LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Sunday, October 16, 2016

BÁT ĐOẠN CẨM


Có lẽ quá xa xưa theo truyền thuyết, thuở các vị vua hiền đức và tài năng như Thần Nông, Phục Hi, Hoàng Đế đã có người am hiểu tận tường về môn học nầy, có nhiều người luyện tập và coi như một phép dưỡng sinh cần thiết tối yếu. Chính nó bắt nguồn và song hành phát triển cùng môn học Châm Cứu, một môn Y Học giá trị ngày nay đang được các Bác Sĩ trên Thế giới gia tâm nghiên cứu thực hành v.v...

Cho đến đời Tam Quốc (213-260), vị Thần Y Hoa Đà bổ cứu và đặt chế thêm cùng biến đổi thành môn luyện tập mới đặt tên là Ngũ Cẩm Đồ. Nhưng chính những động tác Bát Đoạn Cẩm là căn bản. Và xét trên phương diện khoa học thì môn Bát Đoạn Cẩm có ít động tác, đơn giản hơn Ngũ Cầm Đồ, do đó thích hợp với người xưa hơn… Dù thế nào đi nữa mục đích chính của môn học vẫn là làm lưu thông Kinh Mạch, khí huyết thuần nhuận làm tăng gia tuổi thọ cường kiện thân xác, minh mẫn tinh thần, rất hợp với Y Đạo ngày xưa.
Qua những suy luận và đoán quyết môn Bát Đoạn Cẩm, môn học Khai Thông Khí Lực Kỳ Kinh Bát Mạch đã có từ Cổ thời Trung Quốc, nhưng vẫn còn nằm trong dự thuyết vì chưa có bằng chứng xác thực. Và phải đợi đến thời Chùa Thiếu Lâm phát triển nghệ thuật chiến đấu Kỹ Kích (Võ thuật) thì môn Bát Đoạn Cẩm mới chính thống được lưu truyền có phép tắc kỷ cương. Kể từ đó, môn Bát Đoạn Cẩm lan truyền mau, rộng và được người đời ngưỡng mộ tập luyện như môn phép tắc bí truyền . Như vậy thời môn Bát Đoạn Cẩm do ngài Thiền Sư Tổ Đạt Ma dạy, là học thuật mang từ Thiên Trúc (Ấn Độ) qua? Nhưng xét theo dữ kiện lịch sử thì bên Ấn Độ không có môn học nầy. Người ta quả quyết rằng ngài Tổ Sư sáng chế môn Bát Đoạn Cẩm để dạy môn đồ cho cường kiện thân tâm hầu mau đạt hạnh tu Chánh Kiến, Chánh Giác, là một hình thức tiên khởi cho môn học tối thượng Dịch Cân Pháp mà ngài sáng tác sau này.

Người Trung Hoa vốn là dân tộc hay sáng kiến, nên môn đồ của ngài Đạt Ma Tổ Sư ở hậu lai có nhiều vị biến chế những học thuật học được ở Ngài thành nhiều môn học chuyên biệt khác, lập thành môn phái truyền bá sâu rộng trong phàm dân Trung Quốc cho đến ngày nay. Đó là gốc của Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm….
Còn như có nhiều thuyết cho Bát Đoạn Cẩm do Nhạc Phi chế ra chắc là không đúng vì một Đại tướng chuyên đánh trận không có thì giờ và tâm hồn không đặng thanh nhàn để nghĩ ra những điều ký bí ít ra cũng phải cần phải đến một Đạo gia mới có thể nghĩ tới.

Và Đạo gia cũng có môn Bát Đoạn Cẩm, song hành và phát triển cùng thuật Vận Khí là phép luyện Nội Công chân truyền, được nhiều sách của các Đạo Sĩ nhắc đến, cùng được các quyền gia chuyên luyện Võ Công Đạo Gia: (Bát Quái Chưởng, Thái Cực Quyền) học tập.
Trên đây là sự hiểu biết cần thiết về môn học cẩn yếu Bát Đoạn Cẩm cho một võ gia, nhưng điểm cần yếu hơn tưởng không thể quên đề cập trước khi bắt đầu tập luyện là: Bát Đoạn Cẩm là gì?

Bát Đoạn Cẩm là tên gọi của một số chiêu thức tinh luyện và chuyển hóa Tinh – Khí – Thần. Nó hiện diện trong rất nhiều gia phái võ thuật như Thiếu Lâm, Võ Đang, Thái Cực Đường Lang, Hồng Gia Quyền, Hiệp Khí Thái Cực, NộI Gia Bắc Phái… Tuy nhiên cứ theo như sử sách để lại thì tất cả các hình thức Bát Đoạn Cẩm (tám khúc gấm) đều có nguồn gốc từ Đạt Ma Tổ Sư, vị Tổ đời thứ nhất của Thiền Đạo. Tuy nhiên theo Gs Ngô Gia Hy thì Bát Đoạn Cẩm là một Động Công do Nhạc Phi lập ra vào thế kỷ thứ 12 dưới
đời nhà Tống (960 – 1279 sau CN.).

Bát Đoạn Cẩm là Tâm Phép tập cho đả thông Kinh Mạch, khí lực thuần nhuận lưu thông đến mọi phần trong cơ thể giúp hành giả (người học) thân thể thường được cường kiện khinh linh vô bệnh, trường thọ đúng đạo dưỡng sinh. Ngoài ra còn có công năng tạo dựng sức mạnh gân thịt cho Võ gia tạo điều kiện tham học tới chỗ đại thành, trị lành mọi bệnh Nội thương do tập luyện quyền thuật gây ra.
Bát Đoạn Cẩm quả thật có công năng thần diệu vô song cải tạo sức khỏe, tăng tiến thể lực và rèn luyện thân tâm hợp nhất, là môn học thuật thể thao xây dựng đáng được đề xướng, tôn vinh…

Cách luyện tập Bát Đoạn Cẩm.
Bát Đoạn Cẩm gồm có tám phép luyện tập, và không nói ai cũng hiểu đều phải tuần tự tập luyện tuần tự từ phép một cho đến khi hết trong một buổi tập, theo đúng phương pháp sẽ được giảng tới trong phần thực hành kế sau.
Nhưng muốn thực hành cho hết tám phép trong một buổi tập thì trước tiên học giả phải thuần thục từ phép một theo phép tuần tự nhi tiến (học từ từ theo thứ tự). Việc nầy không khó, chỉ cần thời gian ngắn là ai cũng thực hành được một cách tự nhiên. Điều cần chú ý khi thực hành là phải quan tâm làm đúng từ động tác một của mỗi Đoạn (mỗi đoạn có nhiều động tác) và làm đủ số lần cần phải lập lại cho mỗi động tác. Khi chấm dứt đoạn thứ nhất thì liền đó luyện tập đến đoạn thứ nhì sau khi buông tay nghỉ thong thả 3 phút đồng hồ. (Nếu đã thuần thì thời gian nghỉ chừng một phút đã đủ) tính ra thong thả mà tập thì người mới mỗi sáng có thể dành khoảng 45 phút để thao luyện và khi đã thuần rồi thời gian luyện tập rút lại còn 20 đến 25 phút là cùng. Số thời giờ ấy rất khiêm nhường so với bất kỳ môn thể thao vận động nào mà sự thành quả thâu đạt được lại tốt đẹp vượt bực hơn tất cả.

Khi mới tập thì chú trọng về hình, nghĩa là sao cho đúng cách theo sách chỉ dẫn từ cách gồng chuyển chân tay, co vào, duỗi ra, hít thở, trợn mắt ….Muốn được như thế thì nên treo tấm kiếng (gương) để nhìn cho thấy chỗ sai mà sửa đổi. Nếu có người cùng tập sửa cho nhau thì càng hay hơn.
Lúc thuần thục chú trọng tới ý, nghĩa là hơi thở được quên đi, động tác xóa bỏ mà chỉ quán tưởng thấy cái dụng ý của mỗi đoạn (ý tứ đó là ý nghĩa của mỗi câu khẩu quyết của mỗi đoạn, xem trong phần thực hành chương nầy.) Bao giờ làm được từ hình thức tới ý thức thì động tác lưu đi mà tâm như quên như nhớ, huyết mạch cuồn cuộn chuyển lưu, khí lực rần rần tụ tán trong mỗi co duỗi chân tay…bài tập trôi mau đến khi chấm dứt thì tự động dừng ấy nhờ Thần.

Học giả tập đến bao giờ được như thế thì thân tâm trống không, cơ thể nhẹ nhàng vui tươi như trẻ, ăn uống ngon lành, ngủ nghê khoái lạc, đến như những công việc hàng ngày cho là rối rắm, mệt nhọc thì nay như đồ chơi và ngày giờ qua mau. Vì biết được thời giờ qua mau nên không phí thì giờ, do đó thành công hơn đời là như vậy đó. Không tập không biết, tập rồi biết ngay, việc nầy người ta ví đường có đi mới biết, chuông có đánh mới kêu. Kẻ lảm biếng thần trí ỉu lờ, lù đù chậm chạp, ngu ngơ việc đời trăm việc cũng tại không người hướng dẫn, nếu biết được phương pháp này mà chuyên cần học luyện thì đời sống đổi khác tức thời, thậm chí đến như tuổi già là cái luật định của tạo háo mà Bát Đoạn Cẩm còn cản được huống hồ.

Về chỗ (vị trí) để luyện tập thì không gì tốt hơn nơi yên tĩnh và thoáng khí, không khí trong sạch bao giờ cũng là thức ăn bổ, là liều thuốc quí cải tạo sinh lực con người. Do đó có thể chọn một khoảng trống sạch sẽ cao ráo trong vườn (nếu ở nhà quê), trong sân, hoặc trong phòng nơi có cửa sổ mở thoáng mát ra hướng khô ráo sạch sẽ (khuông cửa phải lau chùi hết bụi bặm thường xuyên, nếu ở nhà sàn trên sông, trên thuyền, tàu thì đợi nước lớn không khí trong sạch mới tập.) Tốt nhất là tập vào mỗi sáng, tập xong đợi 10-15 phút sau tắm nước lạnh chà xát da bằng khăn bong, xơ dừa…. thì sau đó một ngày đẹp nhất định sẽ đến với chúng ta, vì chung quanh ta ai cũng là người đáng thương, đáng mến, đời sống thật có nhiều ý nghĩa…

Tóm lại, khởi sự tập Bát Đoạn Cẩm phải:
- Thuộc và làm đúng hình thức bên ngoài của từng động tác trong mỗi đoạn.
- Khi thuộc Hình rồi phải thuần Ý, là cái mà mỗi khẩu quyết ghi rõ.
- Lựa chỗ thoáng, sạch mà tập mỗi buổi bình minh, nếu không tập buổi tối sau bữa cơm hơn 3 giờ đồng hồ.
-    Tập xong 15 phút sau tắm và chà xát da. Uống một ly nước lọc sạch trước khi tập và sau, ly nhỏ thôi.

