Bài giảng 1: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Tại sao Trung Quốc thành lập những trung tâm chữa bệnh ở nước ngoài với tên gọi là SINOTHERAPY.
Tại sao Nhật Bản lại viết sách về hướng dẫn SHIATSU (bấm huyệt) với
tiêu đề là LE MASSAGE JAPONNAIS (JAPANESE MASSAGE) thì tại sao không thể
và không có cái gọi là VINATHERAPY cho Việt Nam?
Vẫn biết y học, khoa học là vốn quý của loài người, là tài sản chung
của nhân loại, là luôn luôn kế thừa và học hỏi lẫn nhau. Nhưng tại sao
các nước nói trên (và có lẽ nhiều nước khác mà chúng ta chưa được biết)
lại phải làm như trên? Phải chăng có gì độc đáo hay vì tự hào dân tộc mà
họ làm thế? Và nếu làm theo thì có gì sai, có gì xấu mà không thấy ta
hưởng ứng? Hay vì tại chúng ta không có cái gì riêng biệt và độc đáo,
cho nên chúng ta không thể nói được như họ ? CENTER
Lịch sử nước ta
hiện nay cũng như trước kia có nhiều nhân tài về y học với những tên
tuổi mà có lẽ không phải chỉ những người trong ngành Y mới biết như Tuệ
Tĩnh, Nguyễn Đại Năng, Hải Thượng Lãn Ông,…hay thời gian gần đây như BS
Phạm Ngọc Thạch, BS Đặng Văn Ngữ, GS Tôn Thất Tùng, BS Phạm Bá Cư,..và
nhiều vị khác. Nhưng theo chúng tôi, bấy nhiêu vị đó chưa phải là nhiều
so với một dân tộc có hơn 60 triệu người và 4000 năm văn hiến. Dân tộc
Việt Nam vốn có óc quan sát tinh tế, nhạy cảm và có năng khiếu về Y học,
ngoài ra vì điều kiện địa lý và xã hội đặc biệt nên có nhiều bệnh tật
xảy ra, do đó thầy thuốc Việt Nam có điều bkiện trở nên giỏi giang, có
nhiều kinh nghiệm trị bệnh. Do đó, theo chúng tôi, chúng ta có điều kiện
để có những sáng tạo độc đáo về Y học để tiến tới hình thành TRƯỜNG
PHÁI Y HỌC VIỆT NAM nếu chúng ta DÁM TỰ TIN và có Ý HƯỚNG CÙNG QUYẾT TÂM
XÂY DỰNG MỘT TRƯỜNG PHÁI Y HỌC MANG SẮC THÁI VIỆT NAM.
Y học là một
tài sản chung của nhân loại, nhưng trong cái chung bao giờ cũng có cái
riêng. Và cái đáng sợ nhất là THA HÓA-ĐỒNG HÓA-VONG THÂN mà khởi đầu là
sự NÓI THEO NGƯỜI, LÀM THEO NGƯỜI, NGHĨ THEO NGƯỜI. Nói tóm lại, không
có gì của riêng mình cả. Một điều như thế theo tôi là đáng buồn, và nhất
là không có gì để đóng góp vào nền văn minh, tiến bộ chung của nhân
loại cả.
Trở lại vấn đề đặt ra lúc đầu, cái gọi chung là VINATHERAPY là gì? Như thế nào mới gọi là VINATHERAPY? Phải chăng những phương pháp Y học cổ truyền đang sử dụng và thừa hưởng không phải là VINATHERAPY hay
sao mà còn đề xướng cái mới? Tất nhiên, khi chúng tôi đề xướng như vậy
là phải có lý do nào đó. Có lẽ chúng ta phải hết sức vô tư, khách quan
để xem lại toàn bộ vốn liếng Y học của ta, từ sách vở kinh điển cho đến
các phương pháp chẩn đoán và điều trị lâm sàng, có bao nhiêu phần trăm
người (Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Mỹ,..) và bao nhiêu là của mình
(tức là không tìm thấy ở bất kỳ dân tộc nào khác)? Hẳn ai cũng thấy rằng
ta chịu ảnh hưởng nặng nề của người vô cùng, không chỉ ở lĩnh vực Y học
hiện đại mà ngay cả lĩnh vực Y học dân tộc cổ truyền cũng vậy. Cho nên
một lúc nào đó, chợt nghĩ lại hay có người ngoại quốc hỏi đâu là nền Y
học mang nặng bản sắc độc đáo của dân tộc, cái gọi là riêng của Việt Nam
thì quả là lúng túng khi trả lời (họa chăng chỉ có thuốc nam và một số
thủ thuật trị bệnh có tính sáng tạo). Vì ta cũng có chung ông tổ
Hippocrate của Tây Y và Hoàng Đế, Thần Nông như Đông Y. Chưa kể đến sách
vở và cách làm cũng tương tự như cách làm của các Thầy thuuốc Đông và
Tây Y. Phải chăng đó là thân phận bắt buộc của một nước tiểu nhược đứng
cạnh một nước khổng lồ về mọi phương diện? Chúng tôi không nghĩ như thế.
Một nước dù nhỏ đến đâu vẫn có nét độc đáo của nó má các nước khác lớn
mạnh hơn cũng không thể nào có được. Đó chính là thế mạnh của nước nhỏ
đó vậy.
Đến đây có lẽ các bạn đã hiểu: muốn thế giới gọi là VINATHERAPY thì phải như thế nào? Tôi nghĩ rằng dân tộc ta, trí thức ta nhất định sẽ tìm ra cái gọi là VINATHERAPY đúng
nghĩa của nó. Vì rằng chúng ta có đủ điều kiện để làm việc đó, miễn là
dám tin vào mình, dám nghĩ, dám làm và quyết tâm làm;đồng thời lãnh đạo
ngành phải hết sức quan tân giúp đỡ để nhân tài phát triển về số lượng
cũng như chất lượng.
Theo nhận định trên về VINATHERAPY,
chúng tôi thấy hiện nay nước ta đã có thuốc Nam và một số phương pháp
gọi là Y học Dân gian như cạo gió, chích lể (Ông Oắng) hay bấm huyệt (Bà
Hùynh Thị Lịch), đốt bấc, biêm khoa, chữa mẹo,…(có thể còn nhiều liệu
pháp nữa mà chúng tôi chưa biết được) là đích thực của dân tộc ta. Nhưng
phần lớn những liệu pháp vừa kể hiện nay chưa đủ sức và tầm cỡ để phát
triển ra các nước khác vì thiếu tính hệ thống và lý luận ở trình độ cao.
Chúng tôi muốn nói ở đây về một VINATHERAPY với tính
cách như một trường phái Y học độc đáoViệt Nam so với các trường phái
khác của Thế giới (như Sinotherapy của Trung Quốc với các phương pháp
chữa bệnh đặc thù của họ như thuốc Bắc, Thái Cực Quyền, Châm cứu…tức là
nó phải có tính hệ thống, tính lý luận mang sắc thái riêng của Việt Nam
và ở trình độ cao tầm cở Thế giới và mang tính chất Quốc tế, chứ không
phải chỉ là một số kinh nghiệm điều trị hay thủ thuật mang tính chất
địa phương khó áp dụng ở các nước khác nhau mà không có hệ thống lý luận
đồng bộ và xuyên suốt.
Với ý thức như
vậy, trong giai đoạn 13 năm qua (1980-1993), chúng tôi đã cố gắng hoàn
thành và giới thiệu phổ biến trong và ngoài nước phương pháp DIỆN CHẨN- ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP, gọi tắt là DIỆN CHẨN hay FACY(chữ viết tắt của FACE DIAGNOSIS-CYBERNETIC THERAPY)
cũng như phương pháp Am Dương Khí Công (là một phương pháp thở mới do
tôi nghiên cứu sáng tạo từ năm 1976 nhằm điều hòa hai khí Am Dương trong
cơ thể, vừa có tính chất dưỡng sinh, vừa để phòng và trị một số bệnh do
mất quân bình Am Dương gây ra) và Am Thực Liệu Pháp (là một phương pháp
chữa bệnh bằng cách ăn uống đúng phép).
