Minh
triết trong đời sống
Darshani Deane - dịch Nguyên Phong
Mục lục :
50. Cảm nhận Thượng Đế
Clinton là giáo sư Anh ngữ tại một trường
đại học danh tiếng. Ông nói:
- Tôi là tín đồ Thiên Chúa giáo nhưng rất
thích triết lý phương Đông, nhất là triết lý Vệ Đà. Dung hòa được cả hai quan
niệm này không dễ chút nào. Tôi có một thắc mắc căn bản không biết có nên nói
ra không ?
- Xin ông cứ nói.
- Thưa bà, cả Vệ Đà lẫn Thiên Chúa giáo
đều khuyên con người nên cảm nhận Thượng Đế xuyên qua mọi danh tánh và hình tướng.
Điều này là thế nào? Người ta có thể cảm nhận Ngài ở cõi đời này bằng cách nào?
Nếu muốn thực tập thì phải làm sao?
- Trong cuốn giáo lý bí truyền
Philokalia, các linh mục thuộc dòng tu kín đã khuyên không nên giới hạn sự cảm
nhận Thượng Đế vào các vật hữu hình mà giác quan có thể nhận thức, mà còn phải
sử dụng tâm thức để tìm ra tinh hoa của Ngài trong mọi tạo vật nữa.
- Sử dụng tâm thức như thế nào?
- Hãy lấy một thí dụ đơn giản: ông nhìn
thấy tôi đứng trước mặt ông. Nếu ông biết cách rút tâm thức ra khỏi giới hạn của
thị giác, mắt ông vẫn thấy tôi đang đứng trước mặt ông nhưng tâm thức của ông
không còn đồng hóa với cặp mắt của ông nữa, nó suy nghiệm rằng cặp mắt chỉ là vật
chất. Cái đang giúp ông nhận thức không phải là cặp mắt mà là một sự thông
minh, một tâm thức, hiện làm chủ cặp mắt linh hoạt đó. Nói một cách khác, ông
hãy tự hỏi ai đang nhận biết điều này, chắc chắn không phải cặp mắt rồi phải
không? Cặp mắt chỉ giúp ông nhìn thấy một hình ảnh nhưng chính cái tâm thức ở
phía sau đó nữa mới giúp ông cảm nhận được sự việc đang xảy ra giữa ông và tôi.
Nếu cái tâm thức đó yên tĩnh, bình an, nó sẽ giúp ông cảm nhận được thêm nhiều
điều mà cặp mắt không thể “nhìn” được. Việc này không phải là sự tác động giữa
ông và tôi mà chính là tâm thức cảm nhận được nó trong các hình thức khách
quan. Suy ngẫm về điều này có thể giúp ông tìm được điều ông mong muốn.
- Tuy thế tôi vẫn thấy có sự khác biệt
giữa giáo lý Vệ Đà và Thiên Chúa giáo về việc cảm nhận Thượng Đế ở thế gian. Bà
có thể giải thích thêm về điều này không?
- Sự sáng tạo (Creation) là cốt tủy của
Thiên Chúa giáo, theo tôn giáo này thì tinh hoa của Thượng Đế chính là nòng cốt
của con người chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta đều là những thực thể riêng biệt,
các tác nhân độc lập của hành động, tư tưởng. Do đó tín đồ Thiên Chúa giáo cảm
nhận Thượng Đế ở “trong” (In) mọi danh tánh, hình tướng.
Sự thể hiện (Manifestation) là trung tâm
của giáo lý Vệ Đà. Theo triết lý này thì toàn thể vũ trụ đều là sự thể hiện của
Thượng Đế hay Tâm thức thiêng liêng. Do đó tín đồ Ấn giáo cảm nhận Thượng Đế
“như là” (As) mọi danh tánh, hình tướng.
Tóm lại, sự khác biệt giữa hai tôn giáo
về việc cảm nhận Thượng Đế chỉ nằm trong phạm trù ngữ pháp hay giới từ
(Preposition) mà thôi: một bên cảm nhận Ngài “ở trong” (In) và một bên cảm nhận
Ngài “như là” (As). Là giáo sư chuyên môn về Anh ngữ, chắc chắn ông phải phân
biệt được điều này.
51. Chấp nhận
Phil và Brenda đã sống trong căn nhà
hương hỏa hơn hai mươi năm nay. Trong nhà có rất nhiều đồ trang trí và tranh sơn
dầu mà cha mẹ của Phil đã sưu tầm được. Khi vợ chồng Phil đi nghỉ mát tại
Florida, kẻ trộm đã vào lấy mất những thứ đó. Sự mất mát khiến Phil buồn phiền
đau ốm. Anh than:
- Ngoài thiệt hại vật chất, tôi còn bị
thương tổn tinh thần nữa. Đó là những đồ kỷ niệm mà cha mẹ tôi đã tốn công sưu
tầm trong nhiều năm, không thể thay thế được. Hiện nay tôi bị chứng loét bao tử.
Bác sĩ khuyên tôi phải biết chấp nhận việc không may đó và tìm cách quên nó đi
nhưng tôi không sao quên được. Có cách nào để tôi chấp nhận mất mát lớn lao này
không?
- Chấp nhận có nghĩa là từ bỏ cái ý thức
rằng mọi người đều là những tác nhân hành động độc lập. Vũ trụ là một tấn tuồng
của tâm thức với được, thua, còn, mất, nay thế này, mai lại thế khác, không gì
mãi mãi trường tồn mà hằng chuyển biến dịch. Khi nào nắm vững nguyên lý này thì
bạn có thể chấp nhận mọi sự được.
- Làm sao chỉ nắm vững nguyên lý đó mà
tôi có thể chấp nhận mọi sự được?
- Khi đã hiểu biết rõ quy luật về sự vô
thường thì bạn sẽ thấy mọi sự trên đời đều xảy ra với một lý do rõ rệt nào đó
mà bạn chưa ý thức được đấy thôi. Bạn không còn phải chiến đấu với đời sống khi
biết rằng mãnh lực của vũ trụ ở sau mọi sự việc đã điều động tất cả chứ không
phải do một cá nhân.
- Nhưng tại sao người ta có thể chấp nhận
mà không cảm thấy chua xót, khó chịu?
- Điều này đòi hỏi sự hiểu biết về các định
luật của vũ trụ. Hàng ngày bạn vẫn làm những việc cần làm nhưng đừng bao giờ
nghĩ rằng Phil hay Brenda đã tạo ra sự việc đó.
- Nhưng mọi người đều làm việc một cách
khác nhau.
- Không đâu, chúng ta đều là những cái
khoen nhỏ trong một sợi xích lớn, là các tế bào trong một thân thể. Hình thể vũ
trụ là sự tập hợp của tất cả những hình thức cá nhân. Tâm trí của vũ trụ chính
là sự tổng hợp tất cả tâm trí mọi cá nhân. Ví dụ bạn đang ngồi thoải mái mà bị
tê chân thì toàn thân bạn sẽ khó chịu ngay. Hiển nhiên bạn sẽ phải duỗi chân
ra, cử động cho bớt tê chân. Sự thúc đẩy của vũ trụ trong mọi người chúng ta
cũng đều như vậy. Chúng ta đã sai lầm rất lớn khi cho rằng mình là kẻ nắm quyền.
- Nhưng nếu như vậy thì con người chỉ thụ
động thôi sao?
- Không đâu, chấp nhận là chìa khóa của
sự chuyển hóa. Con người cần biết rằng họ chỉ có thể làm hết sức mình chứ không
thể kiểm soát được kết quả.
- Nếu chúng tôi biết chấp nhận thì sẽ phản
ứng ra sao?
