LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Saturday, February 3, 2018

Hệ Bạch Huyết



Tên Khác
Hệ Thống Bạch Huyết


Hệ bạch huyết là hệ thống phòng vệ quan trọng trong cơ thể người. Hệ bạch huyết bao gồm bạch huyết, mạch bạch huyết, mô bạch huyết, hạt/mấu bạch huyết, hạch bạch huyết, hạch họng, lá lách, và tuyến ức.



Hệ Bạch Huyết
Hệ Bạch Huyết
1. Bạch huyết
Bạch huyết là dịch trong suốt bao bọc các mô của cơ thể, giữ cân bằng chất lỏng, và loại bỏ vi khuẩn khỏi các mô. Bạch huyết thâm nhập hệ tuần hoàn qua các mạch bạch huyết.
Bạch huyết được vận chuyển từ các mô tới tĩnh mạch qua hệ thống mạch bạch huyết. Trong hệ thống đó, bạch huyết được lọc qua các cơ quan như lá lách, tuyến ức (thymus) và các hạch bạch huyết. Ở động vật có vú, bạch huyết được đẩy qua các mạch bạch huyết chủ yếu bởi hiệu ứng vận động của các cơ xung quanh mạch.



Hệ Bạch Huyết
Bạch huyết là dịch trong suốt gồm bạch huyết bào và đại thực bào
Thành phần chủ yếu của bạch huyết là các bạch huyết bào (lymphocyte) và đại thực bào (macrophage). Hệ miễn dịch sử dụng các tế bào này để chống lại sự thâm nhập của các vi sinh vật ngoại lai. Tất cả các động vật đa bào đều phân biệt giữa các tế bào của chính mình và các vi sinh vật ngoại lai, chúng cố gắng trung hòa hoặc ăn các vi sinh vật ngoại lai. Các đại thực bào là các tế bào có nhiệm vụ bao vây và ăn sinh vật ngoại lai. Còn bạch huyết bào là các tế bào bạch cầu có nhiệm vụ trung hòa các vi sinh vật ngoại lai bằng hóa học.
Sơ đồ về các đường xâm nhập của tế bào T và B vào hạch bạch huyết.



Hệ Bạch Huyết
Cơ chế đi vào mạch bạch huyết của tế bào T và B
2. Mạch bạch huyết
Các mạch bạch huyết là thiết yếu cho việc duy trì cân bằng thể dịch. Các mạch này là các ống nhỏ, bít một đầu gọi là các mao mạch bạch huyết. Các thể dịch có khuynh hướng chảy ra khỏi các mao mạch máu đổ vào các khoang mô. Dịch dôi ra đi qua các khoang mô và vào các mao mạch bạch huyết để trở thành bạch huyết. Các mao mạch bạch huyết có ở hầu khắp các mô trong cơ thể. Ngoại trừ ở thần kinh trung ương, tủy xương và các mô không có tưới máu, như sụn, biểu bì và giác mạc. Một nhóm mao mạch bạch huyết nông nằm ở phần dưới da và hạ bì. Một nhóm mao mạch bạch huyết sâu dẫn lưu cho các cơ, khớp, phủ tạng và các cấu trúc nằm trong sâu.



Hệ Bạch Huyết
Mao mạch bạch huyết
Các mao mạch bạch huyết khác với các mao mạch máu ở chỗ chúng không có lớp màng nền và các tế bào biểu mô đơn giản có hình vảy hơi chồng lên nhau và tế bào này đính vào tế bào kia một cách lỏng lẻo. Theo cấu trúc này thì có hai điều xảy ra. Thứ nhất, mao mạch bạch huyết có tính thấm hơn rất nhiều so với mao mạch máu, và không có cái gì ở dịch kẽ lại không có ở các mao mạch bạch huyết. Thứ hai, biểu mô ở mao mạch bạch huyết hoạt động như một loạt van mở theo một hướng cho phép thể dịch vào được mao mạch bạch huyết mà không cho trôi ngược trở ra khoang dịch kẽ.
Ba cơ chế chính chịu trách nhiệm cho chuyển dịch của bạch huyết trong mạch: Sự co mạch bạch huyết, Sự co của cơ xương, Các thay đổi áp lực lồng ngực.