Tám đoạn Bát Đoạn Cẩm
1. Đệ Nhất Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng “tới” Tam Tiêu)
2. Đệ Nhị Đoạn Cẩm: Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung “như” bắn chim điêu)
3. Đệ Tam Đoạn Cẩm: Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ (Điều hòa Tỵ vị “một” tay đẩy lên)
4. Đệ Tứ Đoạn Cẩm: Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền (Năm Lao Ngũ Thương liếc nhìn “phía”sau)
5. Đệ Ngũ Đoạn Cẩm: Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa (Lắc đầu vẫy đuôi [1] dứt “bỏ” tính nóng nảy)
6. Đệ Lục Đoạn Cẩm: Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu (Sờ xương cùn 7 lần trăm bệnh tiêu)
7. Đệ Thất Đoạn Cẩm: Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực (Nắm chặt quyền, mắt giận [2] , tăng khí lực)
8. Đệ Bát Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo (Hai tay kéo hai chân bền thận eo)

 
Chú ý: Chữ nghiêng phiên nghĩa Khẩu quyết Bát Đoạn Cẩm chưa sát nghĩa lắm cần đọc rõ chi tiết mỗi đoạn mới biết được đầy đủ.
[1]Vẫy đuôi: ý nói uốn éo mông đít như con rắn vẫy đuôi
[2]Mắt giận: dịch chữ Nộ mục, ở đây nên hiểu là tập trúng ý lực nơi mắt như giận dữ và nắm quyền đấm ra làm tăng khí lực


Đệ Nhất Đoạn Cẩm - Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu

THẾ DỰ BỊ: Đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên đùi, lòng bàn tay úp vào hai bên đùi, hai gót chân khí nhau, hai mũi bàn chân mở ra hình chữ V. Mắt nhìn thẳng bằng ngang, hơi thở điều hòa tự nhiên. (Hình 1)
1. Lưỡng Thủ Kinh Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng tam tiêu)
Phép Luyện: Khi tập đông người phải sắp hàng ngang và dọc thẳng nhau cùng khoảng cách giữa mỗi người với nhau bằng hai tay giăng thẳng chạm nhau là được. Nếu đơn luyện (luyện một mình) thì không cần chú trọng đến sắp hàng. Đoạn nầy có tám động tác, tập luyện tuần tự như sau:
Động tác 1: Hai bàn tay từ từ xoay mở lòng bàn tay ra ngoài sang hai hướng trái phải. Đoạn từ từ đưa ngửa lên, hai cánh tay ngang bằng rồi tảng lên trên đỉnh đầu, các ngón đan vào nhau (Hình 2 và 3).
Động tác 2: Hai cổ tay vận lực (gồng) vừa xoay ngửa lòng bàn tay lên trời, độ cao không thay đổi (Hình 4). Kế đẩy cao lên trời chân nhón gót.
YẾU LÝ: Động tác 1, từ từ hít hơi vào thì đồng thời xoay cổ tay mở bàn tay ra rồi hướng lên trời mà đưa lên thì hít hơi dài theo cho đến khi hai bàn tay đan vào nhau mới ngưng.
Kế theo là động tác 2, gồng cổ tay xoay ngửa lòng hai bàn tay lên trời, hai cánh tay thẳng, nhón gót thì giữ kín hơi trong phổi không hít thêm cũng không thở bớt ra. Quan trọng là chỗ vận lực đẩy chưởng lên gọi là Lưỡng Thủ Kình Thiên, thì phải tưởng tượng như đang chống đỡ một bầu trời đang sập xuống đầu mình, do đó phải vận toàn lực mà đẫy lên không thể đẩy hời hợt được. Lúc đẩy lên mắt không nhìn theo tay mà Thần thì quán tưởng tới Tam Tiêu từ trên xuống dưới thông suốt. (Xem tiếp Yếu Lý động tác kế).
Động tác 3: Buông lỏng hai bàn tay rồi từ từ hạ xuống đỉnh đầu, lòng bàn tay vẫn để ngửa. Thở ra bằng mũi hoặc thổi nhẹ hơi ra vừa mũi vừa miệng. Hai chân đồng thời cũng hạ xuống đứng bình thường. Chân tay nhịp nhàng. (Hình 5) Kế, hít hơi vào hai bàn tay vận lực đẩy lên, hai gót chân cũng nhón lên theo. Khi đẩy thẳng tay thì phổi cũng đầy hơi, dĩ nhiên hít vào bằng mũi, miệng ngậm kín. (Hình 6)…
YẾU LÝ: Khi nhón gót đẩy song chưởng lên tận cùng cao thì dừng lại một vài giây đồng hồ trước khi xả lực (buông lỏng) để thu tay trở xuống trên đỉnh đầu. Trong mấy giây đồng hồ ngưng lại trên cực điểm cao thì tâm quán tưởng đả thông hai Kinh Tam Tiêu, tức thông suốt từ đầu ngón tay giữa đến đầu chót đuôi lông mày. Kinh nầy chạy bên ngoài cánh tay, qua vai lên trái tai rồi bọc ra trước vành tai lên đuôi mắt, tổng cộng là 23 huyệt. Hai kinh nầy có tác dụng hô hấp, tiêu hóa và các bộ phận sinh dục cũng như bài tiết. Khi hai kinh Tam Tiêu nầy đả thông thời không thể mắc bệnh thuộc về Ba Tùng: và khi có bệnh về Ba Tùng thì phải luyện tập đoạn này để điều trị.
Vì kinh Tam Tiêu nằm ở bên ngoài cánh tay nên động tác lật ngược chưởng tâm bàn tay lên làm căng thẳng toàn bộ gân mạch phần ngoài cánh tay làm luồng khí lực được lưu thông dể dàng. Để phụ trợ và hiểu biết rõ về bản thể mình hầu dần dà nghe được mọi biến động của châu thân trong khi đẩy chưởng phải quán tưởng khí lực chạy mạnh từ đầu ngón tay giữa đến đuôi mày. Đó là ý nghĩa của câu khẩu quyết… Lý Tam Tiêu. Ngoài ra chân nhón gót lên sức nặng tụ trên các đầu ngón chân, nhất là ngón cái làm căng thẳng vùng sau đùi chân phía bên trong và phần bụng trước ển tới thúc đẩy kinh Tỳ Tạng tức Túc Thái Âm Kỳ Kinh, gồm 21 huyện được đả thông. Ngoài ra khi hạ gót chân xuống mũi bàn chân uốn lên thì phần toàn bộ đùi trước từ dưới lên trên căng cứng giúp đả thông kinh Dạ dày tức Túc Dương Kinh Vị, gồm 45 huyệt… Do đó động tác của toàn đoạn làm lợi ích cho cả Ba Tùng. Ở đây hạn hẹp giải thích không được rõ, chỉ nói đại cương công dụng của động tác và tại sao nó làm được lợi ích như vậy thôi. Ngoài ra muốn tham cứu do soạn giả biên soạn thì mới hiểu đến chi tiết. Điều tưởng nên nhắc cho rõ là từ xưa tới nay chẳng ai biết tập Bát Đoạn Cẩm cho lợi ích đến chỗ tận cùng của nó, cũng như chẳng ai giải thích rõ được, dù bên Tàu hay bên Nam ta. Nay soạn giả nói rõ ra cho học giả cùng hiểu, ấy là người đầu tiên khám phá được ẩn ý của cổ nhân mấy ngàn năm, sở dĩ soạn giả khám phá được là nhờ có học qua Y Lý và đạt thành Nội Công thượng thừa đến gọi là giác ngộ. Nhờ đắc đạo mới dám nói dạy Nội Công cấp tốc cho người cao học võ thuật cùng dạy thuật Điểm Huyệt mà người đời tương truyền chớ chẳng thấy ai làm được. Soạn giả sẽ viết sách dạy điểm huyệt theo kinh nghiệm bản thân xuất bản nay mai ai học cũng thấy kết quả….
Động tác 4 – 5 – 6: Đẩy chưởng lên và hạ xuống 3 lần như động tác 3 vừa học trên. Thu tay xuống đầu thì buông lỏng, gồng thì đẩy lên. Tay lỏng thì thở ra, hít vào thì đẩy lên. Hạ xuống thì cong các ngón chân lên. (Xem hình 7-8, Hình 7 nhìn từ một bên).
YẾU LÝ: Động tác thực hiện đều đều không mau không chậm, hơi thở cũng tùy theo vận chuyển lên xuống mà thở hít. Quán tưởng lên xuống như dòng nước chảy. Tập mà nghe rêm tay phần cánh tay ngoài thì đúng, không rêm nên coi lại là vì đẩy chưa ngay đỉnh đầu. Trẹch ra trước hoặc dịch về sau đều không thông được các kinh. Phần chân nghe mỏi phần trước và phía sau mé trên lên tới bụng là đúng. Nếu không nghe hơi hám gì là tại nhón gót chưa tới chỗ cao nhất và chưa cong ngón chân cái, trỏ lên khi hạ gót chân. Ban đầu tập thấy rêm mỏi nhưng sau hơn tuần trở lên thì mỗi lần đẩy tay lên xuống vài lần thấy rần rần trong chân tay ấy là khí được điều động đả thông như nước chảy trong ống. Đó là điềm tốt.
Nói thêm cho rõ, đan ngón tay hoặc bàn tay nầy đè lên mu bàn tay kia đều đúng cả nhưng đan ngón tay thì kết quả hơn, dễ thúc đẩy kinh mạch hơn. Hiểu rõ thì khỏi dị nghị.
Động tác 7: Làm đến động tác 7, đẩy chưởng cao chân chưa hạ xuống thì mở rời song chưởng ra rồi đưa xuống hai bên từ từ, lòng bàn tay úp xuống hướng mặt đất, hai cánh tay thẳng, bằng ngang song song mặt đất, trong khi chân vẫn còn nhón gót. Đưa tay xuống từ từ không làm mau (Hình 8).
Động tác 8: Từ từ hạ gót chân xuống cong ngón các ngón chân lên, hai tay đưa xuống úp hai bên đùi như động tác chuẩn bị. Thở hít tự nhiên. (Hình 9) Kế duỗi thẳng các ngón chân xuống đứng bình thường.
YẾU LÝ: Tập xong hết động tác thứ 8 thì trở lại tập động tác 1-2-3…cho đến 8 và tập làm 4 lần cả thẩy trước khi qua đoạn thứ hai. Nghĩa là đoạn thứ nhất tập từ đầu đến cuối làm 4 lần.
Lưu ý: Nếu hai bàn tay đan vào nhau như cài răng lược thì mỗi khi thu chưởng về sát đỉnh đầu phải xoay cổ tay cho lòng bàn tay úp xuống đỉnh đầu; nếu bàn tay úp lên nhau thì khỏi xoay.
Soạn giả nhắc lại lần nữa, đoạn thứ nhất nầy chủ luyện đả thông hai kinh Tam Tiêu nằm ở phía ngoài hai cánh tay từ đầu ngón tay giữa cho đến đuôi chân mày. Làm tăng bổ toàn bộ cho Ba Tùng trong châu thân. Đồng thời nhón chân và cong ngón chân lên làm đả thông hai kinh Tỳ Tạng và hai kinh Dạ Dày giúp ăn ngon ngủ được và trí tuệ tăng tiến. Theo Giáo Sư Soulié de Morant thì kinh Tỳ Tạng giúp đứa nhỏ (thanh niên) mau lớn và phát triển khả năng toán học. Theo soạn giả kinh nghiệm thì luyện đả thông một lượt ba kinh Tam Tiêu, kinh tỳ Tạng và kinh Dạ Dày làm thân thể rất mau cường tráng, trước nhất điều chỉnh mọi suy yếu về sinh lý và sinh dục, sau đến bồi bổ hiệu năng làm tăng tiến sức mạnh của Ba Tùng và hệ thần kinh. Do đó sau 30 ngày chuyên tập nội đoạn này cho đúng cách thì thân đã đổi khác, từ trầm trệ hóa ra nhẹ nhàng. Một người lười biếng sẽ hóa ra siêng năng, thích làm việc…việc gì cũng thích.


Đệ nhị Đoạn Cẩm - Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu

CHUẨN BỊ: Khi tập xong Đệ Nhất Đoạn Cẩm thì thu tay trở về thế dự bị như ban đầu, nghỉ một phút rồi tiếp tục tập tới đoạn thứ hai. Người yếu nên nghỉ 2-3 phút (Hình 10).