- Bạn sẽ phản ứng rất ít, hoặc sẽ không
phản ứng trước sự mất trộm vì bạn biết rằng sự mất mát đó có mục đích riêng của
nó vì không việc gì xảy ra mà không có lý do. Có thể đó là bài học dạy bạn phải
cẩn thận hơn, phải biết đề phòng, hay không nên gắn bó vào bất cứ thứ gì bên
ngoài. Để tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện sau: Có một cặp vợ chồng già đã
ngoài tám mươi, Sal và Judith, thường đi dạo trong công viên gần nhà. Một hôm
đang đi thì họ bị một kẻ bất lương xông đến cướp sợi dây chuyền vàng mà Judith
đeo trên cổ. Sal là người bình tĩnh, ông tin ở Thánh Kinh và biết rằng không có
điều gì xảy ra ngoài ý Chúa, kể cả những việc bất ngờ như bị cướp giật. Tuy
nhiên vì phản ứng tự nhiên ông vẫn đuổi theo tên cướp nhưng khi đến gần hắn,
ông chỉ thấy Thượng Đế đang ngự ở trong kẻ trộm. Ông biết rằng mình không thể
thay đổi vở kịch của Ngài nên ông quát lớn:
- Này anh kia, sợi dây chuyền đó đáng
giá 2.000 đô la, anh chớ bán nó kém một xu đấy nhé!
52. “Tôi là Ngài”
Stella là người có tâm hồn hướng thượng
và đang cố gắng học hỏi các truyền thống tâm linh. Bà nói:
- Cách đây ít lâu, trên truyền hình có một
giáo sĩ đã giảng câu chú “Tôi là” (I am) và khuyên mọi người thực hành nó. Tôi
thích câu này lắm vì nó bao hàm ý nghĩa cao siêu rằng Thượng Đế ngự ở trong
tôi, và “Tôi chính là Ngài”. Tôi đã đọc đi đọc lại câu này nhiều lần nhưng
không biết nó có giúp gì cho tôi không?
- Trước hết xin hỏi bà chữ “Tôi” ở đây
có nghĩa là gì?
- Là tất cả mọi thứ, cá nhân tôi, tính
tình tôi, xác thân tôi, tâm hồn tôi, các thói quen của tôi, lòng ham muốn của
tôi, sự liên hệ của tôi, và tất cả mọi thứ khác nữa.
- Vậy ư? Nếu thế có lẽ câu chú đó chẳng
giúp gì cho bà được đâu.
- Tại sao?
- Tại vì câu chú đó không ngụ ý rằng
“Stella là Thượng Đế”, vì dĩ nhiên bà không phải Thượng Đế hay Thượng Đế không
phải là “Cái tôi” của Stella. Nếu ý thức rằng bà chính là hiện tại, một hiện tại
vượt khỏi thời gian, không gian, vượt khỏi các thân xác, trí óc hằng thay đổi,
một hiện tại đầy yên tĩnh, bình an, thì câu chú đó có thể đúng. Tuy nhiên vì bà
không ý thức như vậy nên không thể áp dụng câu chú đó được.
- Tôi nghe nói rằng tất cả mọi thứ đều
là “Ngài” kia mà.
- Đúng vậy, nhưng nghe nói vậy không có
nghĩa chúng ta có thể nhảy vọt một bước đã lên tột đỉnh mà phải lần lượt leo từng
bước lên đỉnh. Trên đường đạo, chúng ta cần biết cởi bỏ, cần biết phủ nhận những
gì không thật, phủ nhận mọi hiện tượng hằng thay đổi để ra khỏi vòng phân biệt
nhị nguyên. Từ đó chúng ta sẽ dần dần lên nấc thang của sự thức tỉnh thanh khiết
để hòa nhập với Đấng Vô Cùng. Đây là một kinh nghiệm chứ không phải ý thức mơ hồ
hay một lý thuyết suông. Dĩ nhiên người ta có thể tự đánh lừa mình rằng họ là sự
bình an, là sự thanh khiết, và có thể hòa nhập với Ngài, nhưng điều này chẳng
giúp gì cho người đó cả vì họ vẫn ở trong vòng luẩn quẩn của tâm thức phân biệt.
- Nếu vậy tôi phải làm gì?
- Thay vì tự nhận rằng mình là cái này,
cái kia thì bà phải biết cách cởi bỏ những thứ đó và nói rằng tôi không phải là
cái này, hay không phải là cái kia (neti, neti). Thay vì xác nhận thì bà phải
biết cách phủ nhận. Khi bà đã cởi được những ràng buộc phù phiếm, giả tạo của bản
ngã, những cái gì không thật, thì bà mới thấy rằng cái thực tại cuối cùng, cái
tinh hoa vẫn tiềm ẩn ở trong mọi cái mà bà muốn tìm kiếm. Nếu bà tự coi mình là
một cá nhân riêng biệt, hằng thay đổi, bà đã lệ thuộc vào sự trói buộc của bản
ngã, vào những ảo ảnh của một thực thể tự trị thì câu chú đó không thể giúp bà
được.
- Nếu vậy những người thực hành câu chú
này đều sai lầm hết hay sao?
- Không hẳn thế. Tùy tâm trạng, tùy quan
niệm về bản ngã của họ mà câu chú có thể giúp họ hay không. Người ta không thể
áp dụng một công thức chung được.
- Như vậy chữ “Tôi” trong câu “Tôi đói,
tôi khát”, và chữ “Tôi” trong câu “Tôi là Ngài” (I am) khác nhau thế nào?
- Khi chúng ta nói “Tôi khát”, “Tôi đói”,
“Tôi thích”, “Tôi ghét”, chúng ta đồng hóa tinh hoa của chúng ta với các cảm
giác của xác thân hay ham muốn của trí não. Chính cái “Tôi” bị đồng hóa này là
trở ngại cho chúng ta. Trong khi đó, chữ “Tôi” trong câu chú “Tôi là Ngài” ngụ
ý một điều cao thượng, không bị đồng hóa và đó chính là mục tiêu của việc thực
hành câu chú đó.
53. Mẫu số chung
Hans làm việc cho một cơ quan hòa giải,
có trách nhiệm dàn xếp tranh chấp giữa các cá nhân, đoàn thể hoặc nghiệp đoàn.
Anh nói:
- Tôi đã làm việc khắp nơi, từ các cơ
quan hành chính như quận hạt, đến các hội đồng tỉnh và nghiệp đoàn quốc gia. Hầu
hết các cuộc tranh chấp dù gay go đến đâu rồi cũng được dàn xếp ổn thỏa. Tuy
nhiên tôi thấy nó chỉ có tính chất tạm thời, như băng bó một vết thương chứ
không trị tuyệt căn. Tôi muốn tìm hiểu thêm về con đường tâm linh để xem nó có
thể mang lại một phương cách nào khác hơn các giải pháp thế tục không?
- Trước hết tôi muốn nhấn mạnh rằng con
đường tâm linh không hề xa lánh thế tục, nó giống như mặt trời và những tia
sáng của nó thôi. Tâm linh và thế tục, tinh thần và vật chất, dường như hai mà
chính ra vẫn là một. Vì mọi người không nghĩ như vậy nên mới sinh ra sự phân biệt.
Xin cho biết anh thường dàn xếp các buổi hòa giải như thế nào?
- Cái đó cũng tùy hoàn cảnh. Tuần trước
tôi được cử đi dàn xếp một vụ tranh chấp phe nhóm trong một trung tâm cao niên.
Tôi mời tất cả mọi người trong trung tâm tham dự buổi họp. Thoạt đầu tôi kể một
câu chuyện khôi hài để mọi người cười cho vui, rồi yêu cầu hai người không liên
quan gì đến việc tranh chấp kể lại những rắc rối đã xảy ra. Đây chỉ là hình thức
ôn lại sự kiện một cách trung thực, sau đó tôi mời đại diện hai phe nói về quan
niệm của họ, tuy nhiên trong khi phe này nói thì phe kia phải giữ yên lặng. Lý
do chính là làm sao giúp những người trong hai phe nhóm hiểu rõ các quan niệm
trái ngược với quan niệm của họ.