Chúng tôi cho rằng đã đến lúc Việt Nam phải
đóng góp phần mình cho Thế giới. Tôi nghĩ: Dân tộc ta hoàn toàn có đủ
khả năng và tiềm năng đó, nhất là ỡ lĩnh vực Y học và Khoa học. Làm được
việc này là thể hiện rõ lòng yêu nước của mỗi cá nhân chúng ta.
| ||
GSTS. Bùi Quốc Châu |
Bài giảng 2: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 2: Vài nét về lịch sử của môn Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (Facy) Bùi Quốc Châu ( 17 tháng 8 năm 1991)
Trong lịch sử Y học thế giới đã có một số phương pháp tương tự với Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (Facy) nếu xét qua về mặt hình thức
Vì nó dựa trên nguyên tắc phóng chiếu (Projection) - trong khi FACY dựa
trên nguyên tắc Phản Chiếu (REFLECTION) là một hình thức tương tự phóng
chiếu nhưng đa chiều (MULTI-DIRECTION) trong khi Phản Chiếu chỉ có một
chiều trên một mặt phẳng duy nhất. Phản Chiếu (reflection) có thể gọii
là Phản Chiếu nhiều chiều và đa hệ (multisystem). do đó nó cũng khác
phàn xạ cổ điển là phản xạ đơn hệ.
Các phương pháp đó là Vọng
chẩn của Đông Y cổ truyền (Medecine Traditionnelle Orientale). Nhãn
chẩn (L’Iriscopie) của Ignas Peczely (1880), phương pháp kích thích vùng
bên trong mũi để trị bệnh (Réflexothérapie endonassale) của Bonnier
(1930), cũng như của Asuero (1931), Diện châm (Faciopuncture), Tỵ châm
(Nasopuncture) của Trung Y (Médecine Chinoise), Nhĩ châm
(Ariculothérapie) của P.Nogier, Thủ châm (Manophuncture) và túc châm
(Podopuncture). Mỗi phương pháp trên đều có hình chiếu hoặc những điểm
tương ứng với các bộ phận trên cơ thể, dùng để chẩn đoán hay trị bệnh.
Tuy nhiên DC-ĐKLP (Gọi tắt
là Diện Chẩn hay FACY mà ở Pháp hiện nay gọi tắt là Phản xạ học vùng
mặt (Réflexologie faciale) hoàn toàn không phải là Vọng chẩn hay Diện
chẩn của Trung Y vừa nêu trên. Trước hết vì đây là một phương pháp do
người Việt Nam tìm
ra và xây dựng (ông Bùi Quốc Châu) chỉ cách đấy 13 năm (từ đầu năm 1980
tại TPHCM). Kế đến vì nó không bắt nguồn hay thừa kế từ Vọng chẩn, Diện
châm hay Tỵ châm của Trung Y cũng như châm cứu nói chung mà trái lại nó
có xuất phát điểm từ những kinh nghiệm dân gian Việt Nam, từ nền văn
hóa triết học đông phương, trong đó có ngôn ngữ Việt Nam, văn chương
bình dân Việt Nam được thể hiện qua ca dao, tục ngữ phương ngôn và những
câu nói dung tục (vulgaire) trong dân gian.
Thật vậy, chính từ những phát xuất kể trên mà phương pháp DIỆN CHẨN (FACY) được
hình thành. Việt Nam 4000 năm văn hiến, với những kinh nghiệm dân gian
phong phú thuộc nhiều lĩnh vực, được thể hiện dưới dạng văn chương bình
dân như ca dao, tục ngữ, những câu chuyện tiếu lâm hoặc trong văn chương
bác học, ngôn ngữ học. Ngoài ra nó còn được thể hiện dưới dạng kinh
nghiệm của quần chúng trên một số lĩnh vực nào đó, trong đó Y học Dân gian. Ví dụ: Từ
nhỏ tôi đã thấy người ta “bắt gió” hoặc dán hai lát gừng ở hai bên thái
dương cho những người bị nhức đầu ,”cạo gió” cho những người bị cảm,
dán đuôi lá trầu vào Ấn đường (giữa hai đầu chân mày) cho em bé bị nấc
cụt, giật tóc mai cho người bị xỉu tỉnh dậy (hoặc tạt nước lạnh vô mặt
họ)… Khi lớn lên, tôi cũng thường nghe hoặc đọc thấy những câu tục ngữ
như “Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo cỗ lòng mới ngon”, hay
là “Trông mặt biết người” hoặc dung tục hơn “Mồm sao ngao vậy”, “Đa mi
tất đa mao” (Chính những câu chuyện này là cơ sở để tôi khám phá và xây
dựng nên đồ hình phản chiếu bộ phận sinh khoa). Tôi cũng được biết trong
dân chúng có người chỉ cần nhìn vào nốt ruồi hay tàn nhang trên mặt của
một người đó,họ cũng có thể đoán biết được người kia có một nốt ruồi
hay tàn nhang ở chổ nào trong cơ thể. Ngoài ra còn có những người có tài
xem tướng mặt (Diện, tướng) có thể nhìn mặt một người mà đoán biết được vận hạn tốt xấu hay bệnh tật sắp xảy ra. Đôi khi họ chỉ cần nhìn vào Ngọa tàm (Mí
mắt dưới) mà đoán biết được tình trạng con cái của người khác. Điều
này đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc tìm ra và xây dựng Đồ hình buồng
trứng (noãn sào) trên mặt một cách nhanh chóng và chính xác. Đối với
tôi, những điều kể trên vô cùng quý báu. Nó chính là Chất xám của quần
chúng. Ông cha ta truyềnlại từ đời này sang đời khác mà tôi chỉ là người biết kế thừa và khai thác vận dụng được TÚI KHÔN MUÔN ĐỜI này để xây dựng được phương pháp DIỆN CHẨN (FACY) ngày nay có ích lợi cho nhiều người, cho nên tôi rất trân trọng và yêu mến TÚI KHÔN đó.
Sau này, tôi có nghiên cứu
thêm về Tây Y thì được biết thêm nhiều điều rất hay, phù hợp với kinh
nghiệm dân gian và tướng học. Thí dụ như: Hai quầng mắt thâm ở các phụ
nữ có vấn đề ở buồng trứng, hai má đỏ ở bệnh nhân lao phổi, bệnh yếu
sinh lý thường gặp ở người bị viêm mũi dị ứng,….Nhà bác học nổi tiếng
người Pháp, Alexis Carrel cũng giúp tôi rất nhiều khi ông viết trong tác
phẩm của ông: “L’homme, cet inconnu”…và “Chaque homme porte sur sa face
la description de son corps et son âme”. Phải chăng Đông Tây đã găp
nhau ở chỗ này?”
Những đềiu vừa kể trên đã
gơi ý cho tôi suynghĩ nhiều về vai trò quan trọng của bộ mắt cũng như sự
liên quan giữa bộ mặt và cơ thể con người. Rồi nhờ những kiến thức Đông
Y.Châm cứu (trong đó phải kể đến công trình của các cụ Tuệ Tĩnh, Hải
Thượng Lãn Ông, Nguyễn Đại Năng) và Tây y, tôi được biết một cách rõ
ràng và khoa học hơn những mối liên hệ bộ mặt và cơ thể, nhưng phải thật
tình mà nói, chính nhờ Đồ hìnhbào thai lộn ngược trên loa tai của Nhĩ
châm mà tôi áp dụng lúc bấy giờ đã gợi ý cho tôi cố gắng tìm ra đồ hình
tương tự như thế ở trên mặt (Về điều này, tôi phải đặc biệt cảm ơn bác
sỹ P.NOGIER)
Từ đó với niềm tin tưởng
và quyết tâm, cộng với môi trường rất tốt cho việc nghiên cứu(nơi tôi
đang làm việc lúc bấy giờ là Trung tâm cai nghiện Ma Túy ở Bình Triệu
(Thủ Đức) nay gọi là Trường Xây dựng lao động Thanh Niên mới, nơi thường
xuyên có hàng ngàn bệnh nhân nghiện ma túy với đủ loại bệnh tật) đã
giúp tôi có dịp quan sát các dấu vết bất thường trên gương mặt của họ
cũng như có điều kiện châm từng mũi kim trên các huyệt ở MẶT với từng bộ
phận của cơ thể, đồng thời để xác minh cho các giả thiết của mình về
sau này.
