LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Wednesday, May 15, 2019

Minh triết trong đời sống (3)

Minh triết trong đời sống
Darshani Deane  - dịch Nguyên Phong


Mục lục :




35. Những chiếc “cúp” luân chuyển

Bill làm nghề thợ sơn gần 50 năm trước khi về hưu, vợ ông đã qua đời mấy năm trước, các con ông đều khôn lớn và đã có gia đình. Nguồn vui hiện nay của ông là chơi bowling và viếng thăm con cháu. Ông nói:
- Thưa bà, tôi già rồi và chắc chẳng còn sống được bao lâu. Nhưng, nói ra thì ngượng quá, tôi thường lo lắng khi chết sẽ phải bỏ lại căn nhà, những chiếc “cúp” bowling, và nhất là mấy đứa cháu nội. Tôi biết khi lìa đời người ta không thể mang theo một cái gì, nhưng dù biết vậy tôi vẫn thấy mình cứ gắn bó vào những đồ kỷ niệm: những chiếc “cúp” bowling, gia đình, con cháu, v.v. Làm sao một người già như tôi có thể chữa được sự gắn bó này để thoải mái hơn khi đến “chuyện phải đến”, hay nói một cách văn vẻ là ung dung đi trên con đường dẫn đến sự tự do tuyệt đối?
- Nếu ông đã gọi “điều phải đến” là “con đường tự do tuyệt đối” thì ông đã đi được một bước tiến rất xa rồi đó. Theo tôi nghĩ thì người phàm chúng ta chẳng ai làm chủ được cái gì hết, từ nhà cửa, tài sản, tiền bạc, nữ trang, xe cộ, quần áo đến thời gian, tài năng, hình dáng hay sức khỏe. Nhận thức được điều này không dễ, nhưng có ý thức được chúng thì người ta mới ý thức được sự tự do tuyệt đối. Vì ông thường chơi bowling nên xin hỏi ông đã tham dự các cuộc tranh giải “Cúp luân chuyển” nào chưa?
- Có chứ, không những tôi đã tranh giải mà hiện còn giữ mấy chiếc “Cúp luân chuyển” nữa.
- Tốt lắm, vậy ông nghĩ sao về những chiếc “Cúp luân chuyển” này?
- Tôi rất vui mừng và hãnh diện về những thành quả đạt được. Nhưng chiếc “cúp” này không hoàn toàn thuộc về tôi mà sẽ được chuyển qua tay một người khác, người thắng giải kỳ tới.
- Ông nói rất đúng. Tất cả mọi thứ ông có trong nhà và ngay trong thân thể của ông cũng chỉ là những chiếc “Cúp luân chuyển” mà thôi. Chúng ta vui và hãnh diện khi có nó trong tay nhưng cũng biết rằng chúng ta không thể giữ chúng mãi được. Trong cuộc đời vô thường này, quan niệm “làm chủ” một vật gì chỉ là điều giả tưởng; làm “người quản lý” thì đúng hơn. Ông, tôi và tất cả mọi người chỉ quản lý mọi vật chứ không làm chủ, vì bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể phải xa lìa những cái chúng ta có. Tóm lại, phương pháp hay nhất dẫn đến sự giải thoát, để được tự do tuyệt đối như ông đề cập đến là tập nhìn tất cả mọi sự việc như chiếc “Cúp luân chuyển”; vì mọi thứ, tốt hay xấu cũng chỉ có tính cách tạm thời. Khi nhìn người, vật, sự vật, hay cả tấm hình của mình trong gương, ông cũng hãy quán tưởng nó chỉ là “huyễn” - tưởng như có thật nhưng không phải là thật. Đời ban cho chúng ta thứ gì, chúng ta hãy nhận lãnh và sử dụng chúng một cách đúng đắn. Không nên nghĩ vật này là “của tôi” hay “của gia đình tôi”. Suy nghĩ như vậy là có ngụ ý liên hệ, gắn bó rồi. Mọi vật tự chúng không hề tốt hay xấu, nhưng chính sự liên hệ của chúng ta với chúng đã tạo thành một sợi dây trói buộc. Điều chúng ta cần làm là cởi bỏ sợi dây đó. Mỗi khi thấy mình có ý muốn bám víu vào một cái gì đó, ông hãy tự nhắc nhở mình rằng ông không sở hữu bất cứ một cái gì. Các con các cháu đến với ông cũng chỉ là những hình ảnh chập chờn trên màn ảnh, các chiếc “Cúp” thể thao có thể đến rồi lại đi khi một người khác thắng giải. Hãy nhận thức rằng sự vật và ý nghĩa của mọi sự vật chỉ là do cái giá trị mà người ta đặt cho chúng.
Tôi có quen một thiếu nữ kia, cô luôn luôn lo lắng cho sắc đẹp của mình. Mỗi ngày cô bỏ ra nhiều giờ chăm lo săn sóc nhan sắc như thoa kem bôi mặt, xức dầu thơm, làm tóc, v.v. Trong nhà cô treo nhiều tấm gương lớn như để nhắc nhở về nhan sắc yêu kiều, lộng lẫy của cô. Vài tháng sau, tôi gặp lại cô nhưng khi đó cô vừa trải qua một tai nạn xe hơi trầm trọng. Thú thật là tôi không còn nhận ra cô ấy nữa. Mặc dù đã trải qua nhiều cuộc giải phẫu thẩm mỹ nhưng nhan sắc yêu kiều kia đã bị hủy hoại hoàn toàn. Thánh Kinh đã nói: “Chớ để tài sản nơi nó sẽ hư hoại”. Ông hãy quan sát những chiếc “Cúp luân chuyển” đang có ở trong nhà và suy ngẫm về những chiếc cúp “không luân chuyển và không bao giờ hư hoại”.

36. Cầu nguyện

Sáng Chủ nhật nào Elizabeth cũng đi lễ nhà thờ nhưng bà không tin tưởng gì vào việc đó. Bà nói:
- Thưa bà, tôi đi nhà thờ hơn hai mươi năm nay mà chẳng thấy lợi ích gì cả. Khi bước ra khỏi nhà thờ thì con người tôi vẫn y như khi bước vào, chẳng có gì thay đổi. Các cử chỉ và lời cầu nguyện của tôi hoàn toàn khô khan, máy móc. Tôi phải làm sao đây?
- Bà hãy cầu nguyện với tất cả tấm lòng.
- Tôi không biết làm thế nào để cầu nguyện với tất cả tấm lòng vì từ các bài hát đến những câu kinh tôi đều thuộc lòng cả, cứ như một cái máy phát thanh phát ra thôi...
- Bà đã từng yêu bao giờ chưa? Khi yêu bà đâu có tính toán xem mình phải suy nghĩ như thế nào hay hành động ra sao với người bà yêu. Trái tim bà biết, trái tim bà hoạt động một cách tự nhiên mà không cần chỉ dẫn. Cầu nguyện với tất cả tấm lòng cũng như vậy, vì bà không thể sai khiến con tim bà được, lúc đó trái tim tự điều khiển lấy nó và rung động với những rung động cao thượng khác. Tôi có một phương pháp giản dị may ra có thể giúp bà: Trước hết bà cần phải có một ý niệm thật rõ ràng về cái lý tưởng của bà. Muốn vậy bà hãy viết lên giấy tất cả những điều bà biết, tin tưởng, hay cảm nhận về Thượng Đế. Những điều này phải được viết một cách chân thành từ quan niệm riêng của bà chứ không phải chép ra từ một cuốn sách. Bà có thể dùng những chữ như “Đấng Toàn Năng, Toàn Trí”, “Niềm thương yêu vô bờ bến” hay “Ánh sáng thanh khiết thấm nhuần tất cả”, v.v. Bà có thể giản dị hóa các danh từ này lại thành sáu chữ hay ba chữ thôi. Sau khi viết xong, mỗi ngày bà tìm một nơi vắng lặng, không bị quấy nhiễu để tập suy nghĩ về những chữ này. Bắt đầu bằng cách ngồi cho thoải mái, thư giãn rồi tập trung tư tưởng vào danh sách của bà. Hãy đọc trong trí và phóng chiếu các chữ này vào tâm thức của mình giống như một cuốn phim được chiếu lên màn ảnh. Trong khi đọc hãy chăm chú vào sự hiểu biết sâu xa nhất về tinh hoa của các chữ ấy và lặp đi lặp lại những chữ này trong đầu cho đến khi hình ảnh đó hòa nhập vào trái tim của bà. Đó là một cách cầu nguyện chân thành bằng tim chứ không bằng lời vì thà cầu nguyện trong im lặng bằng tim còn hơn thốt ra lời mà thiếu vắng trái tim.

37. Cần có thầy hay không cần?

Mark là một nhạc sĩ chuyên về kèn clarinet. Cách đây nhiều năm anh tham dự buổi diễn thuyết về Thiền của một đạo sư Ấn Độ và đã thực tập thiền định từ đó. Anh đọc rất nhiều sách Thiền của các tác giả khác nhau, từ Suzuki đến George Lozamov. Anh nói:
- Tôi vẫn thắc mắc không biết trên đường tâm linh, tôi có cần một vị thầy hay không?
- Xin hỏi khi học kèn clarinet anh có cần thầy không? Liệu người ta có thể học hàm thụ qua sách vở được không?
- Tôi có thể học lý thuyết về âm nhạc qua sách vở chứ không thể học tất cả được. Sách vở không thể dạy tôi cách đặt miệng sao cho đúng, giữ hơi ra sao, thổi như vậy đã được chưa, độ rung như thế nào, v.v. Do đó ngoài sách vở tôi vẫn cần có thầy chỉ dạy thực hành thêm, nhưng học kèn clarinet là một chuyện còn đời sống tâm linh lại là một chuyện khác chứ?
- Muốn học bất cứ thứ gì đến nơi đến chốn, từ sinh ngữ đến âm nhạc hay điện toán, hội họa, điêu khắc, chúng ta đều cần có thầy. Thầy giáo là người đã kinh nghiệm, đã từng trải, đã đạt đến đích và biết cách vượt qua các trở ngại khó khăn, v.v. Trên đường tâm linh, chúng ta ở một vị thế tế nhị và lạ lùng hơn âm nhạc hay điện toán vì chúng ta phải vươn từ tầm mức tâm linh này đến tầm mức tâm linh khác. Chúng ta cần sự trợ giúp để biết hiện nay chúng ta đang ở đâu, đang đi đến đâu, làm cách nào đạt đến mục đích. Đó là nhiệm vụ của những người thầy mà người Ấn Độ gọi là “Guru”, nghĩa là “Người đem lại ánh sáng” hay “Người phá tan bóng tối”.
- Thưa bà, tôi không hề có thầy hay “Guru”, tuy nhiên tôi đã tự học qua sách vở và sống với những điều đó. Tôi trông cậy vào vị thầy trong tâm của tôi mà danh từ Ấn Độ thường gọi là “Sadguru”.
- Ai đã hướng dẫn cho anh đi vào con đường Thiền?
- Vị đạo sư Ấn Độ đầu tiên đã diễn thuyết trong trường đại học cách đây nhiều năm rồi.
- Như vậy ông ấy là vị thầy đầu tiên của anh đó. Ông ấy đã đến đúng vào lúc anh sẵn sàng. Chính vị thầy trong tâm của anh (Sadguru) đã hướng dẫn anh đến với vị thầy bên ngoài hay vị đạo sư Ấn Độ đó. Có người hỏi Sri Nisargadattha rằng “Có cần thầy không?” thì ông trả lời “Điều đó cũng như hỏi chúng ta có cần mẹ hay không vậy?”.
- Nhưng ngoài vị thầy đó ra tôi có cần thầy khác hay không?
- Bất kỳ lúc nào anh cần thì nội tâm của anh, vị thầy trong tâm của anh (Sadguru) sẽ hướng dẫn anh đi tìm một người thầy bên ngoài (Guru). Điều này cũng ví như bà mẹ đưa con đến lớp học với một thầy giáo vậy.
- Có người nói rằng chúng ta chỉ cần một vị thầy duy nhất mà thôi và phải tuyệt đối trung thành với vị này.
- Có thể điều đó đúng nếu gặp đúng thầy. Kinh nghiệm riêng của tôi thì khác, tôi đã học hỏi và thực tập dưới sự hướng dẫn của nhiều vị thầy khác nhau. Lúc nào tôi cũng biết ơn tất cả.
- Như vậy người ta có cần trông cậy vào một vị thầy không?
- Có người nhấn mạnh việc trông cậy vào một vị thầy, có người không đồng ý. Truyền thống Ấn Độ chú trọng đến việc các môn sinh sống gần với thầy, trông cậy vào sự hướng dẫn của thầy. Tuy nhiên “sống gần” hay “trông cậy” không có nghĩa là phải ở cùng nhà, ăn cùng bàn, thở hít cùng một bầu không khí mà có nghĩa là chuyên cần, vâng lời, tuân theo sự chỉ dạy để không uổng phí công lao dạy dỗ của thầy. Một đạo sư Ấn Độ khác, Ram Das nói rằng người ta sẽ không tiến bộ bao nhiêu nếu cứ quanh quẩn bên cạnh một vị thầy vì họ sẽ gắn bó, trông cậy vào một cái gì có tính cách hình thức bên ngoài mà quên đi phần tinh thần ở bên trong. Một lý do nữa là càng gần thầy bao nhiêu, chúng ta càng ỷ lại vào vị thầy đó bấy nhiêu; chúng ta quan tâm đến sự gần cận, hầu hạ, vâng lời thầy nhiều hơn là vào các tiến bộ tâm linh của chính ta. Nên nhớ dù vị thầy đó có cao cả đến đâu, hay đạt các quả vị gì chăng nữa thì ngài cũng không thể tu giùm chúng ta được, chúng ta phải tự mình tiến bước, tự mình tu tập sửa đổi chính mình. Đó là điều hết sức quan trọng, là một căn bản chính yếu của truyền thống Đông phương.
- Nhưng làm sao có thể tìm ra một vị thầy chân chính, một người có thể hướng dẫn tôi được? Như bà cũng đã biết, thời gian gần đây đã có quá nhiều kẻ bất tài tự xưng là “Guru”, “Bhagwan”, “Swami” hay đấng này, vị nọ...
- Dĩ nhiên người tìm đạo có quyền thử thách vị thầy trước khi xin học. Cũng như thế, các vị thầy thường thử thách học trò trước khi thu nhận. Anh hãy quan sát vị đó một cách cẩn thận và tự hỏi “Vị đó có cởi mở không? Có khuyến khích các đệ tử tự tu, tự học hay tìm học thêm ở những vị thầy khác hay không? Liệu vị đó đã chế ngự được các khát vọng, tham lam, giận hờn, ganh tỵ, sợ hãi và làm chủ được bản ngã không? Vị đó có đi tìm danh vọng không?”. Một vị thầy chân chính không phải chỉ có đức hạnh là đủ, mà còn phải vượt cao khỏi các cám dỗ của thể xác, tư tưởng, vượt ra ngoài vòng tranh chấp nhị nguyên. Chỉ như vậy thì lời nói của ngài mới là những hạt giống bất hoại trong đời chúng ta được.
- Nhưng làm sao tôi có thể xét đoán như vậy?
- Hãy tự hỏi: “Đứng trước ngài tôi cảm thấy thế nào?”. Đừng để những người khác khuyến dụ, đừng tin những lời quảng cáo hay khen ngợi bên ngoài. Hãy tự hỏi: “Nội tâm tôi cảm thấy như thế nào khi nghe ngài nói chuyện? Ngài có làm cho nội tâm của tôi phong phú lên không?”.
- Có người nói rằng muốn tiến bộ trên đường tâm linh thì phải quy phục một vị thầy. Bà nghĩ sao?
- Lẽ dĩ nhiên, nếu không biết quy phục thì có thầy làm gì? Quy phục với vị thầy bên ngoài cũng là quy phục vị thầy bên trong. Chính vì nhiều người trong chúng ta không làm gì cho chính mình nên mới cần có một vị thầy bên ngoài để phá vỡ sự chống đối của phàm ngã, khắc phục tính hiếu động hay trì trệ của chúng ta. Đó là lý do chúng ta cần một vị thầy hướng dẫn. Trước sau gì thì chúng ta sẽ học được rằng cuộc đời là vị thầy tối cao, là vị “Guru” tốt nhất, mỗi người đi qua đời chúng ta, mỗi sự kiện như thành công, thất bại, vui, buồn, lo lắng, thương yêu, thù hận, đều đến với chúng ta như những bài học mà chúng ta cần phải học. Chúng không đến như một sự tình cờ hay trùng hợp, mà như một kế hoạch nhất định để dạy cho chúng ta những bài học đó. Nếu chúng ta không chịu quy phục và chấp nhận các bài học trên đường đời này thì chúng ta cần một vị thầy để vạch rõ các bài học đó ra cho chúng ta. Nếu chúng ta chấp nhận, quy phục các bài học ngoài đời thì chúng ta ít cần một vị thầy bên ngoài. Đạo sư Ram Das nói rằng: “Người ta chỉ cần nương tựa vào sự thúc hối bên trong để có sự hướng dẫn đúng ở ngoài đời”. Nhưng dù có thầy hay không có thầy, rốt cuộc chúng ta sẽ nhận thức rằng đằng sau tất cả các vị thầy bên ngoài, các vị “Guru” và đằng sau bàn tay chuyển động của đời sống là vị thầy bên trong, vị “Sadguru” cao cả và im lặng, đó chính là cái chân ngã vô hình, bất khả phân, là cái ánh sáng bao la thấm nhuần tất cả.