- Hay lắm, tôi rất thích việc sử dụng
các câu chuyện khôi hài lúc khởi đầu của anh. Cười là một liều thuốc bổ giúp
người ta thoải mái hơn. Đối với tôi, phe nhóm, đoàn thể nào cũng chỉ là sự kết
hợp của những cá nhân trong đó. Giống như sợi dây đeo cổ bằng hạt trai là sự kết
hợp của nhiều hạt trai với nhau. Khi các hạt trai đứng yên thì cả sợi dây cũng
lặng yên. Muốn hòa giải một việc, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, chúng ta cũng nên bắt
đầu từ cá nhân. Hầu hết mọi sự xung đột đều bắt nguồn từ các quan niệm khác
nhau hay các vấn đề thuộc phạm vi lý trí. Do đó điều chính yếu là vạch ra cho mọi
người thấy rõ lý trí chính là nguyên nhân của sự xung đột và người ta không thể
giải quyết nó bằng một lý luận của lý trí khác. Nếu không nắm vững yếu tố này
thì mọi giải pháp chỉ có tính chất tạm thời mà thôi. Lý trí là nguyên nhân của
sự chia rẽ, phân hóa, cao thấp, được thua, còn mất, phán xét và giới hạn. Muốn
giải quyết căn nguyên vấn đề, người ta cần vượt lên phạm vi lý trí hay các quan
niệm phân biệt kể trên.
- Thưa bà, làm sao có thể vượt khỏi phạm
vi của lý trí trong sự xung đột phe nhóm khi các đơn vị trong đó thuộc các
thành phần hỗn hợp khác nhau?
- Đó không phải là vấn đề quan trọng.
Tôi coi đó như một phân số mà thôi. Khi còn đi học chúng ta thường cộng các
phân số bằng cách tìm ra một mẫu số chung...
- À phải rồi, chúng tôi cũng thường áp dụng
phương pháp tìm một mẫu số chung, tìm một điều gì mà cả hai phe đều đồng ý,
khai triển rộng ra, để từ đó đi đến sự hòa giải.
- Đúng vậy, nhưng tôi tin rằng cái mẫu số
chung mà anh nói đến vẫn thuộc phạm vi lý trí. Trong khi điều tôi muốn nói là
cái mẫu số chung của sự tồn tại (Being) – sợi dây liên kết tất cả mọi người
chúng ta với nhau.
- Nhưng làm sao tìm được điều này, thưa
bà?
- Chúng ta không cần phải tìm đâu xa, vì
lúc nào nó cũng có sẵn: Chính chúng ta là cái mẫu số chung đó. Giống như mặt trời
bị mây che phủ, mẫu số chung của chúng ta bị che phủ bởi các quan niệm thù hận,
chia rẽ, phe phái, hơn thua, và ý niệm về bản ngã.
- Như vậy phải bắt đầu như thế nào?
- Trước hết anh hãy bắt đầu bằng sự thư
giãn cho thoải mái. Hầu hết mọi người khi tham dự các cuộc hòa giải như vậy đều
căng thẳng. Khi thân thể căng thẳng thì từ thể xác đến tinh thần của họ đều ở
trong trạng thái cứng nhắc, cứng đến nỗi không thể chìa tay cho người khác bắt
được nữa. Do đó sự thư giãn, thoải mái là ưu tiên số một trong mọi cuộc hòa giải.
Anh có thể yêu cầu họ ngồi yên lặng một lúc cho thoải mái, hoặc vươn vai, duỗi
chân cho bớt căng thẳng. Khi người ta đã thoải mái, họ sẽ cởi mở hơn. Khái niệm
“Cởi mở” (Open) này rất hay, duỗi tay chân làm máu huyết lưu thông khiến ta thấy
dễ chịu thoải mái. Từ đó trong tư tưởng sẽ có những “chỗ trống” (Space) và
chính những “chỗ trống” này sẽ làm giảm bớt các thành kiến sẵn có, giúp họ có
thể thu nhận được các ý kiến khác lạ. Sự thoải mái, cởi mở chính là đầu mối để
giải quyết mọi xung đột...
- Thưa bà, tôi không hiểu tại sao sự thư
giãn có thể thay đổi được gì? Liệu phương pháp của bà có khác phương pháp mà
tôi đang áp dụng không?
- Thứ nhất phương pháp anh thường áp dụng
chỉ là một cách giải quyết bằng lý trí, qua sự sắp đặt các lý lẽ một cách khéo
léo. Nó tùy thuộc vào khả năng ăn nói, thuyết phục người khác theo những lý luận
anh đã được tính toán từ trước. Tuy nó đưa đến sự thỏa hiệp nhưng sự chấp nhận
này chỉ có tính chất tạm thời. Trong thâm tâm những người thuộc hai phe vẫn còn
nguyên cái thành kiến xưa, cái mầm mống chia rẽ, cái quan niệm hận thù đã gây
nên sự tranh chấp. Có thể họ chấp nhận sự dàn xếp của anh trong giai đoạn đó vì
họ không thể làm gì khác hơn, nhưng rồi việc tranh chấp sẽ tiếp diễn vì nguyên
nhân thật sự vẫn còn. Bây giờ hãy trở lại với việc thư giãn, nếu giải thích một
cách khoa học thì khi thư giãn, các sóng điện từ trong não đang từ mức độ Beta
sẽ giảm xuống Alpha. (Điện não đồ ghi nhận sự rung động từ 14 - 22 chu kỳ/giây
xuống chỉ còn 4 - 14 chu kỳ/giây). Trạng thái Alpha là lúc chúng ta đi làm về đến
nhà, thay quần áo, vặn nhạc, nghỉ ngơi. Khoa học đã chứng minh rằng trong trạng
thái Alpha, hay trạng thái xả giãn, người ta có thể học hỏi môn học phức tạp
như toán, lý, hóa, khoa học hay các môn học đòi hỏi việc sử dụng đến trí não một
cách dễ dàng hơn lúc chúng ta ở trạng thái Beta.
- Phải chăng vì lý do là có các “khoảng
trống” trong não?
- Đúng thế. Anh đã bắt đầu hiểu điều tôi
muốn nói là vượt lên trên phạm vi lý trí rồi đó.
- Nhưng “khoảng trống” đó ăn nhập gì đến
sự hòa giải? - Nó giúp người ta nhìn thấy, nghiệm thấy những điều mới mẻ, vượt
ra ngoài các quan niệm thông thường. Nó nâng tâm thức người ta lên một “bình diện
mới” (New Paradigm). Khi trí não yên tĩnh thì nó sẽ sáng suốt hơn. Do đó sự hòa
giải này sẽ không dựa trên những lý lẽ đã được hoạch định từ trước, hoặc một
mưu mô hay phương pháp nào. Kết quả của nó sẽ đến một cách tự nhiên giữa những
người trong cuộc chứ không tùy thuộc vào người đứng ra hòa giải. Hiển nhiên đây
là cách nhìn sự việc bằng một nhãn quan mới, một phạm trù mới, không giống phạm
trù ngày trước, và vì thế mà nguyên nhân của sự tranh chấp, vốn tùy thuộc vào
phạm trù trước, sẽ biến mất. Đó là cách giải quyết tận gốc rễ, trị tuyệt căn bệnh
chứ không băng bó qua loa cho xong.
- Xin bà giải thích rõ hơn nữa.
- Này anh bạn, một đầu óc đầy thành kiến
và cố chấp, giống như một hòn đá cứng, làm sao người ta có thể thay đổi nó được?