2.Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung bắn chim điêu)
Khác hơn đoạn thứ nhất chủ luyện khí đả thông kinh mạch, đây doạn thứ nhì nầy chủ luyện lực gân. Luyện gân thì tấn Kỵ Mã. Và đoạn nầy được tập luyện với tấn Kỵ mã và Cung Bộ. Đoạn nhì Bát Đoạn Cẩm chủ luyện gân lực cho đôi tay, thích ứng cho mọi vận động võ thuật cũng như lao động thường thức hàng ngày của con người.
Động tác 1: Tư thế chuẩn bị, hai chân nhảy ra hai bên một bước rộng hơn vai, hai bàn chân mở song song nhau, hai tay đưa thẳng bằng ngang phải trái, kế co tay vào ngang trước ngực, bàn tay trái dùng sức (vận lực) mở các ngón ra, các ngón bấu cong cong vào như bấu lấy quả cầu bằng sắt vậy (vừa nặng vừa trơn láng) lòng bàn tay hướng về hướng bên phải, và hổ khẩu hướng lên trời. Tay phải nắm lại thành quyền nhưng ngón trỏ mở ngay trỏ thẳng đứng lên trong lúc ngón cái kiềm (đè) lên ngón giữa. Mắt nhìn ngón trỏ tay phải theo đường bằng ngang về hướng phải. (Hình 11)
Động tác 2: Đầu xoay nhìn về hướng phải, chuyển gân đẩy quyền phải. “CHỈ” ngón trỏ về hướng phải, chưởng trái nắm lại thành quyền đồng thời cũng chuyển gân kéo bằng ngang về hướng trái, lòng nắm tay úp vào trước ngực, tấn bộ cùng lúc rùn thấp xuống chuyển thành chảo mã. (Hình 12)
YẾU LÝ: Động tác 1, tay phải như cầm cây cung, chưởng trái như cầm dây cung mà tra tên vào, vận sức chuẩn bị dương cung nên hơi được hít đầy phổi. Kế động tác 2, rùn bộ là dương cung, tưởng tượng dương cây cung bằng sắt nên phải vận lực nơi tay và chân rùn mình bám đất. Nếu quen dần với lối vận lực lên xuống thì có thể tưởng tượng là mình đang cỡi ngựa trên đường gập ghềnh và dương cung…
Động tác 3:… Nới lỏng nắm tay phải rồi mở ra thành chưởng, chưởng tâm chiếu về hướng phải, kế thả lỏng hai tay, thở ra đồng lúc nhỏm người dậy hai tay thu về thành động tác 1. (Hình 13 và 11)
Động tác 4: Làm lại hai (2) lần dương cung bắn sang hướng phải theo kiểu trồi lên sụp xuống tức động tác 1-2-3.
Động tác 5: …. Dương cung bắn sang hướng trái, chưởng phải vận lực bấu vào trước ngực bao lấy đầu quyền trái, trong lúc ngón trỏ quyền nầy chỉ thẳng đứng lên. Động tác và ý nghĩa giống hệt động tác 1 nhưng chỉ đổi tay, mắt nhìn theo ngón trỏ trái về hướng trái. (Hình 14)
Động tác 6: Vận lực dương cung ra bắn về bên trái, hạ thấp tấn bộ, buông lên, thu tay, nhỏm dậy. (Hình 15-16) Động tác nầy cũng làm ba lần như bên hướng phải. Tức đứng nhấp nhỏm bắn cung mỗi bên ba lần…
YẾU LÝ: Từ động tác 1 đến động tác 6 thật ra là thực hiện lặp lại của động tác 1-2-3 và đổi bên. Ý nghĩa của nó là bắn cung theo lối nhấp nhỏm gập ghềnh như đang khi cỡi ngựa trên đường gập ghềnh mà phi nhanh nên phải trồi lên sụt xuống. Do đó phần chân (mã bộ) thì linh động nhịp nhàng, mà phần tay thì vững vàng chắc chắn, lực được vận đầy, thân eo thẳng tắp. Có được như thế thì mục tiêu mới chuẩn đích.
Điều quan trọng phải làm trong ba động tác bắn cung nầy là lắp tên nhỏm dậy, bắn thì xuống tấn. Bàn tay nắm cung, ngón cái đè mạnh trên ngón giữa, ngón cái đưa cao, cánh tay thẳng, tận lực đẩy tới. Bàn tay cầm dây cung nắm chặt tận lực kéo về sau bên đối nghịch cho thẳng căng ngực. Sức mạnh được vận dụng nơi nắm tay vào chỗ eo lại. Do đó khi tập động tác nầy thấy rêm nhức phần trên cổ tay nắm cây cung và bắp thịt bắp tay trên tay nầy, và tay kéo dây thì chỉ mỏi ở bắp tay trên mà thôi. Làm đều hai tay thì mỏi đều. Nhớ phải gồng.
Động tác 7: … Làm xong động tác bắn bên trái thì xả lực, kế xoay mặt về hướng phải tra tên vào cung, xuống tấn bộ và bắn về bên phải ba lần mà chân không động (bất động). Động tác làm chậm vận lực đúng mức, bàn tay nắm và duỗi ngón trỏ cực lực. Kéo dây cung với tất cả sức mạnh thân mình. (Hình 17)
Động tác 8: … Bắn sang trái trong thế bất động ba lần, giống như bắn bên phải trên động tác 7. (Hình 18) Xong xả lực nhảy khép hai bàn chân vào sát nhau, tay buông tự nhiên hai bên đùi, nghỉ một phút để bắt đầu làm đến đoạn thứ ba.
YẾU LÝ: Toàn đoạn gồm hai thế bắn cung, bắn theo lối nhấp nhỏm và bắn trong tư thế đứng vững. Thế bắn nhấp nhỏm chú trọng nhịp nhàng bỏ chân, hễ trồi lên thì nạp tên, thở ra xả lực, xuống bộ thì đã đầy hơi, dương cung, nhả tên. Quan trọng ở chỗ đẩy cung và kéo tên (kéo dây cung), nắm tay đẩy cung lòng nắm tay ngửa tới hướng hẳn, ngón trỏ chỉ thẳng đứng, ngón cái kẹp chặt ngón giữa tức giữ cho nắm tay được cứng, và cánh tay thì thẳng. Tay kéo dây cung từ chưởng bấu từ từ nắm chặt lại như móng con chim ưng rồi ngón cái kiềm trên hai lóng thứ nhất của ngón trỏ và giữa, cánh tay thì kéo cực lực ngang về hướng đối nghịch. Lồng ngực ển tới trước. Hai tay đồng vận lực đẩy tới và kéo ra một lúc với động tác xuống tấn. Giữ bất động trong 6 giây đồng hồ, xong mới xả lực trồi dậy thu tay về vị thế lắp tên. Lắp tên và bắn theo nhịp độ đều và chậm. Động tác bắn bất động chỉ khác là không nhấp nhỏm. Hơi thở thì, lúc xả lực thì thở ra, hít đầy hơi rồi thì vận lực (gồng) và khi vận lực thì khí đầy trong phổi ngưng thở.

Điều nên nhớ là phải kiểm điểm coi hình thức mình làm có giống với sách không, kế đến ý thức có được đầy đủ hay còn phân tâm tạp niệm (nghĩ bậy bạ không chú ý vận gân). Kết quả của đoạn nầy làm mạnh hai cánh tay, thông hoạt và cứng cáp đôi chân. Làm thông kinh Ruột Già gồm 20 huyệt khởi đầu từ đầu ngón trỏ chạy theo phần trên cánh tay cho tới cánh mũi. Trị được bệnh táo bón, tê bại, phong thấp nhức gân khớp xương, nhất là đau gân tay, bán thân bất toại


Đệ Tam Đoạn Cẩm - Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ

CHUẨN BỊ: Đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên đùi giống như thế chuẩn bị hai đoạn trước… mắt nhìn thẳng tới trước, hơi thở điều hỏa. (Hình 19)
Động tác 1: Tay phải từ từ đưa (đở) lên thẳng cánh theo chiều bên phải, đến khi tay cao ngang vai thì các ngón của bàn tay từ từ ển (cong) lên bằng cách cong nơi cổ ta, trong khi cánh tay được đưa lên từ từ không dừng lại. Khi cánh tay thẳng đứng với thân mình thì bàn tay đã hoàn toàn ngửa lòng lên trời, mũi bàn tay chỉ về hướng bên trái. Các phần khác không lay động. (Hình 20)
Động tác 2: Cánh tay phải từ từ co chỏ hạ thấp lưng bàn may (mu) xuống sát đỉnh đầu, chỏ ngang hướng phải, lòng bàn tay vẫn chiếu thẳng lên trời. Trong khi bàn tay phải hạ xuống đỉnh đầu thì bàn tay trái nắm lại thành quyền cũng đồng lúc co chỏ thu quyền lên cao ngang hông. Hơi hít đều, giữ yên trong phổi (như hình 25 nhưng đổi tay). Kế nắm tay trái mở ra thành chưởng. (Hình 21)
YẾU LÝ: Động tác thứ nhất đưa tay lên mà thân không động, vai để mềm mà cổ tay phải vận động, theo tay đưa lên mũi hít đầy hơi. Khi tay tới đỉnh đầu nghe rêm phần gân hội giữa mu bàn tay và bắp thịt của cánh tay sau thì đúng, nhược bằng chẳng thấy rêm đau thì sai vì cánh tay đưa lên đã trệch đi tới trước hoặc sau không ngay hàng với vai. Đồng thời với động tác đưa tay phải thì chân phải cũng từ từ lún (trì) xuống đất, khi mu bàn tay và bắp tay nghe rêm thì bên hông phải cho đến chân (phần trước của chân) cũng nghe rêm rêm. Tập lâu mỗi lần đẩy tay lên nghe mát lạnh từ một bên hông tới đùi và chân trước, ấy là khí lực lưu thông. Co tay trái lên là hỗ trợ sự căng thẳng của hông phải tạo điều kiện cho khí lực lưu thông trong kinh Dạ Dày cùng kinh Tỳ Tạng. Đây là cách điều hòa khí lực hữu hiệu nhất không có bậc bô lão nào cùng võ gia nào tham luyện Bát Đoạn Cẩm mà không hiểu.
Động tác 3-4… Tiếp theo động tác trước. Bàn tay phải xoay lòng bàn tay úp xuống đỉnh đầu (gồng cứng mà xoay), kế xoay trở lên rồi đẩy chưởng thẳng lên đỉnh đầu, tay trái đẩy xuống và nắm lại thành quyền, hít hơi vào (thở ra ở động tác 2). Đoạn hạ chưởng xuống đỉnh đầu rồi lại đẩy lên. Hạ xuống xong thì thở ra, kế hít hơi vào thì đẩy chưởng lên…. Tức thực hiện 2 lần đẩy lên hạ xuống. (Hình 22). Nói rõ hơn từ động tác 1 tới động tác 4 làm cả thảy 3 lần đẩy chưởng lên và 3 lần hạ chưởng xuống, tức 3 lần điều lý kinh Tỳ Vị bên phải. Trong 3 động tác nầy có 3 lên hít vào và thở ra.
Động tác 5:…. Tiếp theo hình 22. Chưởng phải hạ xuống (thẳng tay) bên đùi đồng thời chưởng trái (thẳng tay) đưa lên rồi lật cổ tay cho chưởng tâm ngửa lên trời ngay giữa đỉnh đầu như Hình 23.
YẾU LÝ: Động tác 3-4 là động tác chót của 3 lần vận chuyển bàn tay phải để điều hòa kinh Tỳ Vị bên phải.
Động tác 5 là động tác giao hoán (thay đổi) từ thế chưởng đẩy lên tay phải thay đổi bởi tay trái, để bắt đầu sau đó tập đả thông hai kinh bên trái. Điều nên nhớ ở đây là hai chữ Giao Hoán, tức thay nhau, vậy hễ tay nầy xuống thì tay kia lên, tay nầy nhích động xuống bao nhiêu thì tay nọ nhích động lên bấy nhiêu. Tay phải xuống úp dần xuống rồi vào đùi, ngược lại tay trái từ úp bên đùi trái sau khi lên ngang bằng vai thì ngửa dần cho đến đỉnh đầu thì ngửa thẳng lên trời. Tay trái lên thì chân trái lún xuống. Mũi cũng hít vào từ từ cho đến khi tay đến đỉnh đầu thì phổi đầy hơi.

Ở động tác giao hoán nầy coi như chưa hề vận động nguồn khí lực nào, chỉ đưa tay suông cho có hình thức nhịp nhàng mà thôi. Dù vậy khi đưa lên luồng khí lực cũng tự nhiên lưu thông vì cánh tay xoay, hông trái thẳng băng và chân trái lún xuống, cử động như thế làm hai kinh Tỳ Vị bị điều động, luồng khí lực tự nhiên có đủ điều kiện lưu thông. Nếu thêm vào đó một chuyển động của tay, chưởng và ý tưởng tập trung là lực khí cuồn cuộn tuôn tràn trong hai kinh Dạ Dày và Lá Lách nầy.

