách 'Tứ chẩn quyết vi' ghi: "Chữ Nhu về ý nghĩa cũng như chữ Nhuyễn, vì vậy mạch Nhuyễn tức là mạch Nhu".
- Thuộc loại mạch âm.
- Sách 'Thiên kim dực' ghi: "Ấn tay như không có, nhấc tay lên thì có thừa hoặc như áo gấm trong nước, để tay nhẹ lên thịt thì thấy ngay mà mềm, gọi là mạch Nhu".
B- Hình tượng mạch Nhu
- Chương 'Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Nhuyễn thì rất mềm mà Phù - Tế".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Nhu đi phù mà rất nhỏ, rất mềm, nhẹ tay thì thấy ngay, ấn nặng tay thì không thấy".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Nhu đi phù, nhỏ mà mềm".

HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH NHU
- Sách 'Mạch chẩn' ghi lại hình vẽ mạch Nhu như sau :
C- Nguyên nhân phát sinh mạch Nhu
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Nhu là vị khí không đủ".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Nhu là do khí huyết không đủ hoặc do thấp khí đè lên làm nghẽn dương mạch gây ra".
D- Mạch Nhu chủ bệnh
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch ở bộ thốn khẩu mà Nhuyễn là vong huyết".
- Chương 'Bình tam quan bệnh hậu tịnh trị nghi' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Nhu là dương khí suy yếu, tự ra mồ hôi, hư tổn. Mạch ở bộ quan Nhu là Tỳ khí suy yếu hư lạnh, mót rặn. Mạch ở bộ xích mà Nhu thì tiểu khó".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch bộ thốn Nhu: mồ hôi tự ra ( tự hãn), dương hư. Mạch bộ quan Nhu: khí bị hư. Bộ xích Nhu: tinh huyết bị tổn thương, hư hàn".
- Sách 'Mạch ngữ ' ghi: "Mạch Nhu là thấp ở trung tiêu, mồ hôi tự ra, lạnh, chứng tý. Bộ thốn Nhu là dương hư. Bộ quan Nhu là trung khí bị hư. Bộ xích Nhu là thấp nhiều, tiêu chảy".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Nhu thấy ở chứng âm hư, Thận hư, tủy bị kiệt, tinh bị tổn thương".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Nhu chủ về mọi chứng hư, về thấp".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Tả Thốn NHU
Hồi hộp, hay quên.
Hữu Thốn NHU
Khí bị hư, mồ hôi tự ra.
Tả Quan NHU
Huyết không đủ nuôi gân.
Hữu Quan NHU
Tỳ hư, thấp tim.
Tả Xích NHU
Tinh huyết không đủ.
Hữu Xích NHU
Mệnh môn hỏa suy.

E- Mạch Nhu kiêm mạch bệnh

- Thiên 'Mạch yếu tinh vi luận' (Tố vấn 17) ghi: "Mạch Tâm, nếu Nhuyễn mà Tán thì sẽ sinh ra chứng tiêu khát, trong vòng 10 ngày sẽ khỏi. Mạch Phế... nếu Nhuyễn mà Tán thì mồ hôi ra nhiều. Mạch Can... nếu Nhuyễn mà Tán, sắc mặt bóng nhuận đó là chứng 'Dật ẩm', do khi khát mà uống quá nhiều nước, nước tràn ra bì phu, trường vị. Mạch Tỳ... nếu Nhuyễn mà Tán, sắc mặt không bóng, đầu gối trở xuống sẽ bị sưng phù như có nước. Mạch Thận... nếu Nhuyễn mà Tán là bệnh thiếu máu, khó lòng hồi phục".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Can bệnh mà thấy mạch Nhu Nhược thì sẽ khỏi".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Ø Mạch Nhuyễn mà Huyền là chóng mặt, hoa mắt, ngón tay tê.
Ø Nhuyễn mà Tế là Tỳ hư, thấp tim.
Ø Nhuyễn mà Sáp là vong huyết.
Ø Nhuyễn mà Phù là phần vệ, dương hư.
Ø Nhuyễn mà Trầm, Tiểu là Thận hư, di tinh.