Trên phương diện vật lý, muốn thay đổi tảng đá người ta phải sử dụng một lực rất
mạnh, mạnh hơn lực liên kết trong tảng đá đó; nhưng nếu không khéo thì ta sẽ
làm tảng đá bị vỡ nát, hư hại. Cũng như thế, trên phương diện tâm lý, phải mất
nhiều khả năng hùng biện và thuyết phục mới khiến một người đầy thành kiến chịu
xét lại. Dĩ nhiên nếu không khéo léo, việc này chỉ là sự “nhồi sọ”, hay “tẩy
não” và rồi cũng không đem lại kết quả bao nhiêu. Một trí óc đầy thành kiến
cũng như một sợi dây điện đi qua một điện trở, làm luồng điện không lưu thông
được, bị tắc nghẽn và nóng lên. Một đầu óc lộn xộn, đầy thành kiến không thể tiếp
nhận thông điệp mới, không thể nhìn thấy điều gì mới. Hai phe nhóm với quan niệm
trái ngược không thể dung hòa cần vượt ra ngoài phạm trù tranh chấp đó thì mới
có thể tìm được một mẫu số chung. Muốn vậy, họ phải có một cái tâm bình tĩnh,
thoải mái và sáng suốt. Vì tâm có định thì mọi sự mới yên được; khi tâm còn xáo
trộn, còn phân biệt thì không thể giải quyết điều gì cả. Có người nói rằng, nhà
phát minh thiên tài Thomas Edison không nhận mình là thiên tài mà chỉ khiêm tốn
nói rằng: “Các ý tưởng hay lúc nào cũng ở quanh tôi, khi tâm tôi yên lặng, tôi
đã nghe được chúng”.
54. Quyền năng
Từ nhỏ, Dudley đã ham thích các vấn đề
tâm linh. Anh thường đề cập đến Thượng Đế và nói với cha mẹ rằng anh chỉ muốn gặp
Ngài. Khi trưởng thành, Dudley xin gia nhập một dòng tu kín nhưng bị từ chối.
Anh bèn lang thang đó đây, lúc theo học Yoga với một vị thầy Ấn Độ, khi học võ
với một võ sư Trung Hoa. Anh chịu khó nghiên cứu các sách vở tâm linh, tham dự
những khóa hướng dẫn về Thiền. Ít lâu sau, anh tìm đến một nông trại hẻo lánh,
ngày giúp việc cấy cày, đêm thực tập thiền theo các phương pháp mà anh học hỏi
được. Sau nhiều năm sống như vậy, tự nhiên anh khai mở được quyền năng “Thần
nhãn”. Anh nói:
- Thưa bà, tôi thấy thích thú quá chừng.
Tôi có thể “nhìn thấy” những người mà tôi nói chuyện qua điện thoại, biết họ mặc
quần áo màu gì, có cử chỉ ra sao. Khi tôi nói cho họ biết, họ hết sức kinh ngạc
và thán phục tôi vô cùng. Tôi có thể ngồi yên một chỗ mà biết được những người
khác trong trại đang làm gì. Hiện nay tôi muốn phát triển thêm các quyền năng
tương tự như “Đọc tư tưởng người khác” hay “Sai khiến các đồ vật”. Bà quen biết
nhiều danh sư, xin chỉ giúp tôi những người đã có được các quyền năng đó để tôi
theo học.
- Một đệ tử của Phật đã phát triển được
một vài quyền năng đến xin Ngài chỉ dẫn thêm, nhưng Đức Phật nói rằng: “Ta biết
rõ các quyền năng đó sẽ làm cho con người như thế nào, nên ta khuyên con hãy lập
tức từ bỏ chúng đi. Không gì làm người ta sa ngã nhanh chóng hơn là việc sở hữu
các quyền năng huyền bí”. Theo ý tôi, anh cũng nên áp dụng câu này cho bản thân
anh.
- Tại sao các quyền năng huyền bí lại xấu?
- Đức Phật không hề nói rằng các quyền
năng đó xấu, Ngài chỉ nói rằng các quyền năng đó sẽ khiến cho con người trở nên
thế nào mà thôi. Anh hãy quan sát những người bình thường khi đạt được chút
danh vọng hay uy quyền thì họ cư xử như thế nào? Phải chăng họ hống hách, kiêu
căng và hợm hĩnh? Các quyền năng huyền bí còn nguy hiểm hơn thế nhiều.
- Làm sao tôi có thể sa ngã khi đã khổ
công tập luyện và tiến bộ được như thế này?
- Này anh bạn, càng leo cao chừng nào
thì càng té đau chừng đó. Càng lên cao, sự cám dỗ càng mạnh, cơ hội sa ngã càng
nhiều. Trên đường tinh thần, sự cám dỗ hết sức tinh tế, khó thấy được.
- Nhưng nếu người ta cẩn thận và luôn
luôn đề cao cảnh giác thì làm sao có thể sa ngã?
- Thế ư? Hãy thử quan sát nội tâm anh mà
xem. Phải chăng từ khi khai mở được quyền năng đó thì anh không còn tha thiết đến
Thượng Đế nữa?
- Có lẽ bà nói đúng đấy, thời gian gần
đây tôi ít nghĩ đến Ngài hơn trước, nhưng có lẽ tâm tôi bị xao lãng vì đang
thích thú với cái quyền năng này và ít lâu nữa tôi sẽ quen đi. Tuy nhiên, phải
chăng sở hữu quyền năng chính là một sự tiến bộ tâm linh?
- Phát triển quyền năng là một dấu hiệu
nhưng không bao giờ là mục đích.
- Nhưng các đạo sư đều có quyền năng kia
mà?
- Bác sĩ Stanley Krippner, một học giả nổi
tiếng chuyên khảo cứu các hiện tượng huyền bí nói rằng ông đã gặp rất nhiều đạo
sư nổi tiếng mặc dù họ không hề có một quyền năng nào. Trong khi đó, ông cũng gặp
nhiều người sở hữu các quyền năng huyền bí nhưng không hề phát triển hay lưu
tâm gì đến vấn đề tâm linh. Nói tóm lại, sở hữu quyền năng và tiến bộ tâm linh
là hai vấn đề khác nhau.
- Thưa bà, tôi là người sống về tinh thần
và rất quan tâm đến trình độ tiến hóa của mình. Tôi thiết nghĩ đi trên đường
tâm linh cũng giống như leo núi, người ta không thể leo thẳng mà phải trèo quanh
theo sườn núi, có khi phải dừng chân nghỉ ngơi chút ít. Việc xao lãng của tôi
cũng chỉ là sự nghỉ ngơi chút ít thôi.
- Một người đi trên đường tâm linh dù
nghỉ ngơi vẫn không bao giờ rời mắt ra khỏi mục tiêu chính. Để tôi kể cho anh
nghe một câu chuyện sau:
Một Hoàng đế xứ Ấn mở cuộc thi tuyển hiền
tài để giúp nước. Kỳ thi như sau: Ai mang được một thùng nước đầy từ sông Hằng
về đến trước cửa thành mà không ngừng lại vì bất cứ chuyện gì thì sẽ thắng cuộc.
Một ngàn thí sinh tham dự cuộc thi, khi họ vừa múc nước dưới sông lên thì thấy
tiền vàng ở đâu rải đầy mặt đất. Hai trăm người bỏ cuộc chạy đi lượm tiền. Đi
được một lúc, các thí sinh thấy một dãy kiệu hoa lộng lẫy để hai bên đường, những
người khiêng kiệu hô lớn: “Ai ngồi kiệu sẽ được đưa vào thành để dân chúng hoan
hô”. Hơn hai trăm thí sinh bỏ cuộc nhào lên những chiếc kiệu hoa. Số còn lại tiếp
tục đi, một quãng sau họ thấy một đoàn thiếu nữ rất đẹp với xiêm y hở hang hấp
dẫn đưa tay vẫy gọi, mời chào. Hơn hai trăm người nữa bỏ cuộc chạy theo đoàn
thiếu nữ kia. Trên đường về thành, các thí sinh thấy một đạo sư oai nghiêm ngồi
trên một tấm thảm nói: “Kẻ nào theo ta sẽ được học các quyền năng huyền bí như
tàng hình, hiện hình, bay lượn trên không trung, hô phong hoán vũ, chỉ đá hóa
vàng, v.v. Một số vội bỏ cuộc chạy theo học với vị đạo sư. Cuối cùng chỉ còn một
người mang nước về đến cổng thành. Vua hỏi: Tại sao anh không bị những việc
trên đường làm cho xao lãng? Người nọ đáp: “Lúc đi mắt con chỉ nhắm vào một mục
đích là cổng thành, tai con chỉ nghe thấy lời tuyên bố của ngài rằng kẻ nào
mang nước từ sông Hằng về đây mà không dừng lại sẽ được trọng thưởng nên con đi
thẳng một hơi về đây”. Nhà vua mừng rỡ nói: “Ngươi quả là người mà ta mong đợi”.