Động tác 6:… Bàn tay phải nắm lại thành quyền, chỏ co lên, thở nhẹ ra đồng thời chưởng trái hạ mu bàn tay xuống gần đỉnh đầu, gần tới đỉnh đầu thì hít hơi vào đầy phổi kế chuyển lực vào cổ tay trái, bàn tay phải cũng co lên cực lực ngang hông. Kế nắm tay phải mở ra thành chưởng như trên động tác 2. (Hình 24-25)
Động tác 7-8: Thực hiện lại hai chu kỳ đẩy chưởng lên và hạ xuống đỉnh đầu, lún chân, v…v… Tất cả đều giống hệt các động tác 1 đến 4 nhưng chỉ khác tay mà thôi.
Sau hết là giao hoán tay phải lên rồi thực hiện lại 3 lần đẩy chưởng tay phải đoạn giao hoán tay trái lên đẩy 3 lần chưởng trái. Tức là toàn đoạn ba nầy cũng tập cả thảy 12 lần. Các đoạn khác cũng không khác.
YẾU LÝ: Như đã giảng trước, đoạn ba nầy dung luyện khí, đả thông hai kinh Dạ Dày và kinh Lá Lách. Sự vận động có chỗ giống với Đoạn Thứ Nhất nhưng có chỗ khác là chân ở động tác của đoạn thứ nhất có nhón lên hạ xuống, ở đoạn ba chân không nhón lên, mà chỉ có trầm lún một bên. Về tay thì ở đoạn 3 khi hạ sát đầu có gồng chuyển.
Có thể nói đoạn thứ nhất là một thế tập tổng quát có khả năng huy động nhiều kinh mạch trong một chuyển động toàn diện cơ thể. Còn đoạn ba chỉ chú trọng đến hai kinh Tỳ và Vị kinh.
Được biết ông bà xưa chủ trương ăn được ngủ được là tiên nên đã chú trọng rất nhiều tới những cơ quan thuộc Ba Tùng gọi chung là Ngũ Tạng Lục Phủ, gọi theo tiếng đời mới bây giờ là Bộ Máy Sinh Lý, do đó mới nghĩ ra phương pháp thần diệu vận động để kích thích gây nhiều lợi ích cho các cơ quan, vừa tu bổ vừa kiến tạo lại, vừa phát triển năng lực. Vì vậy khi tập Bát Đoạn Cẩm người ta sẽ ăn ngon ngủ được, mau đói, đái ỉa (tiểu tiện) rất thông suốt, sinh lý mạnh cho tuổi già, trẻ con mau lớn học giỏi, nhất là giỏi toán học. Sự kiểm chứng đã có các bác học Tây Phương đảm trách xác nhận. Tiếc thay phương pháp lợi ích cao đẳng như thế mà mấy trăm năm nay ông bà mình cứ bí truyền thành ra con cháu mới thua sút người ta. Từ đây về sau thì chuyện đời đã khác rồi, vận hội mới đã tới.


Đệ Tứ Đoạn Cẩm - Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền

CHUẨN BỊ: Như mọi đoạn trong Bát Đoạn Cẩm, hễ muốn bắt đầu luyện đoạn nào đều phải đứng thế chuẩn bị trước rồi sau đó mới khởi luyện. Và khi chấm dứt cả đoạn đều cũng phải trở về thế chuẩn bị ban đầu rồi nghỉ ngơi trong vài ba phút trước khi tập đoạn kế tiếp. Do đó dù trong một đoạn nào không nhắc tới trở về chuẩn bị khi hết đoạn thì học giả cũng phải hiểu là phải rút chân trở về thế chuẩn bị. Mọi thế chuẩn bị đều giống nhau là đứng thẳng hai chân khít nhau, hai bàn tay úp vào hai bên đùi, mắt nhìn thẳng và hơi thở điều hòa. (Hình 26)
Đoạn nầy chủ luyện Não Tủy, diệt trừ năm bệnh Lao và bảy bệnh Thương Hệ Thần Kinh Não Tủy bị mệt thì mọi cơ quan trong châu thân đều ảnh hưởng trầm trọng. Mọi sự mệt mỏi giả tạo có thể xảy ra do óc đánh lừa cơ thể, từ đó sanh các chứng Lao Thương, và cũng do nhiều vấn đề suy nghĩ phúc tạp trong đời sống tranh đấu hàng ngày người ta phải đối phó nên gây nên Lao Thương nhẹ hoặc nặng. Theo tiếng đời mới của Y Học Thái Tây gọi là suy nhược thần kinh hệ. Để lấy lại quân bình thần kinh và khinh khoái, linh hoạt đầu óc, phép tập số bốn nầy có giá trị đáng được ca ngợi. Học giả thử ngay sẽ thấy là ngoài sức tưởng tượng của mình, một niềm vui đến ngay sau vài cử động. Một món thần dược quá rẻ tiền. Ngoài thành tích trị lao thương, nó còn phát triển nghị lực và sức mạnh của cổ, gân, xương cổ, tiểu não, giúp võ gia sức lực đủ chịu đựng các đòn công dũng mãnh của đối phương.
Động tác 1: Song chưởng đưa xéo nhau lên trước mũi (không chạm mũi), bàn tay phải trong, bàn tay trái ngoài sát mu bàn tay phải. Tay đưa lên từ từ và từ từ hít hơi đầy phổi khi tay tới vị trí của động tác. (Hình 27)
YẾU LÝ: Đoạn Bốn nầy vận động toàn bộ kinh mạch trên hai cánh tay như Kinh Phổi, Kinh Ruột Già, Kinh Tim, Kinh Ruột Non, Kinh Màng Bao Tim, Kinh Tam Tiêu, vì hai tay giang thẳng phát động lực lượng, cộng động tác cong các ngón tay làm thúc bách khí lực trong kinh phải di chuyển, cái ngẹo đầu càng tăng thêm sự thúc bách khí lực mãnh liệt… Ngoài ra xoay cổ còn gây kích thích hệ thần kinh vốn từ đầu chạy tỏa xuống châu thân mà cổ là chỗ tụ hội duy nhất có thể vận dụng dễ dàng. Đây là phương pháp thể dục của ông bà mình nên phải giảng giải theo kinh mạch là sở học riêng biệt của ông bà, thành ra nhiều học giả Tây học còn nhỏ tuổi chưa nghiên cứu có hơi khó hiểu, kỳ dư tại Tây phương hay các bác sĩ có tuổi tại quê nhà (VN) thì chẳng có gì xa lạ. Vụ nầy chẳng qua như đời nay học Anh Pháp văn, xưa học Hán văn, ngôn ngữ nào cũng có chỗ hay nếu ta am hiểu nó. Vì sợ thất bổn điều phát kiến tu chứng nên soạn giả ghi vào đây những điều rườm rà, đáng ra chỉ ghi suông các động tác cũng đủ. Nhưng chắc nhiều học giả cũng đồng ý thà có hơi rườm rà còn hơn thất bổn làm mất di tích văn minh học vần, kho tàng kiến thức của Ông Gà mình. Cây có cội, nước có nguồn, người ta có tổ tiên Ông Bà. Học kiến thức của Ông Bà phải nhớ Ông Bà. Ông Bà mình là đất nước mình, đất nước mình tức nền văn minh Triết Học Đông Phương, một mặt trời vĩ đại mà Tây phương ngày nay đã đổ xô đến nghiên cứu học hỏi. (Triết Học Đông Phương gồm Y, Võ, Đạo, tức là Y học cứu dân, Võ học mạnh dân và giữ nước, Đạo để dìu dắt dân theo khuôn phép xã hội, an lạc khi sống và bình thản khi già chết.) Trừ các bậc đại kiến thức, dân mình có hiểu. Hiểu để tự biết mình.
Động tác 2:… Chân phải chậm chậm bỏ sang bên phải khoảng cách giữa hai bàn chân bằng vai, đồng thời vận lực (gồng) hai tay đẩy sang hai bên trái phải, vừa đẩy vừa mở bàn tay ra cho đến khi thẳng cánh tay thì song chưởng (hai lòng bàn tay) chiếu thẳng về hai hướng trái-phải, mũi bàn tay dựng đứng, các ngón khít nhau kể cả ngón cái. Mắt nhìn theo bàn tay phải. Hít thêm khí trời nén xuống bụng dưới, kế xoay bàn tay về sau cho cạnh bàn tay song song với mặt đất (hai tay đều xoay, cổ tay xoay), hông đồng thời xoay theo về bên phải. (Hình 28)
YẾU LÝ: Chân trái bước ra chậm chạp, tay vận lực đẩy ra cũng chậm chạp cho đến khi thẳng tay thì hông xoay theo, mắt nhìn theo tay phải từ đầu, đến khi hông xoay cực lực thì bàn tay mới vặn thêm về sau, hít thêm khí.
Động tác 3:… Xoay hông trởi về vị trí bình thường, hai bàn tay cũng xoay về vị trí thẳng đứng, kế thở hơi ra từ từ, chân phải cũng từ từ đưa về sát chân trái đồng thời hai tay xả lực buông xuôi xuống hai bên đùi, nhưng mắt vẫn cứ nhìn về hướng phải. (Hình 29)
Động tác 4:… Hít hơi vừa phổi (không đầy) đoạn lên gân cổ rồi từ từ xoay cổ sang hướng trái (nhìn sang bên trái). Các phần khác không động đậy. (Hình 30)
Động tác 5: Hít thêm đầy hơi rồi từ từ gồng cổ xoay vào ngay giữa rồi sang bên phải. Mắt cố liếc nhìn ra sau lưng. (Giống hình 29)
YẾU LÝ: Động tác ba nới lỏng toàn diện thân, tay, thu chân về vị trí chuẩn bị, thở ra là lúc nghỉ xả hơi cho khí lực lưu thông tự nhiên. Kế đến động tác 4 cổ gồng xoay sang trái và tận lực liếc nhìn về sau lưng. Động tác 5 là lúc phổi tăng thêm dưỡng khí cổ cũng tăng thêm vận lực chuyển về hướng phải, liếc nhìn ra sau (vọng hậu tiền). Tuy là theo thứ tự có năm động tác cả thảy nhưng thực ra thì có 3 động tác thực sự có vận chuyển khí lực là động tác 2 và 4 – 5. Trong ba động tác nầy chủ luyện tập phần hông bán phần bên phải và 6 kinh trên hai tay cùng thân cổ. Khi xoay hông thì chuyển động trục xương sống tức căng thẳng và thúc đẩy co giãn hai kinh Nhâm Đốc tức hai kinh trọng đại nhất cơ thể con người. Phần nhận định dễ thấy là cột xương sống được vận động làm cột tủy được kích thích tăng hoạt vận động ích lợi cho mọi phần sinh lý liên quan.
Nếu không hít hơi vận khí mà chuyển động thân eo, cổ cũng là động tác tốt gây sự cường tráng dẻo dai của eo và sự linh hoạt tốt đẹp cho thần kinh hệ. Môn thể dục vận động Tây Phương Hy Lạp cũng có những động tác tương tự, chỉ thiếu phần vận khí và quán tưởng. Đông Tây gặp nhau là chỗ đó, bản sắc Đồng mà Di cũng ở chỗ đó. Bởi thế cho nên ngày nay tại châu Mỹ La Tinh và các khối quốc tế, người thức thời đua nhau học tập võ thuật Đông Phương và Nội Công Bát Đoạn Cẩm nói riêng. Môn Thái Cực Quyền là một hình thức tu luyện Bát Đoạn Cẩm hay Nội Công của tiên gia cũng vừa là quyền thế chiến đấu tự vệ hữu hiệu. Nhưng có điều muốn đạt tới chỗ hữu dụng phải tốn nhiều thì giờ. Bát Đoạn Cẩm có chỗ khác biệt: Mau thành.
Động tác 6:… Xả lực, đầu quay vào chính diện, song chưởng đưa lên tréo nhau trước mặt như động tác 1, hơi thở bình thường. (Hình 31)
Động tác 7:… Xoay cổ về bên trái, vận lực nơi cổ, chân trái đồng thời đưa sang trái một bước bằng vai, xoay hông sang trái, chưởng đẩy ra hai bên, v..v… làm giống như động tác 2. Giống hình ở động tác 2 tức hình 28, chỉ khác hướng nhìn.
Động tác 8:… Thu tay về như động tác 3, mắt liếc nhìn về sau hướng trái rồi chuyển gân cổ xoay về hướng phải…làm như động tác 4-5.
Sau cùng trở lại tư thế ban đầu để thực hiện trở lại một lần nữa từ đầu cho đến cuối. Nghĩa là đoạn nầy làm hai lượt cả thảy 12 cử động, nhưng nếu đánh số thứ tự thì 16 động tác.
YẾU LÝ: Ba động tác 6-7-8 không có gì mới mẻ, chẳng qua là lặp lại các động tác đã học ở trên 1-2…5, nghĩa là làm 3 cử động xoay qua bên trái. Và sau cùng là trở lại từ đầu để làm lại một chu kỳ.
Như vậy tổng cộng sẽ vận động được 12 lần, 8 lần vận động cổ và 4 lần vận động eo lưng và tay. Thấy như thế đủ biết phần cổ được chú trọng đặc biệt. Sự luyện tập cổ đã đưa đến kết quả tốt đẹp dễ thấy; trong võ đường, võ sư có căn bản có thể chịu được các đòn tấn công vào cổ, hoặc có thể cho siết cổ bằng tay, bằng dây, v…v… trong khi những người thường chỉ ấn nhẹ ngón tay vào yết hầu, hay bóp nhẹ sau gáy là nhảy nhỏm chịu không nổi. Nhất là hai ống huyết nằm bên cổ (thật ra hai đôi Tỉnh và Động) của người không tập luyện có thể bể ra, dập nát hay ứ huyết khi có bàn tay người va chạm. Một người thường cũng đủ sức chặt sau cổ của một người thường để làm người đó bất tỉnh…nếu mạnh có thể chết luôn. Nhưng đối với người thành tựu nội công thì các đòn đơn sơ đó chỉ là những động tác đấm bóp cho máu chạy điều hòa thêm mà thôi. Ngay như soạn giả, không phải một thành gia võ thượng về nội công nhưng mấy năm về trước cũng đủ để 6 người lực lưỡng, 3 người mỗi bên, thắt cổ bằng dây thừng trong ba phút đồng hồ vẫn chẳng thấy rêm nhức hay choáng váng mặt mày gì cả. Ai tập Bát Đoạn Cẩm nầy tới nơi cũng có thể làm được các trò vặt như soạn giả.