38. Một quan niệm về tình yêu

Mamie là một phụ nữ rất đẹp, ăn mặc lịch sự và có giọng nói thật hấp dẫn. Bà cho biết bà rất yêu thi ca, âm nhạc cổ điển và tiểu thuyết lãng mạn. Bà đã ly dị ba lần và đang chuẩn bị lập gia đình lần thứ tư. Bà nói:
- Thưa bà, tôi không biết cuộc hôn nhân sắp tới này có hơn gì những cuộc hôn nhân trước không?
- Tại sao chị nghĩ như thế?
- Khi sống một mình thì cuộc đời của tôi hết sức thoải mái, suôn sẻ, dễ chịu nhưng khi chung sống với một người khác thì luôn luôn có những chuyện rắc rối, bất hòa, thất vọng.
- Tại sao?
- Tại vì họ không đáp ứng được những mong ước bé nhỏ của tôi. Thí dụ như người chồng sau cùng là một gã chỉ say mê làm việc và luôn luôn quên những điều mà tôi cho là quan trọng: những kỷ niệm đẹp khi mới quen nhau, ngày sinh nhật của tôi, những câu nói tình tứ, các món quà dễ thương. Đó là bằng chứng rằng tôi không quan trọng đối với hắn...
- Này chị, nhiều năm trước tôi có quen một người đàn ông hào hoa phong nhã, hắn không bao giờ quên ngày sinh nhật hay ngày kỷ niệm chúng tôi gặp nhau lần đầu, hắn có thể nhớ bất cứ một câu nói tình tứ nào mà tôi đã nói với hắn và luôn luôn gửi quà tặng hay hoa hồng cho tôi...
- Tôi thích những người lịch sự, chân thành như vậy. Đó mới thật là đàn ông.
- Khoan đã, chị đừng nóng vội. Đó chỉ là dấu hiệu của một người có trí nhớ tốt mà thôi. Sự thật thì hắn ta không những nhớ ngày sinh nhật của tôi mà còn cả bốn cô gái khác mà hắn đang “bồ bịch” trong cùng một lúc. Sở dĩ tôi nói điều này ra để chị thấy rằng điều mà chúng ta mong đợi nơi người khác vốn không có căn bản thực tế. Chị cần phải biết kiểm soát những mong đợi hão huyền này và biết rằng mỗi người chúng ta đều hành động theo quan niệm riêng của mình, chúng ta không thể hành động, cảm xúc hay suy nghĩ như người khác muốn chúng ta như vậy. Chị không thể vạch ra một cách cho người khác xử sự được. Kinh Bhagavad Gita nói “Chúng ta có thể hành động nhưng không thể kiểm soát được kết quả”.
- Tôi vẫn không hiểu, xin bà giải thích rõ hơn.
- Để tôi lấy một thí dụ này: Nếu chị dành ra nửa ngày để nấu một bữa ăn thật thịnh soạn, bày bàn ăn thật đẹp, cắm vào đó mấy ngọn nến cho thật thơ mộng rồi chờ chồng đi làm về để cùng ăn. Khi chồng chị về nhà, ông chẳng ngó ngàng gì đến bàn ăn, chẳng tỏ thái độ muốn ăn thì chị phản ứng ra sao?
- Tôi sẽ nghĩ: “Biết đâu hắn ta đã đi ăn với một cô ả nào đó rồi?”. Ít ra thì hắn cũng phải khen ngợi sự cố gắng của tôi chứ...
- Nếu hiểu biết thì chị sẽ phản ứng khác. Chị sẽ chấp nhận cách xử sự của chồng mà không phán đoán gì hết, cũng chẳng cần phải kể công lao làm gì.
- Vậy thì tôi phải suy nghĩ thế nào?
- Hãy suy nghĩ như sau: “Tôi không cần sự vỗ về, khen ngợi và tôi cũng chẳng mong chờ gì cả. Mọi điều tôi làm vì tôi muốn làm, dù người khác thích hay không thích, không ngó ngàng hay đoái hoài đến thì cũng chẳng phải là lỗi của tôi. Đó là chuyện của họ”.
Nhưng mấy ai đã nghĩ như vậy. Nếu chuyện đó xảy ra thì tôi sẽ dạy cho hắn một bài học tức thì...
- Tại sao chị làm vậy? Tại sao chị lại đồng hóa mình với cái suy nghĩ nông nổi, ấu trĩ đó? Mỗi khi trí óc của chị nghĩ: “Tại sao hắn không làm vừa ý tôi” thì chị phải lập tức từ chối không chấp nhận cái suy nghĩ ích kỷ, tiêu cực đó. Chị hãy nhìn ngắm chúng với tâm trạng của một người đứng bên ngoài quan sát, không đồng ý và không chịu đồng hóa với nó. Chị hãy tự nhủ: “Lại mày nữa, lần này tao nhất định sẽ không tuân theo cái luận điệu giận hờn cũ rích của mày nữa đâu”. Khi các tư tưởng đầy ích kỷ đầy giận hờn đó không còn ảnh hưởng được chị nữa thì chị đã tiến được một bước xa rồi. Sự khó khăn của chúng ta đều là do trí óc chúng ta mà ra chứ không phải do nơi kẻ khác. Khi đã biết phương pháp dừng lại và nhìn ngắm “trò hề” của cái trí óc nông nổi đó thì mối quan hệ của chị với người khác sẽ được cải thiện rất nhiều. Để tôi kể cho chị một thí dụ dễ hiểu sau đây: Chị hãy hình dung hai cặp tình nhân đang đi dạo trong vườn hoa. Cặp thứ nhất là A và B, họ luôn luôn tay trong tay, mắt nhìn mắt thật đắm đuối nhưng khi B làm A thất vọng thì A giận dữ. Khi A giận dữ thì B bực mình vì cho rằng A quá đòi hỏi và khi đó, tay họ không còn tay trong tay nữa mà chỉ còn là những cử chỉ giận dữ, mắt họ không còn đắm đuối nữa mà chỉ còn là những tia giận hờn. Cặp thứ hai C và D cùng nắm tay nhau đi nhưng mắt họ chẳng nhìn nhau mà cùng nhắm mắt, hướng suy nghĩ vào một mục tiêu cao đẹp chung là “hạnh phúc”. Vậy thì dù cho có việc gì xảy ra thì thái độ của họ cũng không thay đổi, vì họ vẫn cùng nhau hướng về mục tiêu chung đó. Nếu như một người ngã thì người kia nâng, một người gặp rắc rối thì người kia an ủi và cứ như thế họ thanh thản đi trọn con đường.
Thi sĩ Kahlil Gibral có một bài thơ thật hay mà tôi mong chị hãy suy ngẫm kỹ vì nó có thể giúp cho chị nhiều:
Love one another but make not the bond of love
Let it rather be a moving sea between the shores of your soul
Give your hearts but not into each other’s keeping
For only the Hand of Life can contain your hearts
And stand together yet not too near together
For the Pillars of the temple stand apart
And the oak tree and cypress grow not in each other’s shadow.
Tạm dịch:
Hãy yêu nhau nhưng đừng biến tình yêu thành dây ràng buộc;
Mà tình yêu nên là đại dương chuyển động giữa đôi bờ của hai linh hồn.
Hãy cho nhau trái tim nhưng đừng giao nhau cất giữ.
Vì chỉ Bàn tay của Cuộc đời mới có thể chứa đựng trái tim các bạn.
Và hãy đứng cùng nhau nhưng đừng quá sát vào nhau:
Vì các cột đền thờ đều đứng một mình,
Và cây sồi với cây hạnh đào không lớn lên trong chiếc bóng của nhau.
(Bản dịch của Nguyễn Ước)