Này anh bạn, đường thẳng là con đường ngắn nhất nối liền hai điểm, tại sao người
ta không chọn con đường đó mà lại chọn con đường quanh co làm chi?
55. Tiêu chuẩn tâm linh
Beverly là quản thủ thư viện tại một
thành phố lớn. Bà đã gia nhập nhiều phong trào tâm linh, tham dự nhiều buổi hội
thảo về Yoga, thiền định, dưỡng sinh, và theo học với nhiều đạo sư khác nhau
nhưng vẫn không tìm được điều bà muốn. Bà nói:
- Hiện nay tôi rất bối rối vì sự “thương
mại hóa” các vấn đề tâm linh. Tôi muốn tìm một con đường tu chân chính chứ
không muốn mắc mưu các thầy tu thương mại. Tôi không muốn thành “cừu con” để họ
dẫn dụ. Làm sao một người như tôi có thể phân biệt được một người giáo huấn
chân chính với một thầy tu giả tạo? Tôi cần một tiêu chuẩn rõ ràng chứ không phải
lý thuyết suông.
- Theo bà thì con đường tu chân chính phải
như thế nào?
- Tôi muốn tìm một con đường có thể đưa
tôi đến sự thật, đến sự hợp nhất với Thượng Đế, chứ không phải các lời hứa hẹn
hão huyền, các trò lừa bịp để moi tiền tín đồ. Tôi cần có một tiêu chuẩn thật
rõ rệt để phân biệt điều này.
- Ngày trước tôi học lái máy bay, mỗi
khi muốn đáp xuống đường băng tôi phải điều khiển máy bay vào đúng một vị trí
nhất định gọi là “ba điểm” (Three - Point Landing) thì mới đáp an toàn được.
Tiêu chuẩn này cũng có thể áp dụng vào những việc khác. Một đạo sư Ấn Độ nói rằng
muốn hợp nhất với Thượng Đế thì chúng ta phải trở nên giống như Ngài, vì thế
chúng ta cần có một quan niệm thật rõ ràng về Thượng Đế. Dĩ nhiên Thượng Đế là
hiện thân của tất cả những đức tính cao quý mà người ta có thể hình dung: Bác
ái, Minh triết, Mỹ lệ, Thanh khiết, Hoàn hảo. Bây giờ chúng ta hãy tự hỏi xem
ngài có phân biệt màu da, giai cấp, chủng tộc, tín ngưỡng, hay muốn người ta gọi
ngài bằng một danh xưng nhất định nào đó hay không? Đó là tiêu chuẩn thứ nhất
mà bà cần đặt ra. Nếu một sự giáo huấn nào còn phân biệt các điều kể trên, bắt
tín đồ sử dụng một danh hiệu nhất định thì hẳn bà đã biết phải xử sự ra sao rồi.
- Có rất nhiều nhóm tự nhận rằng họ đề
cao tình huynh đệ và không hề phân biệt các danh xưng.
- Dĩ nhiên, muốn biết họ có nói đúng hay
không thì chúng ta cần quan sát lời nói cũng như việc làm của họ một cách cẩn
thận. Một người giáo huấn chân chính không bao giờ tự nhận rằng mình là người
duy nhất. Sự giáo huấn chân chính chỉ rõ cho chúng ta thấy mục đích và những
con đường đưa đến mục đích đó nhưng không đòi hỏi chúng ta phải theo một con đường
nhất định nào. Đó là tiêu chuẩn thứ hai.
- Nhưng làm sao tôi có thể tìm được con
đường đó?
- Khi lòng bà ao ước tìm một con đường
tâm linh thì nội tâm của bà sẽ hướng dẫn cho bà, sẽ vạch rõ cho bà một hướng
đi. Trong cuốn Grist for the mill, đạo sư Baba Ram Dass đã nói: “Đi vào con đường
tâm linh chính là sự nhập lưu, hay bước vào một dòng nước mà trong đó vị thầy sẽ
đưa anh đi qua bờ bên kia, chứ không phải giữ anh mãi trong dòng nước đó”. Một
sự giáo huấn chân chính sẽ không làm ai vướng mắc mà giúp họ đi trọn vẹn con đường
một cách ung dung tự tại; và đó là tiêu chuẩn thứ ba.
- Làm sao tôi có thể biết mình không bị
vướng mắc?
- Khi đọc sách, bà bắt đầu bằng việc
theo dõi những dòng chữ, cố gắng hiểu ý từng chữ, từng câu và từng đoạn; nhưng
khi đã hiểu rồi thì bà phải biết bỏ những dòng chữ đó đi để nắm bắt lấy cái ý
chính toàn bài. Nếu cứ khư khư bám chặt vào từng chữ, từng dòng, từng đoạn văn
thì làm sao có thể hiểu được toàn bộ cuốn sách? Cũng như thế, khi qua sông cần
có thuyền, nhưng đã đến bờ rồi thì phải biết bỏ nó đi để tiếp tục cuộc hành
trình, cứ ôm chặt lấy con thuyền thì làm sao đi tiếp nữa được. Trên đường tâm
linh, muốn biết bà còn vướng mắc hay không thì hãy quan sát xem giữa bà và người
khác có sự khác biệt hay không? Khi tâm thức của bà được nâng cao lên, được tự
do, được mở rộng, bà sẽ không còn thấy có sự khác biệt giữa mình và người khác,
không chê bai, lên án, khinh miệt ai hết mà biết rằng giữa mình và người khác vốn
không hề có sự sai biệt, tất cả đều là những phần tử của một Đại Thể sáng chói,
đầy tình thương.
56. Từ bỏ
Sydney mắc bệnh bẩm sinh không thể chữa.
Bác sĩ cho biết anh chỉ sống đến 18 hay 20 tuổi là nhiều. Tuổi niên thiếu của
anh là một chuỗi ngày đau khổ, bi quan, lúc nào cũng phập phồng lo sợ, không biết
mình sẽ chết lúc nào. Khi được 15 tuổi, anh gặp một vị thầy dạy Yoga, vị này
khuyên anh hãy bỏ qua các cảm xúc tiêu cực, và sống cho hiện tại. Anh làm theo
đó và bất ngờ thay, tình trạng sức khỏe của anh thay đổi một cách mầu nhiệm.
Anh nói:
- Thưa bà, năm nay tôi đã ngoài 30 tuổi.
Tình trạng sức khỏe của tôi rất tốt. Các cuộc kiểm tra sức khỏe gần đây cho thấy
cơ thể tôi hoàn toàn bình phục, không có triệu chứng gì bất thường. Tôi mang ơn
vị thầy dạy Yoga rất nhiều, năm nào tôi cũng qua Ấn Độ thăm ngài. Năm ngoái,
trong buổi nói chuyện, ngài khuyên tôi phải biết từ bỏ để có sự tiến bộ tâm
linh.
- Thầy khuyên anh phải từ bỏ những gì?
- Vì ngài không nói rõ nên tôi rất bối rối.
Hiện nay tôi là một đạo diễn và sản xuất phim ảnh, kiếm rất nhiều tiền, đời sống
vật chất thoải mái, dễ chịu, và tôi đang dự định sẽ lập gia đình nữa. Làm sao
tôi có thể từ bỏ cuộc sống tốt đẹp như thế này? Tôi là người thực hành Yoga
chăm chỉ, có đời sống tinh thần cao, dĩ nhiên tôi còn muốn tiến bộ trên đường
tâm linh nữa nhưng phải từ bỏ những cái đang có hiện nay là điều không dễ chút
nào. Liệu bà có thể giúp tôi chăng?
- Khi còn nhỏ, vì là con một nên tôi
không có ai để chơi đùa, tôi chỉ biết chơi búp bê một mình. Phòng tôi có mấy chục
con búp bê và tôi đã sống trong cái thế giới huy hoàng tưởng tượng đó. Tôi
thương mấy con búp bê đó lắm, suốt ngày ôm chúng, nâng niu, chăm sóc cho chúng.