Hệ Bạch Huyết
Miễn dịch bẩm sinh và thích ứng của cơ thể
3. Hạch bạch huyết
Các hạch bạch huyết nhỏ, tròn, cấu trúc hình hạt đậu, kích cỡ đa dạng dài từ 1-25mm. Chúng phân bố dọc theo đường đi của mạch bạch huyết. Trong hạch có chứa bạch huyết, các vi khuẩn và các chất thải ra. Thêm vào đó, các tế bào bạch huyết tụ tập, hoạt động và tăng sinh trong các hạch bạch huyết.



Hệ Bạch Huyết
Hạch bạch huyết
Các hạch bạch huyết được xếp loại từ nông đến sâu. Các hạch bạch huyết nông nằm ở lớp hạ bì dưới da, và các hạch bạch huyết sâu ở khắp các nơi khác. Hầu hết các hạch bạch huyết nông và sâu nằm gần hoặc trên các mạch máu. Có khoảng 450 hạch bạch huyết được tìm thấy khắp cơ thể.



Hệ Bạch Huyết
Có khoảng 70 hạch bạch huyết ở vùng cổ và đầu
Các hạch cổ và đầu (khoảng 70 hạch) chứa bạch huyết từ đầu và cổ, các hạch nách (khoảng 30 hạch) chứa bạch huyết từ chi trên và ở lớp ngực nông, các hạch ngực (khoảng 100 hạch) chứa bạch huyết từ thành ngực và các cơ quan, các hạch chậu bụng (khoảng 230 hạch) chứa bạch huyết từ bụng và chậu, và các hạch bẹn và khoeo (khoảng 20 hạch) chứa bạch huyết từ các chi dưới và lớp nông ở chậu.
4. Vòi bạch huyết
Sau khi đi qua các hạch bạch huyết, các mạch bạch huyết hội tụ lại để tạo thành các mạch lớn hơn gọi là các vòi bạch huyết, mỗi vòi dẫn lưu cho một phần chủ yếu của cơ thể.



Hệ Bạch Huyết
Vòi bạch huyết
Vòi tĩnh mạch cảnh dẫn lưu cho đầu và cổ; vòi dưới đòn dẫn lưu cho chi trên, phần nông thành ngực, và tuyến vú, vòi phế trung thất dẫn lưu cho các cơ quan trong lồng ngực và sâu trong thành ngực; vòi ruột dẫn lưu cho các cơ quan trong bụng, như ruột non, dạ dày, tuyến tụy, lá lách và gan; và vòi thắt lưng dẫn lưu cho chi dưới,  chậu và thành bụng, các cơ quan trong chậu, buồng trứng, tinh hoàn, thận và tuyến thượng thận.
5. Mô bạch huyết
Mô bạch huyết có những sợi collagen rất tinh tế, gọi là các sợi lưới, do các tế bào lưới sinh ra. Các tế bào bạch huyết và các tế bào khác đính vào các sợi này. Khi bạch huyết hoặc máu đổ vào các cơ quan bạch huyết, các mạng sợi này bẫy lưới các vi thể và các hạt khác nằm trong dịch.



Hệ Bạch Huyết
Mô bạch huyết
Mô bạch huyết khuyếch tán gồm các tế bào bạch huyết rải rác, các đại thực bào và các tế bào khác; nó không có ranh giới rõ ràng; và hòa trộn với các mô xung quanh. Nó nằm sâu trong lớp màng nhầy, quanh các hạt bạch huyết, và nằm trong hạch bạch huyết và lá lách.
6. Hạt bạch huyết
Các hạt bạch huyết là các tập hợp dày đặc hơn các mô bạch huyết được sắp xếp vào các cấu trúc cô đặc như hình cầu, kích cỡ đường kính từ vài trăm micrô mét đến vài millimet hay hơn. Các hạt bạch huyết có nhiều mô liên kết lỏng của hệ tiêu hóa, hô hấp, tiết niệu và sinh dục.



Hệ Bạch Huyết
Hạt bạch huyết
Mảng Peyer là sự kết tập của các hạt bạch huyết thấy được trong nửa đầu xa của ruột non và ruột thừa. Các hạt bạch huyết cũng thấy được ở trong hạch bạch huyết và lá lách, nơi chúng thường được gọi là các nang bạch huyết.
7. Hạch họng
Hạch họng là các nhóm hạt bạch huyết lớn và mô bạch huyết khuyếch tán nằm sâu trong màng nhầy phía trong hầu họng.
Hạch họng cho sự bảo vệ chống lại vi khuẩn và các chất có thể gây hại đi vào hầu từ xoang mũi hay miệng. Ở người lớn, hạch họng nhỏ đi và cuối cùng có thể biến mất.