Với sự say mê, kiên trì và
làm việc nghiêm túc qua thời gian dần dà tôi phát hiện ra những mối
quan hệ giữa những điểm trên MẶT và các khu vực với toàn thân. Nhưng có
lẽ điều đặc biệt nói đến đây là tôi nghiên cứu khám phá ra những bí
ẩn của BỘ MẮT theo hướng khác với các tác giả có những công trình tương
tự trước đây (Nhĩ châm, Đầu châm, Thủ châm,Túc châm).
Ai cũng biết trong việc
khám páh xây dựng và phát triển một phương pháp phản xạ như kiểu Nhĩ
châm hay Túc châm, vấn đề khó nhất là tìm ra huyệt một cáh chính xác và
qua đó xác định vùng phản xạ một cách có hệ nhất quán (Unité).
Như trên đã nói, tôi không xây dựng phương pháp bằng những kinh nghiệm lần mò hoặc có tính cách ngẫu nhiên. Trái lại Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (Facy) xây dựng theo một hướng đã định trước dựa trên một phương pháp luận đã có ngay từ bước đầu.
Thật vậy, những nguyên tắc tìm ra huyệt hay Đồ hình một cách chính xác
và mau chóng đã được tôi khám phá và xây dựng từ những câu nói giản đơn
của cổ nhân, chủ yếu trong lĩnh vực Triết học, Văn học, Ngôn ngữ học
Đông phương và Việt Nam. Ví dụ như: thuyết BẤT THỐNG ĐIỂM (Théorie de POINT NON DOULOUREUX) đã
được tôi dùng để tìm ra và xác định huyệt một cách vô cùng chính xác
hơn cả máy dò huyệt hiện đại) là do tôi vận dụng khái thác câu “ Dương
trung hữu Âm, ÂM trung hữu Dương” (trong Dương có Âm, trong Âm có
Dương) trong Dịch kinh và Nội kinh. Từ câu này tôi suy luận ra như sau:
“Trong điểm(vùng)đau (Dương) tất sẽ có điểm không đau (Âm)”.
Tất nhiên điều này
thoạt tiên chỉ là giả thiết, nhưng sau khi tôi đưa vào ứng dụng trên lâm
sàng thì tôi thấy ngay kết quả hoàn toàn đúng với giả thiết mà tôi đã
đề ra. Nhưng
để đảm bảo tính khách quan và tính quy luật, tôi đã phải tiến hành nhiều
lần thí nghiệm này trên nhiều bệnh nhân khác nhau (về sau này tôi còn
yêu cầu các cộng tác viên và học viên của tôi lặp lại nhiều lần thí
nghiệm ấy để kiểm tra lý thuyết nêu trên. Và tất cả đều xác nhận tính
đúng đắn xác thực của nó). Để cho dễ hiểu lý thuyết này, tôi có thể nói
“thay vì lấy điểm đau làm huyệt” như trong trường hợp A thị huyệt của
châm cứu thì tôi lấy điểm không đau làm huyệt. Trên thực tế cách tìm
huyệt của tôi, vốn được vận dụng một cách sáng tạo từ một nguyên lý
trong Kinh dịch và Nội kinh đã giúp tôi tìm được nhiều huyệt rất chính
xác và có giá trị. Việc này đã đóng góp rất lớn trong việc xác định
những vùng tương ứng trên MẶT với các phần của toàn cơ thể. Lẽ dĩ nhiên
quy tắc tìm huyệt như trên là một trong nhiều cách tìm huyệt mà tôi đã
nghiên cứu ra.Nhưng có thể nói đó là quy tắc tìm huyệt đầu tiên của tôi
và phải nói nó rất lạ, khác xa với các tìm huyệt đã được biết xưa nay,
ví dụ: lấy điểm đau làm huyệt, điểm có điện trở thấp (đo bằng máy dò
huyệt)…Điều đáng lưu ý là huyệt số 1 nằm nơi đầu mũi là huyệt đầu tiên
tôi khám phá ra bằng cách châm bằng kim theo thuyết BẤT THỐNG ĐIỂM vừa
nêu trên.
Còn việc khám phá và
vẽ ra các Đồ hình trên Mặt( và sau này trên tòan thân) tức là những vùng
phản xạ được hệ thống hóa một cách nhất quán là do tôi vận dụng một
trong những quy tắc cốt yếu và đồng thời cũng là quy tắc đầu tiên để
khám páh và thiết lập Đồ hình. Đó là quy tắc Đồng hình tương tự
(Correspondance en même forme). Phải nói chính nhờ quy tắc này mà tôi khám phá ra nhiều Đồ hình phản chiếu một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Quy tắc này do đâu mà có?-
Thật ra ít có ai biết được rằng quy tắc này được gợi ý từ câu “ĐỒNG
THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU” trong Kinh Dịch (chương văn ngôn,
quẻ Kiền)(1). Trong câu này, tôi khám phá ra điểm then chốt là chữ Đồng
(tức là giống nhau hay tương tự nhau) nghĩa là hễ ĐỒNG là có LIÊN HỆ
NHAU, TƯƠNG ỨNG NHAU.Từ đó tôi triển khai thêm một vế nữa là ĐỒNG HÌNH
TƯƠNG TỰ, nghĩa là cái giống nhau hay cái tương tự hình dạng nhau thì có
liên hệ hay quy tụ lại với nhau (Quy tắc này về sau được tôi khái quát
hóa thành THUYẾT ĐỒNG ỨNG với ý nghĩa rộng lớn bao quát trên nhiều lĩnh
vực họn).
Chính quy tắc ĐỒNG HÌNH
TƯƠNG TỰ đã tham gia vào việc giúp tôi quyết định chọn giả thuyết đầu
tiên trong việc thiết lập các Đồ hình phản chiếu trong FACY.
Đó là giả thiết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG. Tôi nói quy tắc ĐỒNG
HÌNH TƯƠNG TỰ góp phần vào việc tạo nên giả thiết vừa nêu trên là vì
trước đó tôi có suy nghĩ về một nét đặc biệt trong ngôn ngữ học Việt
Nam, đó là việc ghép cùng một chữ (đồng tự) vào những bộ phận hay vật
khác nhau nhưng có hình dạng, tính chất, vai trò hay vị trí giống nhau
hoặc tương tự nhau. Ví dụ như Cổ tay, Cổ chân, Cổ họng, Cổ gáy hoặc SỐNG
LƯNG, SỐNG MŨI, SỐNG DAO,…Điều này không thấy rõ nét lắm ở ngôn ngữ
Anh, Pháp, Hoa….Phải chăng cổ nhân Việt Nam đã thấy được sự liên quan
giữa những bộ phận kể trên cho nên đặt cùng một chữ, ngoài ra còn
có những câu có nói dung tục trong dân gian như “ MÒM SAO NGAO VẬY”
(tạm dịch ra tiến Anh là :LIKE MOUTH, LIKE VULVA” hoặc “TEL BOUCHE,TEL
VULVE” trong Pháp văn) hoặc trong ngôn ngữ Pháp chữ LÈVRE là MÔI cũng
dùng chỉ để tiểu và đại âm thần (Petit lèvre et Grand lèvre) của bộ phận
sinh dục nữ. Một lần nữa, Đông Và Tây Y gặp nhau. Hay ĐA MI TẤT ĐA MAO
(người có nhiều lông mày thường có nhiều lông ở bộ phận sinh dục- được
hiểu ngầm), cũng diễn tả sự liên quan giữa những bộ phận của cơ thể có
hình dạnh tương tự nhau. Rồi trong lĩnh vực Y học Dân gian Việt Nam, tôi
cũng thấy có nhiều bài thuốc được cấu tạo theo quy tắc ĐÔNG HÌNH TƯƠNG
TỰ.
Nêu trên (ví dụ: dùng tim
heo chung với Thần sa, Châu sa để trị chứng hồi hộp tim, bao tử heo dồn
với hột tiêu chưng cách thủy để rị bệnh đau bao tử do lạnh, hạt ké đầu
ngựa dùng trị sạn ké trong thận…)
Chính những sự kiện này rải rác trong các lĩnh vực thuộc Khoa học nhân văn, Khoa học tự nhiên hay Y học Dân gian đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều về mối quan hệ có tính quy luật giữa những sự vật ở lĩnh vực hay bộ phận khác nhau mà
trong đó nhũng liên hệ giữa những cái giống nhau hay tương tự nhau là
một quan hệ có tính quy luật và quy luật này có giá trị phổ quát
(universel) chứ không phải chỉ phổi trong phạm vi hẹp (như Y học chẳng
hạn).