G- Mạch Nhu qua các lời bàn
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi: 'Mạch Nhu phù, mềm, giống với mạch Hư, nhưng Hư thì hình tượng của mạch to, còn Nhu thì lại nhỏ. Mạch Nhu Tế nhỏ giống như mạch Nhược nhưng mạch Nhược thì ở vị trí sâu (Trầm) còn Nhu thì ở phần trên (phù). Mạch Nhu không ổn thì giống với mạch Tán nhưng Tán là từ Phù Đại biến dần thành Trầm mà Tuyệt, còn Nhu thì từ Phù Tiểu biến dần thành không thấy... Bệnh lâu ngày, người lớn tuổi mà thấy mạch Nhu thì cũng chưa sao vì là mạch hợp với chứng. Nếu người bình thường, trẻ tuổi, sức mạnh hoặc bị bạo bệnh mà thấy mạch Nhu là mạch không gốc, thì ngày chết không còn xa".
- Chương 'Sư truyền tam thập nhị tắc' (Chẩn tông tam muội) ghi: "... Người bình thường suy nhược, mạch tuy thấy Nhu, Nhuyễn, thiếu sức nhưng còn đại ôn, đại bổ được, không giống như chứng âm hư thoát huyết, mạch chỉ thuần thấy Tế Sác mà Huyền, cứng, cầu được Nhu, Nhược cũng khó".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Xét nghĩa chữ Nhuyễn thì biết rằng mạch này ấn tay thì thiếu sức, khí thế sút kém, chưa hẳn là ấn tay thấy như không có".

Bài Ca Mạch NHU (Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Mạch Nhu phù tế là nhường,
Sợi bông mặt nước thường thường mềm thay.
Bệnh rồi, hoặc bản còn may,
Người thường mạch ấy thực rầy khốn nguy.
Tương loại: Nhu thì phù tế mềm thay,
Nhược thì trầm tế khác rầy mạch Nhu.
Vi thì phù tế phất phơ,
Tế thì trầm tế tựa hồ sợi tơ.
Chủ bệnh: Nhu thì vong huyết âm suy,
Đan điền, tủy hải ngầm vơi hết rồi,
Đêm nóng hầm, lắm mồ hôi,
Huyết băng, thấp khí xâm nơi thổ tỳ.
Thốn Nhu : tự hãn dương hư,
Quan Nhu thì thuộc khí hư rõ ràng.
Xích thương tinh huyết, hư hàn
Muốn cho khỏi bệnh phải bàn bổ âm.
Bài Ca Mạch NHU (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Lại xem thể trạng mạch Nhu,
Rất mềm mà nhỏ, mức phù phải hay.
Nhẹ tay thì sẽ thấy ngay,
Hễ mà ta ấn nặng tay mất lên.
Chủ bệnh: Mạch hư chủ bệnh nói qua,
Âm hư, tủy kiệt cùng là tinh thương.
Tả thốn quên nhãng sợ sàng,
Hữu thốn tự hãn rõ ràng dương hư.
Tả quan huyết kém gân khô.
Hữu quan có thấp khí vô hại tỳ.
Tả xích Nhu tinh huyết khuy.
Hữu xích hỏa bại, đến kỳ tử vong.
H- Các Y Án Mạch Nhu

Y án Mạch NHU - Tế

(Trích trong 'Ái lu y án')
"Có người bị hoa mắt chóng mặt đã lâu năm, thường phát bệnh lúc tiết trời ẩm thấp. Chẩn mạch thấy Nhu Tế, rêu lưỡi trắng nhờn. Về chứng này thì người xưa đều căn cứ vào Nội kinh có ghi: "Các chứng phong, chóng mặt đều thuộc về Can" nên nguyên nhân là do phong dương nghịch lên. Khi chữa phải phân biệt thêm là kiêm hỏa hoặc có kiêm đờm mà thôi. Nay xét mạch chứng thì thấy chứng này là do thấp bị uất, dồn lên trên ( thấp uất thượng phiếm) kiêm thêm đờm trọc trở ngại gây ra. Chứng này người xưa chưa bàn đến mà lâm sàng cũng ít gặp. Cách chữa là 'Tân hương vận trung' ( dùng vị thuốc cay, thơm để làm cho trung khí chuyển vận) để hóa thấp, hóa đờm. Cho uống Bán hạ (chế) 4g, Thảo quả (nướng) 1,2g, Tô tử (sao) 6g, Tuyền phúc hoa () 4g, Bạch giới tử 2,8g, Xích linh 12g, Tiêu mục 2g.
Khám lại lần thứ 2: hết hoa mắt, chóng mặt, lưỡi còn trắng, mạch Nhu, tiêu chảy. Nếu cứ câu nệ theo phép của cổ xưa: "Người mập hoặc người uống rượu nhiều hoặc thích uống trà lạnh thì thấp đình trệ" rồi cho dùng thuốc tự giáng thì chẳng sai sao? Vẫn dùng phương thuốc cũ gia giảm, chủ yếu chữa ở Thái âm và Dương minh. Cho uống Mao truật 4g, Thảo quả (nướng) 2g, Bán hạ (chế) 6g, Bạch truật (sao đất) 6g, Bội lan ( ) 2g, Hoắc hương 6g, Trần bì 4g, Thông thảo 4g. Bệnh khỏi".