Hệ Bạch Huyết
Hạch họng
Có ba nhóm hạch họng, nhưng các hạch vòm miệng luôn được gọi là ‘hạch họng’.  Hạch này khá lớn, là hai khối bạch huyết hình bầu dục ở hai bên chỗ ngã ba giữa khoang miệng và hầu. Hạch hầu, là một tập hợp gần giống như sự kết tập của các hạt bạch huyết gần ngã ba giữa xoang mũi và hầu. Khi hạch hầu to ra, thường bị liên hệ đến bệnh V.A (adenoid hoặc adenoids). Hạch hầu sưng to có thể cản trở việc thở bình thường. Hạch hạnh nhân lưỡi là một tập hợp lỏng lẻo các hạt bạch huyết ở bề mặt sau của lưỡi.



Hệ Bạch Huyết
Hạch cổ
Đôi khi hạch vòm miệng và hạch hầu bị viêm mãn tính và phải được nạo đi. Hạch hạnh nhân lưỡi ít bị viêm hơn các hạch khác và khó nạo bỏ được hơn.
8. Lá lách
Lá lách, kích cỡ chừng một nắm tay, nằm ở cực trên bên trái ổ bụng (hình 22.7). Trọng lượng trung bình lá lách của người trưởng thành là 180g ở nam và 140g ở nữ. Kích cỡ và trọng lượng của lá lách có khuynh hướng giảm ở người già, nhưng ở các bệnh nào đó, lá lách có thể đạt tới trọng lượng là 2000g hoặc hơn.



Hệ Bạch Huyết
Vị trí của lá lách
Lá lách tiêu hủy các tế bào máu đỏ có khiếm khuyết, phát hiện và phản ứng với các dị vật trong máu, và hoạt động như một nguồn trữ máu. Khi các tế bào máu già cỗi, không thể uốn và cuộn được nữa thì các tế bào này có thể rách ra khi đi chầm chậm qua mặt sàng các dây lá lách. Các đại thực bào sau đó ăn các mảnh vỡ tế bào. Các dị vật trong máu đi qua lá lách có thể kích thích một phản ứng miễn dịch vì có các tế bào bạch huyết đã biệt hóa có mặt trong tủy trắng.
9. Tuyến ức
Tuyến ức là nơi trưởng thành của tế bào T. Tuyến ức là một cơ quan có hai thuỳ nằm ở trung thất trước. Mỗi thuỳ được phân chia thành nhiều tiểu thuỳ ngăn cách nhau bởi các vách sợi và mỗi tiểu thuỳ có vùng vỏ bên ngoài và vùng tuỷ bên trong.



Hệ Bạch Huyết
Tuyến ức ở trẻ em và người lớn
Rải rác trong tuyến ức là các tế bào biểu mô không phải lymphô (đó là những tế bào có nhiều bào tương), đại thực bào có nguồn gốc tuỷ xương và tế bào hình sao. Tuyến ức được hình thành trong quá trình lõm vào của ngoại bì trong thời kỳ bào thai để tạo nên cổ và ngực.
10. Hệ thống miễn dịch da
Da có chứa một hệ thống miễn dịch được chuyên môn hoá bao gồm tế bào lymphô và tế bào trình diện kháng  nguyên. Da là cơ quan rộng nhất trong cơ thể tạo nên hàng rào vật lý quan trọng nhất ngăn cách cơ thể với vi sinh vật và các vật lạ của môi trường bên ngoài. Da còn là một bộ phận tích cực của hệ thống bảo vệ cơ thể có khả năng tạo ra phản ứng viêm và đáp ứng miễn dịch tại chỗ. Nhiều kháng nguyên lạ đã đi vào cơ thể qua đường da, do đó da cũng là nơi khởi động nhiều đáp ứng miễn dịch toàn thân khác.