Từ suy nghĩ này cộng
với việc thấm nhuần tư tưởng NHẤT NGUYÊN LUẬN (Monisme) trong Triết học
Đông phương được thể hiện bằng những câu như “Vạn vật đồng nhất thể”,”
Nhân thân tiểu thiên địa”, “Thiên nhân hợp nhất”(Vạn
vật cùng một thể - Thân thể con người là một vũ trụ nhỏ- Trời và người
hợp thánh một)…khiến tôi dễ dàng phát hiện ra một mối quan hệ giữa sống mũi và sống lưng cũng
như dễ dàng chọn giả thiết hay cốt mốc đầu tiên. SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG HAY
PHẢN CHIẾU SỐNG LƯNG để từ cơ sở này (sau khi đã xác định là đúng) phát
triển thành Đồ hình Dương (hình người đàn ông) ở giữa mặt và sống mũi
là sống lưng, hai gờ mày là hay cánh tay, đỉnh đầu ở giữa trán (mặt úp
xuống), hai đùi là vùng môi trên giới hạn bởi hai nếp nhăn mũi má, đầu
gối ở hai bên khóe miệng và bàn chân là ụ cằm….Điều này khá trùng hợp
với nhận xét của người Pháp qua câu : LE NEZ C’EST’HOMME.
Việc xác nhận giả thiết
sống mũi tương ứng với sống lưng là đúng, xảy ra vào sáng ngày
26/03/1980 trên bệnh nhân nghiện ma túy tên là Trần Văn Sáu tại Trường
Fatima, Bình Triệu như các trường hợp nghiện ma túy khác bậnh nhân rất
đau ở cột sống thắt lưng khi lên cơn nghiện ma túy. Thế mà chỉ sau hơn 1
phút kể từ khi tôi châm một mũi kim vào đầu mũi (ở chỗ cuối xương sụn
mũi mà tôi ước tính là tương ứng với thắt lưng đang bị đau của bệnh nhân
theo quy tắc CHÂM VÀO BẤT THỐNG ĐIỂM (điểm không đau) thì một sự kỳ
diệu xảy ra là bệnh nhân giảm đau cột sống thắt lưng một cách rõ nét đến
mức giảm đau nhiều hơn là hôm qua tôi châm vào điểm đốt sống thắt
lưng ở đối vành tai theo Nhĩ châm(cũng châm vào điểm không đau) cũng để
trị cơn đau cột sống thắt lưng của anh ta. Ngoài ra còn có hiện tượng
đặc biệt là có một đường dẫn truyền như kiến bò chạy từ nơi châm vòng
qua đầu đến nơi đang đau ở cột sống thắt lưng ngay sau khi châm, nghĩa
là điều này đã chứng minh được giả thiết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG
LƯNG là chính xác.
Với kết quả như trên được
lặp lại trên nhiều bệnh nhân khác nhau, tôi càng tin tưởng vào THUYẾT
BẤT THỐNG ĐIỂM cũng như THUYẾT ĐỒNG ỨNG với hệ luận của nó là quy tắc
ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỤ, do đó tôi lại sử dụng những quy tắc trên vào việc
tìm những huyệt và vùng tương ứng khác của cơ thể ở trên Mặt. Có thể
nói các quy tắc này như chiếc đũa thần hay chiếc chìa khóa kỳ diệu giúp
tôi mở được cánh cửa sinh học đầy kỳ bí trên cơ thể sống của con người
một cách nhanh chóng.
Thật vậy, từ những Đồ hình
phản chiếu ở trên Mặt được khám phá và vẽ ra trong vòng 3 năm (từ năm
1980 đến 1983) với 22 hệ, chó đến những hệ thống Đồ hình phản chiếu trên
DA ĐẦU được tìm ra năm 1988 và hệ thống phản chiếu CÁC BỘ PHẬN Ở TOÀN
THÂN (năm 1989), kể cả hệ phản chiếu trên LOA TAI với nhiều đồ hinh khác
nhau(tất nhiên là khác với Đồ hình bào thai lộn ngược cũa Bs Nogier)đều
có sự đóng góp của thuyết ĐỒNG ỨNG. Trong phương pháp DIỆN CHẨN FACY còn
có nhiều thuyết khác, như thuyết PHẢN CHIẾU, ĐỐI XỨNG, GIAO THOA, BẤT
THỐNG ĐIỂM ,TAM GIÁC, NƯỚC CHẢY VỀ CHỖ TRŨNG…Tất cả đều góp phần vỏa
việc xây dựng phương pháp. Nhưng có một điều cần được nhấn mạnh ở
đây là hầu hết những thuyết trên nền tảng của phương pháp đều được gợi ý
từ những lĩnh vực bên ngoài Y học chính thống mặc dù trong việc kiến
trúc toàn bộ phương pháp đều có sự góp mặt của 3 dòng Y học.
Y học cổ truyền, Y học hiện đại và Y học dân gian. Đây có lẽ là nét đặc thù của phương pháp DIỆN CHẨN (FACY)so
với các phương pháp tương tự khác đã có trên thế giới trước đây. Vì rõ
ràng từ phát điểm cho đến việc tiến hành xây dựng hệ thống lý thuyết
không đi theo chiều dọc thẳng đứng từ Y học xuống mà lại đi theo chiều
nagng từ các ngành KHOA HỌC NHÂN VĂN như Triết học, Văn học, Ngôn ngữ
học, Tướng học…Sau đó được bổ sung bằng các chất liệu khác như điều
khiển học, Hình học, Trường sinh học, vật lý học,…
Tóm lại, DIỆN CHẨN (FACY) không
phải là một sản phẩm đơn thuần Y học mà là kết quả tổng hợp của nhiều
ngành khác trong đó chủ yếu là văn hóa và triết học Đông Phương (như
Phật, KHổng, Lão, Thiền, Dịch học….)có thể nói nó là đứa con tinh thần
của VĂN HÓA VIỆT NAM vời tính TỔNG HỢP, CHIẾT TRUNG VÀ SÁNG TẠO NHUẦN
NHUYỄN. Chúng tôi gọi nó là Y ĐẠO(I’TAO) hay Y HỌC-VĂN HÓA TRIẾT HỌC vì
nó không dừng ở chổ Y thuật hay Y đức, mà cái nó nhắm tới là không chỉ
đem lại sức khoẻ cho thân thể và tinh thần của con người mà còn giúp mở
mang tâm trí (minh triết hơn) rồi thông qua chữa bệnh cho mình và cho
người mà dần dần đạt lý của trời đất vì con người và vũ trụ là một
(thiên nhân hợp nhất) cho nên thấu hiểu mình tất sẽ hiểu cái lý của trời
đất. Ngoài ra nó còn giúp mở rộng sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc
với nhau(vì theo NHẤT NGUYÊN LUẬN, TẤT CẢ LÀ MỘT), đóng góp vào việc
hình thành một nền văn hóa Thế Giới. Còn xét về mặt hình thức thì nó là tổng hợp của Phản xạ học nhiều hơn, nhưng là một phản xạ học mới:PHẢN XẠ ĐA HỆ (nếu có thể gọi được như vậy để phân biệt với phản xạ học cổ điển hay là Phản xạ đơn hệ). Hay còn gọi là PHẢN XẠ HỌC VIỆT NAM (Reflexologie
Vietnamienme). Đây cũng là một loại NHU Y (Médecine douce) hay Y HỌC
TỰ NHIÊN (Médecine naturelle) vì không dùng thuốc cũng không dùng kim
châm mà chỉ dùng tay hay dụng cụ (như cây lăn,cây cào,búa gõ, que dò, ngải cứu, máy xung điện facy).