39. Thực tại chỉ nằm trong hiện tại

Neville là một thanh niên trẻ làm việc cho tiệm bán thực phẩm ở Texas. Ngoài giờ làm việc, anh và một số bạn bè thường tụ họp để học hỏi, nghiên cứu các vấn đề tâm linh. Anh rất thích quan niệm và triết lý của người phương Đông như luân hồi, luân quả, và đặc biệt say mê việc sử dụng Thần nhãn để chữa bệnh của Edgar Cayce. Cách đây mấy năm, cha mẹ anh qua đời, để lại tất cả gia tài cho Al, người em út, chứ không chia cho anh một chút gì. Mãi sau này anh mới biết chính Al đã nói xấu anh và vận động cha mẹ truất quyền thừa kế của anh để chiếm trọn gia tài. Neville nói bằng một giọng xúc động:
- Thưa bà, khi biết được việc này tôi muốn bắn Al mấy viên đạn vào đầu nhưng nhờ bạn bè ngăn cản nên mới thôi. Theo thời gian, mối hận của tôi dịu bớt phần nào nhưng vẫn không hết mà cứ tiềm ẩn, chờ dịp lại bùng lên. Hiện nay thằng em bất lương của tôi sống trong một biệt thự lớn, lái xe Cadillac, có nhiều bạn gái rất xinh, còn tôi thì làm nghề bán hàng, lương chỉ đủ tiêu một cách dè sẻn. Các bạn tôi nói rằng có lẽ kiếp trước tôi đã làm điều gì ghê gớm lắm đối với Al nên ngày nay mới phải trả quả báo như vậy. Suy nghĩ như thế cũng giúp tôi rất nhiều vì tôi tin ở luật nhân quả. Biết mình đã lầm lỗi trong quá khứ thì dễ chấp nhận sự kiện đau lòng hiện nay hơn. Nhưng tôi vẫn thắc mắc không biết có thực là tôi đã làm điều gì xấu trong tiền kiếp không? Cách đây ít lâu, tôi đọc báo thấy có mấy pháp sư quảng cáo là có thể xem tiền kiếp của người khác, tôi muốn biết những người này có thể xem được tiền kiếp sâu xa đến đâu?
- Này anh bạn, có lẽ những vị pháp sư đó sẽ đưa anh đi sâu vào tột cùng sự tưởng tượng của họ và xa đến tận số tiền anh để dành trong tài khoản ngân hàng. Họ đòi trả thù lao rất nhiều để đưa anh đi vào những vòng luẩn quẩn, họ nói về luân hồi mà chính họ lại không tin gì ở luân hồi, nhân quả. Giả dụ rằng họ có thể xem được tiền kiếp và nói rằng anh không hề làm điều gì xấu với người em hiện nay của anh thì sao? Anh sẽ làm gì? Anh sẽ hành động như thế nào? Nếu đã nghiên cứu về Edgar Cayce thì có lẽ anh đã đọc cuốn “Many Mansions” của tác giả Gina Cerminara. Trong cuốn này tác giả đã kể rằng khi Edgar Cayce biết một người trước đây là bạo chúa Nero, ông từ chối không tiết lộ điều này vì sợ người kia chịu không nổi. Phần anh cũng vậy, biết đâu anh không thể chịu nổi về điều anh đã làm trong quá khứ? Rồi anh sẽ thắc mắc về chuyện người khác đã làm điều này hay điều nọ cho anh và cứ thế luẩn quẩn trong các liên hệ rắc rối, không khởi đầu mà cũng không chấm dứt. Vấn đề xem tiền kiếp không có lợi gì cả vì biết đâu Al, người em của anh trong kiếp này lại là cha anh trong kiếp trước, hay mẹ anh kiếp trước hiện nay lại là vợ của anh thì sao? Phải chăng khi biết được các liên hệ tiền kiếp với người nào thì cuộc sống hiện tại đang yên lành bỗng trở thành một thảm kịch đầy rắc rối, sóng gió ngay?
- Vậy thì việc xem tiền kiếp chữa bệnh của Cayce là vô ích hay sao?
- Không đâu, Edgar Cayce là một hiện tượng đặc biệt. Bằng quyền năng Thần Nhãn, ông đã chữa trị, giúp đỡ hàng ngàn người trên thế giới khỏi các bệnh về thể xác cũng như tinh thần mà các phương thuốc thông thường đều bó tay. Cayce không bao giờ xem tiền kiếp để thỏa mãn trí tò mò vô ích hay để kiếm tiền làm giàu (ông không lấy thù lao). Ông chỉ làm nhẹ bớt các đau khổ của người khác. Dĩ nhiên những người như ông thì thật hiếm có và đặc biệt rồi.
- Nếu không xem tiền kiếp nữa thì có cách nào khiến tôi giải quyết các mối giận hờn hiện nay không?
- Anh đã nghiên cứu nhiều về Edgar Cayce thì chắc hẳn anh cũng biết những lời khuyên của ông. Hãy áp dụng những câu đó vào cuộc sống hiện nay của anh. Dĩ nhiên hiểu biết thì dễ nhưng hành động lại là một chuyện khác, do đó anh cần tham thiền suy ngẫm thật kỹ về những lời khuyên này. Hãy suy ngẫm rằng hiện nay người em của anh đang đóng một vai trò trong vở kịch mà hắn không hề soạn ra. Vở kịch đó được căn cứ vào định luật luân hồi, nhân quả và đạo diễn là một đấng tối cao hay một định luật thiêng liêng của vũ trụ, tùy theo quan niệm mỗi người. Cayce nói rằng bằng cách nương tựa vào các định luật đó mà tâm thức của chúng ta thay đổi bởi vì đó là chân lý, là ánh sáng. Nếu tin những định luật này thì chúng ta chấp nhận tất cả những gì xảy ra cho chúng ta như một bài học tốt để cho ta học hỏi. Vì biết rằng mỗi món nợ chỉ đòi đúng cái giá mà chúng ta phải trả nên chúng ta không chống cự hay phản kháng mà chấp nhận rằng có vay ắt có trả. Khi biết chấp nhận, người ta có thể giải quyết rất nhiều việc.
Này anh bạn, đời người qua mau như bóng câu qua cửa, tại sao chúng ta cứ làm nô lệ cho dục vọng, sợ hãi quá khứ và chỉ biết sống cho tương lai, một tương lai mơ hồ không rõ rệt. Phải chăng chúng ta đã bỏ qua một điểm toàn vẹn và chính yếu là Hiện tại. Hiện tại là tất cả những gì chúng ta đang có, tất cả những gì chúng ta hiện hữu. Quá khứ chỉ là kỷ niệm, tương lai chỉ là tưởng tượng. Duy chỉ Thực tại là Hiện tại mà thôi. Hãy biết cách sống cho ra sống rồi anh sẽ giải quyết được tất cả.

40. Thiền định và khoa học

Richard là một thanh niên ham hoạt động. Khi còn nhỏ anh đã tập các tư thế Yoga và tham thiền, lúc trưởng thành lại say mê khoa học, kỹ thuật và làm việc cho một công ty điện tử rất lớn. Anh nói:
- Thưa bà, hình như thời gian gần đây phong trào tham thiền được phổ biến sâu rộng khắp nơi, mang lại nhiều đổi thay bất ngờ, nhanh chóng. Tôi đã thấy những nhân viên quản trị lúc nào cũng căng thẳng, khó chịu nhưng chỉ sau một khóa thiền đã trở nên vui tươi, thoải mái. Tôi muốn biết tại sao thiền định có thể giúp người ta như vậy? Tôi xem các tài liệu khoa học chứng minh rằng thiền định có thể làm hạ huyết áp, chữa nhiều bệnh tật, v.v. Mặc dù đã tham thiền từ nhỏ nhưng tôi vẫn không hiểu chuyện gì thực sự xảy ra trong lúc người ta thiền?
- Nếu anh muốn giải thích theo cách hoàn toàn khoa học thì đã có nhiều tài liệu chứng minh rằng tham thiền đem lại sự quân bình cho cả hai phần phải và trái của khối óc. Trải nghiệm được trạng thái quân bình này là trải nghiệm được sự duy nhất, bất nhị, toàn vẹn, tràn đầy, quân bình các mãnh lực âm dương trong cơ thể. Một số tài liệu khoa học đã nghiên cứu mối tương quan giữa thiền định và sự rung động của bộ não như sau: Hãy tưởng tượng anh đang làm việc trong công sở, có nhiều vấn đề phải giải quyết mà không biết phải làm chuyện gì trước. Đầu óc anh bối rối, bực bội rồi điện thoại reo, anh phải trả lời. Nhìn vào thời khóa biểu, anh biết sẽ có một cuộc họp quan trọng trong vài phút nữa, anh lo lắng về việc trong sở, việc tại nhà v.v. Trong tình trạng đó, nếu có một điện não đồ để đo mức độ rung động, làn sóng trong óc anh thì nó sẽ ghi nhận sự rung động ở mức 22 chu kỳ trong một giây hay ở mức Beta. Sau khi đi làm, trở về nhà, ăn uống, tắm rửa, nghỉ ngơi thoải mái cho thư giãn thì mức độ rung động ở óc anh sẽ hạ thấp xuống khoảng 10 chu kỳ trong một giây hay ở mức Alpha. Nếu tham thiền, tập trung tư tưởng vào một hình ảnh đẹp đẽ như một bông hoa, một câu thần chú, hay quán niệm hơi thở, thể xác anh ngồi yên bất động, tâm trí lặng yên, không bị những tư tưởng lộn xộn xâm nhập thì mức độ rung động của các làn sóng trong óc sẽ được ghi nhận khoảng 4 chu kỳ trong một giây hay ở mức Theta. Nếu là một hành giả đã thiền định nhiều năm, nhập thiền dễ dàng, mức tập trung hoàn hảo, không còn phân biệt chủ thể hay đối tượng mà đạt đến trạng thái bất nhị, hòa nhập toàn vẹn thì mức rung của bộ óc sẽ vào khoảng 2 chu kỳ trong một giây hay ở mức Delta. Khi nhập vào các trạng thái siêu đẳng của thiền định hay Đại định (Samadhi), toàn thân đắm chìm trong niềm phúc lạc tuyệt vời, không còn lo lắng, sợ hãi, vượt ra khỏi các hư ảo, bỏ lại đằng sau các giới hạn vật chất, thì tiến đến mức ra ngoài Delta, ra ngoài tầm mức mà máy móc kỹ thuật có thể đo lường được. Vì không thể ghi nhận được gì nữa nên chuyện gì xảy ra trong tình trạng tâm thức siêu đẳng này thì chỉ người đã đạt đến trạng thái đó mới biết, lúc đó Chân Ngã cảm nhận được chính nó.
- Nhưng phải chăng con người cũng cảm nhận được Thượng Đế chứ?
- Không đâu, một con người tầm thường không cảm nhận được Thượng Đế, cái hữu hạn không thể biết được cái vô biên. Chỉ có người cảm nhận biết được người cảm nhận.
- Phải chăng bà muốn đề cập đến một trạng thái tôn giáo hay một tín điều nào đó?
- Điều này không phải là một ý kiến hay quan niệm của một tôn giáo nào. Nhưng điều này vượt ra khỏi thể xác và thể trí, ngoài ranh giới của bản ngã hữu hạn. Đó là cái kinh nghiệm thần bí mà tất cả mọi truyền thống tôn giáo đều nói đến. Thánh Bernard đã viết: “Không có niềm vui nào trên thế giới có thể so sánh được với cái kinh nghiệm khi con người tan biến như thể người đó không còn là gì nữa”. Thánh Augustine cũng viết rằng: “Sự chiêm ngưỡng Thượng Đế đưa đến một trạng thái trừu tượng, thanh khiết hoàn toàn và người ta thấy chính mình là tất cả và như thể mình không còn là ai cả”. Thiền sư Han Shan đã nói: “Bất thình lình tôi đứng yên lặng, toàn thân tràn đầy một sự nhận thức rằng tôi không còn là thể xác hay thể trí này nữa. Tất cả những điều tôi nghiệm được là một cái toàn thể sáng chói, có mặt khắp nơi, hoàn hảo, sáng ngời và thanh tịnh... Tôi cảm thấy rõ ràng, thông suốt...”. Đạo sư Ramana Maharshi giải thích rằng chúng ta vốn không có hình tướng và việc tự coi mình có hình tướng là sự vô minh căn bản và là nguyên nhân cội rễ của mọi khổ đau, phiền não. Thiền định giúp người ta trở về, ý thức được họ thực sự là gì. Trong trạng thái tâm thức siêu đẳng, Chân Ngã biết nó là cái gì, biết được và quán triệt tất cả. Nếu kinh nghiệm này kéo dài một cách lâu bền thì trạng thái đó có thể gọi là giác ngộ.
- Như vậy Chân Ngã liên hệ với thể Trí ra sao?
- Chân Ngã là nhân chứng của cái Trí.
- Nhưng nếu Chân Ngã chứng kiến cái Trí thì tại sao chúng ta lại tham thiền?
- Thiền định giới thiệu chúng ta với nhân chứng hay nói một cách khác là tháo gỡ các tấm màn vô minh vẫn che mắt chúng ta từ bao lâu nay để biết mình thực sự là ai.

41. Con đường tâm linh

Brian là một bác sĩ trẻ tuổi, hoạt động, rất thích các môn thể thao như lặn nước, leo núi, chạy bộ và đã tu tập thiền định từ nhiều năm nay. Anh nói:
- Thưa bà, nếu chúng ta đã là Chân Ngã, là Tâm thức vô biên thì tại sao chúng ta phải cực nhọc tu tập mới biết được nó? Tôi là một bác sĩ, tôi đâu cần phải tự biến đổi chính mình để biết rằng tôi là một bác sĩ. Tại sao con đường tâm linh lại khác biệt như thế?
- Này anh bạn, sự đạt đến thực hiện Chân Ngã là một tiến trình hết sức tế nhị. Tiến trình này có thể tạm ví như việc leo núi. Vì càng lên cao không khí càng loãng nên người leo núi phải trèo từ từ để phổi và các cơ quan khác có thể thích hợp với sự thay đổi nhiệt độ, áp suất không khí, v.v. Thường khi bắt đầu leo núi, người ta hay mang theo một ba lô thật nặng chứa đủ các đồ dùng, dụng cụ, lều chõng, v.v. Những thứ này đã cản trở việc leo núi cho đến khi họ nhận thức rằng phải bỏ lại những gì không cần thiết thì mới có thể leo cao được. Trèo núi một lúc, thấy đường gập ghềnh khó leo, họ lại bỏ thêm một ít và cứ như thế cho đến khi lên đến đỉnh. Con đường tâm linh cũng như thế, chúng ta phải bỏ tất cả những gì không cần thiết, làm xao lãng việc tiến đến mục đích của chúng ta. Thoạt đầu là từ bỏ những dư thừa vật chất, các vật sở hữu không cần thiết, các thói quen như ngủ nhiều, ăn nhiều, nói nhiều, nhất là các lời nói vô ích. Sau khi kiểm soát được những điều này, chúng ta cần phải biết từ bỏ các thói quen cẩu thả, bừa bộn về giờ giấc, thu xếp làm sao để không phí phạm thời gian quý báu vào những việc có thể khiến chúng ta đi lệch khỏi mục tiêu. Sau đó chúng ta bắt đầu tháo gỡ các tấm màn dày đặc vẫn bao phủ lên tâm trí chúng ta như các phán đoán, quan niệm, sự ưa thích cái này cái kia… Khi từ bỏ hành lý này, chúng ta có thể trèo leo dễ dàng, nhẹ nhàng và nhanh nhẹn. Từ lúc này thấy cần bỏ cái gì thì chúng ta cứ việc xả bỏ, càng bỏ nhiều thì bản chất thật sự của chúng ta càng biểu lộ rõ rệt hơn.
Khi chúng ta lau hết bụi bặm quanh bóng đèn thì đèn sẽ chiếu sáng rực. Bụi là hành lý của chúng ta, bóng đèn là trí của chúng ta và ánh sáng là Chân Ngã. Khi lau sạch bụi nhơ và sự lầm lẫn về cái gì không phải là chúng ta thì chúng ta thường xuyên sống trong sự trọn vẹn với cái thực sự là chúng ta.