Y án Mạch NHU
(Trích trong 'Nội khoa học của Thượng Hải')
"Thị X, nữ, 31 tuổi.
Khám lần đầu: trước đây 5 ngày, bỗng nhiên bị đau trướng vùng bụng dưới kèm theo tiểu nhiều lần và tiểu gấp, bài tiết nước tiểu nóng rít và buốt, đau nước tiểu sắc vàng, có vẩn đục, một ngày đi tiểu hơn 20 lần, khi tiểu, có cảm giác như một luồng đau buốt từ vùng rốn lan đến đường tiểu, lưng không đau.
Xét nghiệm: nhiệt độ cơ thể 370C, tỉnh táo, dinh dưỡng phát dục bình thường, rêu lưỡi trắng mỏng, nhớt dính, đầu lưỡi có gai đỏ, mạch Nhu. Vùng tim, phổi bình thường, bụng mềm, giữa bụng dưới có vùng ấn đau rõ (cầu bàng quang căng đau), gõ vùng thận thấy đau, nước tiểu sắc vàng, đục, có ít tròng trắng trứng, bạch cầu 4 (+), hồng cầu 2 (+), cấy nước tiểu thấy có trực khuẩn đại trường.
Chẩn đoán: Chứng nhiệt lâm (bàng quang viêm cấp).
Cho dùng: Sinh địa 16g, Cù mạch 12g, Xa tiền tử 12g, Sơn chi 12g, Hoàng bá 12g, Mộc thông 8g, Biển súc 12g, Hoạt thạch 12g, Cam thảo 6g, Hổ phách 3g, Đăng tâm 4g.
Khám lần 2: Sau khi uống 2 thang, tiểu hết đau, buốt, số lần tiểu từ hơn 20 lần giảm xuống còn hơn 10 lần, ấn vào vùng bụng dưới chỉ hơi thấy đau nhẹ. Nước tiểu sắc vàng, trong, hết albumin, bạch cầu còn vết, hồng cầu âm tính. Tiếp tục cho uống như thang cũ.
Khám lần 3: Sau khi uống 3 thang nữa, hết hẳn đau trướng và vùng bụng dưới ấn không còn đau nữa, số lần tiểu trở lại bình thường. Xét nghiệm nước tiểu cũng bình thường".

MẠCH NHƯỢC
( - Frail Pulse - Pouls Faible)
A- Đại cương
- Nhược là yếu ớt.
- Sách 'Thiên kim dực' ghi: "Ấn tay mới thấy, nhấc lên thì không, Nhu mà Tế, gọi là Nhược. Mạch Nhược thuộc Âm".
-Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi : "Phù mà Tế gọi là Nhu, Trầm Tế mà mềm gọi là Nhược".

B- Hình tượng mạch Nhược

- Chương "Mạch hình trạng chỉ hạ bí quyết' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Nhược thì cực Nhuyễn mà Trầm, Tế, ấn tay thấy muốn tuyệt".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi : "Mạch Nhược thì Tế, Tiểu, thấy Trầm, nhấc tay lên thì không thấy, ấn tay xuống mới thấy".
- Sách 'Chẩn gia khu yếu' ghi : "Mạch Nhược, không mạnh, cực Trầm, Tế mà mềm".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Nhược... Tế, Tiểu mà Trầm, ấn nặng tay thì thấy, ấn nhẹ tay như không có".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Nhược nhỏ mềm mà chìm sâu".
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH NHƯỢC
C- Nguyên Nhân Gây Mạch Nhược
- Chương 'Mạch âm dương loại thành' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Mạch Nhược... là do tinh khí không đủ, vì vậy khí suy yếu không nhấc lên nổi".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Nhược là âm hư mà dương khí suy".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: "Mạch Nhược là dương khí bị hãm, chân khí suy nhược".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Mạch Nhược là triệu chứng của dương khí suy yếu".
-Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : "Âm huyết bất túc, không khua động được mạch đạo, dương suy, khí thiếu, khó làm cho huyết lưu thông, khiến cho mạch thấy Trầm Tế mà mềm, sinh ra mạch Nhược".