Nó cũng là một hình thức của Y tế CỘNG ĐỒNG (La Santé Commune) và có
thể phổ biến rộng rãi cho nhiều người cùng học và làm được một cách dễ
dàng và an toàn nhất trong phạm vi Chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Bài giảng 3: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 3: Cơ sở Khoa học của Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (DC - ĐKLP)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Cho đến nay, không ít người đã gặt hái hoặc chứng kiến những kết quả gần
như kỳ diệu của “DC - ĐKLP” trong một số trường hợp chẩn đoán và điều
trị.
Trước những kết quả đó,
nhiều người không khỏi thắc mắc: “Tại sao tác động trên mặt mà lại hết
bệnh dưới chân? Tại sao lại có kết quả quá nhanh chóng hầu như khó tin
nếu không chứng kiến tận mắt? Tại sao nhìn mặt mà biết trong thận có
sạn..”
Để giải đáp phần nào những
thắc mắc đó, chúng tôi sẽ trình bày những luận thuyết mới trên Thế giới
trong lĩnh vực CHÂM CỨU, từ đó, chúng ta sẽ hiểu được phần nào kết quả
màDiện Chẩn - Điều khiển liệu pháp đã
làm được. Tuy nhiên đây chỉ là một phần của vấn đề. Ngoài ra bạn đọc
còn phải tham khảo những giả thiết mà chúng tôi đã trình bày trong sách “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp” để tạm thời giải thích những bí mật của cơ thể chúng ta, đặc biệt trong lĩnh vực “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp”.
Mong các bạn đọc hiểu trên tinh thần đó vì cho đến nay chưa ai có thể
tự hào là nắm rõ được cơ sở khoa học, cơ chế của CHÂM CỨU là gì? Trong
khi “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp” của chúng ta là một vấn đề còn mới mẽ, tuy rằng, thoạt nhìn qua nó giống như CHÂM CỨU. Thật
ra, phương pháp của chúng ta không phải là môn CHÂM CỨU mà là một bộ
môn khác mang nhiều màu sắc mới lạ. Thời kỳ đầu phạm vi tác động chỉ thể
hiện trên vùng MẶT gồm Đồ hình , tuy nhiên kể từ năm 1988, DIỆN CHẨN đã
phát triển lên Da đầu và từ năm 1989 đã triển khai ra toàn thân (cũng
gồm nhiều ĐỒ HÌNH PHẢN CHIẾU) làm cơ sở cho việc chẩn đoán và điều trị
II. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA DIỆN CHẨN:
Nếu coi DIỆN CHẨN chỉ là
NHÌN MẶT ĐOÁN BỆNH thì đây không phải là một vấn đề mới vì từ xưa trong
Kinh điển Đông Y đã có VỌNG CHẨN (chẩn đoán bệnh bằng cách nhìn). DIỆN
CHẨN của chúng ta mặc dù cũng dựa trên nguyên tắc biểu hiện những hình
thức khảo sát căn cứ vào nhiều yếu tố, đặc biệt trong đó có các dấu vết
xuất hiện trên da, dưới da. Trong phần dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu
những vấn đề có liên quan đến việc SỜ, ẤN các điểm
đau trên bề mặt cơ thể và nhìn các dấu vết trên da để đoán bệnh của Đông
Y, Tây Y và cơ sở khoa học cảu vấn đề này xuyên qua các công trình
nghiên cứu của các tác giả Nhật Bản. Thông qua các tư liệu này, bạn đọc
sẽ hiểu được DIỆN CHẨN một cách khoa học hơn.
1. Theo”Y học hiện đại” và “Y học cổ truyền”:
Tây Y có môn DEMATOLOGY (Khao bệnh da) là phương páhp nhìn vào các dấu vết và màu sắc riêng biết hiện ra trên da mà
biết bệnh, không chủ yếu dựa trên phạm vi vùng mặt mà là trên toàn cơ
thể. Phương pháp này có cơ sở khoa học, giải thích được vì sao mắc bệnh
giang mai lại hiện ra những nét đặc biệt trên mình và bộ phận sinh dục,
hoặc bệnh cùi thì có những biểu hiện ta ở vành tai, dái tai, ngón tay.
Sỡ dĩ người ta
có thể biết được bệnh qua các biểu hiện tr6en da là vì Y học hiện đại
nghiên cứu thấy rằng : Trong phôi thai Da và nội tạng là một .Do
đó, lúc phát triển thành con người thì lẽ tất nhiên khi Nội tạng có
bệnh thì ngoài da sẽ hiện ra các dấu vết khác thường tương ứng với bệnh
của nội tạng. Vì vậy chỉo cần vào biểu hiện ngoài da, người Thầy thuốc
chuy6en khoa sẽ biết bệnh nhân đang bị bệnh gi?
Bệnh tật của một hện thống ở sâu thường thể hiện ra những vùng tương ứng trên bề mặt cơ thể một cảm giác đau tức, mỏi tự phát.
Đó là cảm giác đã được cả Y học phương Tây lẫn Y học cổ truyền phương
Đông quan sát mô tả, nhưng Y học hiện đại thì tổng kết những vùng đau tự
phát ấy tàhnh những vùng gọi là Zakharine- Head và tìm ra cơ chế của nó
là một cung phản xạ cảm giác- nội tạng da. Do cùng một
TIẾT ĐOẠN thần kinh chi phối còn Y học cổ truyền phương Đôg sử dụng
những vùng đau tê mỏi là một trong những phương tiện để tìm ra cấu tạo
của hệ thống Kinh lạc.
Những vùng đau
tự phát hoặc ấn vào mới thấy đau như thế là nội dung của việc chẩn đoán
dựa trên cơ sở Kinh lạc cũng là một phương pháp của châm cứu (Huyệt A
trị). Do đó, để phát huy tốt tác dụng của CHÂM CỨU, các nhà châm cứu cần
vận dụng tốt các vùng đau vào chẨn đoán và điều trị.
Dựa trên quan sát các điểm đau và một số biểu hiện ở loa tai mỗi khi gặp một bộ phận nào đó của cơ thể bị bệnh có một số vòng tương ứng trên loa tai thường
có biểu hiện đau hoặc một số biểu hiện đặc biệt khác. Dựa trên kết quả
quan sát được, kết hợp vớpi tư duy khái quát hóa, tác giả Nogier (người
Pháp) đã vẽ được bản đồ các vùng của cơ thể. Nó giống như một
bào thai nằm lộn ngược ở loa tai. Dựa trên cơ sở đ1o, tác giả đã xây
dựng thánh công phương pháp châm ở loa tai và sử dụng loa tai vào chẩn
đóan.
Việc quan sát những vùng nhìn thấy có sự thay đổi khác biệt : sờ thấy nóng lạnh bất thường hoặc ấn thấy kết thành đám cứng nhắc hay mềm nhão cũng
là phương tiện để nền y học cổ truyền phương Đông tìm ra cấu tạo của hệ
thống Kinh lạc và xây dựng học thuết Kinh lạc (Viện Đông Y CHÂM CỨU HỌC
II).
Cơ sở vật
lý-sinh vật của sự biến đổi điện trở vùng da cùng huyệt: Các tác giả
Nhật Bản TACHINO và ISHIKAWA đã quan sát và giải thích hiện tượng biến
đổi điện trở của Da vùng Huyệt trong trường hợp bệnh lý như sau:
- Khi nội tạng
có bệnh, những kích thích bất thường từ nội tạng đi vào tủy sống, rồi
phản chiếu ra vùng da cùng tiết đoạn. Ngoài những phản xạ phức tạp (cảm
giác mạnh, gân cơ co rút, bài tiết thất thường, chuyển hóa, trở
ngại….)Nó còn gây ra những phản ứng của động mạch nhỏ ở hạ bì, những
động mạch nhỏ co lại, máu chảy không đều, da ở vùng động mạch chi phối
xuất hiện tượng giống như thiếu máu, gây nên sự tiết dịch thành những
điểm tròn rõ rệt, đường kính không quá -1mm.
- Hiện tượng
trên gọi là “Điểm phản xạ Da”. Đại bộ phận các “Điểm phản xạ Da” chỉ
thấy được qua kính hiển vi, đôi khi nhìn thấy bằng mắt thường dưới dạng
BAN NHỎ.