42. Tám bậc thang của thiền

Gail là bác sĩ tâm lý trị liệu, cô đã áp dụng nhiều phương pháp phân tâm nhưng thấy việc chữa trị của mình vẫn còn thiếu sót. Cô tham dự khóa hội thảo về thiền để mong có thể học hỏi được một phương pháp mới. Cô nói:
- Tôi thấy hầu hết các phương pháp chữa trị thông thường đều không đạt kết quả khả quan mà chỉ có tính chất tạm thời xoa dịu những nỗi khổ đau. Dù áp dụng phương pháp nào tôi vẫn có cảm tưởng như mình chỉ là kẻ làm việc bên lề mà thôi. Thời gian gần đây một số bệnh nhân của tôi nói về thiền như một phương pháp chữa bệnh mầu nhiệm nên tôi bèn học thiền xem sao. Tôi học cách tham thiền vào ngọn nến, quán niệm hơi thở, tập trung ý chí vào các màu sắc, hình ảnh, niệm thần chú chân ngôn nhưng vẫn chưa thấy đầu mối của thiền hay hiểu rõ sự tác động của nó như thế nào?
- Nói một cách thật giản dị thì thiền định làm lặng yên cái trí. Tại sao chúng ta cần làm cho cái trí lặng yên? Khi cái trí yên lặng thì chúng ta mới thực sự biết mình là ai. Khi đầu óc không bị chi phối bởi các tư tưởng xáo trộn thì chúng ta mới thực sự ý thức được những mầu nhiệm của sự sống. Theo các bậc thầy phương Đông, chúng ta không phải là thể xác hay thể trí này mà là một tâm thức thanh khiết vô biên, vượt khỏi giới hạn của thể xác và thể trí. Chúng ta vốn là sự hiện hữu, và sự hiện hữu này không tùy thuộc vào thời gian, không gian hay điều kiện gì. Chúng ta thực tập thiền là để trở về với con người thật sự, để sống mãi trong kinh nghiệm đó. Ý thức được điều này gọi là “Giác Ngộ” hay “Thực hiện Chân Ngã”. Chúng ta không tham thiền để “được” một cái gì mà chúng ta không có, mà để biết chúng ta thật sự là ai.
- Nếu vậy tôi phải làm gì? Làm sao tôi có thể đạt được kinh nghiệm đó?
- Tại sao bệnh nhân của cô lại chuyển qua tập thiền? Phải chăng họ đã chán ngấy các luồng tư tưởng lao xao, không kiểm soát được trong trí óc của họ? Phải chăng chính các tư tưởng này đã sai khiến và chi phối chúng ta, khiến chúng ta luôn luôn bận rộn vào những chuyện gì đâu đâu mà quên đi thực tại nhiệm mầu? Phải chăng nguyên nhân của việc sử dụng cần sa, ma túy, trong giới thanh thiếu niên ngày nay cũng chỉ là một cách tạm quên đi sự chi phối của những luồng tư tưởng xáo trộn này? Phải chăng đa số con người đều chán ngấy những trò bạo động, thù hận, tranh giành, sợ hãi, lo lắng, bất an của xã hội văn minh ngày nay? Nhưng tại sao lại như thế? Phải chăng nguyên nhân sâu xa của điều này chính là sự xa lìa Chân Ngã, là sự mất đi chính mình? Là sự mất ý thức về mình và về sự sống? Chúng ta giống như cây cối đã bị bứng khỏi môi trường quen thuộc, bị mất gốc rễ, mất cội nguồn nên đâm ra lo sợ, bất an, cô đơn, chán nản, đã đồng hóa mình với thể xác hiếu động, thể trí hằng thay đổi, và để cho cảm xúc, tư tưởng lăng xăng đó lôi kéo?
Chúng ta muốn tự do, muốn bình an, muốn thoải mái, nhưng cái trí của chúng ta cứ thúc đẩy chúng ta chạy theo sự náo động của nó nên chúng ta mất tự do, mất bình an vì nghĩ rằng cái trí đó chính là mình. Phải chăng chúng ta đã nhầm lẫn con ngựa chúng ta cưỡi với chính chúng ta? Tham thiền là tự quán xét xem mình thực sự là ai rồi từ đó biết sống cho ra sống. Dĩ nhiên điều này đòi hỏi một sự suy ngẫm sâu xa, một công phu thực tập lâu dài chứ không phải hời hợt trên những lý thuyết mông lung, không thực tế. Nói một cách khác, thực tập thiền là công việc của cả một đời chứ không phải chỉ vẻn vẹn trong một khóa cấp tốc.
- Xin bà chỉ dẫn thêm về nguyên tắc của thiền mà bà đã học.
- Khoa Raja Yoga dạy rằng có tám bậc thang hay “Ashtanga Yoga” giúp con người đi từ thấp lên đến tột đỉnh của sự tiến hóa tâm linh. Hai bậc thang đầu chú trọng đến việc sửa đổi tính tình và phát triển tâm hồn trong sạch qua phương pháp dưỡng sinh, ngủ nghỉ đều đặn trong một kỷ luật nhất định. Bậc thứ ba là Hatha Yoga (Tư Thế) hay cách kiểm soát thân thể. Muốn thiền định cho thâm sâu, thân thể phải hoàn toàn thoải mái để có thể ngồi yên bất động trong thời gian lâu dài. Tư thế tọa thiền có vững chãi thì mới đem lại sự thăng bằng cho nội tâm. Bậc thang thứ tư là Pranayama (Khí Công) hay cách điều hòa hơi thở. Muốn thở thật chậm, thật sâu, thật từ tốn và thật ý thức thì người ta phải thực hành phương pháp hô hấp này. Bậc thang thứ năm là sự thâu nhiếp các giác quan vì các giác quan có rút khỏi các mục tiêu cố định của chúng thì người ta mới có thể kéo dài việc định trí. Bậc thang thứ sáu là sự tập trung, vì thiếu tập trung thì không thể đi lên giai đoạn thứ bảy. Các sách vở về Yoga đều nói rằng sáu giai đoạn đầu giống như việc xây nhà phải đắp móng, dựng nền nhà cho thật vững chắc, xây tường vách cho kiên cố trước khi lợp mái nhà. Khi đã ngồi yên, tập trung tư tưởng, hoàn toàn làm chủ thân và tâm thì người ta sẽ bước vào trạng thái “Định” hay bậc thang thứ bảy. Bậc thang thứ tám hay Đại Định (Samadhi) không thể tập luyện được, nó là cái sức mạnh thiêng liêng dồi dào trong nội tâm nhờ công phu tu tập đã “nâng” tâm thức người ta lên mức đó.
Nếu sống tại những nơi có sẵn các lớp giảng dạy về Hatha Yoga, Raja Yoga thì cô nên tham dự các lớp học này. Nếu không, cô có thể tìm đọc sách vở về Yoga của những đạo sư phương Đông nổi tiếng. Sự hiểu biết rõ rệt về phương pháp và nguyên tắc sẽ giúp cô đi xa hơn trên con đường tự biết mình.
- Liệu tôi có thể dạy bệnh nhân của tôi tập thiền không?
- Được chứ, một khi đã thực hành nhiều năm, có kinh nghiệm bản thân, cô có thể chỉ dẫn cho người khác được. Khi cô đã đạt được tâm thức cao cả thì không những nó sẽ biến đổi cô mà còn ảnh hưởng cả đến các bệnh nhân của cô nữa.

43. Bệnh tật: nguyên nhân và cách điều trị

Yvonne là một nữ điều dưỡng có nhiều năm kinh nghiệm ở một trung tâm nghiên cứu về bệnh Ung thư. Cô tham dự buổi diễn thuyết của tôi về phương pháp dưỡng sinh của người phương Đông. Cô nói:
- Thưa bà, trước đây tôi không để ý gì đến điều này nhưng hiện nay nhờ chứng kiến tận mắt một phép lạ mà tôi hết sức tin tưởng về phương pháp điều trị và dưỡng sinh của người phương Đông. Cách đây ít lâu tôi có chăm sóc một bệnh nhân bị chứng ung thư gan, các bác sĩ đều nói rằng ông ta khó sống qua năm nay. Ông ta bèn khởi sự thiền định, tập trung tư tưởng vào một trạng thái sức khỏe tốt đẹp hoàn hảo. Ông “quán tưởng” rằng lá gan của ông hoàn toàn tốt đẹp, không hề bị bệnh gì, và sau một thời gian tự nhiên ông hồi phục, lá gan của ông trở lại bình thường khiến các bác sĩ đều ngạc nhiên. Một số kết luận rằng cơ thể của ông thích hợp với các phương pháp điều trị và thuốc men, nhưng là nữ điều dưỡng nên tôi biết rất rõ tình trạng của bệnh nhân này. Sự tò mò về nguyên nhân và cách điều trị khiến tôi tìm đọc các sách nói về Tâm sinh bệnh lý như cuốn “The Stress of Life” của Hans Seyle, “Anatomy of an Illness” của Norman Cousins, và công cuộc khảo cứu về bệnh Ung thư của bác sĩ Carl Simonton. Tôi cũng khởi sự tham thiền, và sau một thời gian tôi bắt đầu cảm nhận sức mạnh tuyệt diệu mà thiền định mang lại cho tôi. Khi trí óc hoàn toàn an tĩnh thì nó mở lớn ra như một tờ giấy trắng mà tôi có thể viết lên đó bất cứ cái gì tôi muốn. Tôi nghiệm ra rằng chính tôi có thể góp phần tạo dựng lại số phận và tình trạng sức khỏe của chính mình. Điều tôi thắc mắc là tôi sẽ ảnh hưởng thế nào đến số phận của mình hàng ngày, khi làm việc, lúc không thiền định? Phải chăng mỗi người đều ít nhiều góp phần vào công việc tạo dựng hay hủy hoại sức khỏe và số phận của họ?
- Đúng thế, tất cả chúng ta đều trực tiếp ảnh hưởng đến số phận và tình trạng sức khỏe của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, tùy theo thái độ, quan niệm và cách xử sự của chính chúng ta. Các dòng tư tưởng tình cờ, không kiểm soát sẽ đem lại các hậu quả ngẫu nhiên và ảnh hưởng đến chúng ta một cách bất ngờ. Một tâm trí bình an giống như một cánh đồng màu mỡ không có cỏ dại và một tâm trí xáo động, tràn ngập các tư tưởng sai quấy thì giống như một cánh đồng mà cỏ dại mọc tràn lan.
- Thưa bà, tôi muốn dạy bệnh nhân cách tham thiền nhưng không mấy người chịu tập. Tôi kể cho họ nghe chuyện người bệnh ung thư gan đã tự chữa khỏi bệnh nhưng không mấy ai chịu tin. Tôi đưa những cuốn sách của Hans Seyle, Norman Cousins và Simonton viết về ảnh hưởng của tâm lý đối với sinh lý mà chẳng ai chịu đọc. Đa số bệnh nhân cứ than thở, trách móc về số phận không may của họ. Nếu cứ tiếp tục như thế thì làm sao bệnh trạng có thể thuyên giảm được.
- Cái đó cũng là sự thường thôi. Thói thường người ta không tin những điều giản dị mà chỉ quan tâm đến những cái phức tạp rắc rối mà mình không thể hiểu. Việc sử dụng trí óc như tham thiền, nhập định, thay đổi chính mình chứ không cần sự trợ giúp bên ngoài thì không mất tiền, không mất thì giờ, lại bị đa số người Tây phương cho là không có giá trị. Quan niệm của người Tây phương là cái gì càng đắt, càng quý, càng khó tìm, càng khó khăn thì càng giá trị. Một phần nữa, đa số được giáo dục rằng phải trông cậy vào các cơ quan y tế. Các cơ quan này phê chuẩn và hướng dẫn chúng ta trong giới hạn và kiến thức của họ. Các trường y khoa không hề dạy cho sinh viên về sức mạnh tâm linh, sức mạnh tư tưởng, hiệu quả của thiền định, ảnh hưởng của tư tưởng đối với thể xác. Họ cũng phủ nhận các quan niệm y học của người phương Đông như huyệt đạo, kinh mạch nối liền các thể, các luân xa hay trung tâm năng lực tâm linh, sự liên hệ giữa sinh lực và các hạch nội tiết hay dịch thể của xác thân, v.v. Có lẽ vì thế mà các bác sĩ y khoa thường bỏ qua những dữ kiện, bằng chứng không hợp với tiêu chuẩn hay khuôn mẫu của họ. Có lẽ họ không chấp nhận vì sợ thay đổi, sợ phải đối mặt với những yếu tố có thể phá vỡ quan niệm cố hữu của họ, sợ các bằng chứng có thể chọc thủng truyền thống khoa học như vật lý, hóa học, sinh lý học, giáo dục và cả tôn giáo nữa. Giống như một người muốn lên thang lầu nhưng cứ nắm chặt lấy lan can mà không chịu buông.
Để tôi kể cho cô nghe thêm một câu chuyện sau: Có một phụ nữ mắc bệnh suyễn rất nặng đã hơn hai mươi năm. Các bác sĩ phải dùng Adrenaline và Cortisone để làm dịu cơn bệnh mỗi khi nó bùng phát. Hai loại thuốc trên rất đắt và phải được điều trị dưới sự kiểm soát của các bác sĩ hàng tháng vì sợ phản ứng. Một bác sĩ nói rằng suyễn là một căn bệnh không thể chữa được, y học hiện đại chỉ có thể tạm thời làm dịu cơn bệnh mà thôi. Người phụ nữ trên đã trả một giá rất đắt cho công cuộc điều trị suốt mấy chục năm cho đến khi qua Ấn Độ trả 2 rupees cho một bác sĩ chữa theo phương pháp Ayruveda, một ngành y học cổ truyền đã có lịch sử hơn 5.000 năm. Phương pháp này chủ trương điều trị toàn thể con người chứ không giới hạn việc chữa trị vào một trạng thái. Chỉ hai hôm sau, bệnh suyễn đã dứt hẳn và không bao giờ tái diễn nữa. Bệnh nhân trở về Hoa Kỳ, kể cho các bác sĩ tại đây nghe thì các ông này đều cười và nói rằng họ không thể làm gì khác được, điều này hoàn toàn nằm ngoài giới hạn hiểu biết của họ. Đây là một câu chuyện có thật vì đó là trường hợp của chính tôi. Một người bạn rất thân của tôi, giám đốc một nhà xuất bản lớn cũng gặp trường hợp tương tự: Các bác sĩ đã bảo Jane rằng nếu không chịu giải phẫu não để cắt đi cái bướu trong sọ thì bà không thể sống quá ba tháng. Jane không muốn bị giải phẫu, bà tham thiền và niệm một bài chú thiêng để chữa bệnh trong suốt 21 ngày. Sau đó bà đi chụp X-quang thì thấy cái bướu đó đã xẹp hẳn xuống và theo thời gian thì mất hẳn, mặc dù có bằng chứng hiển nhiên rõ ràng như vậy nhưng các bác sĩ nhất định không tin phương pháp mà họ gọi là “vô lý” này. Họ gạt bỏ tất cả mọi dữ kiện không phù hợp với giới hạn tham khảo của họ và kết luận rằng nạn nhân chỉ gặp “may mắn” mà thôi.
Mặc dù thế, đến nay đã có bao nhà thông thái chuyên môn nhìn nhận rằng: “con người vốn có khả năng tự chữa bệnh cho chính họ” vì nguyên nhân và phương pháp điều trị đều nằm tại chính con người. Chẳng hạn, giáo sư Troskin, giám đốc trung tâm nghiên cứu về bệnh Ung thư của Nga đã chứng minh rằng lượng tế bào bạch huyết bị suy giảm khi bệnh nhân ung thư bi quan, tiêu cực hay phát ra những lời nói có tính cách giận dữ. Ngược lại, lượng bạch huyết gia tăng lên nhiều khi người ta có thái độ tích cực, thoải mái, chấp nhận. Bác sĩ Douglas Stevenson, giám đốc nghiên cứu về bệnh Ung thư của Anh cũng kết luận: “Điều mỉa mai nhất là cả nguyên nhân gây bệnh lẫn cách điều trị đều có trong chính con người”.
Một điều mỉa mai nữa là việc nghiên cứu về nguyên nhân và phương pháp chữa bệnh này rất giản dị, không đòi hỏi tiền bạc gì cả; trong khi phần đông các nhà chuyên môn cho rằng muốn tìm ra phương pháp chữa bệnh thì phải tốn kém hàng tỷ đô la với biết bao công trình thí nghiệm.
- Xin cám ơn bà đã chỉ dẫn một cách rõ ràng như vậy. Tôi hoàn toàn đồng ý về nhận xét của bà nhưng liệu có cách nào để tôi trình bày hay thuyết phục những bệnh nhân của tôi như vậy không?
- Cô có thể giải thích cho họ rằng mọi việc xảy ra trong vũ trụ đều có những nguyên nhân, không có gì có thể gọi là tình cờ ngẫu nhiên được. Tất cả những nguyên nhân đều bắt đầu từ bên trong mà ra chứ không bao giờ có việc gì xảy ra từ bên ngoài vào. Chỉ có con chó vẫy đuôi chứ không thể có cái đuôi vẫy con chó được, do đó muốn biết nguyên nhân người ta phải quay vào bên trong và chỉ có như thế người ta mới tìm được phương pháp điều trị thích hợp.