Hệ Bạch Huyết
Hệ thống miễn dịch của da
Quần thể tế bào chính trong lớp biểu mô là tế bào sừng (keratinocyte), tế bào hắc tố (melanocyte), tế bào  Langerhans biểu mô và tế bào T trong biểu mô (intraepithelial T cell). Tế bào sừng và tế bào hắc tố hình như không có vai trò quan trọng trong miễn dịch thu được, mặc dù tế bào sừng có thể sản xuất nhiều cytokin đóng góp cho phản ứng miễn dịch bẩm sinh và phản ứng viêm ở da. Tế bào Langerhanx nằm ở phía trên lớp màng căn bản của biểu mô, đây là những tế bào hình sao chưa trưởng thành của hệ thống miễn dịch da.
Tế bào Langerhans tạo nên một mạng lưới gần như liên tục cho phép bắt giữ hầu như toàn bộ những kháng nguyên nào xâm nhập vào cơ thể qua  da. Khi bị kích thích bởi các cytokin tiền viêm, tế bào Langerhans sẽ co các sợi tua của mình lại, mất tính kết dính với tế bào biểu mô và di chuyển vào lớp bì. Sau đó chúng theo đường bạch mạch trở về nhà của chúng là các hạch  bạch  huyết, quá trình này được kích thích bởi các chemokin chỉ tác động đặc hiệu lên tế bào Langerhans.
11. Hệ thống miễn dịch niêm mạc
Trong lớp niêm mạc của hệ tiêu hoá và hô hấp có tụ tập của nhiều tế bào lymphô và và tế bào trình diện kháng nguyên có vai trò khởi động đáp ứng miễn dịch đối với kháng nguyên đường tiêu hoá (ăn vào) và hô hấp (hít vào). Cũng giống như da, lớp biểu mô niêm mạc là hàng rào  quan trọng ngăn cản sự xâm nhập của vi sinh vật.



Hệ Bạch Huyết
Hệ bạch huyết và miễn dịch lớp niêm mạc
Những hiểu biết của chúng ta về miễn dịch niêm mạc dựa chủ yếu vào những nghiên cứu ở đường tiêu hoá, còn những hiểu biết về miễn dịch niêm mạc hô hấp thì rất ít mặc dù đây cũng là đường xâm nhập rất thường xuyên của vi sinh vật. Tuy nhiên, hình như các khía cạnh của đáp ứng miễn dịch giống nhau ở cả hai mô lymphô niêm mạc này.




Cách khám, nguyên nhân sưng hạch bạch huyết …

SINH LÝ BỆNH: hạch bạch huyết có số lượng từ 500 đến 600 trong toàn cơ thể, có cấu trúc bao gồm những tế bào tự do (chủ yếu là các tế bào lympho) và những tế bào lưới nội mô lát thành các xoang hạch. Mỗi nang lympho trong hạch bạch huyết bao gồm một vùng trung tâm màu sáng hơn (gọi là trung tâm mầm) chứa các lympho bào lớn, những lympho bào lớn này sinh sản nhanh (lympho bào B hoạt hoá) và những đại thực bào. Bao quanh trung tâm mầm là một vùng gian-nang đậm đặc tế bào và sẫm màu hơn cấu tạo bởi các lympho bào nhỏ (lympho bào T), các lympho bào nhỏ sinh sản chậm và rời khỏi hạch khi chúng đã trưởng thành.
Chức năng của các hạch bạch huyết là phản ứng với các kháng nguyên được thu thập từ các mô thuộc vùng hạch thu nhận bạch huyết vào trong hạch đó. Các lympho bào B sẽ phản ứng bằng cách sinh sản nhanh và chuyển đổi thành các tương bào để sản xuất các kháng thể, còn các lympho bào T thì phản ứng bằng cách tham gia vào đáp ứng miễn dịch mô (miễn dịch qua trung gian tế bào). Những tế bào lưới nội mô (còn gọi là mô bào) phản ứng bằng cách sinh sản và chuyển thành các đại thực bào, chúng “ăn” và tiêu huỷ các mảnh tế bào và những hạt vật lạ, đặc biệt là những vi sinh vật được thu thập từ các mô ở vùng cơ thể phụ thuộc vào trong hạch bạch huyết của vùng đó.
Hạch bạch huyết sưng to có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là những nguyên nhân dưới đây:

  • Lympho bào và đại thực bào sinh sản nhanh trong những phản ứng miễn dịch chống lại kháng nguyên.
  • Hạch bị xâm nhiễm bởi những tế bào viêm trong quá trình nhiễm khuẩn.
  • Lympho bào sinh sản ác tính (trong bệnh bạch cầu, u lympho bào).
  • Xâm nhiễm bởi các tế bào ung thư di căn từ nơi khác tới.
  • Xâm nhiễm bởi những đại thực bào chứa nhiều các sản phẩm chuyển hoá trong bệnh loạn chuyển hoá
KHÁM HẠCH BẠCH HUYẾT BANG PHƯƠNG PHÁP SỜ ẤN: 
ở người bình thường, rất ít khi sờ ấn thấy hạch bạch huyết. Khi khám bệnh, thày thuốc sờ ấn để tìm  các hạch bạch huyết nông sau đây: hạch chẩm, trước tai, sau tai, dưới hàm, hạch cổ, trên đòn (phía sau xương đòn), hạch nách, hạch trên lồi cầu (3-4 cm ở phía trên lồi cầu xương cánh tay), hạch bẹn nông và hạch khoeo. Những hạch bạch huyết sâu thì không sờ ấn được, trừ trường hợp những hạch trong ổ bụng khi bị sưng rất to. Thường chỉ có thể phát hiện được bệnh của các hạch bạch huyết sâu bằng phương pháp X quang và các kỹ thuật đặc biệt khác (như chụp X quang đường bạch huyết, siêu âm, hoặc chụp cắt lớp vi tính).
NGUYÊN NHÂN SƯNG HẠCH BẠCH HUYẾT (xem bảng)
  • Sưng hạch bạch huyết toàn thân (sưng đa hạch bạch huyết):
+ Những bệnh nhiễm khuẩn: bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, nhiễm virus cự bào, bệnh AIDS, bệnh do brucella, lao, viêm gan  do virus, giang mai giai đoạn 2, bệnh nấm toxoplasma, bệnh mèo cào.
+ Các bệnh máu ác tính: bệnh bạch cầu lympho mạn tính, u lympho bào V.V..
  • Sưng các hạch bạch huyết khu trú:
+ Hạch sau tai: bệnh rubeon.
+ Hạch cổ một bên sưng thành khối: ở người lớn phải nghĩ tới ung thư mũi họng hoặc u lympho bào.
+ Hạch dưới góc hàm và hạch cổ sau: bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn hoặc nhiễm virus cự bào hoặc bệnh do toxoplasma.
+ Hạch trên đòn: tìm xem có ung thư trong lồng ngực hoặc ổ bụng. Nếu sưng hạch bạch huyết trên đòn bên phải thì do tổn thương ở phổi hoặc thực quản, trong khi sưng hạch bên trái (gọi là hạch Virchow) thì thường là do di căn từ các u ở ổ. bụng lan tới (ung thư dạ dày, thận, buồng trứng, tinh hoàn).
+ Hạch nách:
  • nếu ở phụ nữ, rắn và không di động: ung thư vú.
  • nếu nóng và đau: nhiễm khuẩn ở chi trên.
+ Sưng hạch trung thất hai bên không đối xứng: bệnh Hodgkin, u lympho bào.
+ Hạch rôn phổi: viêm phổi nhiễm khuẩn hoặc do virus, lao, bệnh sarcoid (thường không có triệu chứng).
+ Hạch trong ổ bụng và sau phúc mạc (phát hiện bằng chụp đường bạch huyết, siêu âm, chụp cắt lóp vi tính): thường là có nguồn gốc ung thư.
+ Hạch bẹn:
  • nếu rắn và không di động: ung thư bàng quang, tuyến tiền liệt, trực tràng, cơ quan sinh dục ngoài.
  • nếu nóng và đau: bệnh lympho u hạt hoa liễu (bệnh Nicolas Favre), săng hạ cam, bệnh giang mai.
GIÁ TRỊ TRIỆU CHỨNG HỌC CỦA HẠCH BẠCH HUYẾT BỊ SƯNG: 
sưng hạch bạch huyết ở người lớn có nhiều ý nghĩa chẩn đoán hơn so với ở trẻ em. ở trẻ em, ngay viêm đường hô hấp rất thường cũng có thể gây ra sưng hạch bạch huyết toàn thân thoáng qua. Nhưng ở người lớn, sưng hạch bạch huyết khu trú có thể gây ra bởi chấn thương, hoặc nhiễm khuẩn thông thường ở những mô phụ thuộc vùng hạch thu nhận bạch huyết. Ví dụ, sưng hạch bạch huyết trên lồi cầu ở người lao động bằng tay, sưng hạch cổ ở bệnh nhân nhiễm khuẩn răng hoặc nhiễm khuẩn đường hô hấp, V..V…
TÍNH CHẤT CỦA SƯNG HẠCH BẠCH HUYẾT: 
có thể có những giá trị nhất định trong triệu chứng học:
  • Nếu hạch sưng to, đối xứng, mềm, di động, không đau: u lympho bào hoặc bệnh bạch cầu mạn tính, nhưng trong bệnh bạch cầu cấp thì hạch sưng lại đau vì mức độ sưng nhanh và vì hay bị bội nhiễm.
  • Nếu hạch rắn, không di động, dính với mô xung quanh và không đau: thường là sưng hạch vì di căn ung thư.
  • Nếu hạch sưng nóng, đau, lớp da phủ bên ngoài có thể màu đỏ và phù nề: thấy trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp, hạch sưng thường không đối xứng. Trong những bệnh nhiễm khuẩn mạn tính thì thường da không có dấu hiệu phù nề và hạch không đau.
HẠCH ĐỒ: 
thực hiện bằng cách chọc kim vào trong hạch bị sưng, thủ thuật chọc hút hạch, với một kim tiêm bắp thịt (sau khi rút kim, thì nhanh chóng bơm dịch hút được từ hạch ra khỏi kim và đàn trên phiến kính), hoặc nếu làm sinh thiết hạch thì ấn mặt cắt của hạch lên phiến kính. Phiến đồ được nhuộm bằng phương pháp May-Grunwald-Giemsa. Phải kiểm tra ít nhất 500 tế bào.
– Hạch đồ bình thường:
Lympho bào Nguyên bào lymphô Đại thực bào* Tương bào
* bao gồm bạch cầu đơn nhân, tế bào bón, đại thực bào lớn chứa các thể vùi