Năm tháng trôi qua, tôi khôn lớn và trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng đi trình diễn
khắp thế giới. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, tôi nhìn thấy mấy chục con búp bê
ngày trước được cất kỹ trong tủ. Tôi bèn đem chúng ra phân phát cho các trẻ em
nghèo trong xóm mà không hề luyến tiếc. Khi người ta đã có một sở thích khác, một
thú vui khác thì những thú vui cũ đâu còn gì quyến rũ nữa, nó sẽ rớt đi như
trái chín rụng. Đời sống tâm linh cũng vậy, khi chúng ta đã già dặn, trưởng
thành, cái gì không cần thiết sẽ tự nhiên rớt đi. Tuy nhiên, trước khi đến lúc
đó thì ta đừng rung cây cho trái rụng làm gì! Hãy sống tự nhiên, đừng ham muốn,
đừng mong cầu, đừng tích lũy, lúc nào cũng ung dung tự tại là được rồi.
- Nhưng thầy tôi đã nói nếu không từ bỏ
thì không thể tiến bộ được, vậy tôi phải làm gì đây?
- Theo ý tôi, điều thầy của anh nói
không phải là sự từ bỏ những hình thức bên ngoài, mà là từ bỏ cái ảo vọng về
chính mình. Trước hết chúng ta cần ý thức rõ rằng: muốn tiến bộ, chúng ta cần từ
bỏ cảm giác rằng chính ta là người làm việc đó, chính bản ngã là tác nhân hành
động trong mọi việc. Đa số mọi người sống và làm việc vì những động lực thúc đẩy
như tiền bạc, danh vọng, quyền thế, thỏa mãn và phô trương bản ngã, v.v. Tất cả
những cái này đều bắt nguồn từ cái nguyên nhân sâu xa là ý niệm về bản ngã. Đã
tập Yoga, chắc hẳn anh biết rằng mục đích của Karma Yoga là thay thế những động
năng như ham muốn, khao khát cái gì cho mình bằng sự hiến dâng tất cả cho Thượng
Đế. Hiến dâng cho Thượng Đế là một tác nhân độc lập hành động. Khoa Jnana Yoga
dạy rằng chúng ta phải tập chứng kiến hơn là đồng hóa mình với những ảo ảnh diễn
ra chung quanh. Là nhà đạo diễn phim ảnh, chắc anh biết rằng các diễn viên phải
học thuộc lòng các lời đối thoại, cử chỉ, vai trò mà họ phải diễn, nhưng họ đâu
phải là nhân vật đó. Thảm kịch lớn nhất của một diễn viên là sự đồng hóa mình
vào vai trò của mình, tự cho rằng mình có quyền hành động, viết bản kịch, thay
đổi màn kịch theo ý mình.
- Nhưng làm sao tôi có thể nghiệm chắc rằng
tôi không phải là tác nhân hành động?
- Qua sự tham thiền, quán tưởng thâm sâu
vào sự việc. Mỗi khi rảnh rỗi anh hãy tự hỏi “Vở kịch đời này đang chiếu trên
màn ảnh nào? Ai đang cảm nhận vở kịch đó? Nó xảy ra cho ai hay cái gì?”.
- Nhưng suy nghĩ như vậy có ích gì?
- Nếu anh để cho vở kịch đời diễn ra tự
nhiên, không bị cản trở bởi các tham vọng, sợ hãi, ước muốn, lo lắng của anh -
hay của Sidney - đặt vào đó thì anh sẽ thoải mái hơn, ung dung hơn và tự tại
hơn. Nhờ thế nó sẽ nâng anh lên khỏi mức độ đồng hóa với vở kịch, anh sẽ ý thức
rằng mình chính là sự trong sạch, thức tỉnh chứ không phải cái gì đang bị trói
buộc trong vở kịch đó. Sự tiến bộ tinh thần chẳng qua chỉ là sự thu hẹp khoảng
cách giữa vai trò mà chúng ta đóng, và con người thực sự của chúng ta. Nói một
cách khác, sự từ bỏ ở đây là loại bỏ cái bản ngã để ý thức cái Chân Ngã.
- Tôi cứ nghĩ rằng từ bỏ có nghĩa là vứt
bỏ đi tất cả tài sản, trói buộc, quyến luyến, ràng buộc để vào một tu viện.
- Ngày xưa sự từ bỏ có nghĩa như vậy
nhưng hiện nay những người đi trên con đường tâm linh không nhất thiết phải từ
bỏ gia đình để vào rừng sâu núi thẳm ẩn dật. Thay vì thế, họ mang rừng sâu núi
thẳm đó vào tâm linh của chính mình. Từ bỏ là chìa khóa của sự tiến bộ tâm
linh; nhưng thay vì từ bỏ những hình tướng vật chất, chúng ta hãy từ bỏ cái bản
ngã kiêu căng, ngã mạn. Nói một cách khác, ngày nay từ bỏ có nghĩa là chuyển
tâm chứ không chuyển cảnh.
57. Thượng Đế
Florence là một sinh viên thích hoạt động
xã hội. Cô tình nguyện dạy cho trẻ em nghèo hiếu học, săn sóc người già trong
viện dưỡng lão và làm việc trong một bệnh viện chữa trị những người nghiện ma
túy. Cô cảm thấy dường như có một sức mạnh thiêng liêng thúc đẩy cô hoạt động
nhưng cô không muốn gắn bó vào một tôn giáo nào. Cô nói:
- Tôi băn khoăn tại sao lại có quá nhiều
tôn giáo, quá nhiều con đường tâm linh khác nhau? Tại sao chân lý không đơn thuần
mà lại phân chia làm nhiều giáo lý như vậy?
- Có nhiều cách giải thích một quan niệm,
tùy theo ngôn ngữ, phong tục tập quán và kinh nghiệm cá nhân. Chân lý tự nó có
tính chất không hai (bất nhị) nhưng chính con người đã phân biệt, giải thích nó
khác nhau nên mới sinh ra nhiều tôn giáo, nhiều con đường tâm linh.
- Như vậy chỉ có một hay nhiều Thượng Đế,
và hình ảnh của Ngài ra sao?
- Có lẽ cô đã nghe nói con người được tạo
ra theo hình ảnh của Thượng Đế. Nhưng cũng có quan niệm cho rằng con người đã
tưởng tượng ra một Thượng Đế qua hình ảnh của chính họ. Vì con người thường có
nhiều quan niệm khác nhau nên ý nghĩ về Thượng Đế hay Chân lý cũng vì thế mà
khác biệt. Dĩ nhiên mọi danh từ, quan niệm đều giới hạn vì con người không thể
giải thích được những gì cao cả, vô biên được.
- Như vậy phải chăng con người không thể
thấy được cái chân lý tuyệt đối hay sao?
- Phần lớn con người đều sống trong một
tâm thức bị giới hạn bởi lý trí nên không thể trải nghiệm được những gì không
giới hạn. Chúng ta chỉ có thể có khái niệm về điều đó mà thôi. Lý trí là khả
năng cao nhất mà con người được biết, do đó con người đã sử dụng nó để suy nghĩ
về Thượng Đế cũng như chúng ta suy nghĩ về một quả táo vậy. Dĩ nhiên suy nghĩ về
một quả táo thì dễ vì chúng ta có thể sờ mó được, nhìn thấy được, ngửi được;
nhưng suy nghĩ về một cái gì vô hình, vô biên thì cần phải vận dụng đến khả
năng tưởng tượng nhiều hơn. Dù sao chăng nữa, cái hữu hạn không thể kinh nghiệm
được cái vô hạn.
- Có cách nào hay con đường nào giúp con
người thấy được cái chân lý tuyệt đối đó không?