44. Kinh nghiệm tâm linh

Joe là một mục sư lớn tuổi đã thực hành thiền định trong nhiều năm. Ông nói:
- Thưa bà, cách đây tám năm tôi đã có một kinh nghiệm tâm linh thật tuyệt vời. Hôm đó đang tĩnh tâm cầu nguyện trong thánh đường xây bên cạnh bờ biển, qua cửa sổ tôi nhìn thấy biển cả bao la và nghe thấy tiếng sóng biển vỗ vào bờ. Bất chợt mọi tư tưởng của tôi ngưng lại, một luồng ánh sáng tinh khiết bỗng bao trùm lên tất cả mọi vật, tôi thấy mình lặn ngụp trong một trạng thái xuất thần, bình an và thiêng liêng.
Trong giây phút đó đầu óc tôi bỗng thông suốt và lần đầu tiên tôi ý thức được “Jesus” là gì. Từ đó đến nay ngày nào tôi cũng cố gắng ngồi tĩnh tâm và cầu nguyện như vậy, nhưng kinh nghiệm tuyệt vời đó không trở lại. Tôi không hiểu tại sao nó không đến nữa mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều?
- Thưa ông, nó không trở lại vì ông cố gắng nhiều quá. Trong khi tĩnh tâm ông đã nghĩ gì?
- Tôi nghĩ đến Thượng Đế, đến Đấng Cứu Thế, đến luồng ánh sáng tuyệt vời, đến cảm giác thoải mái khi được hòa nhập với nó, tôi mong muốn nó biết bao.
- Chính sự mong ước của ông đã ngăn chặn kinh nghiệm đó đến với ông. Bất cứ một sự mong mỏi nào cũng tạo ra yếu tố hiếu động mà thuật ngữ Yoga gọi là Rajas. Chính yếu tố này đã ngăn chặn kinh nghiệm tâm linh của ông.
- Nhưng nếu vậy thì tại sao lúc đầu luồng ánh sáng đó lại đến với tôi?
- Lần đầu tiên ông đâu có biết, ông đâu có ngờ, trí óc ông đang yên lặng, ông đang tĩnh tâm, mở rộng tâm hồn để cầu nguyện và rồi kinh nghiệm đó đến với ông.
- Xin bà giải thích thêm về các yếu tố này.
- Các sách vở về Yoga nói rằng có ba mãnh lực hay yếu tố (Gunas) điều khiển và chi phối đời sống chúng ta. Nó là “Tamas” hay Thụ động, “Rajas” hay Hiếu động và “Sattwa” hay Quân bình. Khi yếu tố Tamas chiếm ưu thế, chúng ta đâm ra lười biếng, chỉ muốn ngủ, không muốn làm gì hết, đây là yếu tố khiến chúng ta không muốn rời khỏi giường vào buổi sáng. Khi Rajas chiếm ưu thế, chúng ta chỉ muốn làm hết việc này đến việc khác, toàn thân cứ náo động như bị một cái gì thúc đẩy. Chẳng hạn khi tham thiền, chúng ta ngồi im được một lúc thì tự nhiên trong tâm chúng ta nảy sinh một ý nghĩ: “Đứng dậy đi, như thế đủ rồi”, đó chính là mãnh lực của yếu tố Rajas đang thúc giục chúng ta. Khi Sattwa chiếm ưu thế thì chúng ta thấy thoải mái, bình an và dễ dàng thiền định. Trong thiên nhiên, mãnh lực Sattwa mạnh nhất vào khoảng một giờ trước khi mặt trời mọc và lặn. Nếu biết thu xếp thời giờ để tĩnh tâm thiền định vào lúc đó thì cái sức mạnh của vũ trụ, của thiên nhiên sẽ trợ giúp chúng ta nhiều hơn. Đó cũng là lý do các thiền giả thường tham thiền vào lúc buổi sớm.
- Nhưng tôi muốn biết việc ao ước hay mong mỏi kinh nghiệm đó đến với tôi thì có điều gì sai quấy không ?
- Theo ý kiến của tôi thì nó không có gì sai quấy nhưng chỉ không ích lợi thôi. Mong cầu bất cứ một điều gì thì đều làm gia tăng mãnh lực của Rajas và làm hư hoại mục đích chính của chúng ta.
- Nhưng khi đã kinh nghiệm được một điều gì thì nó cứ thúc đẩy người ta thèm muốn thêm nữa. Ngoài ra tôi vẫn thắc mắc tại sao kinh nghiệm đó lại đến với tôi?
- Đôi khi kinh nghiệm đó đến với chúng ta để giúp cho ta có thêm lòng tin ở công việc đang làm.
- Vậy tôi phải hành động như thế nào?
- Ông không nên coi trọng nó quá, hãy coi nó như một kinh nghiệm thông thường, như diễn tiến của một hiện tượng phù du, cái gì không còn mãi thì không có thật. Mục đích của kinh nghiệm trên là một bài học cho ông về thực tại, và thực tại chỉ ở nơi người ban tặng phẩm chứ không phải tặng phẩm.
- Xin bà giải thích rõ hơn nữa, trong tương lai tôi phải nghĩ gì, làm gì trong giờ phút tĩnh tâm?
- Hãy để cho cái trí lặng yên, đừng mong cầu, ao ước, đừng hồi tưởng những gì đã qua, đừng tìm kiếm điều gì chưa đến, hãy mở rộng cõi lòng cho tình thương của Jesus đến với ông. Thông qua đó, ông có thể kinh nghiệm được điều Ngài muốn nói: “Hãy lặng yên và biết rằng ta là Thượng Đế”.

45. Thượng Đế: tự do vô biên

Alan là một kỹ sư ngoài năm mươi tuổi. Tuy là một tín đồ Thiên Chúa giáo thuần thành nhưng ông lại thích tham thiền theo phương pháp thiền định của Nhật. Suốt hai mươi năm nay, ngày nào ông cũng dậy sớm tham thiền hơn một giờ, theo ông thì đó là phần thưởng quý giá nhất trong ngày. Ông nói:
- Thưa bà, khi tham thiền tôi cảm thấy hết sức thoải mái, tôi không có cảm giác tù túng, ngột ngạt như xưa. Tự do là điều tôi vẫn mong muốn từ lâu, khi còn trẻ tôi đã tìm kiếm nó khắp nơi. Tôi đã từng chống lại các chủ thuyết hay giáo điều vì nghĩ rằng chúng giam hãm con người, tôi không thích các thành kiến hay định chế vì chúng giới hạn tư tưởng con người. Cứ như thế, tôi chống đối và bất mãn suốt thời thanh xuân. Khi bước vào tuổi trung niên thì tôi nhận thức rằng tự do thực sự là ở trong tôi chứ không phải hoàn cảnh bên ngoài. Cách đây mấy tuần, tôi kể cho linh mục hướng dẫn về các cảm giác tự do nội tại mà tôi tìm thấy khi tham thiền thì vị này nói rằng tôi đã đi trật đường rồi vì đi tìm tự do là một ảo vọng ích kỷ, thay vì tìm tự do tôi phải tìm Thượng Đế mới đúng. Theo tôi thì tự do chính là Thượng Đế nhưng vị linh mục không chấp nhận việc này. Ý kiến của bà ra sao?
- Nhiều năm trước, tôi tập lái máy bay tại một phi trường nhỏ gần Chicago. Khi thực tập với huấn luyện viên, tôi không có cảm giác gì cả cho đến lúc thực sự bay một mình. Đó là một ngày đẹp trời, gió lặng, nắng chói chang... Tôi kéo cần lái và chiếc phi cơ vọt thẳng lên trời. Tôi nghĩ thầm: “Thật tuyệt vời, tự do đây rồi, tự do đây rồi”. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, phía dưới tôi là không gian vô tận và tôi cứ thế vùng vẫy ngụp lặn trong cảm giác tự do kỳ diệu đó. Khi đáp xuống đất, huấn luyện viên xông đến mắng cho tôi một trận thậm tệ vì chưa vững tay lái đã ham biểu diễn. Chiếu theo luật thì tôi đã vi phạm những điều tối kỵ nhất của một phi công và dĩ nhiên tôi bị cảnh cáo nặng nề.
Chiều hôm đó, khi lái xe trên xa lộ ở Chicago, tôi đã thốt lên những câu nói khiếm nhã khi một kẻ lái xe khác chèn ép xe tôi để vượt lên trên. Về sau tôi tự hỏi cái cảm giác tự do đâu rồi? Tại sao lúc thì tôi thấy tự do, lúc lại không? Nếu người ta thực sự tự do thì phải có một cách gì để giữ nó bất cứ trong lúc nào, hoàn cảnh nào chứ.
Mười hai năm sau, khi được điểm đạo vào thế giới tâm linh, tôi ngồi yên lặng tham thiền bên dòng nước sông Hằng. Hôm ấy tâm tôi thật an tĩnh, không có một tư tưởng nào xâm chiếm thì bất chợt tâm thức tôi bỗng như bay vụt lên không. Tôi có cảm giác như mình đang tan biến vào một cái gì uyên nguyên rỗng lặng. Trước mắt tôi, chung quanh tôi, dưới chân tôi là một khoảng không gian vô tận, vô biên nhưng thay vì phóng vào nó, vùng vẫy trong đó thì tôi thấy mình hòa thành nó, tan biến trong nó. Cái cảm giác này khác hẳn lúc trên máy bay khi trước, khi tôi là chủ thể và sự tự do là đối tượng. Lần này tôi và sự tự do tuyệt đối là một, không còn chủ thể hay đối tượng, không còn không gian hay thời gian. Đây là sự tự do vượt ngoài sự tưởng tượng, ngoài tầm phán đoán của trí óc, một kinh nghiệm không thể diễn tả đã đem lại cho tôi một sự bình an và làm thay đổi hẳn cuộc đời của tôi. Theo kinh nghiệm riêng của tôi thì Thượng Đế chính là sự tự do vô biên và sự tự do vô biên chính là Thượng Đế.