  • Sưng hạch bạch huyết nhiễm khuẩn: trong hạch đồ xuất hiện những bạch cầu hạt, đại thực bào, và dấu hiệu hoại tử quan trọng nhiều hoặc ít. Trong bệnh lao, có thể thấy các lympho bào, tương bào, tế bào khổng lồ, và tế bào dạng biểu mô. Cũng có thể nhận ra được những tác nhân gây bệnh nằm trong hoặc ngoài tế bào (tìm trực khuẩn lao). Nếu thấy dấu hiệu viêm vô khuẩn, thì nghĩ tối bệnh nhiễm virus, hoặc tăng sinh tế bào lưới hạch bạch huyết lành tính do sơ nhiễm. Một phần dịch hút được sử dụng để cấy vi khuẩn hoặc virus.
  • Sưng hạch bạch huyết trong bệnh viêm: hạch đồ sẽ giàu tế bào, nhất là lymphô bào đa hình, tương bào, bạch cầu hạt, đại thực bào. Trong bệnh sarcoid, trong hạch đồ thấy có các tế bào dạng biểu mô không bị hoại tử.
  • Sưng hạch bạch huyết trong bệnh ác tính: bệnh Hodgkin (thấy tế bào Sternberg trong hạch đồ), u lympho bào không phải Hodgkin (mô lympho biểu hiện đơn hình), dị sản tủy xương, sưng hạch bạch huyết do di căn ung thư (cần chẩn đoán nguồn ung thư nguyên phát có nhiều khả năng xảy ra nhất).
  • Sưng hạch bạch huyết trong các bệnh ký sinh trùng: trong hạch đồ có thể tìm thấy leishmania, trypanosoma, giun chỉ, .V…
SINH THIẾT HẠCH BẠCH HUYẾT: 
chọc hút hạch bạch huyết là xét nghệm đơn giản và nhanh chóng hơn sinh thiết hạch. Tuy nhiên, sinh thiết hạch lại cho những thông tin đầy đủ hơn, vì nhờ sinh thiết mà có thể quan sát mô học, nó cho phép không những nghiên cứu các tế bào riêng lẻ mà còn cả cấu trúc của hạch nói chung. Với sinh thiết hạch bạch huyết, có thể chẩn đoán chính xác bệnh Hodgkin và các u lympho bào khác, chẩn đoán một số bệnh bạch cầu, di căn ung thư, bệnh lao và bệnh sarcoid.
CHỤP HỆ BẠCH HUYẾT: 
là xét nghiệm chụp X quang những ống (đường) dẫn bạch huyết và các hạch bạch huyết, sau khi bơm một chất cản quang thuộc loại iod tan trong dầu vào trong đường bạch huyết ở bàn tay (để làm hiện hình chuỗi hạch nách-dưới đòn) hoặc ở bàn chân (để làm hiện hình chuỗi hạch bẹn, chậu hông bé, thắt lưng, và chuỗi hạch quanh động mạch chủ). Chất cản quang cũng bị thực bào bởi hệ thống lưới nội mô của các hạch bạch huyết, và hình ảnh do hiện tượng thực bào này ở những hạch bạch huyết sẽ khác nhau trong những trường hợp hạch bình thường, bị viêm, hoặc ung thư. Người ta
chụp các phim X quang vào ngay lúc bơm thuốc cản quang, vào ngày hôm sau, và nếu thấy cần thiết thì chụp lại vào cả những ngày sau nữa. Chụp hệ bạch huyết sau khi bơm thuốc cản quang vào bàn chân ở cả hai bên có thể cho phép nhìn thấy được hình ảnh của các hạch bạch huyết bị bệnh nằm sâu trong ổ bụng. Xét nghiệm này đặc biệt có ích trong chẩn đoán bệnh Hodgkin, bệnh bạch cầu lympho và di căn ung thư tới hạch bạch huyết. Chụp hệ bạch huyết cũng cho phép phát hiện những rối loạn của tuần hoàn bạch huyết trong những trường hợp phù chi dưới không rõ nguyên nhân, phát hiện bệnh tràn dưỡng chấp phúc mạc, tràn dưỡng chấp phế mạc và dưỡng chấp niệu (đái ra dưỡng chấp). Chụp X quang hệ bạch huyết không cho thấy hình ảnh những hạch bạch huyết trong lồng ngực. Các tai biến khi chụp hệ bạch huyết bao gồm phù phổi cấp và sốc do không dung nạp iod. Tăng thân nhiệt, nhịp tim nhanh, buồn nôn và nôn cũng hay xảy ra.