- Con đường không phải là vấn đề, mà tiến
trình trên con đường đó mới là điều quan trọng. Những người tìm đạo có thể đi
theo những con đường khác nhau, nhưng khi đã vượt ra khỏi sự giới hạn của lý
trí, đã đạt đến một mức nào đó trên lộ trình tiến hóa tâm linh thì họ sẽ ý thức
được chân lý. Dĩ nhiên cách diễn tả của họ thay đổi tùy theo tập quán, văn hóa,
xã hội, quan niệm cá nhân, danh xưng, ngôn ngữ, nhưng cái kinh nghiệm cao tột
thì luôn luôn giống nhau.
- Như vậy một người bình thường không thể
có được kinh nghiệm như vậy sao?
- Chân lý cũng như ánh sáng mặt trời,
soi sáng cho tất cả mọi người không hề phân biệt. Bất cứ ai cũng có thể trải
nghiệm được chân lý nếu họ biết vượt ra khỏi giới hạn của tâm thức bình thường.
Một khi họ đã chuyển tâm thức được thì mọi sự đều thay đổi ngay. Khi mây mù đã
tan thì ánh sáng mặt trời sáng tỏ, khi đã xé bỏ được màn vô minh thì chân lý tự
nhiên biểu hiện.
- Khi đó người ta sẽ thấy hình ảnh Thượng
Đế như thế nào?
- Để tôi kể cho cô một câu chuyện sau: Một
hiền triết xứ Ấn giảng rằng: “Toàn thể vũ trụ chỉ là một sự phóng chiếu của tâm
trí chúng ta”. Một đứa bé thấy vậy bèn hỏi: “Nếu như vậy, một con ếch nhỏ ngồi ở
đáy giếng cũng phóng chiếu trong tâm thức nó một hình ảnh của vũ trụ hay sao?”.
Nhà hiền triết trả lời: “Đúng vậy”. Cậu bé liền nói: “Như thế con ếch có ý thức
về sự hiện diện của Thượng Đế hay không?”. Hiền triết đáp: “Mọi sinh vật trong
vũ trụ, dù bé nhỏ đến đâu cũng đều có sự khát khao quay về nguồn cội”. Cậu bé
thắc mắc: “Như vậy một con ếch nhỏ nghĩ về Thượng Đế ra sao?”. Hiền triết mỉm
cười đáp: “Đối với một con ếch nhỏ thì Thượng Đế là một con ếch rất lớn”.
58. Thương yêu kẻ thù
Cathy là một công chức vừa về hưu, bà
dùng thời gian rảnh rỗi để học Kinh Thánh. Bà nói:
- Là tín đồ Thiên Chúa giáo, tôi cố gắng
sống theo lời khuyên của Đấng Cứu Thế, nhưng huấn thị “Hãy thương yêu kẻ thù” của
Ngài đã làm tôi bối rối. Tôi nghĩ lời khuyên đó chỉ có thể áp dụng vào bối cảnh
ngày xưa, bây giờ không còn đúng nữa. Xã hội ngày nay đầy rẫy những kẻ bất
lương, bạo lực, ma túy, lừa đảo, đồi trụy..., làm sao chúng ta có thể thương
yêu những kẻ xấu xa, tội lỗi như vậy được? Tôi đã bàn luận rất nhiều về điều
này với bạn bè và ai cũng đồng ý rằng lời khuyên đó không thể áp dụng vào thời
đại này được. Tuy nhiên tôi vẫn muốn hỏi ý kiến của bà về vấn đề này.
- Ý kiến của tôi thì khác. Tôi nghĩ rằng
hơn lúc nào hết, ngày nay chúng ta cần áp dụng lời khuyên đó trong mọi hoàn cảnh
vì đó là nhu cầu khẩn thiết cho sự sống còn của nhân loại. Theo tôi thì hiện
nay có hai lối sống: Một là sống cho mình, cho bản ngã của mình, và hai là sống
theo ý Chúa. Xin hỏi, bà theo lối sống nào?
- Dĩ nhiên tôi sống theo lối sau, bà
không thấy tôi đã dành nhiều thời gian để tham gia các hoạt động trong nhà thờ
hay sao? Không những thế, tôi còn khuyến khích bạn bè học hỏi Kinh Thánh nữa.
- Tốt lắm, trước hết tôi muốn biết bạn
bè của bà là những người như thế nào?
- Bạn bè của tôi đều là những người
ngoan đạo, sống theo lời răn của Chúa.
- Bà được lợi ích gì khi giao thiệp với
họ?
- Tôi được nâng đỡ và an ủi rất nhiều.
Khi tôi có việc gì cần, họ giúp đỡ tôi; khi tôi xuống tinh thần thì họ khích lệ
tôi. Họ là những người mà tôi dựa vào khi cần được an ủi, là những người đi
cùng một con đường với tôi.
- Xin hỏi nếu có người xúc phạm đến bà,
làm thương tổn đến tự ái của bà thì phải chăng những người bạn đó sẽ an ủi bà?
- Dĩ nhiên rồi.
- Như vậy phải chăng những người mà bà gọi
là bạn đều là những người nâng đỡ cho bản ngã của Cathy?
- Nhưng ... như vậy có gì sai quấy đâu?
- Dĩ nhiên không có gì sai quấy cả nếu
bà không lựa chọn con đường tâm linh, hay con đường của Đấng Cứu Thế mà đi theo
con đường của bản ngã.
- Tại sao lại thế được?
- Hẳn bà đã đọc cuốn Gương Chúa Jesus,
trong đó có đoạn rằng: “Bạn cần được coi như người đã chết đối với những người
thân, bạn càng đến gần Chúa thì càng phải rút khỏi sự an ủi, khen tụng của người
đời vì tất cả sự an ủi, khuyến khích thế gian chỉ làm gia tăng bản ngã của bạn,
và bản ngã của bạn càng tăng thì bạn càng xa Chúa hơn”. Bây giờ hãy xét đến những
kẻ mà bà cho là xấu xa, tội lỗi. Họ là ai?
- Những kẻ nói xấu tôi, lừa bịp tôi, những
kẻ trước mặt tôi thì miệng lưỡi ngọt ngào nhưng khi tôi vừa quay đi thì họ lập
tức nói xấu tôi ngay.
- Được lắm, bà có tin rằng Chúa có mặt
khắp nơi không?
- Dĩ nhiên tôi tin chứ.
- Nghĩa là thế nào?
- Ngài ở khắp mọi nơi, trong khắp tất cả
vạn vật.
- Như vậy phải chăng Ngài cũng ở trong
những kẻ đã nói xấu, phỉ báng bà nữa?
- Có thể như vậy, nhưng họ đâu biết rằng
Ngài ở trong họ. Họ đâu được Chúa hướng dẫn.
- Đó là vấn đề của họ chứ không phải của
bà.
- Tôi vẫn không hiểu ý bà muốn nói gì?
- Chúa nói rằng: “Nếu có kẻ tát vào má
bên trái của anh thì anh hãy đưa má bên phải ra”. Ngài đâu nói rằng khi có kẻ
đánh anh thì anh bỏ đi kiếm những người khác để được an ủi. Đấng Cứu Thế dạy rằng
chúng ta cần biết tha thứ cho kẻ thù, phải biết thương yêu họ, vì họ đâu biết
gì về hành động của họ. Ngay cả những kẻ đóng đinh Ngài lên thập tự giá mà Ngài
còn xin tha thứ cho họ. Ngài không hề khuyên chúng ta “ơn đền, oán trả”, hay
“Mày móc mắt tao, tao móc mắt mày; lấy mắt trả mắt, lấy răng trả răng”.
- Nhưng tôi đâu có làm như vậy?
- Có chứ, tuy bà không đánh họ, chửi mắng
họ, nói xấu họ nhưng bà vẫn nuôi ý tưởng thù hận trong đầu. Bà coi họ là những
kẻ có tội và thầm mong cho họ không được tha thứ hay cứu rỗi. Khi đã coi người
khác như kẻ thù, không biết tha thứ cho kẻ thù, vẫn nuôi lòng oán hận triền
miên thì hiển nhiên bà đâu hề tuân giữ lời khuyên của Đấng Cứu thế. Như thế bà
vẫn đi theo con đường của bản ngã chứ đâu phải theo con đường mà Đấng Cứu Thế
đã dạy.