46. Tìm một hướng đi

Kevin là một thanh niên trẻ tuổi, có khuôn mặt sáng sủa, thông minh. Anh có vẻ bối rối ngập ngừng khi bắt đầu nói nhưng sau một hồi anh lấy lại bình tĩnh và tâm sự:
- Thưa bà, tôi đã tham dự nhiều khóa hội thảo về tâm linh, đã theo học với nhiều đạo sư, nhiều truyền thống tôn giáo, đã tu thiền theo phương pháp của Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa nhưng tôi vẫn không biết mình thích hợp với phương pháp nào hay thuộc về đâu? Tôi không biết con đường tâm linh nào mới thật đúng cho tôi?
- Muốn tìm một con đường thích hợp, trước hết anh phải biết tại sao anh tìm nó? Tại sao anh cần một con đường?
- Tôi muốn tìm một con đường thật đúng đắn để theo đuổi vì cuộc đời không chỉ giản dị với những thú vui tầm thường như ăn uống, ngủ nghỉ hay làm tình. Hiện nay tôi không cảm thấy thoải mái với cuộc sống máy móc, đầy tiện nghi vật chất mà thiếu phần tâm linh này.
- Chuyển từ các hành vi máy móc, thụ động qua những hành động ý thức, chủ động là mục tiêu chính của các truyền thống tâm linh.
- Truyền thống tâm linh thì rất nhiều, các đạo sư cũng rất đông, nhưng trong cái rừng hỗn tạp đó làm sao tôi tìm được con đường tốt nhất, đúng đắn nhất?
- Các con đường không cạnh tranh với nhau như xe hơi chạy trên xa lộ. Không con đường nào hơn con đường nào và tốt hơn hết mỗi người nên tự chọn một con đường tâm linh thích hợp với bản chất của mình. Nói đúng hơn thì trước khi chúng ta lựa chọn một con đường thì con đường đã lựa chọn chúng ta rồi.
- Vậy ư? Tại sao như vậy?
- Nếu anh biết một định luật căn bản của phương Đông là “Đồng thanh tương ứng” thì anh sẽ hiểu rằng tùy mục đích mà người đi sẽ bị thu hút, lôi cuốn vào một con đường thích hợp với sự mong cầu, ao ước của họ. Nếu họ muốn chân lý một cách hời hợt trên đầu môi chót lưỡi thì họ sẽ gặp những con đường chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Nếu họ mong đợi một phép lạ nào đó thì họ sẽ gặp những con đường hứa hẹn đem lại những điều họ mong cầu, miễn là họ phải trả một giá nào đó. Tuy nhiên những con đường đúng đắn thì không hứa hẹn hay quảng cáo, và chỉ những người thật tâm hướng thượng thì mới tìm đến với những con đường này.
Tiềm ẩn nơi mỗi người trong chúng ta là một bản chất có ưu thế trội hẳn về một phương diện nào đó như sùng tín, lý luận hay trực giác. Người Ấn Độ có câu thành ngữ: “Nếu bạn thích ăn đường cát (tượng trưng cho chân lý tuyệt đối) thì bạn muốn nếm nó (taste) hay trở thành nó (become)?”. Tùy theo câu trả lời mà người ta lựa chọn con đường tâm linh để đi theo: ý muốn được nếm vị ngọt của đường là cái ý thức thương yêu, thờ phụng một chân lý tuyệt đối, hay nói một cách khác đó là con đường Sùng tín (Bhakti Yoga). Trên con đường này người ta quy phục chân lý tuyệt đối dưới hình thức một Thượng Đế cá nhân như Krishna, Shiva, Buddha, Allah, Jesus hay Ram, v.v.
Ý muốn trở thành vị ngọt, hòa nhập mình với chân lý tuyệt đối là sự tìm tòi, hiểu biết để chấm dứt các đau khổ qua việc thực hiện chân ngã hay con đường Hiểu biết (Jhanna Yoga). Ngoài ra còn một con đường thứ ba, con đường Lý luận (Raja Yoga) sử dụng trí tuệ để tìm đến chân lý.
Mục đích của cả ba con đường đều giống nhau nhưng phương pháp hay sự khác biệt giữa những con đường này ở chỗ người ta chú trọng đến phần nào trong thân thể để tập luyện mà thôi. Con đường Sùng Tín hay Bhakti Yoga đòi hỏi việc thanh lọc trái tim để phát triển tình thương rộng lớn. Con đường Lý luận hay Raja Yoga đòi hỏi việc thanh lọc bộ óc để phát triển trí tuệ. Con đường Hiểu biết hay Jhanna Yoga đòi hỏi việc phát triển khả năng trực giác để phân biệt.
- Như vậy Phật giáo thích hợp với con đường nào?
- Đức Phật phủ nhận các hình tướng bên ngoài mà đề cao sự khám phá bên trong cho đến lúc người tìm đạo nhận thức rằng mọi hình tướng vốn không có thực.
- Như vậy sự khác biệt giữa Phật giáo và Ấn giáo ra sao?
- Các tín đồ đạo Phật không tin có một Chân Ngã tuyệt đối ở đằng sau mọi vật, giáo lý của đạo Phật là “Vô Ngã”. Kinh Vệ Đà nói rằng hình thể vốn không có thực chất nhưng vẫn có tâm thức, bỏ tâm thức khỏi bất cứ cái gì thì sẽ không có gì cả bởi vì nếu không có tâm thức thì không có gì hiện hữu. Nói một cách khác Ấn giáo chủ trương “Hữu Ngã”. Chân Ngã hay tâm thức, sự hiện hữu và ân huệ là trái tim và trung tâm của mọi vật. Kinh nghiệm được điều này là mục đích của Jhanna Yoga.
- Kinh Vệ Đà hay Jhanna Yoga có liên quan gì đến sự sùng tín không?
- Tất cả mọi mục tiêu đều liên quan đến lòng sùng tín. Người theo Bhakti Yoga sùng kính một đấng Thượng Đế cao cả hữu ngã, người theo Jhanna Yoga sùng kính đức Brahaman, Chân Ngã vô ngã hay Atma Bhakti. Phật giáo sùng kính mục tiêu giải thoát khỏi vô minh hay cái ảo ảnh cho rằng mọi hình tướng vốn có thật. Phật giáo Tây Tạng sùng kính các vị thần linh nam và nữ để tập nhiễm các đức hạnh như Từ bi, Bác ái, Can đảm, Điều hòa, Mỹ lệ, An lạc mà các vị này tượng trưng.
- Thưa bà, chúng ta đã nói rất nhiều về lý thuyết nhưng tôi vẫn chưa biết cách chọn một con đường thích hợp cho riêng tôi. Liệu tôi thích hợp với con đường Sùng tín, Lý luận hay Trực giác?
- Trước đây tôi có soạn một vài câu hỏi để giúp các học trò của tôi, những câu hỏi này có thể giúp anh phần nào. Anh có khó chịu với sự ganh ghét, đố kỵ hay không?
- Dĩ nhiên, tôi rất ghét tính này và không muốn thấy tôi ganh tị với bất cứ ai.
- Anh làm sao để trừ bỏ tính xấu đó?
- Tôi đã nhủ thầm: “Tính ganh ghét chỉ là một trò trẻ con, tôi không thể thay đổi được người khác hay bắt người khác phải tuân theo ý mình được, tôi chỉ có thể thay đổi chính mình mà thôi”.
- Như vậy sự ganh ghét đó có chấm dứt không?
- Dĩ nhiên nó không chấm dứt ngay nhưng tôi đã cố gắng không chú ý gì đến người khác mà chỉ nghĩ đến mình, đến những việc tôi làm, những thành quả mà tôi đạt được hay những việc được người chung quanh tán thưởng thì sự so sánh hay ganh tỵ với người khác giảm đi rất nhiều.
- Anh đối phó với sự sợ hãi ra sao?
- Có lần tôi đi cắm trại trong rừng tại Montana, người bạn đồng hành cho biết có nhiều thú dữ đang luẩn quẩn kiếm mồi quanh đó khiến ai cũng sợ hãi nhưng tôi tự nhủ: “Cứ yên tâm đi, sợ hãi không có ích lợi gì” và một hồi sau tôi thấy thoải mái, không sợ hãi nữa.
- Nếu như vậy thì có lẽ anh thích hợp với con đường lý luận hay Raja Yoga. Một người có óc sùng tín có lẽ đã cầu nguyện Thượng Đế phù hộ, giúp họ loại bỏ niềm sợ hãi để được bình an. Một người phát triển khả năng trực giác của Jhanna Yoga sẽ sử dụng óc phân biệt để quán xét rằng: “Đó chỉ là một cảm xúc, và tôi không phải là cảm xúc đó, tôi là Chân Ngã chói sáng thấm nhuần tất cả...”.
- Nhưng nếu họ nhìn thấy một con gấu hung dữ thì sao?
- Người theo Jhanna Yoga cảm thấy sự hiện diện không hình, không tướng, không danh tánh ở khắp mọi nơi. Họ sẽ nghĩ rằng con gấu đó chỉ là một phần của Chân Ngã và thái độ này giúp họ làm chủ được chính mình, không có sự gây hấn, sợ hãi với các tạo vật khác dù đó là người hay cầm thú. Dĩ nhiên đó chỉ là cách họ kiểm soát tâm và thân để đối phó với sự sợ hãi mà thôi, còn thái độ phản ứng trước con thú dữ còn tùy thuộc vào các yếu tố khác nữa.
- Người theo con đường Raja Yoga phản ứng ra sao?
- Người theo con đường lý luận biết rằng mọi lời nói, ý nghĩ đều mang lại những cảm xúc tương ứng. Khi không muốn sợ hãi, họ thay đổi tư tưởng hay chuyển tâm bằng các thái độ trái ngược. Họ nhủ thầm: “Hãy can đảm, hãy can đảm”, hoặc đọc những câu thần chú có công hiệu nhiếp tâm như “Om”. Những câu nói này sẽ thức động nội tâm để người ta có thể đối phó một cách sáng suốt với hoàn cảnh. Tùy con đường anh chọn, anh sẽ tìm được các lời dạy bảo chi tiết và kỹ lưỡng, các bí quyết từng bước một, để vượt qua các chướng ngại.
- Nếu mục tiêu lâu dài của tôi là thực hiện Chân Ngã - ví như một cuộc chạy đua 10 dặm, thì mục tiêu ngắn hạn của tôi - ví như một cuộc chạy đua ngắn khoảng 2 dặm, sẽ ra sao?
- Hãy luôn luôn tưởng nhớ đến Chân Ngã hay Thượng Đế, vun bồi các đức hạnh và tinh thần hóa cuộc đời của anh.
- Nếu thành công, phần thưởng tinh thần của tôi là gì?
- Cái phần thưởng tối hậu cho tất cả mọi con đường đều giống nhau. Thoạt đầu chúng có vẻ cách biệt hay khác nhau trên phương diện thực hành, nhưng mục đích thì hoàn toàn không khác gì nhau. Đôi khi người ta gọi nó bằng các danh từ khác nhau nhưng khi thực hiện được Chân Ngã thì các danh từ đều trở thành vô nghĩa. Trong Bhakti Yoga, phần thưởng lớn nhất là sự hòa hợp với Thượng Đế. Đối với Jhanna Yoga thì phần thưởng là việc thoát khỏi các trói buộc của vô minh, thoát khỏi khổ đau để trở thành một với cái thực tại vô biên. Đối với truyền thống Phật giáo, phần thưởng lớn nhất là giác ngộ, đạt được tâm thức bồ đề, phá tan các ảo ảnh của vô minh, thoát khỏi luân hồi sinh tử. Một câu cầu nguyện đọc trước các bữa ăn tại Ấn Độ có thể giúp cho ta hiểu được phần thưởng của tinh thần này: “Thực phẩm là Brahman, người ăn là Brahman, diễn trình khi ăn cũng là Brahman”.
Cũng như thế, người chạy đua, mặt đất dưới chân và cuộc đua đều là Chân Ngã. Cái phần thưởng vĩ đại nhất là sự cảm nhận rằng Chân Ngã đã trở thành chủ thể đối tượng và không có gì hiện hữu ngoại trừ Chân Ngã. Khi không còn thấy mình, thấy người, thấy thế giới mà chỉ thấy tất cả đều là một thì người ta sẽ hiểu được rõ rệt cái phần thưởng tối thượng này. Nói một cách khác là làm sao đạt được cái mà Phật giáo gọi là “Tâm vô phân biệt”.