D- Mạch Nhược chủ bệnh
- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi: "Mạch chân tạng của Tỳ hiện ra Nhược mà lúc nhanh (Sác) lúc sơ, sắc mặt vàng xanh, không bóng, lông tóc rụng là chết".
- Chương 'Biện mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Các mạch Trầm, Sáp, Nhược, Huyền, Vi là các mạch âm... bệnh thuộc dương mà thấy mạch âm thì chết. Nếu mạch bộ xích Nhược là âm không đủ, dương khí hạ hãm vào âm phận vì vậy mà phát sốt. Mạch dương Phù mà mạch âm Nhược là huyết hư, huyết hư thì gân co rút".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Nhược thì phát sốt".
- Chương 'Biện quyết âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Tiêu chảy mà cơ thể hơi sốt lại khát, mạch Nhược sẽ khỏi".
- Chương 'Đờm ẩm khái thấu mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Ho đã nhiều năm mà thấy mạch Nhược thì có thể chữa được".
- Chương 'Bình tam quan bệnh hậu tịnh trị nghi' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Nhược là dương khí hư, mồ hôi tự ra, hụt hơi. Mạch ở bộ quan Nhược là Vị khí thiếu. Mạch ở bộ xích Nhược là dương khí thiếu, phát sốt, bứt rứt trong xương".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Nhược là hư, hồi hộp".
- Chương 'Mạch âm dương loại thành' (Chẩn gia khu yếu) ghi: "Bộ thốn tay trái Nhược là dương hư, hồi hộp, mồ hôi tự ra. Bộ quan bên trái Nhược là gân cơ teo, không có sức, đàn bà thì chủ sinh xong bị phong tà xâm nhập làm cho mạch bị sưng. Bộ xích tay trái Nhược là Thận hư, tai ù, đau nhức trong xương, tiểu gắt. Bộ thốn tay phải Nhược thì cơ thể lạnh, da lạnh, ngắn hơi. Bộ xích (phải) Nhược là Tỳ Vị hư, ăn không tiêu. Bộ xích (phải) Nhược là hạ tiêu lạnh đau, đại tiện lỏng".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Nhược là âm hư mà dương khí suy vì vậy sợ lạnh, phát sốt, đau trong xương, gân cơ teo, thường ra mồ hôi nhiều, tinh thần suy kém... Bộ thốn Nhược là dương hư, bộ quan Nhược là Tỳ Vị suy yếu, bộ xích Nhược là âm hư, dương khí bị hãm".
- Chương 'Nhị thập tứ mạch chủ bệnh' (Tam nhân phương) ghi : "Mạch Nhược chủ hư, phong nhiệt, mồ hôi tự ra".
- Sách 'Mạch quyết hối biện' (Q.3) ghi : "Mạch Nhược chủ dương bị hãm, chân khí suy nhược".
- Sách 'Chẩn gia chính nhãn' ghi: "Mạch Nhược là dương khí bị hãm, chân khí suy nhược. Bộ thốn (trái) Nhược là Tâm hư, trống ngực hồi hộp mà hay quên. Bộ quan (trái) Nhược là Tỳ thổ hư hàn, thủy cốc không tiêu hóa. Bộ xích (trái) Nhược là âm dịch khô kiệt. Bộ xích (phải) Nhược là dương khí bị hãm".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Mạch Nhược là triệu chứng của dương khí suy vi".
- Sách 'Trung y học khái luận' ghi: "Mạch Nhược thấy ở chứng dương khí bị suy".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Nhược chủ nguyên khí hư yếu, dương khí suy vi, di tinh, hư hàn, huyết hư, gân cơ bại, lạnh lâu năm, tráng nhiệt".
Tả Thốn NHƯỢC
Hồi hộp, hay quên.
Hữu Thốn NHƯỢC
Tự ra mồ hôi, hơi thở ngắn.
Tả Quan NHƯỢC
Gân cơ co rút.
Hữu Quan NHƯỢC
Tiêu chảy.
Tả Xích NHƯỢC
Âm dịch khô kiệt.
Hữu Xích NHƯỢC
Dương khí bị hãm.

D- Mạch Nhược kiêm mạch bệnh

- Thiên 'Bình nhân khí tượng luận' (Tố vấn 18) ghi: "Mạch Tiểu, Nhược mà Sáp là bệnh đã lâu ngày".
- Thiên 'Ngọc cơ chân tạng luận' (Tố vấn 19) ghi: "Mạch Nhược mà Hoạt là có Vị khí, vì vậy dễ chữa".
- Chương 'Bình mạch pháp' (Thương hàn luận) ghi: "Can bệnh mà thấy mạch Nhu, Nhược là sắp khỏi".