- NhỮng biến
đổi về tổ chức học trên kéo theo những biến đổi về diện Sinh học. Biểu
hiện bằng sự giảm điện trở và tăng điện dung. Sự biến đổi này phụ thuộc
vào mức độ thấm xuất của các động mạch nhỏ dưới Da (Viện Đông Y – CHÂM
CỨU HỌC II)
2. Theo “DIỆN CHẨN”
Qua những luận thuyết trên, ta sẽ hiểu được cáh chẩn đoán bằng DIỆN CHẨN LÀ
CÓ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA NÓ.Tuy nhiên cũng giống như Nhĩ Chẩn, DIỆN CHẨN
có điểm khác và độc đáo là căn cứ vào Đồ hình là những VÙNG PHẢN CHIẾU (còn
gọi là HÌNH CHIẾU) của cơ thể lên trên mặt được hệ thống hóa, ta có thể
chẩn đoán được bệnh mốt cách nhanh chóng và chính xác, tiện lợi hơn
thay vì phải khám cục bộ nơi đau như Thể châm. Các dấu hiệu chẩn đoán
cũng phong phú, đa dạng hơn như không chỉ có cảm giác không đau ở tại 1
điểm (Bất thống điểm) hoặc không chỉ lưu tâm đến Nốt ban mà còn để ý đến
mụn ruồi, vết sẹo, nếp nhăn, lỗ chân lông nở to, tai máu,….làm tiêu
chuẩn định bệnh.
Tuy nhiên cùng
cùng một nguyên tắc như ở các phương pháp vừa trình bay ở trên, tất cả
cùng có ý nghĩa trong chẩn đoán.
III.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA “DIỆN CHẨN LIỆU PHÁP”:
Cho đến nay, có lẽ không
ít người còn thắc mắc không rõ tại sao tác động trên MẶT mà lại trị được
bệnh bên dưới một cách hiệu quả. Phần trình bày sau đây sẽ cho thấy
những liên hệ giữa ĐẦU, MẶT và CƠ THỂ. Và qua đó, bạn đọc sẽ tự giải đáp
được phần nào thắc mắc nêu trên.
1. Theo Tây Y: Cơ thể học Tây Y cho biết có nhiều dây thần kinh đến Mặt trong đó có hai dây số 5 và số 7 phân bổ đều vùng mặt.
a) Dây số 5:
(Thần kinh sinh ba: Nerf trijumeau) chỉ huy cảm giác ở mặt phát ở hai
bên đầu não có 3 nhánh: 2 nhánh đầu là nhánh cảm giác, nhánh thứ 3 là
nhánh hỗn hợp bởi vì trong nhánh có những sợi vận động đến các cơ nhai.
Nhanh cảm giác th1ư nhất phân bố vào vùng da trên trán và ở mắt. Nhanh
thứ 2 phân bố vào hàmtrên và Da mặt ở ngang mức hàm trên. Nhanh thứ 3
phân bố hàm dưới.
b) Dây số 7:
(thần kinh mạch” Nerf facial) xúât phát ở hành não, đi vòa ống tai trong
của xương thái dương và đi ra khỏi xương thái dương bởi một lỗ trâm
chũm đến các cơ ở vùng Mặt. Ngoài các thầnh phần dây thền kinh. Mặt káhc
nó còn có những sợi thần kinh Mặt còn có những sợi thần kinh phó giao
cảm đi đến tuyến lệ, tuyến nước bọt dưới hàm và dưới lưỡi.
2. Theo Đông Y : Mặt là nơi hội tụ và xuất phát các kinh mạch.
a/ Kinh: Mặt là nơi tận cùng và cũng là nơi khởi phát của các kinh dương như:
+ Thủ dương
minh Đại Trường: Từ góc móng tay trỏ (huyệt Thương dương) theo mặt ngoài
cánh tay đi ngược lên đến vai rồi theo cạnh cổ đi lên mắt, chấm dứt ở
huyệt Nghinh hương (cạnh cánh mũi).
+ Túc dương
minh Vị kinh: Khởi từ huyệt Nghinh hương chạy lên huyệt Tinh minh (cạnh
đầu mắt) rồi xuống huyệt Thứa khấp(dưới mắt), từ đâu đổ xuống theo hai
bên ngực bụng, xuống mặt trước chân rồi chấm dứt ở huyệt Lê đoài(sát
móng chân trỏ)
+ Thủ thái
dương Tiểu trường: Từ huyệt Thiếu trạch ở phía ngoài móng tay út, chạy
ngược lên mặt ngoài phía cánh tay đi lên mặt rồi chấm dứt ở huyệt Thính
cung (cạnh lỗ tai)
+ Túc thái
dương bàng quang kinh: Bắt đầu từ huyệt Tinh minh ở đầu mắt, chạy lên
đầu qua gáy, xuống hai bên lưng, vào mặt sau chân, tận cùng ở huyệt Chí
âm (góc ngoài ngón chân ngón út)
+ Thủ thái dương Tam tiêu
kinh: Khởi từ huyệt Quan xung (cạnh móng tay của ngón áp út) đi ngược
lên mặt ngoài cánh tay qua cổ chạy phía sau tai ra tai trước đến huyệt
Tỵ trúc không cạnh đuôi mắt.
+ Túc thiếu dương Đởm
kinh: Từ đuôi mắt (Huyệt đồng tử tiêu) qua Thái dương ra sau tai vòng
lên đầu, xúông vai, chạy dọc hông sườn xuống mặt ngoài chân, chấm dứt ở
góc ngoài móng chân ngón áp út(huyệt Khiếu âm).
b/ Mạch: Mặt còn là nơi hội tụ của các Mạch như:
+ Nhâm mạch: Từ hội âm qua giữa bụng, ngực, lên mặt đến dưới mắt.
+ Đốc mạch: Từ tầng sinh môn, đi dọc cột sống, lến gáy, xuống sống mũi, chổ giáp nướu và môi trên.
+ Xung mạch: KHởi đầ từ
trong hố chậu, chạy xuống và nhô ra tại Hội âm. Đi lên bên trong dọc cột
sống, nhánh xuống chẻ ra làm hai và hợp với Thận kinh, chạy dài hai bên
bụng lên đến họng và vòng quanh môi.
+ Dương kiểu mạch: Từ mắt
cá ngoài chạy theo mặt ngoài chân lên hông sườn vòng qua vai lên cổ qua
má rồi vào đầu mắt, hợp với mạch Âm kiểu đến sau tài vào não.
+ Âm kiểu mạch: Từ mắt cá
trong theo mặt trong chân lên bụng(qua bộ phận sinh dục ngoài) lên ngực,
qua họng lên đầu mắt, hợp với mạch Dương kiểu đến sau tai và não.
+ Dương duy mạch: Từ
huyệt Kim môn ở canh bàn chân chạy theo mặt ngoài của chân lên hông sườn
qua vai lên mặt ra trán vòng ra sau tai đến gáy hợp với Mạch đốc.
c/ Kinh nhánh: Ngoài ra các nhánh lớn của các Kinh (gọi là kinh nhánh) cũng lên Mặt như:
+ Kinh nhánh của Thủ thiếu âm tâm kinh: Từ nách lên thanh quản, họng, lên mặt ở đầu mắt.
+ Kinh nhánh của Thủ quyết âm tầm bào kinh: Từ hốc nách lên dọc Uyên Dịch (dưới nách 3 thốn) lên thanh quản, họng.
+ Kinh nhánh của Thủ thái âm phế kinh: Từ nách lên dọc thanh quản.
d/ Các kinh cân: Cũng có một số lên MẶT như:
+ Túc thái dương cân kinh: Từ chân lên gò má, cánh mũi.
+ Túc thiếu dương cân kinh: Từ chân lên ặmt ở xương má canh maũi và đuôi mắt.
+ Túc dương minh cân kinh: Theo lộ trình Kinh tiểu trường lên mắt, trước tai, kết ở hàm rồi lên nối ở đuôi mắt.
+ Thủ thiếu dương cân kinh: Theo lộ trình Kinh tam tiêu lên trên mặt trước tai nối với đuôi mắt kết ở góc trán.
+ Thủ dương mình cân kinh: Theo lộ trình Kinh đại trường lên đầu và vòng sang hàm bên kia ( VIỆN ĐÔNG Y – CHÂM CỨU HỌC I)
Xuyên qua phần trình bày
trên , ta thấy giữa MẶT và CƠ THỂ bên dưới có quan hệ rất chặt chẽ. Có
thể nói mọi cơ quan, bộ phận bên dưới và bên trong cơ thể đều có thể
thông tin lên mặt và được điều khiển từ bộ mặt và đầu não.