47. Người giác ngộ

Tatiana là một giáo sư dạy sinh ngữ ở Washington, cách đây mấy năm cô tham dự một lớp huấn luyện Yoga và say mê triết lý phương Đông từ đó. Cô thắc mắc:
- Thưa bà, tôi rất thích đọc sách vở về tâm linh và nhất quyết đi theo con đường này nhưng tôi thấy việc giác ngộ sao khó quá. Có biết bao điều phải làm và phải tránh, biết bao giới luật phải giữ và biết bao công phu phải hành. Tôi đã nghĩ ra một lối tắt nhanh hơn, không biết con đường này có đúng không? Để tôi kể cho bà nghe về phương pháp mà tôi đã tìm ra từ khi còn nhỏ.
Lúc bé tôi là một đứa trẻ yếu đuối, thân thể gầy còm, chậm phát triển, tính tình nhút nhát, vụng về, ăn nói ấp úng, không bao giờ dám ngửng mặt nhìn ai. Trong khi đó, anh tôi là một người to lớn, khỏe mạnh, đầy tự tin, bạo dạn. Cha mẹ tôi rất buồn bực về sự khác biệt này và thường mắng nhiếc chê bai tôi không bằng một góc của anh tôi. Khi lên tám tuổi, tôi bất mãn và nhất quyết thay đổi bằng cách quan sát kỹ lưỡng các cử chỉ, hành động của anh tôi và theo đó mà hành động: Tôi cố gắng ngửng mặt lên cao, đi đứng mạnh dạn, ăn nói thật lớn và rõ ràng, đôi khi nói như hét, như ra lệnh. Điều bất ngờ là chỉ trong vòng vài tháng, thân thể của tôi bỗng thay đổi hẳn, từ một đứa bé yếu đuối tôi bỗng lột xác trở nên bạo dạn nhất xóm. Từ đó đến nay tôi trở nên một người khỏe mạnh, tháo vát, đầy tự tin. Tôi nghĩ rằng con đường tâm linh chắc cũng như thế thôi, nếu tôi tập đi đứng, ăn nói, có các cử chỉ oai nghi như các bậc đạo sư đã giác ngộ và cứ thế tập dần dần thì có thể tôi cũng giác ngộ được như các ngài. Bà đã tiếp xúc và học đạo với các bậc đạo sư minh triết, liệu bà có thể nói cho tôi biết hình dáng, cử chỉ các ngài ra sao không?
- Này chị, một người đã giác ngộ không giống như một người có lòng tự tin đâu. Người đã thực sự giác ngộ không có dấu hiệu gì khác thường cả. Không những thế, hai người đã giác ngộ lại có thể hành động hoàn toàn không giống nhau. Đôi khi đức hạnh và cách xử thế của những người này lại dường như bí hiểm, không ai có thể biết được họ sẽ làm gì hay không làm gì. Tại sao như vậy? Vì họ đã vượt ra khỏi các giới hạn tầm thường của bản ngã, họ đã trọn vẹn phục tùng Thượng Đế. Họ không còn là nô lệ của các thói quen thông thường hay các lý lẽ phổ thông. Họ cũng không bị giới hạn bởi các ước lệ của xã hội hay các kinh điển, giáo điều. Vì họ đã hòa nhập được vào một quyền lực cao cả, do đó cách cư xử và hành động của họ cũng tùy theo cách thức mà quyền lực cao cả kia hoạt động. Người ta không thể phán đoán hay nhận xét những người đó bằng quan niệm thế tục vì đôi khi hành động của họ lại giống như một người khờ dại hoặc điên khùng. Tuy thế, tất cả những hành vi của họ không bao giờ có tính chất ích kỷ hay trái với luật nhân quả. Cuốn “The Gospel of Ski Ramakrishna” có nhắc lại một câu nói của vị này, rằng: “Khi một người đã đạt đến sự hiểu biết của đấng toàn năng Brahman thì họ có thể hành động như một đứa bé lên năm, một người khùng hay một kẻ trơ lì bất động”. Ram Das, một hiền triết xứ Ấn viết trong cuốn “God Experience” rằng dấu hiệu đặc biệt và duy nhất của những người đã chứng đắc là họ có một sức hấp dẫn mãnh liệt, có thể thu hút mọi người như đá nam châm hút sắt. Ngoài ra, tính tình hay cử chỉ của họ ra sao thì có lẽ chỉ có họ biết rõ mà thôi. Sở dĩ họ không còn lo lắng, sợ hãi hay lệ thuộc vào các giới hạn thông thường là vì họ biết rằng họ không phải là cái thể xác này, mà là một tinh thần bất tử. Các cảm giác về tội lỗi không còn ở trong họ nữa vì trong tâm khảm của họ đã dứt tuyệt các ý niệm về tội lỗi, tốt xấu, phải quấy, thiện ác hay sống chết. Trong cuốn “Self Knowlegde”, hiền triết Adi Shancharachya viết rằng: “Ân phước của người đã giải thoát thì bất biến, dù đôi khi kẻ khác thấy các ngài hành động không giống như một người bình thường, vì các ngài không sống trong dĩ vãng, không nghĩ đến tương lai mà chỉ thản nhiên trong hiện tại”. Dù các ngài sống trong xã hội như chúng ta nhưng các ngài không hề bị dao động bởi những sự kiện chung quanh. Dù bị ngược đãi bởi kẻ xấu hay được thờ phụng bởi kẻ lành, các ngài vẫn thản nhiên không bối rối vì các ngài đã vượt qua quan niệm thiện ác, thị phi, đã dứt tuyệt được cảm giác về bản ngã. Dĩ nhiên không bao giờ các ngài làm điều gì bất lợi hay không tốt lành đối với người khác. Các ngài không có cái dấu hiệu thánh thiện bề ngoài, cũng không có các ham muốn thông thường. Dù không giàu có các ngài vẫn an vui, dù sở hữu của cải thật nhiều, các ngài vẫn không lạm dụng chúng. Các ngài không để cho các giác quan bị đắm nhiễm vào các sự vật nhưng cũng không để giác quan tách ra khỏi các sự vật mà chỉ nhìn ngắm mọi sự vật một cách thản nhiên. Nói một cách khác, chỉ như khán giả xem hát, không quan tâm chi hết.
- Nhưng liệu bà có thể nói qua về hình ảnh các đạo sư mà bà đã gặp không?
- Các vị đạo sư mà tôi đã gặp đều khác nhau về diện mạo, tính tình, cử chỉ cũng như mọi người trong chúng ta vậy. Có vị hình dáng hết sức dữ tợn, ăn nói bộc trực, thẳng thắn, dường như không xót thương ai hết nhưng đó chỉ là một hình thức nhằm loại bỏ những kẻ ỷ lại bám vào ông ta. Bề ngoài thì như cọp dữ mà thật ra trong lòng ông lại hiền như chim bồ câu. Một vị khác có bề ngoài đạo mạo, hiền hòa nhưng bên trong lại hết sức dữ tợn, nghiêm khắc. Cả hai vị này đều có những quyền năng xuất chúng mặc dù rất ít khi nào các ngài sử dụng quyền năng ấy. Cả hai đều phủ nhận mọi danh hiệu mà người ta xưng tụng và không bao giờ tự nhận rằng mình có một cái gì siêu phàm khác người hay đã chứng đắc một điều gì. Tuy nhiên khi đã sống với các ngài một thời gian thì tôi lại thấy cả hai giống nhau như khuôn đúc. Nói tóm lại, trên đường tâm linh người ta không thể “Tự kỷ ám thị” hay đánh lừa mình bằng các cử chỉ bên ngoài vì bộ áo không bao giờ làm nên thầy tu. Theo ý tôi thì thật khó lòng có thể bắt chước cách xử sự bên ngoài mà đạt đến trạng thái bên trong nội tâm được.
- Như vậy tôi phải làm thế nào?
- Để tôi kể cho cô nghe một câu chuyện ngắn như sau: Một đệ tử người phương Tây đã nói với đạo sư Nisargadatta rằng dù nhận được các lời khen ngợi, khuyến khích của ngài nhưng bà vẫn cảm thấy mình không xứng đáng. Bà hỏi: “Thưa ngài, tôi phải làm gì đây? Tôi không thấy mình có những đức tính như ngài đã khen tôi, có thể ngài đúng và tôi sai nhưng làm cách nào để tôi có thể nhận thức rõ rệt về mình được?”. Đạo sư Sri Nisargadatta đáp: “Nếu một ông hoàng nghĩ rằng mình chỉ là một kẻ ăn xin thì ông ta có thể được khuyên rằng ông ta phải cư xử như một ông hoàng rồi xem mọi người phản ứng ra sao”. Điều này cũng có thể áp dụng đối với trường hợp của cô. Cô hãy hành động như thể cô là sự thức tỉnh, tinh khiết, sự an lạc vô biên, cô không phải là thể xác này, cũng không phải là thể trí mà là một cái gì không giới hạn, vượt ngoài thời gian, không gian. Cô hãy sống với nó, nghĩ về nó, chấp nhận nó và làm sao để cho tất cả mọi hành động, cử chỉ, lời nói, ý nghĩ của cô đều phản ảnh trung thực những điều Chân, Thiện, Mỹ. Nếu có thể làm như thế thì cô sẽ tiến rất xa trên đường tâm linh. Cô hãy tham thiền và suy ngẫm thật kỹ về lời khuyên bảo của các vị đạo sư đã giác ngộ như Sri Ramakrishna, rằng: “Tôi là sự thức tỉnh tinh khiết, tôi không phải là xác thân này, cũng không phải là cái trí này mà thực sự là một thực thể ở ngoài thời gian và không gian”. Hãy cố gắng thực hành như thế rồi cô sẽ thấy rằng mình thực sự vốn là một ông hoàng chứ không phải là kẻ ăn xin hèn kém.

48. Ảnh hưởng của màu sắc

Karta là một phụ nữ Đức sống theo chủ trương Thanh giáo tại Mannheim. Những người trong nhóm này chỉ ăn ngày một bữa, cùng nhau tham thiền mỗi tháng hai lần vào lúc trăng tròn và trăng lặn, và đặc biệt chỉ mặc quần áo màu xanh nhạt. Từ khi lập gia đình với một người Mỹ và theo chồng về đất nước này, cô bắt đầu thắc mắc về các quy luật, giáo điều của giáo phái này. Cô nói:
- Thưa bà, chúng ta được dạy bảo rằng người ta cần sống trong một môi trường trong sạch thanh khiết và sự trong sạch này phải bắt đầu từ chính bản thân chúng ta. Thầy tôi dạy rằng không những màu xanh nhạt làm êm dịu các rung động thuộc thể trí và thể xác của người mặc quần áo màu đó mà còn giúp cả những người nhìn thấy màu sắc đó nữa. Có người trong nhóm chúng tôi cho rằng màu xanh có thể chữa lành bệnh cho những ai mặc màu đó. Do đó chúng tôi luôn luôn mặc quần áo màu xanh nhạt. Từ khi dọn qua đây tôi thấy người Hoa Kỳ ăn mặc lung tung, quần áo đủ màu sặc sỡ, phải chăng vì ít ai hiểu rõ giá trị việc chữa bệnh bằng màu sắc này? Theo sự hiểu biết của bà thì việc này ra sao?
- Một số người phương Tây thường có thói quen phân tích mọi sự thành các phần nhỏ, lượm lặt chỗ này một ít, chỗ kia một chút, chắp nối lại, đặt ra các quy luật và đi đến kết luận dựa trên những quy luật này. Người phương Đông ít khi làm chuyện đó vì đối với họ, toàn thể là một cái gì sống động, không thể tách rời nhau được. Họ có một cái nhìn toàn diện và tổng hợp về mọi việc, mọi sự vật. Cũng giống như âm thanh, màu sắc là các năng lực rất mạnh và có những hiệu quả hết sức tinh tế và phức tạp, không dễ gì có thể giải thích trong vòng vài phút. Tuy nhiên vì cô đã đề cập đến màu xanh nên tôi cũng muốn chia sẻ với cô câu chuyện về một phụ nữ thích mặc quần áo màu xanh:
“Có một phụ nữ rất thích màu xanh da trời, từ nhỏ đến lớn bà ấy chỉ mặc quần áo màu xanh. Khi học đạo tại một tu viện Ấn Độ, vì căn phòng không có tủ đựng quần áo nên bà phải mắc một sợi dây giăng ngang phòng để treo quần áo vào đó. Mỗi sáng dậy, mở mắt ra là bà nhìn thấy các bộ quần áo màu xanh này. Một hôm, bà vừa mở mắt thì cả một biển ánh sáng màu xanh đập ngay vào mắt bà và bất ngờ bà lâm bệnh. Bụng bà đau nhói, cổ họng muốn nôn mửa, đầu thì nhức như búa bổ. Bà kết luận rằng chính màu xanh đã gây hại như vậy nên bà dọn hết chỗ quần áo này đem phân phát cho kẻ nghèo. Từ đó bà chỉ mặc toàn đồ màu trắng, không dám mặc màu xanh nữa. Có lẽ cô đang tự hỏi tại sao lại có chuyện kỳ cục như vậy? Để tôi giải thích thêm về một khoa học tối cổ của Ấn Độ gọi là Aryuveda. Đây là một khoa học về các bệnh trạng cũng như cách điều trị dựa trên cuốn Aryuveda, một cổ thư về y học của Ấn Độ đã có trên 5.000 năm nay. Theo khoa học này thì vạn vật trong vũ trụ được cấu tạo bởi năm yếu tố chính là Đất, Nước, Gió, Lửa và Dĩ Thái. Thân thể con người cũng được cấu tạo bởi năm yếu tố trên nhưng thường thì Đất và Nước đã hòa chung lại thành một tinh chất gọi là Kapha; Nước và Lửa hợp thành tinh chất gọi là Pitta, Gió và Dĩ Thái hợp thành Vatta. Từ đó thể tạng được phân loại dựa trên ba tính chất đó vì chúng chi phối và ảnh hưởng đến trạng thái tâm sinh lý của con người. Nói một cách khác, chúng ta ốm đau hay khỏe mạnh; mập mạp hay gầy còm đều tùy thuộc vào sự điều hành, vận chuyển của các tinh chất trên. Khoa Aryuveda đã giải thích rằng từ sự bài tiết, hô hấp, đến tuần hoàn và tiêu hóa, từ nhịp tim đập, cách ăn uống, ngủ nghỉ, đến các giác mô, cách nói năng, màu da, tóc khô hay mềm đều bị chi phối bởi ba yếu tố trên. Bác sĩ Vasant Lad đã đưa ra một tiêu chuẩn để xem xét tính chất con người một cách giản dị như sau: “Người thuộc tính chất Kapha dễ bị sưng mũi, sưng cuống phổi và mắc các bệnh thuộc về cơ quan hô hấp. Người thuộc tính chất Pitta dễ mắc bệnh thuộc đường tiểu, gan, mật, dạ dày hay các bệnh thuộc đường tiêu hóa. Người thuộc tính chất Vatta hay bị bệnh đau lưng, tê thấp và các chứng bệnh thuộc về bộ thần kinh. Không giống như trong y khoa phương Tây, mỗi bệnh trạng đều có một số phương pháp điều trị hay các toa thuốc giống nhau, người y sĩ theo khoa Aryuveda trước hết phải quan sát thể tạng của từng bệnh nhân và chữa trị tùy theo phản ứng của thể tạng này đối với phương pháp điều trị. Một bệnh nhân bị ung thư thuộc thể tạng Pitta sẽ được điều trị bằng một phương pháp khác hẳn bệnh nhân ung thư thuộc thể tạng Kapha. Phương pháp cổ truyền này chủ trương rằng vì mỗi cơ thể con người đều khác nhau, cái gì tốt cho một người không có nghĩa là tốt cho một người khác nên không thể áp dụng một phương pháp chữa trị chung được.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với câu hỏi đầu tiên của cô về màu sắc. Như cô biết, sức nóng là đặc tính của màu đỏ, lạnh là đặc tính của màu xanh. Lạnh đồng thời cũng là đặc tính của thể chất Kapha. Một người thể chất Kapha mà mặc màu xanh thì tính lạnh sẽ gia tăng và ảnh hưởng đến sức khỏe của họ. Khi tính chất này tập nhiễm quá lâu trong cơ thể một người, nó có thể gây nên bệnh. Đó là trường hợp của người phụ nữ thích mặc đồ màu xanh mà tôi đã kể ở trên. Tóm lại, màu sắc có ảnh hưởng đến tình trạng sức khỏe nhưng còn tùy thể trạng từng người hợp với màu sắc nào chứ không phải chỉ có màu xanh là tốt và các màu sắc khác là xấu như cô đã được dạy bảo.
- Nhưng biết đâu phản ứng của người phụ nữ mà bà vừa kể chỉ có tính chất tạm thời mà thôi, có bằng chứng gì rằng bà ta không hợp với màu xanh?
- Tại vì người phụ nữ đó chính là tôi. Mặc dù chuyện này đã xảy ra hơn hai mươi năm nhưng đến nay tôi vẫn không bao giờ mặc quần áo màu xanh nữa.