- Như vậy tôi phải làm gì?
- Bà phải biết tha thứ cho họ, bỏ qua những
ý tưởng thù hận, oán hờn và tốt hơn, hãy cầu nguyện cho họ được bình an, mạnh
khỏe, và được ơn trên soi sáng cho họ.
- Nhưng điều này đâu làm họ thay đổi được
gì?
- Họ thay đổi hay không là việc của họ
chứ không phải của bà. Điều quan trọng là bà phải biết thay đổi chính bà trước
đã. Nếu bà biết tha thứ thì kết quả sẽ tốt đẹp hơn điều bà mong mỏi, và ngược lại
nếu bà cứ nuôi mãi tư tưởng oán thù thì quả là điều bất hạnh vô cùng.
- Điều bà nói chỉ có tính lý thuyết, còn
thực hành thì khác. Làm sao ta có thể thương yêu những kẻ hèn hạ, dối trá, lừa
gạt, bất lương, trụy lạc, không biết kính sợ Chúa, không biết tuân theo lời
Chúa dạy. Tóm lại, trên phương diện thực hành, thương yêu kẻ thù là điều không
thể thực hiện được.
- Nếu bà đã nói thế thì tôi xin hỏi phải
chăng tinh hoa Thiên Chúa giáo chỉ là một mớ lý thuyết suông, không thể thực hiện
được hay sao? Này chị bạn, bất cứ ai cũng có thể thương yêu những người tốt
lành, thánh thiện, ngoan ngoãn, tôn trọng pháp luật, vì họ dễ giao thiệp, dễ
yêu, dễ mến. Nhưng đó không phải là sự thử thách của tín đồ Thiên Chúa giáo. Một
tín đồ Thiên Chúa giáo chân chính phải chấp nhận mọi thử thách và biết cách vượt
qua. Nói một cách khác, cái đẹp của một người Thiên Chúa giáo chân chính là có
lòng bác ái, mở rộng lòng thương đến muôn loài, và biết tha thứ. Để tôi kể cho
bà nghe một câu chuyện sau:
Cách đây mấy chục năm, tôi và một người
bạn đi mua sắm tại một cửa hàng lớn. Cô bán hàng tiếp đãi chúng tôi hết sức bất
lịch sự và hỗn láo. Tôi bực bội, định phàn nàn với cấp trên của cô để cho cô bị
mất việc nhưng người bạn của tôi đã ngăn lại. Khi ra khỏi cửa hàng, tôi hỏi ông
tại sao lại làm thế, ông nói: “Phải chăng mục đích của đời người là làm cho
lòng yêu thương của Thiên Chúa có thể ban rải ra khắp nơi, và hàn gắn những đau
thương của nhân loại?”. Câu nói này làm tôi bừng tỉnh và thán phục người bạn đó
quá. Ông quả là một tín đồ Thiên Chúa giáo chân chính. Từ đó tôi cố gắng áp dụng
câu nói đó vào đời sống hàng ngày.
- Nhưng ông ta đã làm gì mà được như vậy?
- Ông bạn tôi cho biết lúc nào cũng áp dụng
lời khuyên của Đấng Cứu Thế vào đời sống, không bao giờ nghi ngờ hay do dự. Ông
biết rằng một khi đã tin tưởng tuyệt đối vào Ngài thì mọi hành động, tư tưởng đều
được Ngài hướng dẫn.
- Chắc hẳn ông ta chịu khó đọc Kinh
Thánh?
- Không những ông ta đọc mà còn áp dụng
nó vào cuộc sống hàng ngày. Ông đã áp dụng câu: “Hãy thương người láng giềng
như thương yêu chính mình” trong mọi trường hợp.
- Tôi muốn thực tập quy tắc đó, xin bà
chỉ dẫn cho.
- Này chị bạn, bí quyết đó cũng giản dị
thôi. Chúng ta cứ nghĩ rằng mình làm thế này hay thế nọ vì mình là tác nhân
chính đã hành động. Chính cái quan niệm sai lầm về bản ngã này đã tạo ra sự
phân chia, cách biệt, ích kỷ, lầm lạc. Chúng ta không thể ban phát tình thương
khi mình không thực sự yêu thương. Này chị bạn, tình thương là danh từ chứ
không phải động từ, chúng ta chính là tình thương chứ không phải là điều chúng
ta làm. Làm sao để ta trở thành một trung tâm chuyển tải tình thương chính là
bí quyết của sự chuyển hóa. Hãy sử dụng trái tim để thương yêu chứ đừng sử dụng
bộ óc vì bộ óc hay phán xét, phân biệt. Thật ra trái tim của chúng ta chính là
điểm linh quang của Thượng Đế, là gạch nối giữa ta và Ngài. Hãy làm sao để mọi
tư tưởng, hành động của chúng ta đều phát xuất từ trái tim đầy thương yêu, bác
ái đó.
- Làm sao tôi có thể hành động như vậy?
- Bà cần trải qua một sự thanh lọc xác
thân cũng như tâm hồn để gạt bỏ các thành kiến trước đây. Có lẽ bà cần tập cách
tĩnh tâm qua việc đến giáo đường vào lúc thanh vắng để cầu nguyện. Bà có thể
thanh lọc đầu óc qua lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài thương xót con”. Bà
hãy tìm đọc cuốn The way of the Pilgrim của một tác giả khuyết danh viết hồi thế
kỷ 19, đây là một cuốn sách hướng dẫn rất hay. Ngoài ra bà có thể tìm đọc các
cuốn sách nói về cuộc đời các vị Thánh, nhất là Thánh Therese de Lisieux. Trước
khi qua đời, Thánh Therese cho biết chính sự đối xử khắc nghiệt của Mẹ Bề Trên
đã hun đúc nên tinh thần quả cảm, chịu đựng của Thánh hay nói một cách khác,
chính sự chịu đựng đau đớn vật chất và tinh thần đã nâng tâm thức của Thánh lên
một bình diện cao hơn. Như tôi đã nói, một tín đồ chân chính phải chấp nhận thử
thách và biết cách vượt qua.
- Nếu vậy khi thấy khó chịu hay ác cảm với
kẻ khác thì tôi phải làm gì?
- Khi bà thấy đầu óc phản kháng, khó chịu
thì hãy ngưng ngay tư tưởng đó lại và nhìn nó như một kẻ thứ ba. Hãy tự nhủ thầm:
“Lại Cathy nữa đây, giống như một quả lắc đồng hồ xoay qua xoay lại giữa sự oán
ghét, lên án, chê bai, ích kỷ. Nhưng tôi không phải là những điều đó, tôi vượt
lên trên sự tầm thường nhỏ mọn đó”. Một khi đã tách rời ra khỏi tư tưởng ấy và
quan sát nó thì tư tưởng đó sẽ tự động biến mất ngay. Ngoài ra, để tập mở rộng
lòng thương, mỗi khi rảnh rỗi bà hãy suy ngẫm một câu nói quan trọng của Thánh
Françoise: “Nơi nào có sự thù hận, xin Chúa cho con được gieo hạt giống của sự
thương yêu”. Một khi đã suy ngẫm thật sâu xa tư tưởng đó, bà sẽ thấy mình hành
động đúng như vậy. Khi ấy bà sẽ thấy trong cái thế giới đầy bất toàn này, người
hôm nay là bạn, ngài mai có thể trở thành kẻ thù, và người bạn không ưa ngày
hôm nay biết đâu chẳng là bạn thân của bà về sau. Để trở thành một người Thiên
Chúa giáo chân chính, người ta không nên dùng chữ “Thù” hay “Bạn” vì sự thật chẳng
có ai là thù hay bạn mà tất cả đều là “Con của Thượng Đế”.
- The
end -
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-7.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-6.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-5.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-4.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-3.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-2.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-1.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-6.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-5.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-4.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-3.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-2.html
https://truthlady3.blogspot.com/2019/05/minh-triet-trong-uong-cua-phuong-ong-1.html
No comments:
Post a Comment