Đệ Ngũ Đoạn Cẩm - Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa

CHUẨN BỊ: Cũng như mọi đoạn khác đều khởi đầu bằng tư thế chuẩn bị, nghĩa là thân thẳng đứng, hai tay buông xuôi hai bên thân và bàn tay úp vào hai bên đùi, mắt nhìn thẳng tới trước và hơi thở điều hòa.
Duy có điều cần nói cho chư học giả rõ là khi nào tập luyện đã thuần thục tám đoạn và thể lực đã có phát triển thì chư vị có thể luyện tập liên tục từ đoạn thứ nhất đến đoạn thứ tám một mạch mà khỏi cần ngừng nghỉ lấy sức ở cuối mỗi đoạn. Nghĩa là từ thế chót của đoạn nầy thu tay lại trong tư thế khởi đầu cho đoạn kế… và cứ thế mà luyện cho hết tám đoạn tức 96 lần vận chuyển khí lực, mỗi vận chuyển gồng gân như vậy là 6 giây đồng hồ, cộng lại là 576 giây tức chưa đầy 10 phút đồng hồ. Nhưng thực tế phải trải qua 16 động tác cho mỗi đoạn nên cộng chung là 128 động tác tức thời gian vận hành và diêu động là 768 giây tức 12 phút 48 giây. Kể cả thời gian chuẩn bị hít thở vài hơi trước khi khởi đầu thì độ 15 phút cho mỗi buổi tập. Thật đơn giản, thích hợp cho đời sống bận rộn ngày nay, tưởng các môn khác chưa có môn nào tiện ích như thế. Tốt lành thay.
Động tác 1:… (Tiếp theo đoạn trước) Hai chân nhảy sang hai bên một khoảng cách rộng bằng tấn Kỵ Mã, xuống tấn bộ thấp như kỵ mã, thân khom tới trước, hai bàn tay chống trên hai đầu gối, hổ khẩu xoay vào trong vế, chỏ phải nghiêng qua phải, đầu ngã về bên phải, mông đưa qua trái. (Hình 33)
YẾU LÝ: từ động tác chuẩn bị nhảy dạng hai chân ra thật là nhẹ nhàng không gò bó, đoạn xuống tấn từ từ chẳng cần vận lực, hai tay tì lên gối, tay phải cong nơi chỏ vì thân nghiêng qua phải và tay trái dĩ nhiên phải thẳng. Đầu nghiêng qua phải nhưng vẫn ngóc lên ngó tới trước, mông ển lên đưa qua trái, giữ vai bằng không cho so le.
Động tác 2:… Cánh tay trái đẩy mạnh lên, cùi chỏ phải co sát lại, thân trên (đầu, cổ và vai) quay thấp về bên phải từ cao xuống theo đường cung, mông thì cố đưa lên và hướng về bên trái. Lúc cúi xuống thì hít hơi đầy và nín lại. cúi xuống thật thấp xong tay phải chống lên cho thân trên theo đường cung cũ trở về vị trí ban đầu như hình 33. (Hình 34). Thở ra.
Động tác 3:… Tay phải chỏi đầu gối thân trên thẳng dậy, hai bàn tay áp hai bên đùi như hình 35, kế xuống tấn Kỵ Mã, đầu ngã về bên phải chỏ phải co lại, tay trái chống lên… giống như động tác 2. Tức là thực hiện trở lại động tác 2 một lần nữa.
Động tác 4: Làm lại như động tác 2 một lần nữa.
YẾU LÝ: Động tác 2-3-4 thật ra chỉ có một động tác 2 được lập lại 2 lần nữa tức làm 3 lần động tác 2 cả thảy. Sau cùng thì đứng dậy như hình 35. Chỗ quan trọng cần đặc biệt lưu ý là lúc ngã người nghiêng về bên phải chân trụ tấn như trồng (không lay chuyển), chỏ phải co đồng thời tay trái chống gối trái đẩy qua, đầu nghiêng và toàn bộ phần trên thân mình đều lên gân (gồng) cả cổ cũng gồng. Nói cho rõ là đầu vẽ một cung 180 độ từ trên xuống và ngược lại, lấy mông đít làm trục (tâm). Đứng thẳng dậy thì hít hơi (không hít đầy lắm), nín hơi khi xoay xuống và trở về vị trí ban đầu. Khi xoay xuống thì tận dụng sức lực tay trái và gồng hông bên trái, khi lên thì vận dụng toàn lực cánh tay phải và hông bên phải. Phải xoay toàn thân trên chớ không phải chỉ có xoay cổ không mà được. Lúc xoay thì eo hông mềm mà thân trên gồng cứng.
Dĩ nhiên ban đầu rất khó thuận hành mềm dẻo nhưng về sau quen dần chẳng có gì là khó. Làm từ từ chậm chậm không làm mau. Lúc xoay đi thì cột xương sống như bán kính chuyển động uyển chuyển trên đường tròn do đầu vẽ từ trên xuống và ngược lại. Lúc làm phải thấy (nghe biết) sự chuyển động của từng bắp thịt và gân xương từ thân trên trở lên.
Động tác 5:… Thân đứng như hình 35, đầu nghiêng về bên trái bằng cách chỏi thẳng tay phải, co chỏ trái, xuống tấn Kỵ Mã… (Hình 36) Tiếp tục xoay đầu xuống trước, thấp, thân ngang bằng với mông thì lại xoay trở về vị trí ban đầu (Hình 37) Làm ba lần động tác nầy rồi trở về thế đứng thẳng như hình 35.
YẾU LÝ: Đây chẳng qua là động tác 2 hướng bên trái, do đó mọi nét biểu diễn từ hình dạng đến nội dụng vận lực, hô hấp đều giống y như động tác 2. Hễ đứng lên thì Hô (thở ra), bắt đầu chuẩn bị cúi xuống thì Hấp tức hít vào. Và nín hơi khi đầu xoay từ trên xuống và ngược lại. Nghĩa là làm ba lần xoay xuống lên thì chỉ hít thở ba lần. Khi xoay đầu khí dằn xuống bụng cho thân trên đặng linh hoạt.
Nên biết động tác nầy ngày nay được nhiều trường phái vận động thể dục và võ thuật Âu Á Châu dung thao diễn như những bí quyết tạo sinh lực trước và sau các buổi tập cũng như tại đấu trường. Có điều người ta ít thấu hiểu rằng phần quan trọng của thế tập nầy không chỉ ở cái bề ngoài của nó là cúi xuống xoay lên suông sẻ và uyển chuyển, hoặc hít thở theo thông thường, mà yếu quyết của nó là sự gồng chuyển của thượng phần thần thể, từ cái chỏi tay phía bên nầy để xếp tay bên kia và ngược lại, v…v… Sự vận dụng vừa linh hoạt vừa gồng chuyển đầu, cổ, xương sống làm thức tỉnh toàn bộ mày tuần hoàn trong cơ thể con người. Điều đặc biệt là sự chống tay trước gối, hổ khẩu quay vào trong khi chỏi thẳng cánh tay thì ngón cái bị căng thẳng dữ dội làm thông Kinh Phổi (Thủ Thái Âm Phế Kinh), khởi đầu từ trước vai dưới xương quay xanh chạy trên mặt ngoài của cánh tay đến chấm dứt nơi đầu ngón cái. Sự chỏi lên trong 6 giây đồng hồ là thời gian đủ cho khí lực đả thông toàn kinh nầy. Đồng thời ngón tay út cũng nhờ động tác chỏi lên mà thông suốt được Kinh Tim chạy từ đối với Kinh Phổi, nghĩa là mặt dưới của cánh tay chạy đến đầu ngón út. Bởi vận động hai kinh nầy nên khi chỏi tay nghe rêm ngâm ngẩm phần dưới lòng bàn tay chỗ ngón út và ngón cái, đồng thời nghe thông mát hai phía trong và ngoài (tức trên và dưới) cánh tay. Ấy là khí bị thúc đẩy lưu thông vậy… xem tiếp Yếu Lý động tác 8.
Động tác 6:… Thân trên cúi xuống trước, chỏ co lại, cúi tận lực, chân vẫn giữ tấn Kỵ Mã, đầu ngước lên. Đoạn ngước lên bằng cách chống hai tay thân thẳng dậy từ từ rồi ngửa cổ về sau (lưng vẫn thẳng đứng). Kế ngẩng đầu lên trở lại tư thế như hình 35 (Hình 38 – 39). Làm 3 lần động tác nầy.

YẾU LÝ: Khi thực hiện xong động tác 5 thì thân trở về vị thế như hình 35, kế dùng sức nặng toàn thân đè xuống trên hai tay co dần trong lúc hơi đã bít đầy phổi. Khi cúi xuống tận lực thì giữ yên 6 giây đồng hồ với sự gồng cứng hai tay và như chịu sức nặng ngàn cân trên lưng, cổ ngẩng lên cho mặt ngước tới trước. Xong từ từ chống hai tay lên với sức ép xuống của toàn thân cho đến khi lưng thẳng đứng thì ngửa đầu ra sau, tưởng như có người níu đầu lôi xuống phía sau vậy. Chịu đựng tư thế nầy trong 6 giây đồng hồ rồi ngước cổ lên vị thế hình 35 và từ từ thở ra. Sau đó hít hơi vào để tiếp tục làm trở lại… Nên nhớ phải đứng đúng tấn Kỵ Mã chớ không phải trong thế đứng thẳng hai chân, có như thế mới có tác dụng đúng mức khi cúi xuống và ngước lên. Động tác cúi xuống thì cũng căng hai kinh Tim và Phổi, ngước lên thì, hai cánh tay lại phải nén xuống đè lên đùi nên cũng thúc đẩy hai kinh nầy.