49. Hậu quả của ma túy

Larry xuất thân trong một gia đình khá giả, năm 16 tuổi đã theo bạn bè sử dụng ma túy rồi đi vào con đường trộm cắp để kiếm tiền mua ma túy. Bị gia đình từ bỏ, Larry sống một cuộc đời vô gia cư, vô nghề nghiệp, ngủ đầu đường xó chợ, ăn uống tại các hội quán từ thiện dành cho kẻ không nhà. Thỉnh thoảng anh cũng kiếm được vài việc vặt như chất hàng lên xe vận tải, cắt cỏ, xúc tuyết nhưng được bao nhiêu tiền lại đổ vào ma túy hết cho đến khi gặp một tu sĩ. Anh nói:
- Vị tu sĩ này đã cảm hóa được tôi, ông cho tôi một tình thương mà từ trước đến nay chưa hề ai cho tôi, kể cả cha mẹ của tôi. Không những ông giúp tôi lấy lại sự tự tin mà còn chỉ dẫn cho tôi một phương pháp tham thiền để tìm sự bình an trong tâm hồn. Hơn một năm nay tôi không dùng ma túy mà vẫn thoải mái. Thời gian gần đây vị tu sĩ này giao cho tôi một công việc: Đi tìm những thanh niên nghiện ma túy để giúp đỡ họ như ông đã từng giúp tôi. Việc tìm kiếm những người này không khó gì nhưng thuyết phục họ từ bỏ ma túy, dạy tham thiền để họ có thể thay thế các thói quen xấu bằng một thói quen tốt thì khó hơn nhiều. Vì đã thực hành thiền định nên tôi có thể chỉ dạy cho họ cách ngồi, cách hít thở, cách quán niệm hơi thở, nhưng tôi chưa nắm vững lý thuyết và mục đích của thiền định. Nhiều thanh niên đặt câu hỏi mà tôi không biết phải trả lời hay giải thích thế nào. Hôm nay tôi tìm đến đây để nhờ bà chỉ dẫn cho tôi xem rượu và ma túy đã làm hại chúng ta như thế nào? Tôi đã nghe những lý thuyết cũng như lời dọa dẫm mà các bác sĩ, chuyên viên y tế vẫn giải thích, nhưng điều này không giúp được ai, tất cả những kẻ nghiện đều ít nhiều nghe chán lỗ tai cả rồi. Tôi muốn biết tại sao thiền định có thể giúp người ta từ bỏ ma túy một cách dễ dàng thoải mái? Tuy đã trải nghiệm điều này nhưng tôi vẫn không biết rõ tại sao. Liệu có cách nào giải thích một cách giản dị và hợp lý không?
- Trước hết anh có thể giải thích cho những người nghiện ma túy biết rằng chính nơi họ có đầy đủ tất cả những thứ mà họ muốn mà không phải tìm ở đâu xa hay phải trả một giá nào cả... Nếu muốn trải nghiệm cảm giác sung sướng, thoải mái, bình an, tự do thì họ có thể có ngay mà không cần phải sử dụng ma túy. Họ cũng cần biết rằng thể xác và thể trí của họ thì giới hạn nhưng Chân Ngã thì không. Chân Ngã mới thực sự là họ. Lý do họ cần tham thiền là để biết và trải nghiệm được điều này. Khi họ đã đạt được mối liên hệ với sự an lạc thực sự đó thì họ sẽ hiểu điều anh muốn diễn tả. Anh có thể đọc cho họ nghe vài đoạn trong cuốn sách “On Having No Head” của Douglas Harding diễn tả rành rẽ cái kinh nghiệm tâm linh này. Một khi biết được mục đích hay nơi chốn để đến một cách rõ rệt thì người ta sẽ tự động tiến bước đến đó.
- Nhưng ma túy hay rượu ảnh hưởng đến cơ thể con người ra sao? Tại sao thực tập thiền định có thể giúp người ta từ bỏ các cám dỗ này?
- Khoa Yoga dạy rằng có ba Thể (body) bao quanh Chân Ngã của chúng ta ví như ba bộ quần áo khoác bên ngoài. Thể ngoài cùng được cấu tạo bởi các vật chất thô kệch thường gọi là thể Xác. Thể Vía có hình dạng giống như thể Xác nhưng được cấu tạo bởi các vật chất thanh và nhẹ hơn, nó là cây cầu liên lạc giữa thể Xác và thể Trí. Chính cái thể Trí này đã làm chúng ta cảm nhận các ảo giác của ma túy hay rượu.
Mỗi thể đều có các giác quan riêng nhưng chúng ta chỉ có thể sử dụng các giác quan thuộc về thể Xác mà thôi. Các giác quan của thể Vía và Trí tuy hiện hữu nhưng vì không biết cách phát triển nên chúng ta không sử dụng được chúng. Trong thân thể con người có một số trung tâm của tâm thức mà thuật ngữ Yoga thường gọi là Luân Xa (Chakras), đó là nơi chứa đựng các tiềm năng thiêng liêng sẵn có của con người. Hầu hết những Luân Xa này đều khép chặt hoặc hé mở một phần nào tùy theo trình độ tâm thức của người đó. Khai mở những Luân Xa là mục đích của một số phương pháp tập luyện làm chủ tinh thần. Khi các Luân Xa được khai mở thì người ta có thể phát động các quyền năng đặc biệt hay các giác quan hết sức tinh vi của các thể kia. Có bảy Luân Xa quan trọng liên hệ trực tiếp với các hạch của thể xác. Vị trí các Luân Xa này nằm ở đốt xương sống cuối cùng, quanh cơ quan sinh dục, phía dưới rốn, giữa ngực, trên cổ, giữa trán và đỉnh đầu. Các Luân Xa đều có hình thù giống như một đóa hoa sen, mỗi cái có một số cánh khác nhau, Luân Xa ở cuối đốt xương sống có bốn cánh, Luân Xa ở rốn thì có mười cánh, v.v. Bình thường các Luân Xa đều khép chặt, các cánh hoa úp xuống. Sức mạnh tâm linh thường phát hiện dưới hình thức một luồng hỏa hầu gọi là Kundalini. Khi biết cách làm chủ tinh thần và thể xác thì luồng hỏa hầu này khai mở và di chuyển qua các Luân Xa, thức động nó, ví như nước tưới lên một bông hoa khô héo khiến nó nở ra. Khi Luân Xa được khai mở, các quyền lực hay giác quan tương ứng cũng được khai mở theo và người ta có thể sử dụng các quyền năng đặc biệt như biết trước được một số điều quá khứ, vị lai, hay đọc được tư tưởng của người khác, v.v. Vì luồng hỏa hầu bắt đầu phát động ở cuối xương sống và đi ngược lên phía trên nên các Luân Xa ở dưới thấp thường được khai mở trước, các Luân Xa này giúp người ta nhìn thấy một số điều mà thuật ngữ huyền học thường gọi là Linh Ảnh (Vision). Sự tương ứng giữa các Luân Xa và các quyền năng đặc biệt được đề cập hết sức rõ ràng trong cuốn “The Chakras” của tác giả C. W. Leadbeater. Khi luồng hỏa hầu đi đến Luân Xa trên đỉnh đầu hay trung tâm tối hậu thì hành giả hoàn toàn vượt ra khỏi sự kiểm soát của thể Xác, Vía hay Trí và mọi giới hạn của thời gian hay không gian. Họ sẽ nhận thức được sự bình an vĩnh cửu của một trạng thái siêu thức không bút mực nào có thể tả xiết.
Rượu, ma túy cùng các chất kích thích có tác động phá hoại các Luân Xa này khiến chúng chuyển động lệch lạc rồi cụp xuống, ngăn chặn các mãnh lực tinh thần. Khi các cành hoa chuyển động, người ta có thể trở nên ngây ngất trong một thoáng giây, khi các giác quan của thể Vía hay thể Trí được kích động một cách ngắn ngủi thì người ta có thể nhìn thấy một vài hình ảnh mơ hồ, màu sắc lạ lùng hay chìm đắm vào một thế giới huyền ảo mông lung do sự chuyển động của các mãnh lực kỳ bí này. Trong giây phút đó người ta quên hết mọi thứ, không còn kiểm soát hay ý thức gì nữa. Dĩ nhiên điều này hết sức tai hại vì khi các Luân Xa bị hư hại thì hậu quả của nó thật không biết đâu mà lường, và con người không tiến mà lại bước lùi trên con đường tiến bộ tâm linh.
- Tôi đã nghe nói về các Luân Xa này, tôi tin rằng điều bà nói rất có lý nhưng làm sao tôi có thể khuyên bảo thanh niên về những điều mà họ không thể nhìn thấy được?
- Chỉ có kinh nghiệm mới thuyết phục được họ mà thôi. Anh có thể đưa cho họ xem một số tài liệu nói về các thể. Cách đây ít lâu, người ta đã chứng minh được sự hiện diện của thể Vía qua một phương pháp gọi là “Kirlian Photography”, người ta chụp hình được các luồng ánh sáng liên hệ với các năng lực điện khí của cái thể này, nó có hình dáng giống như thể Xác nhưng nhô ra ngoài vài tấc. Anh có thể tìm các tài liệu này trong mọi thư viện. Anh cũng có thể tìm các sách vở nói về các Luân Xa như cuốn The Chakras của C. W. Leadbeater cho những thanh niên nghiện ma túy xem và giải thích thêm cho họ về nguyên nhân các ảo giác mà họ cảm thấy khi say sưa.
- Nếu có được tài liệu đó thì tôi nghĩ các thanh niên này sẽ bị hấp dẫn ngay. Nhưng nếu đã có các chứng cớ rõ rệt như vậy tại sao không mấy ai chịu chấp nhận sự thật đó?
- Không mấy người can đảm nhìn thẳng vào sự thật vì điều này sẽ phá tan các ảo vọng mà họ vẫn hằng ấp ủ. Nếu mọi người đều biết nhìn thẳng vào sự thật như nó vốn có và chấp nhận rằng từ bao lâu nay họ đang say ngủ thì phong trào sử dụng ma túy sẽ đương nhiên sụp đổ. Cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn bởi việc biểu lộ Chân Ngã sẽ trở thành một ưu tiên cao đẹp của con người chứ không phải là việc tìm kiếm hay tích lũy tài sản vật chất. Nhìn vào hiện tượng thanh thiếu niên sử dụng cần sa, ma túy, rượu chè ngày nay thì chúng ta rút được kinh nghiệm gì? Phải chăng họ khao khát một cái gì đó nhưng không biết tìm ở đâu? Phải chăng họ đã chán ngán với đời sống giả tạo, những quay cuồng vật chất, những áp lực xã hội, gia đình và hoàn cảnh chung quanh? Họ muốn tìm một lối thoát nhưng thay vì ý thức và làm chủ hành động, tư tưởng của chính họ thì họ lại tìm quên qua những chất kích thích. Công việc anh đang làm hiện nay rất quan trọng, anh đang hướng dẫn những người lầm đường lạc lối ra khỏi vũng lầy đen tối. Anh đang chỉ dẫn cho họ cách trở về với nội tâm và đó chính là điều mà tất cả mọi người chúng ta đều mong muốn. Bao lâu nay người ta đã đi tìm ở bên ngoài và hậu quả là cả một xã hội hoang mang phiêu bạt, đầy bất an với những khủng hoảng từ trong ra ngoài. Chỉ có quay vào bên trong người ta mới thực sự tìm ra lối thoát cho những khó khăn hiện tại.



No comments:

Post a Comment