- Chương 'Trúng phong lịch tiết mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Trầm mà Nhược, Trầm chủ về xương, Nhược chủ về gân. Trầm tức là Thận, Nhược tức là Can. Đang khi ra mồ hôi mà lại tắm nước lạnh, hàn thủy hại Tâm, các khớp đau, ra mồ hôi màu vàng vàng gọi là Lịch tiết phong" - "Thiếu âm mạch Phù mà Nhược, Nhược là huyết không đủ, Phù là do phong, phong huyết tương bác vì vậy các khớp đau như bị co kéo".
- Chương 'Huyết tý hư lao mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Đàn ông mạch Phù, Nhược mà Sáp thì không có con, tinh khí trong mà lỏng". - "Đàn ông bình thường mà mạch lại Hư, Nhược, Tế,Vi thì thường ra mồ hôi trộm".
- Chương 'Ngũ tạng phong hàn mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch chân tạng của Phế hiện ra thì Phù mà Hư, ấn tay xuống thấy Nhược, mềm rỗng như cọng hành, ở dưới không có gốc thì chết". - "Mạch chân tạng của Can hiện ra thì Phù mà Nhược, ấn tay xuống thấy như dây tơ, không đến hoặc cong như rắn bò thì chết".
- Chương 'Kinh qúy thổ nục mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược) ghi: "Mạch ở thốn khẩu Động mà Nhược. Động thì kinh sợ, Nhược thì hồi hộp". - "Người bệnh mặt không có huyết sắc, không nóng lạnh mạch Phù, Nhược, ấn tay thấy tuyệt thì đại tiện ra máu".
- Chương 'Phụ nhân sản hậu mạch chứng trị' (Kim quỹ yếu lược)ghi: "Sản phụ bị chóng mặt, choáng váng, mạch Vi, Nhược, nôn mửa không ăn được, đại tiện cứng, đầu ra mồ hôi, đó là do huyết bị hư".
- Chương 'Bình tạp bệnh mạch' (Mạch kinh) ghi: "Mạch Tiểu Nhược là chứng phản vị (ăn vào là nôn ra)".
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Mạch ở thốn khẩu mà Nhược, Trì là đầy hư, không ăn được. Mạch ở thốn khẩu Nhược mà Hoãn thì ăn không xuống, khí bị nghẹn ở ngực". - "Các chứng hư hoặc chứng huyết mà thấy mạch Nhược kiêm Sáp là khí và huyết đều hư".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi:
Mạch Nhược
Phối hợp
Chủ bệnh
PhùHàn ở biểu hoặc khí bị hư.
SápHuyết hư.
TếÂm hư.
Trầm SápDi tinh (nam), băng lậu (nữ).
Huyền TếHuyết hư, gân teo.
NhuyễnMồ hôi tự ra.
- Sách 'Trung y chẩn đoán học' ghi : "Nhược Sáp chủ huyết hư, Nhược mà Hoạt chủ Vị khí suy, Nhược mà Vi chủ dương khí suy, Nhược mà Sác chủ di tinh , băng huyết".

E- Mạch Nhược và đều trị

- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thái dương bệnh, phát sốt, sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít, mạch vi Nhược là vô dương, vì vậy, không thể phát hãn, cho uống bài 'Quế chi nhị việt tỳ nhất thang' ( Quế chi, Thược dược, Ma hoàng, Cam thảo, Đại táo, Sinh khương, Thạch cao)". - "Thái dương bệnh, ngoại chứng chưa giải, mạch Phù Nhược thì dùng phép phát hãn để giải, cho uống bài 'Quế chi thang' ( Quế chi, Thược dược, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo)". - "Thái dương trúng phong, mạch Phù Khẩn, phát sốt, sợ lạnh, cơ thể đau nhức, không ra mồ hôi mà lại phiền táo, cho uống bài 'Đại thanh long thang' ( Ma hoàng, Quế chi, Hạnh nhân, Thạch cao, Chích thảo). Nếu thấy mạch Nhược, Vi, ra mồ hôi mà không sợ gió thì không thể uống bài trên ( Đại thanh long thang), nếu uống sẽ sinh ra chứng quyết nghịch, gân thịt máy giật, đó là nghịch chứng". - "Mắc bệnh đã 6-7 ngày mà mạch Trì, Nhược, Phù sợ gió, sợ lạnh, tay chân ấm đã dùng phép hạ 2-3 lần mà vẫn không ăn được, dưới 2 bên sườn lại đầy đau, mặt, mắt và cơ thể đều vàng, cổ gáy cứng đau, tiểu khó. Cho uống bài 'Đại sài hồ thang' ( Sài hồ, Bán hạ, Thược dược, Hoàng cầm, Sinh khương, Chỉ thực, Đại táo ). Thái dương bệnh mà bộ thốn Hoãn, bộ quan Phù, bộ xích Nhược, phát sốt, ra mồ hôi mà sợ lạnh, không ói, vị quản đầy tức, đó là do thầy thuốc dùng phép Hạ mà ra".