Do đó khi luyện tập động tác nầy mà cúi xuống ngước lên không nghe máy động trong hai cánh tay và gang bàn tay thì sai rồi cần lưu ý mà làm lại cho đúng.
Khi đã thực hiện đúng toàn bộ Bát Đoạn Cẩm thì mỗi cái nhích động cũng đủ làm khí lực lưu thông mãnh liệt giúp cơ thể chế ngự các yếu đuối thông thường của con người. Và vì thường xuyên được thông suốt kinh mạch, khí và huyết lưu thông thuần nhuận nên cơ thể tươi tốt. Việc nầy chẳng khác chi cây có tưới nước thường xuyên thì tươi xanh, ruộng có nước thường xuyên thì lúa tốt… Các phương pháp thể dục trên thế giới cũng nhằm điều động lượng huyết quản lưu thông tận cùng trong mọi tế bào của cơ thể hầu nuôi dưỡng chúng cho đặng tốt lành, nhưng lắm khi áp dụng phương pháp thiếu sót hoặc quá bắt ép nên làm đứt nhiều mạch huyết li ti mà thân thường chẳng được sống thọ. Môn Bát Đoạn Cẩm tuyệt diệu ở chỗ dẫn huyết tưới nhuận cả cánh đồng thân thể mà còn dẫn khí sưởi ấm mọi nơi nhưng chẳng gây tai hại nhỏ nào. Danh bất hư truyền là ở chỗ đó.
Động tác 7-8:…. Khi thực hiện xong động tác 6 thì trở về vị thế hình 35, kế nghiêng thân, đầu về hướng trái, cánh tay phải thẳng, tay trái co nơi chỏ, vừa nghiêng đầu vừa xoay từ trên xuống, tới khi đầu, mặt xuống trước hạ thấp sát đất thì quay luôn trở lên sang hướng phải rồi trở về vị trí ban đầu. Hít một hơi trước khi xoay một vòng, khi xoay đủ vòng về đến vị trí cũ thì thở ra từ từ, hít vào trước khi làm kế tiếp. Làm đủ 3 vòng từ trái qua phải thì bắt đầu làm nghịch lại từ phải qua trái cũng 3 lần. (Hình 40-41).
YẾU LÝ:… Hít hơi và thở ra, tay chống lên hạ xuống trong động tác nầy giống như ở động tác 2 trong đoạn nầy, nhưng đoạn hai chỉ xoay nửa vòng. Ở đây xoay tròn một vòng liên tục nên hít hơi cũng chẳng dài hơn mà chỏi tay có khác là phải nhịp nhàng, hễ tay bên này co lại tay kia phải duỗi (chỏi) và, khi thân qua bên khác rồi thì tay chỏi hóa thành co. Động tác liên tục và liên lạc chống lên co xuống nhịp nhàng không gò bó. Thân và cổ gồng uốn uyển chuyển.
….(Tiếp yếu lý ĐT 5). Động tác 2 thì chủ đả thông từng kinh một trên mỗi tay tùy từng co duỗi, động tác 5 cũng thúc bách hai kinh cùng lúc lưu thông, ở đây, động tác 7-8 là phối hợp các động tác trước, hay nói là cách huấn luyện kinh mạch toàn thiện hơn, đầy đủ hơn, dịu dàng nhưng mãnh liệt vì dài hơi. Sự gồng chuyển lâu hơn nên kinh mạch có thể được dịp tăng tiến khả năng bành trướng cũng như thông suốt.
Phải hiểu rằng các động tác trong đoạn nầy khi được thực hiện thì khi cúi xuống hay nghiêng qua lại giống như đè trên (nén) một cái lò xo, khi thẳng dậy hai tay như sợi dây thun kéo (lò xo căng ra), mông đít là trục xoay, xương sống lưng như bàn kính, đầu như đầu của com-pa. Nhưng mọi phần trên đều gồng chuyển mà dẻo dai liên lạc mật thiết chớ không cứng nhắc như vật vô tri. Sau hết là mọi cử động đều phải dự bị hòa hợp với hơi thở.
Riêng đoạn nầy có thể tập thành 3 lần toàn đoạn từ đầu đến cuối để tăng lực lượng huyết mạch và dứt tánh nóng nảy vì bệnh bẩn huyết.


Đệ Lục Đoạn Cẩm - Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu

CHUẨN BỊ: Sau khi tập tới động tác chót của đoạn năm thì thu tay chân trở về thế chuẩn bi như mợi thế bắt đầu …(Hình 42)
Động tác 1:… Co gối hạ thân xuống (ngồi chồm hổm), hai tay từ hai bên mông lướt qua hai bên đùi xuống tựa bên ngoài hai bắp chân, hơi thở để bình trong bụng, kế đoạn thở ra và hít vào đầy phổi. Thóp bụng lại, chân búng mạnh cho thân nhảy lên trên không, người biến thành thẳng đứng trong không trung, hai tay kéo lên vị trí cũ trong khi còn đang ở trên không trung. Khi rơi xuống thì mũi bàn chân chạm đất trước kế đứng như hình chuẩn bị. (Hình 43).

YẾU LÝ: Khi co chân (gối) hạ thân xuống khum khum như ngồi chồm hổm thì chân buông lỏng tự nhiên, hai tay cũng di chuyển nhẹ nhàng. Lúc hít hơi thóp bụng thì khí dồn lên ngực cho nhẹ phần dưới (đề khí) hai chân phải dồn hết sức lực nhảy vọt lên thẳng người như cây pháo. Nói cho dễ hiểu động tác nầy giống như ép cái lò so, xuống thì dằn (đè) cứng, buông thì nhảy cao lên. Tất cả cũng chỉ xử dụng hai đùi, do đó khi nhảy tâm cũng chú ý hai đùi. Khi rơi phải nhẹ nhàng, xong mới thở ra. Động tác co chân lại thì chậm chạp nhưng nhảy lên thì mau lẹ. Biết được yếu lý thì không còn sai vào đâu được nữa.
Động tác 2:… Co chân xuống như động tác thứ nhất hình 43 rồi nhảy lên như cây pháo thăng thiên, tay vuốt theo hai bên đùi. Rơi xuống bằng đầu hai bàn chân rồi kế mới đặt gót chân xuống…(Hình 45), hình 44 thế co chân nhìn từ một bên.
Động tác 3 và 4:…Làm lại hai lần động tác 1. Nghĩa là từ đầu đến động tác 4 làm 4 lần động tác co chân nhảy lên.
Động tác 5:…Đứng thẳng như hình chuẩn bị, hai bàn tay từ hai bên đùi đưa xéo về sau mông đít, mũi bàn tay (các đầu ngón tay trỏ, giữa, áp út và út chum lại) đồng bấu vào đầu xương cùn, ngón cái bấu vào mông để kềm cho tay khỏi sút ra (bấu chặt vừa vừa thôi) rồi nhón gót chân lên, hạ xuống. Lúc nhón lên hít hơi và hạ xuống thì thở ra. Nhón lên giữ chân nhón gót tức chân thẳng cứng đùi trong 6 giây đồng hồ, hai bàn tay bấu đít bất động. (Hình 46-47).
Động tác 6:…Lại nhón gót lên, hạ gót chân xuống như động tác 5…
Động tác 7 và 8: Làm lại hai lần như động tác 5. Tức động tác 5-6-7-8 làm giống nhau một kiểu, nhón gót bấu đít. Tập lại 3 lần từ đầu chí cuối.
YẾU LÝ: Động tác 1 hay bốn động tác đầu của đoạn nầy nhằm làm dãn toàn diện thân mình từ dưới lên trên, lại dụng ý làm thức tỉnh các kinh mạch chánh yếu trong châu thân như hai kinh Nhâm và Đốc để thích hợp cho các động tác kế tiếp là thúc đẩy khí lực lưu thông trọn vẹn trong hai kinh. Đây là cách bày biện hay dọn cỗ bàn chờ khách tới cũng đúng.
Từ động tác 5 đến động tác 8 hoàn toàn chủ trương bấu vào xương cùn, bấu từng hồi, liên tục 4 cái liên tiếp. Cái bấu tay nhằm gây chấn động đến hai kinh Nhâm và Đốc là hai kinh chính yếu của con người, một kinh mang nhiều trách nhiệm bảo toàn sinh mạng cũng như năng lực…
Do mỗi lần nhón chân lên, hạ chân xuống, đầu hai bàn tay khích động thức tỉnh hai đầu kinh Đốc, kinh từ đầu xương cùn chạy theo sóng lưng lên đỉnh đầu và tới trước nhân trung (dưới mũi). Một kinh chủ định việc hòa hợp các chức vụ của các cơ quan trong mình. Nhâm kinh khởi đầu từ cuối đường chỉ dưới bộ phận sinh dục gần hậu môn (lỗ đít) lên tới dưới cằm, chạy theo đường lông phân ranh trước bụng, ngực, cổ, cằm. Chính nó cũng giữ vai trò dung hợp một số hoạt động của các phần trong châu thân. Sự va chạm từng hồi theo nhịp 6 giây đồng hồ của mũi bàn tay trên hai đầu dây kinh nầy thúc đẩy khí lực lưu thông, và khi đã thông được hai kinh quan trọng nầy thì mọi bệnh được tiêu trừ và nguồn năng lực của con người sẽ trở nên mãnh liệt không thể diễn tả cho hết được. Trong cuốn Nội Công Thiếu Lâm Tự đã giảng rõ việc khai mở hai kinh nầy bằng hô hấp theo Vòng Châu Thiên là trình độ cao thuộc môn tỉnh luyện. Ở đây thuộc động luyện nhằm khơi động (kích thích) gây chấn động đả thông, dù không phải là phương pháp toàn hảo nhưng vẫn có giá trị cấp tốc và dễ dàng. Một đàng khai mở kinh chánh yếu theo đường lối tiệm tiến (tiến dần từ gốc ra ngọn) còn một đằng đi từ ngọn vào gốc, hết các ngọn cũng tới gốc, dù không tổng hợp nhất thời nhưng khi đả thông được mọi kinh mạch thì thân thể cũng đạt đến chỗ cường kiện trường thọ vậy.
Sự bấu từng chập nhờ nhón lên hạ xuống làm vang dội tận cùng trên hai kinh. Tốt hơn, hễ mỗi lần hạ chân xuống thì thắt hậu môn (nhíu đít) một cái cho tăng sự thức tỉnh hai kinh. Nên biết ngày xưa trước khi về nhà chồng các bà mẹ khôn ngoan đều dạy con gái mình những phương pháp vệ sinh thường thức như làm sao cho chồng ham mê sinh lý, ham mê vừa phải khi gặp người chồng lạnh nhạt, hoặc làm sao giảm bớt cường độ ham muốn tình dục quá độ của người chồng bằng khoa cho ăn uống….trong việc dạy vệ sinh giao hoan bà mẹ dạy khi nào người chồng bất tỉnh nhân sự trên mình vợ lúc lâm trận thì dùng trâm cài đầu hay móc tai, (lông nhím) châm vào đầu xương cùn chồng sau khi sờ khám cẩn thận, châm thật chính xác, gọn lẹ và ngón tay cầm đầu trâm không quá một phân tây, chớ chẳng nên xô chồng ngã xuống vì sợ sệt. Ngày nay ít người biết mặc dù khoa học văn minh hơn. Đó là châm cứu huyệt của kinh Tích Tủy làm thức tỉnh mọi cơ năng làm hồi tỉnh người đánh mất sinh khí lực nhất thời trong cơn xúc cảm. Sự xúc cảm đột ngột và quá mạnh làm ngưng các hoạt động của các kinh nên gây sự bất đắc kỳ tử, mà hai kinh chủ yếu là kinh Nhâm và Đốc. Theo các bác sĩ dã chiến (bác sĩ ngoài mặt trận) cho biết các chiến sĩ bị bắn trúng xương sống (đứt kinh Đốc) chết đột ngột thì dương vật xuất tinh ướt cả quần lót. Nhiều người đàn ông (đa số) còn khỏe mạnh mà chết cũng xuất tinh. Người treo cổ chết cũng xuất tinh đầy quần ấy bởi sợi dây thắt trúng (gút) Đốc kinh sau gáy.
Do sự nhạy cảm và dễ đả thông bằng lối kích thích, động tác Bát Đoạn Cẩm nầy nhằm khai thác kích động trên hai đầu kinh Nhâm Đốc nhằm tạo sự gia tăng hiệu năng tạo dựng năng lực, phát triển khí lực trong hai kinh, để xua đuổi mọi mệt mỏi suy yếu vì “kém lao động” ít vận động hoặc vận động sai tự nhiên. Khi hai kinh Nhâm Đốc được thúc đẩy thông suốt cùng các bộ kinh mạch khác cũng thông suốt thì thân thể suốt đời cường kiện, đã cường kiện thì trăm bệnh còn chỗ đâu vương vấn…. Ấy, ý nghĩa là vậy.
Sau hết điều cần được lưu ý, khi bấu vào xương cùn chớ bấu chặt liên tục mà theo với động tác nhón lên bấu vào rồi lại thả ra (lơi ra) từng chập. Khi xong đoạn tập thấy vùng lỗ đít tê tê (the the hay mát mát) như có xức dầu Nhị Thiên Đường thì đúng, còn bấu đả đời mà buông tay ra chẳng thấy cảm giác gì thì làm sai hoặc thần kinh tủy bị bệnh, nên tới bác sĩ chuyên môn hoặc thầy châm cứu nhờ coi sóc. Nên biết ít có người bị chứng liệt thần kinh tủy sống, vì liệt thì con người đó hết xài, hết xài trong mọi trường hợp và mọi sự việc.
Phước thay, người tập Bát Đoạn Cẩm nào cũng thấu lẽ tự nhiên sinh tồn, dồn giữ được sinh lực nên ai cũng đẹp đẽ phương phi vui tươi yêu đời, xã hội lành mạnh nếu mọi người đều ham thích môn học bổ ích nầy.