Tuy nhiên, bao nhiêu đó
cũng chưa đủ, thật ra vai trò của bộ mặt còn quan trọng hơn nhiều đối
với vấn đề tâm lý, sinh lý, và bệnh lý của con người, nếu ta biết rằng
qua Thuyết phản chiếu , thuyết đối xứng, thuyết đồng bộ, thuyết đồng ứng,
hầu hết các cơ quan đầu não như: hệ thần kinh trung ương, hành tủy, cầu
não, não giữa, tiểu não, não trung gian và bán cầu não và một phần của
hệ thần kinh ngoại vi đều phản chiếu lên mặt. Ngoài ra còn kể các hệ
phản chiếu khác của hệ pảhn chiếu kinh huyệt của Thể ch6m, hệ pảhn chiếu
Nội tạng, ngoại vi, vỏ não,….(xem phần: Các hệ phản chiếu trong sách “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp).
Như thế, ta càng thấy rõ
“Bộ mặt” thật là quan trọng vì thông qua các hệ phản chiếu, ta thấy rõ
ràng nó có liên hệ với toàn bộ đời sống tinh thần và sinh lý con người.
Điều này càng được xác
minh rõ ràng trong thực tế vì như ta đã biết xoa mặt bằng khăn mặt nhúng
nước ấm hàng ngày, ta thấy sức khỏe được cải thiện rõ rêt. Và khi tác
động vào các vùng và huyệt trên mặt, ta thấy có thể giải quyết được
nhiều bệnh chúng một cách hữu hiệu và nhanh chóng.
KẾT LUẬN: Qua
phần trình bày trên ta thấy rõ ràng: Bộ mặt không phải chỉ là Bộ
mặt mà còn là toàn thân, là cả con người vớ đầy đủ ý nghĩa về thể xác
lẫn tinh thần. Do đó ta cần cố gắng siêng năng bảo vệ và chăm sóc bộ mặt
của mình hàng ngày. Đó là điều kiện để có một sức khỏe tốt và một tinh
thần sảng khoái.
Bài giảng 4: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 4: Trị bệnh tất cầu kỳ bản
Trị bệnh phải tìm đến
nguyên nhân của nó.Người xưa đã dạy thế.Ngày nay,Với Y học hiện đại,vẫn
coi trọng nguyên tắc này.Vì nếu không,ta sẽ không chữa được lành hẳn
bệnh.
Đây là vấn đề
khó đôi khi thật khó,vì nguyên nhân thì rất nhiều, trong khi biểu hiện
bên ngòai của bệnh đó khi không khác nhau mấy.Ví dụ: Bệnh suyễn, có rất nhiều nguyênm nhân nếu phân tích sâu.Theo Đông Y thì ít ra cũng rơi vào trong các nguyên nhân Tâm, Thận, Tỳ, Phế, Can. Nếu kết hợp với yếu tố Hàn, Nhiệt, Hư, Thực, Biểu, Lý thì còn nảy sinh ra nhiều vấn đề nữa.
Theo Tây Y thì
do dị ứng mà dị ứng là một vấn đề rất lớn của Tây Y. Làm sao biết được
ca SUYỄN này dị ứng cái gì? Thời tiết hay thức ăn hay khóai xe, phấn
hoa…? Cả một vấn đề phải nghiên cứu. Cho nên phải nói rằng chữa triệu
chứng thì dẽ, tìm đúng gốc bệnh và chữa gốc mới khó.
Tuy nhiên, để đơn giản hóa vấn đề giúp các bạn mới vào “nghề chữa bệnh” có
thể nắm được các nguyên nhân bệnh, tôi sẽ phân tích dưới đây một số
nguyên nhân thường gặp của các bệnh.có thể nói tóm gọn theo Đông Y là
bệnh tật con người gồm:
Nguyên nhân bên ngòai (Ngọai nhân) và nguyên nhân bên trong (Nội nhân). Bên cạnh đó còn có Bất nội ngọai nhântức là không do nguyên nhân bên ngòai hay bên trong.
*Nguyên nhân bên ngòai: Như do ảnh hưởng của thời tiết, của vũ trụ, của xã hội, của môi trường tác động lên cơ thể con người sinh ra bệnh tật.
*Nguyên nhân bên trong:
Là do cơ quan này ảnh hưởng đến cơ quan kia. Âm thắng hay Dương thắn.
Khí vượng hay huyết vượng. Thất tinh Lục dục bị xáo trộn.v.v..
* Bất nội ngọai nhân: trùng,thú cắn,trúng độc…
Đối với Tây Y
thì một thì một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh là vi trùng và
siêu vi trùng. Ví dụ: Bệnh SIDA,Tây Y vẫn cho là một lọai VIRUS gây ra.
Kế đến là bệnh do thần kinh, sau nữa là do tổn thương thực thể (do
nguyên nhân bên ngòai hay bên trong…).
Tuy nhiên, ở
đây chúng ta chỉ nói mấy lọai nguyên nhân chính của bệnh tật theo Đông Y
và Tây Y.Nếu phân tích chi tiết thì còn nhiậu điều phức tạp hơn. Nhưng ở
đây chỉ trình bày những nét khái quát về các lọai nguyên nhân lớn của
bệnh cho các bạn hiểu, để từ đó có hướng tìm ra nguyên nhân đúng của
bệnh cần được điều trị.
Với sự chịu khó
quan sát các dữ kiện lâm sàng và cận lâm sàng, hỏi han tỉ mỉ bệnh nhân
với thái độ vô tư,khách quan và sự nhẫn nại,ta có thể tìm ra gốc bệnh
không khó (trừ các trường hợp quá phức tạp) nhất là với phương pháp
“Lọai trừ những yếu tố không thật và kém giá trị” ta có thể đi dần đến
kết luận chính xác. Ví dụ: Bệnh SUYỄN có thể do TỲ, THẬN, PHẾ, CAN, TÂM,
nhưng sau khi kiểm tra các triệu chứng và ấn chẩn các huyện phản chiếu
tạng phủ ở trên MẶT, ta có thể biết được gốc bệnh là do THẬN hay TỲ
CAN.. hoặc do cả sự rối lọan,suy yếu của TẠNG đó.
Thông thường, Huyện nào ấn
vào thấy đau nhiều nhất, hơ nóng thấy rút hơi nóng vào nhiều nhất, áp
lạnh thấy lạnh buốt nhất hoặc xung điện vào thấy điện vào mạnh và lâu
nhất thì đó là Huyệt gốc của bệnh. Ví dụ: Có 3 huyệt 50, 37, 300 đều báo
đau, khi lấy QUE DÒ ấn vào,nhưng chỉ có huyệt 50 là đau nhất và khi
xung điện vào thì điện vào lâu nhất và mạnh nhất. Điều đó có nghĩa là
gốc của bệnh ở CAN, không phải ở TỲ và THẬN.
Ngoài ra,nếu
chú ý ở khâu “HỎI BỆNH NHÂN” (gần như điều tra, khảo sát) chịu khó hỏi
kỹ từng thức ăn,đến chỗ ăn, chỗ ngủ đến quan hệ thấm kín vợ chồng,tình
cảm riêng tư,quan hệ xã hội, bạn bè, nơi chỗ làm (nhất là NHỮNG CHI TIẾT
tưởng như tầm thường nhưng đôi khi có giá trị trong việc tìm ra gốc
bệnh).
Cả quá khứ của họ vì quá
khứ gây ảnh hưởng đến hiện tại, nhất là về mặt tình cảm, tinh thần không
thể bỏ qua. Vì con người là một tổng thể phức tạp gồm nhiều yếu tố và
đồng thời là một vũ trụ nhỏ cực kỳ nhạy bén,cho nên nó chịu sự ảnh hưởng
mật thiết của sự thay đổi thời tiết, vũ trụ. Mỗi lần thay đổi là một
lần xáo trộn,nếu lại không thích nghi được thì rất nguy hiểm.
TÓM LẠI:TRỊ BỆNH thì phải tìm ta nguyên nhân cho được. Đừng chữa tùy tiện,kết quả sẽ không cao.