- Chương 'Biện thái dương mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Mắc bệnh đã 2-3 ngày, mạch Nhược mà không có biểu hiện của Thái dương Sài hồ chứng, phiền táo, vị quản đầy cứng, 4-5 ngày sau, tuy ăn được thì cũng cho uống bài 'Tiểu thừa khí thang' ( Đại hoàng, Hậu phác, Chỉ thực) nhưng giảm bớt lượng thuốc".
- Chương 'Biện thái âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hn luận) ghi: "Thái âm bệnh, mạch Nhược, đại tiện lỏng, nếu có thêm vị Đại hoàng thì phải giảm bớt liều lượng vì Vị khí của người bệnh suy yếu nên dễ bị động".
- Chương 'Biện thiếu âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Thiếu âm bệnh, mạch Vi thì không thể phát hãn vì sẽ làm cho vong dương. Dương đã hư mà mạch bộ xích lại Nhược, Sáp thì không thể dùng phép hạ".
- Chương 'Biện quyết âm mạch chứng tịnh trị' (Thương hàn luận) ghi: "Nôn mửa mà mạch Nhược, tiểu thông lợi, cơ thể hơi nóng, lại thấy quyết nghịch thì khó chữa. Cho uống bài 'Tứ nghịch thang' ( Sài hồ, Chỉ thực, Thược dược, Cam thảo)".
- Chương 'Bình tam quan bệnh hậu tịnh trị nghi' (Mạch kinh) ghi: "Mạch ở bộ quan Nhược là Vị khí bị hư... châm bổ huyệt Vị (Trung) quản (Nhâm 12 )". - 'Mạch bộ xích Nhược là dương khí thiếu, phát sốt, phiền nhiệt trong xương... châm bổ huyệt Quan nguyên (Nhâm 4)".
- Sách 'Tần Hồ mạch học' ghi: "Mạch Nhược là triệu chứng dương khí suy, vì vậy sợ lạnh, phát sốt, đau trong xương, gân teo, thường hồi hộp và ra mồ hôi nhiều, tinh thần suy kém, cách chữa phải gấp dùng cách ích khí điều vinh".
- Sách 'Thiên kim dực' ghi: "Mạch Nhược là triệu chứng dương khí bị suy, cách chữa phải nên ôn, nên bổ".
- Chương 'Y gia quan miện' (Hải thượng y tôn tâm lĩnh) ghi: "Mạch tả thốn thấy Nhược là Tâm khí bị hư. Mạch hữu thốn thấy Nhược là dương hư. Cho dùng bài 'Ngũ bổ hoàn' ( Bạch phục linh, Địa cốt bì, Ngưu tất, Nhân sâm, Thục địa) hoặc bài 'Tứ nghịch thang' (Phụ tử, Chích thảo, Can khương). Mạch ở tả quan thấy Nhược là Can khí bị hư, mạch hữu quan thấy Nhược là khí hạ tản mác, nên dùng bài 'Bình vị tán' (Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo) hoặc bài 'Ích hoàng tán' ( Trần bì, Đinh hương, Kha tử, Thanh bì, Chích thảo). Mạch tả xích thấy Nhược là Thận khí ở trong bị hết, dương chạy tán loạn, mạch hữu xích thấy Nhược là dương thịnh âm hư tuyệt, đau buốt ở ngoài da, do mạch Tam tiêu chỉ còn dương lẻ loi, không giữ được một mình nên thoát khỏi vị trí, trường hợp này, không thể chữa được".