Đệ Thất Đoạn Cẩm - Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực

CHUẨN BỊ: Khi tập hết dộng tác chót của đoạn sáu, buông hai bàn tay ra song song hai bên đùi trong thế chuẩn bị…
Động tác 1: Hai bàn tay nắm lại thành quyền như hình 48.
Quyền phải đưa ngang về hướng bên phải, mắt chăm chú nhìn theo quyền, quyền trái thu về để ngửa bên hông trái (Hình 49).
Hai chân nhảy dạng sang hai bên khoảng cách lớn hơn vai bằng tấn Kỵ Mã nhưng hai chân vẫn đứng thẳng, kế xuống bộ như tấn Kỵ Mã tay trái đưa thẳng tới trước, quyền phải co về bên hông phải, đứng dậy đồng thời quyền trái rút về hông trái, quyền phải đấm ra hướng phải.
YẾU LÝ: Lúc đưa quyền ra bên phải thì tay để lỏng không có trọng lực, hít đầy hơi nín lại, xuống tấn thu tay phải, đưa tay trái tới trước, kế đứng lên thu tay trái, đấm tay phải về hướng phải thì vận lực đánh mạnh. Mắt nhìn chăm chăm về hướng đấm (có sách viết nhìn thẳng tới trước cũng đúng).
Điều quan trọng nên nhớ là động tác đấm nầy có hình trạng nhấp nhỏm (bật lên bật xuống), do đó gối phải thật linh hoạt như cái lò xo, xuống tấn bộ giao hoán (thay đổi) tay, đứng lên thì đấm ngang ra.
Khi giao hoán, tức lúc chưa vận lực thì mọi nơi đều buông lỏng, kể cả hai nắm tay chỉ nắm lỏng khi đưa ra thu vào, chỉ khi đứng nhỏm dậy đấm ngang là phải nắm chặc và chân cũng tì miết bám chặc xuống mặt đất. Muốn dễ có hiệu quả thì đầu gối phải hơi khép vào (kềm) hai bàn chân mới đè xuống đất. Ở đây, tập cho đôi chân linh hoạt và đôi tay nhịp nhàng điều hợp được với chân. Có điều hòa hợp tác được chân tay thì khí lực mới phát triển đầy đủ, khả năng mới đạt tới mức tối đa. Toàn bộ nầy chủ luyện cho tay chân và thân eo liền lạc với nhau như một sợi dây, và khi đã luyện được như vậy thì khí lực được ứng dụng một cách tích cực…
Động tác 2: Xuống tấn đứng lên đấm ngang hai lần với nắm tay phải về bên phải. Tức động tác 1-2 giống nhau, xuống tấn, thay đổi tay, hô hấp, đứng lên đấm ngang, mắt nhìn chăm chú không nháy. Đấm bên phải ba lần rồi đổi bên.
Động tác 3:… Xuống tấn Kỵ Mã, thu quyền trái về hông trái đồng thời đấm quyền phải sang phải. (Hình 50)
Động tác 4: Xoay mặt về hướng trái, thu tay phải, đấm tay trái ra hướng trái (Hình 51).
YẾU LÝ: Động tác 3 và 4 đấm giống như động tác 1 và 2 nhưng khác ở chỗ không nhắp nhỏm. Ở đây chân xuống tấn Kỵ Mã rồi trụ tấn thật vững, đấm sang phải thì mắt lộ hung quang (như giận dữ) nhìn theo quyền đấm, xoay về bên trái đấm tay trái ra.
Động tác 5:… Đấm tay phải ra chính diện, thu quyền trái về bên hông trái như hình 52. Mắt nhìn thẳng tới trước.
Động tác 6:… Đấm quyền trái ra, thu quyền phải về hông như hình 53.
YẾU LÝ: Lúc đấm chân trụ tấn Kỵ Mã không động, eo mềm tự nhiên, vai mềm linh hoạt nhưng cổ tay và nắm tay thì cứng chắc. Mắt tập trung ý chí vào không phân tâm, nhìn thẳng tới trước như quyết đấu với đối thủ. Khi đấm thì nắm chặc nắm tay trong 6 giây đồng hồ rồi thả lỏng các ngón tay ra, kế thở ra hít vào nắm chặc thì đấm tiếp.
Động tác 7:… Nhỏm gối dậy, đứng thẳng hai chân nhưng khoảng cách giữa hai bàn chân không thay đổi. Đấm quyền phải tới trước. (Hình 54).
Động tác 8:… Đấm quyền trái ra, thu quyền phải về (Hình 55).
YẾU LÝ: Toàn đoạn có lúc đứng đấm, có lúc nhắp nhỏm đấm, lại có lúc trụ tấn đấm. Đấm ngang qua bên lại đấm thẳng tới trước. Ba phần hình chủ luyện là Tấn vững, linh động. Eo nới lỏng và Vai linh hoạt. Đứng thì luyện Khí, Tấn thì chủ vận Lực, tức gồng mà đấm mạnh. Tập xong toàn đoạn rồi tập lại 2 lần. Những lần sau đấm mạnh và liên tục từng chập. Chú mắt nhìn là luyện nhãn thần.


Đệ Bát Đoạn Cẩm - Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo

CHUẨN BỊ: Tập xong đoạn 7, thu chân tay trở về thế chuẩn bị, như hình 56.
Động tác 1: Cúi xuống trước, lưng khom, chân thẳng, hai tay đưa xuống chạm hai bên cổ chân (Hình 57), đoạn uốn bật thân trên lên ngang bằng rồi lại cúi xuống đưa hai tay ra sâu đàng sau (Hình 58). Xong, lưng thẳng dậy thế chuẩn bị.
Động tác 2:… Cúi xuống trước, tay đưa ra sau chạm hai cổ chân (bên ngoài), xong bật thân trên lên ngang bằng mặt đất rồi cúi xuống lần nữa đưa hai tay sâu về phía sau. Động tác nầy giống như động tác thứ nhất. Xem hình 59 và 60 là hình 57-58 nhìn từ một bên.
YẾU LÝ: Điều chú trọng ở hai động tác nầy là sự co duỗi của hông eo, tức cố làm cho thân eo càng mềm mại thì càng đúng với ý nghĩa của bài tập. Do đó, khi cúi xuống phải nới lỏng toàn thân trên, tay, vai, hông eo, hai đầu gối có thể máy động trong các động tác nhún lên nhún xuống, nhưng khi hai tay đưa ra sau thì tuyệt đối phải đứng thẳng. Tức thân trên bật lên bật xuống như nửa thân trước của một con sâu, hai chân bám chặc mặt đất và thẳng tắp. Cúi xuống thì thở ra, bật lên thì hít vào. Dĩ nhiên, cúi lần thứ nhất coi như mới nửa động tác khi hai tay mới chạm hai cổ chân nên chỉ thở phân nửa khí, cúi thêm lần nữa đưa tay cực lực ra sau thì mới thóp bụng thở hết sạch không khí.
Bật lên cúi xuống hơi thở phì phò, hít vô bằng mũi thở ra bằng miệng chu lại như huýt sáo. Thở lâu tự thấy hơi thở của mình ra vào như luồng gió mạnh được mình phun ra hút vào vậy.
Dù như thế nào đi chăng nữa, khi luyện tập vẫn chú trọng đến sự mềm dẻo của hông eo. Bí quyết của bài tập là cả tư tưởng trong lúc tập cũng dẻo dai và mềm mại chớ chẳng phải chỉ có hình ngoài mềm dịu mà thôi. Người giỏi bất cứ môn kỹ thuật nào cũng đều biết sự quan trọng của ý trong hình mà biểu diễn…
Động tác 3:… Sau khi làm động tác 2 thì lưng thẳng dậy như thế chuẩn bị hình 50. Kế mềm dẻo cúi xuống trước hai tay đưa xuống, bàn tay chạm hai bàn chân và nắm lấy hai bàn chân từ hai bên ngoài bằng cách ngóc mũi chân lên. Kế co chỏ xuống tức thì thân bị lôi xuống sâu hơn, chỏ ló ra sau hai chân. Hai chân thẳng đứng không cho gập xuống. Đầu cũng cúi xuống. (Hình 61-62, hình 63 là hình 62 nhìn từ một bên).
Động tác 4:… Làm xong động tác 3, thân trên bật dậy thẳng đứng, rồi lại cúi xuống, bàn tay nắm bàn chân, co chỏ cúi thêm thật sâu. Tức làm lại toàn bộ động tác ba vừa học trên.
YẾU LÝ: Động tác 3 và 4 trên đây chỉ là một động tác lập lại hai lần, và hình thức so với động tác 1 thuộc đoạn tám không khác. Có điều đổi kiểu đưa tay một chút, thay vì hai bàn tay đưa ra sau thì bàn tay nắm bàn chân, sự việc như thế chỉ bổ túc chớ không khác cách. Tay đưa ra sau chưa được vận dụng hoàn toàn thận eo, do đó hai bàn tay nắm chân kéo thêm xuống, như thế thì thận eo được thỏa mãn hơn. Nói thì nói như thế nhưng người mới tập chẳng thấy thỏa mãn gì cho lắm mà ngược lại thấy cúi xuống đau lưng quá, nhất là thẳng sau hai nhượng khó chịu khôn cùng. Nhưng các vị chớ ngại, chẳng có bề gì đâu, tại các vị thường không vận động nên gân cốt bị cứng mà đâm đau, (tuổi già ai cũng bị bệnh cứng gân, dòn mạch máu nên lâu lâu có người bị đứt gân máu mà chết, bệnh nầy bác sĩ giỏi đến đâu cũng chịu thua, bên Tây cũng như bên Nam. Nhưng các bác sĩ có tuổi và giỏi đều có lời khuyên nên tập thể dục nhẹ cho gân mạch mềm mại dẻo dai trừ bệnh đứt gân máu. Soạn giả chuyên môn hướng dẫn quý ông bà có tuổi (lớn tuổi) tập một bài võ đặc biệt làm mềm dẻo gân cốt, máu huyết lưu thông, ăn được ngủ ngon, vui tươi yêu đời. Các vị đã tập với soạn giả đã thấy đời vô lo và vui tươi như lúc mình còn tuổi trẻ nên soạn giả thường được lời ngợi khen. Mà công ấy là đều của người xưa hết vậy). Người trẻ tuổi, con nít gân cốt mềm thì chẳng thấy đâu là tại chúng chưa bị bệnh cứng gân. Nay võ gia tập đoạn nầy thường xuyên thì chẳng hề sợ bệnh đứt gân máu mà thác. Ai có tập luyện võ thuật đúng sách vở của ông bà đều không chết vì bệnh mà chỉ chết già như trái chin cây.
Động tác 5:… Khi tập xong động tác 4 thì thân bật dậy thẳng đứng, hai bàn tay áp xuôi hai bên mông, ức bàn tay áp ngay chỗ hỏm xuống, cúi lưng như hình 64. Đoạn hai tay chống lên, đầu ngã về sau, lưng cong như chiếc cầu, cổ cũng ngửa lên, gối cong về sau như hình 65. Hít và giữ hơi phân nữa trong phổi khi uốn lưng ra sau. Xong bật dậy thẳng lưng thở ra hít vào (như hình 67).
Động tác 6-7-8: Tiếp tục lập lại 3 lẩn động tác uốn lưng xuống sau như động tác 5 vừa học trên. (Hình 66 là động tác của hình 65 nhìn từ một bên).
YẾU LÝ: Bốn động tác 5-6-7-8 chỉ là một động tác diễn lại bốn lần. Toàn động tác chỉ hít phân nửa phổi mà thôi, chỉ hít đầy khi đứng thẳng và thở ra phân nửa trước khi ngửa ra sau. Khi ngửa ra sau phải để xương sống mềm dẻo (tự nhiên, chân và xương sống uốn cong như một cây cung hay nửa vòng tròn (xem hình 66). Muốn được như vậy, một trẻ nít thì không mất thời gian bao lâu nhưng người có tuổi thì cũng phải kiên nhẫn.
Khi ngước lên như vậy, toàn bộ kinh Nhâm và Đốc đều thông lưu, những kinh khác cũng được thúc đẩy và tủy sống cũng được săn sóc. Thế nên sau vài vận động thấy tâm thần vui tỉnh lạ thường, sảng khoái chưa từng thấy.
Ngày nay, các môn quyền thuật tân tiến cũng học phương pháp thứ tám nầy nhưng thay vì vận động thành hai thì (cúi xuống và thẳng dậy, đứng thẳng và ngửa ra sau) họ chỉ làm một mà thôi là, cúi xuống chấm hai bàn tay trên mu bàn chân rồi đứng lên ển lưng ra sau. Sự luyện tập hời hợt nầy mặc dù cũng thấy dãn gân cốt, thoải mái chút ít, nhưng nếu tập đúng phương pháp chính tông thì ngoài sự mềm mại thân eo, còn đạt những lợi ích về sinh lý: mạnh thận, tráng dương v…v… Tuổi già mà còn cưới hầu non là nhờ tập đoạn nầy đó.
Mấy mươi năm trước học cái gì: Rừng…Khôn dó. Nhỏ không học lớn mò sao ra… trong sách Vần Con Gà lớp Đồng Ấu. Triết lý nầy rất đúng, nhỏ có thì giờ học, lớn rồi đầu tắt mặt tối làm sao mò mẫm học vấn gì. Nhưng mà đời sống phải tranh đấu không học thì còn gì là đời, đời mà chẳng hiểu gì cả thì đâu phải đời. Lại nhiều người cứ tưởng học đủ thứ chuyện, đủ thứ môn bên Tây bên Tàu cho có kiến thức… cho “mò ra”, nhưng thảm thương thay có ai mò ra cái gì đâu, chỉ mò được tấm thân gầy guộc, bệnh hoạn hàng ngày phải dùng xiêm áo che đậy sự xấu hổ của mình “thân gầy”. Dường như cho đến nay, thế kỷ 20 rồi mà còn nhiều người quá khiêm tốn (lạc hậu) trong việc săn sóc cá nhân mình, sự đánh lừa tư tưởng và che đậy sự phiến diện bằng lời chê bai người vai u thịt bắp, đố kỵ người mạnh khỏe hơn mình…
Xin thưa là thời chiếc áo the đen, bộ lưng cong trên gậy trúc tượng trưng cho vẻ cao quý kẻ sĩ đã hết rồi… Nhưng quý vị cũng chưa đến nỗi phải trễ tàu đến đất hạnh phúc. Với cuốn Bát Đoạn Cẩm nầy là chuyến tàu chót đưa quý vị đến chỗ vui tươi lành mạnh. Từ nay quý vị có thề sửa sách Con Gà lại là… Lớn mò cũng ra…Ai mò cũng ra… Có sức khỏe chân chính thì mò cái gì cũng ra.
Hôm nay viết dòng nầy đây soạn giả nhớ tới các giáo sư quá đỗi yêu nghề mà thân gầy không lo, và một bằng hữu lớn tuổi, tác giả có sách nhà Lửa Thiêng in đồng thời dạy nhiều đại học… chỉ “độ” mỗi ngày hai gói mì làm tại Chợ Lớn… thì làm sao đi suốt nổi đường dài…
“Chiều dậy điểm tâm sơ trái bắp,
Sáng ngày súc miệng một câu thơ.”
Kẻ sĩ như thế há làm nên việc gì mai hậu; than ôi đời học hành rồi chịu kiếp hẩm hiu thế hay sao?
Cuốn Bát Đoạn Cẩm nầy soạn giả một phần dành tặng cho các bằng hữu tư tưởng còn quá nắm níu thời: “Học trò xứ Quảng ra thi, Thấy cô gái Huế chân đi không đành…” Thẩm mỹ học mà làm gì, tiền đồ khỏi từ Thân, Phật còn bảo thân là Kim Thân sao người thức giả còn chưa chịu thấy!
Soạn giả rất buồn thấy người mình học sách Vần Con Gà có thành kiến lớn mò không ra rồi thành chẳng làm nên tích sự gì, trong khi bên Tây bên Mỹ người ta làm ra quá xá, có nhiều người gần trăm tuổi mà cũng mò ra nhiều công trình giá trị giúp ích cả nhân loại. Đó là nhờ có sức khỏe vậy.