Hệ bạch huyết bao gồm các tuyến nhỏ hình tròn (hay còn gọi là hạch) được hình thành từ các mô bạch huyết. Các hạch bạch huyết có vai trò rất quan trọng trong hệ miễn dịch của cơ thể, chúng có đặc điểm là sẽ sưng lên khi bị nhiễm trùng, hoặc cũng có thể do một nguyên nhân khác. Nếu thấy hạch bạch huyết sưng lên, bạn nên đi khám bác sĩ. Vì vậy nếu có thể tự mình kiểm tra các hạch này thì bạn sẽ phát hiện sớm được các căn bệnh.



1
Kiểm tra hạch bạch huyết
  1. 1
    Nắm được vị trí các hạch bạch huyết. Hạch bạch huyết chủ yếu tập trung ở cổ, xung quanh xương đòn, và ở vùng háng chân.
    • Hạch bạch huyết thường tập trung theo nhóm và có kích thước khoảng bằng hạt đậu.
    • Ở vùng háng chân người ta còn gọi các hạch này là hạch bẹn.
  2. 2
    Khép sát ba ngón tay giữa. Sau đó ép nhẹ mặt trong của ba ngón này lên bề mặt da, trên toàn bộ diện tích nơi các hạch thường tập trung.
  3. 3
    Ép ba ngón tay lên cẳng tay. Như vậy bạn sẽ cảm nhận được cảm giác của vùng cơ thể bình thường không sưng.
  4. 4
    Đặt ba ngón tay vào nách và trượt xuống dưới vài centimet. Tại đây các hạch bạch huyết thường nằm ở phía dưới của nách, gần khung xương sườn.
  5. 5
    Ấn nhẹ tay. Bạn có cảm thấy có gì đó không bình thường như khi ấn vào vùng cẳng tay? Bình thường bạn sẽ cảm nhận được khung xương sườn, cơ và lớp mỡ dưới da. Nếu bạn cảm thấy có một khối mềm thì có thể đó là hạch bị sưng.
    • Hãy lập lại động tác này dưới vùng nách bên kia bằng tay đối diện.
    • Các hạch khi sưng thường có kích cỡ bằng hạt đậu.[1]
  6. 6
    Kiểm tra các hạch ở vùng cổ và xương đòn. Tiếp tục sử dụng ba ngón tay giữa để ép nhẹ phía sau tai, kéo xuống dưới cổ bên dưới đường xương hàm, lập lại như vậy với tai bên kia bằng tay đối diện. Nếu bạn cảm thấy có một khối mềm thì có thể đó là hạch bị sưng. Ngoài ra có thể bạn cảm thấy đầy ở cổ họng và khó khăn khi nuốt.
  7. 7
    Chuyển xuống vùng nếp nhăn nơi gặp nhau giữa đùi và khung xương chậu. Khi ấn ba ngón tay vào vùng này bạn thường sẽ cảm nhận được phần cơ, xương và lớp mỡ bên dưới. Nếu thấy có khối u thì đó có thể là một hạch bị sưng.