G- Mạch Nhược qua các lời bàn
- Sách 'Chẩn tông tam muội' ghi: "Mạch Nhược là triệu chứng của dương khí suy vi, vì ấn nhẹ tay là để xem về phần dương, nay ấn nhẹ tay thì thấy như không có vì vậy biết rõ là dương bị suy. Do đó mới nói là mạch Nhược thuộc âm. Nếu thấy ở các kinh dương thì cũng là dương khí suy. Kinh nói: "Mạch ở thốn khẩu Nhược mà Trì là đầy hư, không ăn uống được. Mạch ở thốn khẩu Nhược mà Hoãn thì ăn không xuống, khí bị nghẽn ở ngực." Hai câu trên, một thuộc về Vị bị hàn, một thuộc Tỳ hư, vì vậy đều chủ về ăn uống. Lại nói rằng Thái dương trúng thử, cơ thể nóng mà mạch lại Vi Nhược, cho thấy rằng mạch Nhược là vô dương vì thế, không thể nào là thực nhiệt. Chỉ nên phân biệt là chân dương hư hoặc vị khí hư. Mạch Nhược thấy ở các kinh âm thì tuy là mạch hợp chứng nhưng dương khí cũng đã quá suy vi, nếukhông ôn đại bổ thì khó mà vãn hồi".
- Sách 'Mạch học giảng nghĩa' ghi: "Các chứng hư lao, huyết tý, ho lâu ngày, mất máu, đàn bà mới sinh, người già khí huyết suy nhược thì thường thấy mạch Nhược, Vi, nhưng cũng cần Nhược mà hòa hoãn thì mới là mạch có Vị khí. Nếu tuổi trẻ, bị bạo bệnh mà thấy mạch Nhược là nghịch, khó chữa".
- Sách 'Trung y chẩn đoán học giảng nghĩa' ghi: "Mạch Nhược và mạch Nhu cùng 1 loại. Mạch Nhu nhỏ mềm mà Phù, mạch Nhược nhỏ mềm mà Trầm. Bệnh mới khỏi, chính khí hư, thấy mạch này là thuận. Bệnh mới mắc phải, tà khí đang thịnh mà thấy mạch này là nghịch".
Bài Ca Mạch NHƯỢC (Âm) (Tần Hồ mạch học)
Thể trạng: Nhược không lực ấn mềm tay.
Trầm mà nhu tế thực rầy phải suy.
Dương vào âm, tinh huyết suy,
Già thì còn thể... trẻ thì đáng lo.
Tương loại: Nhu thì phù tế mềm thay,
Nhược thì trầm tế khác rầy mạch Nhu.
Chủ bệnh: Mạch Nhược âm hư dương suy,
Sợ lạnh phát sốt, cân nuy rõ rồi.
Hay sợ sệt nhiều mồ hôi,
Điều dinh bổ khí liệu đàng chữa ngay.
Thốn Nhược dương hư ngờ chi,
Quan Nhược vị yếu tỳ suy rõ ràng.
Xích Nhược ta lại phải tường,
Âm hư bởi có tà dương hãm vào.
Bài ca Mạch NHƯỢC (Chẩn gia chính nhãn)
Mạch tượng: Mạch nhược thực yếu ớt thay,
Cực mềm, nhỏ bé mà nay lại trầm.
Kỹ càng nhận xét kẻo lầm,
Nặng tay mới thấy, nhẹ tìm được đâu.
Chủ bệnh: Mạch Nhược chủ bệnh phải tường,
Dương hãm thường thường chân khí suy vi.
Tả thốn nhược tâm hư suy,
Thường khi quên nhãng thường khi sợ sàng.
Hữu thốn phế hư rõ ràng,
Đã hay đoản khí lại tràn mồ hôi.
Tả quan Nhược mộc khô rồi,
Quắp co, huyết kém không bồi dưỡng gân.
Hữu quan tỳ lạnh hư chân,
Cho nên thủy cốc có phần kém tiêu.
Tả xích thủy kém dồi dào,
Hữu xích dương đã hãm vào phần âm.
H- Y Án Mạch NHƯỢC
Y án Mạch NHƯỢC Tế
(Trích trong 'Nội khoa học của Thượng Hải')
"Thiện XX, 50 tuổi.
Khám lần đầu: Mặt và chân phù thủng, vai lưng đau mỏi, sau khi ăn vào, đại tiện lỏng ra thức ăn không tiêu hóa, tiểu nhiều, lượng nước tiểu ít, chóng mặt, hoa mắt, thường bị gai rét, chân tê buốt, ra mồ hôi trộm, ăn kém, mệt mỏi cực độ, không đi đứng được một mình, gầy ốm, khiếp nhược, mặt phù, tinh thần suy sụp, tiếng nói nhỏ, mạch Nhược, Tế chất lưỡi đỏ, bệu, không có rêu. Bệnh đã 2 năm, chữa đã nhiều nhưng không có kết quả, Tỳ và Thận đều hư, dương khí, âm huyết đều hao tổn, đã thuộc loại hao tổn.