Bát Đoạn Cẩm + Thập Nhị Đoạn Cẩm


A.Bát Đoạn Cẩm.

(Trích sách Vạn Bảo Toàn Thư. Xem thêm Trung Hoa Đạo Gia Đại từ Điển, tr. 1031-1033)
1. Đệ Nhất Đoạn.
Lưỡng thủ kình Thiên lý Tam Tiêu.
兩 手 擎 天 理 三 焦
Giơ hai tay lên Trời để điều hòa Tam Tiêu

Tập 4 lần
1. Hai tay giơ lên cao, lòng bàn tay quay lên trên, 10 ngón tay giao nhau. Hai khuỷu tay thẳng, đồng thời kiễng hai gót chân lên.
2. Nghỉ.
3. Hai cánh tay đưa xuống.
4. Nghỉ.
Làm như vậy, liên tiếp 3 lần. Đến lần thứ 4 hai chân chụm lại.

2. Đệ Nhị Đoạn.
Lưỡng Thủ Khai Cung Tự Xạ Điêu.
兩 手 開 弓 似 射 鵰
Hai tay như dương cung bắn chim cắt

Tập 4 lần.
1. Tay phải nắm lại. Cánh tay giang thẳng về phía hữu. Tay trái nắm đưa ngang vai, nắm tay ngưả lên. Mắt chăm chú nhìn về phía tay trỏ, đồng thời, chân phải bước sang phải 1 bước, khụyu hai đầu gối xuống như cưỡi ngựa. Gót chân không kiễng.
2. Đổi tay, đầu gối vẫn giữ nguyên.
3. Đổi tay như 1.
4. Đổi tay như 3.
Làm như vậy 4 lần. Hết lần thứ tư, hạ hai tay xuống. Đứng thẳng người lên.

3. Đệ Tam Đoạn.
Điều lý tỳ vị đơn cử thủ.
調 理 脾 胃 單 舉 手
Giơ tay lên, để điều lý tì vị
Tập 4 lần.
1. Tay phải giơ lên cao, lòng bàn tay ngưả. Ngón tay hướng về phía tả. Tay trái buông thòng xuống phía trái, lòng bàn tay quay xuống, ngón tay hướng về phía trước. Tay trái buông thõng, úp sấp, ngón tay hướng tiền.
2. Tay trái giơ cao lên, lòng bàn tay ngửa. Ngón tay hướng về phía hữu. Tay phải buông thõng, úp sấp, ngón tay hướng tiền. (Hướng về phía trước).
3. Như 1.
4. Như 2.
Xong 4 lần, 2 tay buông xuôi như cũ.
4. Đệ Tứ Đoạn.
Ngũ lao, thất thương vọng hậu tiều
五 勞 七 傷 望 後 瞧

Mắt ngó phía sau, chữa ngũ lao, thất thương

Tập 4 lần.
1. Quay đầu phía phải, mắt nhìn phía sau.
2. Quay đầu thẳng lại.
3. Quay đầu phía trái, mắt nhìn phía sau.
4. Quay đầu thẳng lại.
Làm như vậy 3 lần, lần thứ 4, hai chân chụm lại.
5. Đệ Ngũ Đoạn
Dao đầu bãi vĩ, khử tâm hỏa.
搖 頭 擺 尾 去 心 火
 (Nghẽo đầu, khụm gối, khử tâm hỏa)
Tập 4 lần.
1. Chân phải đạp sang phiá phải. Khuỵu 2 đầu gối như cưỡi ngưạ. Nghẹo hẳn đầu về phía phải.
2. Quay đầu ngay lại.
3. Nghẹo hẳn đầu về phía trái.
4. Quay đầu ngay lại.
Làm như vậy 3 lần, đến lần thứ 4, đứng thẳng người lại, hai chân đứng thẳng lên, hai chân khép lại, 2 gót kiễng lên.
6. Đệ lục đoạn
Bối hậu thất điên, bách bệnh tiêu
背 後 七 顛 百 病 消
Vận lưng 7 lần có thể trừ bệnh.


Tập 4 lần.
1. Hai chân đặt xuống rồi kiễng ngay lên.
2. 3. 4. Như lần 1.
Làm như vậy 3 lần, đến lần thứ 4, thì đặt 2 gót xuống.
7. Đệ thất đoạn.
Toán quyền nộ mục tăng khí lực.
攥 拳 怒 目 增 氣 力
Nắm tay mắt giận tăng khí lực.
Tập 4 lần.
1. Chân phải đạp sang bên trái. Khuỵu chân như cưỡi ngựa. Đồng thời tay phải sang phải, bàn tay nắm ngưả lên. Mắt đột xuất (trợn), nhìn thẳng phía trước.
2. Đổi tư thế 2 tay.
3. Như 1.
4. Như 2.
Như vậy 3 lần. Đến lần thứ 4, hai tay thõng xuống, mình chân trở về nguyên vị.
8. Đệ Bát Đoạn.
Lưỡng thủ phàn túc, cố thận yêu
兩 手 攀 足 固 腎 腰

Hai tay nắm chân khỏe thận yêu

Tập 4 lần.
1. Mình cúi về phía trước, càng nhiều càng tốt. Đầu gối thẳng, đồng thời 2 tay đưa xuống nắm lấy các đàu ngón chân. Đầu nghẹo về phía sau. Mắt nhìn về phía sau.
2. Nghỉ.
3. Đứng thẳng người, Tay về nguyên vị.
4. Nghỉ.
Làm 3 lần. Đến lần thứ 4, hai chân đứng thẳng lên,2 đầu gối chõe ra. Cuối cùng, quay mặt phía mặt trời, hô hấp lâu mấy lần.

B. Thập Nhị Đoạn Cẩm.

Sáng khi dậy, ngồi trên giường tập 1 lần. Tối trước khi đi ngủ, tập 1 lần. Trong ngày, lúc rảnh, có thể tập.
1. Khấu xỉ  扣 齒。Đập răng vào với nhau, cho gân cốt hoạt động, tinh thần thanh minh. Mỗi thứ 36 lần.
2. Yết Tân  咽 津。Để lưỡi lên cúa hồi lâu, nước bọt sẽ sinh. Nuốt xuống. Khi nuốt phải nuốt mạnh cho thành tiếng. Như vậy nước bọt nuôi ngũ tạng, giáng hỏa. Càng nhiều lần càng tốt.
3. Dục diện bộ  浴 部。 hai tay xoa vào nhau cho nóng, rồi lấy tay xoa từ cổ lên trán, đến chân tóc, như rưả mặt.
4. Minh Thiên cổ  鳴 鼓。 Hai tay bịt hai tai, lấy đầu ngón tay đập vào 2 xương sau ót 24 lần. Lấy tay bịt lỗ tai, để ngón tay trỏ chồng lên ngón giữa, rồi búng xuống.
5. Vận Cao Hoang Huyệt Cao Hoang ở 2 bên bả vai (dưới đốt xương sống 4, tính ra hai bên 3 tấc). Quay 2 vai 7 lần, sẽ tiêu ma bệnh toàn thân.
6. Thác Thiên  托 天。 Nắm 2 tay lại. Mũi hít hơi vận lên Nê Hoàn, đồng thời đưa 2 tay lên cao như đỡ Trời (thác Thiên). Rồi buông 2 tay xuống. Làm như vậy 3 lần. Khử được tà khí nơi ngực và bụng.
7. Tả hữu khai cung  左 . Nín hơi. Tay trái dơ thẳng ra. Tay phải như dương cung. Hai mắt tuỳ nghi, nhìn theo tay trái, hay tay phải (tay nào dơ thẳng thì nhìn). Mỗi tay ba lần, tả được Tam Tiêu hỏa.
8. Phàn Đơn Điền   . Tay trái đỡ ngoại thận (thận nang). Lấy tay phải xát đơn điền 36 lần. Rồi lấy tay phải đở thận nang, lấy tay trái xát đơn điền 36 lần.
9. Sát nội thận huyệt . Cần nín hơi. hai tay xoa nóng lên, trà xát nơi Mệnh Môn (vùng xương sống sau lưng, ngang rốn) 36 lần.
10. Sát Dũng Tuyền huyệt . Lấy tay trái giữ chân trái. Lấy tay phải xoa lòng bàn chân trái 36 lần.
11. Ma Vĩ Lư huyệt Huyệt này ở cuối xương sống, trên giang môn. Thống huyết mạch châu thân. Thoa nó rất có ích.
12. Sái thoái . Chân trái đứng thẳng, chân phải dơ cao lên, đá ra phía trước 7 lần. Đổi chân, làm như trên, giúp lưu thông huyết mạch.
Bị chú. Thập nhị đoạn cẩm dĩ nhiên là hay hơn Bát đoạn Cẩm.
Đạo Học từ điển bỏ đoạn Sái Thoái, lấy 11 đoạn trên hợp lại thành Bát Đoạn Cẩm: 1. Khấu xỉ 2. Dục diện, minh cỗ 3. Tuyền yêu 4. Tả hữu khai cung 5. Ma sát đan điền 6. Sát nội thận huyệt . 7. Ma Vĩ lư huyệt 8. Sát Dũng Tuyền huyệt.
-Nhiều người cho rằng: Bát đoạn cẩm là do Chính Dương Chân Nhân, Chung Ly Quyền, sáng tạo ra.








No comments:

Post a Comment