2
Khi nào nên đi khám bệnh
  1. 1
    Chú ý các hạch bị sưng. Đôi khi hạch bạch huyết sưng do dị ứng, nhưng nếu vì lý do này thì nó sẽ hết sưng sau vài ngày. Nếu các hạch vẫn tiếp tục bị sưng trong thời gian dài thì bạn cần phải đi khám bệnh để biết nguyên nhân.[2]
  2. 2
    Tìm các triệu chứng khác. Các hạch bạch huyết bị sưng có thể là dấu hiệu cho thấy hệ miễn dịch đang phản ứng để kháng lại một căn bệnh nguy hiểm nào đó. Do đó bạn hãy lập tức đi khám bệnh nếu thấy có hạch bị sưng kết hợp với bất kỳ các triệu chứng nào sau đây:[3]
    • Giảm cân không rõ lý do
    • Đổ mồ hôi vào ban đêm
    • Sốt kéo dài
    • Gặp khó khăn khi thở hay nuốt
  3. 3
    Chẩn đoán bệnh. Khi tới phòng khám, bác sĩ thường sẽ yêu cầu xét nghiệm để xác định các căn bệnh phổ biến có thể gây ra sưng hạch, để từ đó vạch ra phác đồ điều trị phù hợp. Các căn bệnh phổ biến dưới đây thường có liên quan tới hiện tượng sưng hạch bạch huyết:
    • Nhiễm trùng do virus hay vi khuẩn.
    • Các căn bệnh có liên quan tới hệ miễn dịch như bệnh lupus hay viêm khớp.[4]
    • Các loại bệnh ung thư.

Lời khuyên

  • Hạch bạch huyết có thể bị kích ứng nếu bạn hay sờ vào chúng, vì vậy đừng sờ quá nhiều để tránh bị sưng.
  • Hiện tượng hạch bạch huyết bị sưng là khá phổ biến, song thông thường chúng sẽ hết sưng sau vài ngày.
  • Hạch bạch huyết thường bị sưng nhưng không có nghĩa đó là dấu hiệu của bệnh. Nếu cảm thấy không khỏe và có hạch bị sưng, đồng thời có những triệu chứng không phải của bệnh cảm hay cúm thông thường, bạn hãy đi khám bệnh.







Phù bạch huyết là sự tập trung dịch bạch huyết ở một bộ phận của cơ thể. Bình thường, dịch bạch huyết lưu thông qua một hệ thống mạch giữa các hạch bạch huyết và cuối cùng trở về máu. Dịch bạch huyết chống lại nhiễm trùng và loại bỏ dị vật ra khỏi da và mô. Sự tắc nghẽn dòng chảy bình thường của dịch bạch huyết gây phù bạch huyết. Nguyên nhân của tình trạng này thường là do phẫu thuật, ung thư, mắc bệnh lây nhiễm và xạ trị. Bệnh nhân bị phù bạch huyết có nguy cơ nhiễm trùng tại phần cơ thể bị ảnh hưởng.

Triệu chứng

Các triệu chứng bao gồm sưng một bộ phận cơ thể, thường là cánh tay hoặc chân. Có thể đau âm ỉ hoặc đau thắt ở phần cơ thể bị ảnh hưởng. Khi bệnh nặng, các chi bị ảnh hưởng có thể chảy dịch.

Chẩn đoán

  • Hỏi bệnh sử và khám thực thể.
  • Xét nghiệm máu, bảng chuyển hóa toàn diện (CMP) và chẩn đoán hình ảnh (CT Scan, siêu âm) có thể được thực hiện để chẩn đoán phù bạch huyết.

Điều trị

Điều trị nhằm mục đích giảm hiện tượng phù bạch huyết ở bộ phận bị ảnh hưởng. Bệnh nhân thường được chỉ định phải nâng cao chân, có chế độ ăn ít muối, mang vớ (tất) nén. Massage phần cơ thể bị ảnh hưởng có thể có tác dụng tốt.
















No comments:

Post a Comment