Điều trị chủ yếu phải ôn dương, ích khí, kiện Tỳ, làm mạnh ( kiện) trung tiêu, cố biểu để liễm mồ hôi, hỗ trợ thêm lợi thấp, tiêu thủng. Cho dùng: Hoàng kỳ (chích) 16g, Ba kích 12g, Bạch truật (sao) 12g, Mẫu lệ (nung) 40g, Ngũ vị tử 6g, Đảng sâm 12g, Phục linh 16g, Thỏ ty tử 12g, Phù tiểu mạch 24g, thêm 'Bát vị phụ quế hoàn' 16g.
Khám lần 2: Sau khi uống thuốc, tinh thần phấn chấn hơn nhưng các chứng trạng chưa chuyển biến rõ, bệnh này thuộc về hư tổn, có thể không có hiệu quả nhanh. Mệnh môn hỏa suy là các gốc làm cho Tỳ dương không mạnh. Đổi dùng cách chữa ôn Thận kiện Tỳ. Cho dùng: Hoàng kỳ (chích) 16g, Mộc hương 4g, Sơn dược 12g, Đảng sâm 12g, Sa nhân 4g, Bạch truật 12g, Phục linh 12g, Ngũ vị tử 6g, Lưu hoàng (chế) 2g, Chích thảo 4g, Biển đậu (sao) 16g.
Khám lần 3: Hỏa của Mệnh môn đã giúp cho sự tiêu hóa của Tỳ Vị, không những giảm bớt số lần đại tiện mà đại tiện ra nguyên thức ăn giờ đã chuyển sang thành nhão, mặt và chân cũng bớt phù nhưng còn kém ăn, sau khi ăn thì bụng đầy, còn ra mồ hôi và mệt mỏi, tiểu không lợi... Bệnh có dấu hiệu bớt, chỉ do chính khí bị hư nên khó mà phục hồi nhanh được. Dùng nguyên phép cũ, có gia giảm linh hoạt. Dùng đơn thuốc cũ, bỏ Mộc hương, Ngũ vị tử, thêm Lục khúc (sao cháy) 12g, Xa tiền tử 16g. Bệnh khỏi".
Y án Mạch NHƯỢC Tế
( Trích trong 'Lâm chứng y án bút ký ' )
" Người đàn bà họ Khang, tuổi quá 40, kinh nguyệt đến trước kỳ, kéo dài không dứt. Ăn ít, cơ thể gầy ốm, lưng mỏi, bụng đầy trướng, mạch Nhược, Trì, Tế. Do lo nghĩ quá làm tổn thương đến Tâm, Tỳ, khí huyết hư hàn làm cho không cố nhiếp được huyết nên kinh nguyệt đến sớm không đúng kỳ. Cho dùng bài 'Quy tỳ thang' ( Bạch truật, Bạch linh, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Mộc hương, Viễn chí, Cam thảo, Đương quy, Long nhãn, Toan táo nhân ), thêm Đỗ Trọng, Tục đoạn, Ngũ vị tử, Thục Phụ tử để bổ Tâm Tỳ. Uống liên tục 1 thời gian, bệnh khỏi. Nếu trị theo chứng huyết nhiệt thì có thể bị lầm lẫn làm cho khí huyết bị hư tổn".
Y án 3 Bộ Mạch Tay Phải Đều Trầm NHƯỢC Vô Lực
(Trích trong 'Danh y loại án')
"Giang Ứng Túc chữa cho một em bé 9 tuổi. Bỗng nhiên thấy chân tay co giật, lưỡi rụt lại mà sùi bọt mép, sắc mặt trắng bệch, môi xanh tím. Có thầy thuốc cho là kinh phong, người khác cho là do phong, hỏa, đờm, nên đã uống Chu sa, Tê giác, Kim bạc, Thạch hộc, Ngưu hoàng, Hổ phách, Ngô công, Toàn yết... bệnh không bớt mà lại còn nặng hơn. Tôi đến xem mạch thấy tay phải 3 bộ mạch đều Trầm Nhược mà vô lực. Đây là do Tỳ hư sinh phong, phải đại bổ. Cho uống 'Quy tỳ thang' ( Bạch truật, Bạch linh, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Mộc hương, Viễn chí, Cam thảo, Đương quy, Long nhãn, Toan Táo nhân ), thêm Quế, Phụ. Hết co giật thì bỏ bớt Quế, Phụ, cho uống đại tễ Sâm, Kỳ rồi khỏi hẳn".
Xem phần tiếp theo :
http://truthlady3.blogspot.com/2017/06/mach-hoc-tong-hop-tiep-theo.html