Mong các bạn chú ý và thực hiện đúng nguyên tắc này.
Bài giảng 5: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 5: Bốn bước khám bệnh và các kỹ thuật chữa bệnh:
Việc đầu tiên của chữa bệnh là khám bệnh, tức là tìm hiểu bệnh nhân bị bệnh gì?Ở bộ phận nào? Mức độ bệnh ra sao? Đau thế nào? Đau bao lâu? Có chu kỳ hay không?
Đây là việc bắt buộc phải làm, vì nếu không,ta làm sao biết chữa bệnh gì?
Nhiều người hễ bệnh đến là cứ”nhắm mắt nhắm mũi”nhào vô lấy que dò
ấn,day lung tung trên mặt bệnh nhân hoặc châm liền chẳng cần khám bằng
cáchdò sinh huyệt (Ấn chẩn) hay quan sát mặt người bệnh (Diện chẩn) hoặc sờ da mặt bệnh nhân (thất chẩn) hay hỏikỹ.
Hỏi kỹ bệnh nhân (Vấn chẩn) để xem họ bị bệnh gì,mức độ ra sao? Như thế làm sao có thể chữa đúng và tốt bệnh được.
Xưa nay, trong nhgành Y,Đông cũng như Tây, vấn đề khám để chẩn đóan,định xem bệnh nhân mắc phải bệnh gì và nguyên nhân ở đâu là
vấn đề trước tiên phải đặt ra của việc chữa bệnh. Nếu Đông Y có Tứ Chẩn
(Vọng, văn, vấn, thiết) thì Tây Y cũng có: NHÌN, SỜ, NẮN, GÕ, NGHE và
một cách khám cận lâm sàng như: Chụp X-quang (nôm na gọi là Rọi
kiếng),đo điện tâm đồ, điện não đồ, xét nghiệm… Tất cả nhằm mục đích là
làm sao để định rõ được bệnh nhân bị bệnh gì,mức độ ra sao? Để từ đó có
cách sử lý thích đáng, ngõ hầu đem lại kết quả trị liệu mau chóng nhất
và tốt đẹp nhất.
Công việc khám bệnh do đó
thường nhắm vào những mục tiêu sau đây: Tìm cách biết thật rõ bệnh ở cơ
quan nào, bộ phận nào? Bệnh như thế nào? Đao bao lâu? Nguyên nhân gần và
xa của nó? Lúc nào thì bệnh diễn tiến trầm trọng (kịch phát),lúc nào
thì dịu xuống tức là phải tìm hiểu chu kỳ diễn biến của bệnh hặoc bệnh
đang ở giai đọan nào?Rồi bệnh nhân ở vùng nào thì bệnh nặng hơn. (Hoặc
giảm đi)? Ăn món gì thì trở nên bệnh nặng hơn? Ăn món gì thì bệnh giảm?
Tóm lại, có rất nhiều điều
phải quan tâm tìm hiểu về BỆNH lẫn NGƯỜI BỆNH như:Tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng, tư tưởng của họ ra sao? Bệnh nhân có đang ở trong hòan cảnh
khó khăn về vật chất hay tinh thần không? Ảnh hưởng của nơi ăn chốn ở,
nơi việc làm ra sao?Thậm chí ảnh hưởng của xã hội cũng như tình hình thế
giới tác động ra sao đối với họ? Rồi quan hệ giữa cha mẹ,vợ chồng, con
cái, bạn bè, đồng nghiệp…? Tất cả đều có thể là nguyên nhân gần hay xa
đến bệnh tình của họ.
Để thực hiện công việc rất phức tạp và tế nhị nhưng cũng tối cần thiết này, ta cần phải tuần tự tiến hành BỐN BƯỚC KHÁM BỆNH như sau:
1.NHÌN (Vọng chẩn).
2.SỜ (Thiết chẩn).
3.DÒ SINH HUYỆT (Ấn chẩn,Đả chẩn,Nhiệt chẩn).
4.HỎI (Vấn chẩn).
*Giải thích :
1/ Nhìn (Vọng
chẩn):Thọat tiên bệnh nhân đến, ta phải để ý quan sát xem sắc mặt,dáng
điệu,cử chỉ,đi đứng,nằm ngồi của họ ra sao. Ví dụ: Sắc mặt của họ màu gì
(tái xanh, trắng bệt, đỏ tía, tím tái hay thâm xạm…),mặt mày có nhăn
nhó, khó chịu, có ôm bụng rên la, có đổ mồ hôi hột, có đi cà nhắc, có
mệt mỏi, rã rượi, rêu lưỡi, mí ra sao?.v.v....
Ngòai ra,trên da MẶT họ có
TÀN NHANG không? Nó đóng ở đâu? Hoặc có nhiều NẾP NHĂN, nó đóng ở đâu?
Hay nhiều VẾT NÁM, nó đóng ở đâu?.v.v..
Ta phải nhớ rằng: Mỗi DẤU HIỆU TRÊN MẶT cũng như mỗi trạng thái, cử chỉ của bệnh nhân hoặc tổng hợp các dấu hiệu đó là phản ánh biểu lộ của tình trạng sức khỏe,bệnh tật của bệnh nhân. Cho nên, cần phải chịu khó khảo sát thật kỹ để từ đó tìm ra đúng gốc bệnh. Có thể việc chữa bệnh mới mang lại nhiều hiệu quả tốt.
2/ Sờ (Thiết
chẩn): Chẩn đóan bằng cách SỜ DA hoặc SỜ VÀO HUYỆT. Nhiệt độ của da
thịt cũng như độ săn chắc hay trơn láng.mịn màng của nó cũng đêu phản
ánh biểu lộ tình trạng sức khỏehay bệnh tật của bệnh nhân. Ví dụ:Da thịt
ở CẰM mềm nhảo và lạnh phản ánh các cơ quan ở bàng quang bị nhão,suy
yếu nên bệnh nhân mắc bệnh đi tiểu nhiều, tiểu đêm hoặc tiểu không cầm
được. Hoặc nhiệt độ giữa TRÁN và CẰM khác nhau rõ rệt chỉ rõ bệnh nhân
đang mắc bệnh CAO HUYẾT ÁP. Hay ĐẦU MŨI lạnh là phản ánh tình trạng MÁU
về TIM không đủ (VÌ đầu mũi PHẢN CHIẾU QUA TIM).Ngòai ra thiết chẩn còn
có nghĩa là SỜ vào mạch đầp ở MẶT(vùng huyệt 57 và Đại nghinh) để biết tình trạng bệnh nhân HÀN hay NHIỆT, HƯ hay THỰC (tương tự mạch ở cổ tay).
3/ Dò sinh huyệt (Ấn
chẩn): Chẩn đóan bằng cách DÒ ẤN HUYỆT - Đả chẩn: Chẩn đóan bằng cách
GÕ VÀO HUYỆT - Nhiệt chẩn:Chẩn đóan bằng cách DÒ SINH HUYỆT BẰNG ĐIẾU
NGẢI CỨU).
Đây là công tác thông dụng
nhất để tìm hiểu bệnh trạng của người bệnh qua việc khám phá các ĐIỂM
NHẠY CẢM (Sinh huyệt) TRÊN DA MẶT. Có thể thực hiện bằng QUE DÒ(bằng thuỷ tinh,sừng hay Inox)hay BÚA GÕ (bằng Inox có đầu bằng cao su). Cũng có thể DÒ các vùng NHẠY CẢM TRÊN DA MẶT bằng các dụng cụ trên hay bằng BÚA GAI (Mai Hoa Châm) hoặc CÂY LĂN (bằng sừng,đồng,Inox,hay nhôm) hay CÂY CÀO (5 răng). Theo lý thuyết “ĐỒNG BỘ THỐNG ĐIỂM”.Khi
các bộ phận,cơ quan trong cơ thể bị rối lọan chức năng hay bị tổn
thương sẽ gởi tín hiệu lên MẶT qua các vùng và huyệt tương ứng của chúng.
Do đó,thông qua việc khám phá các ĐIỂM hay VÙNG NHẠY CẢM này, chúng ta
sẽ suy ra được các bộ phận hay vùng đang,đã hoặc sắp có bệnh trong cơ
thể, cũng như có thể biết được bệnh nặng hay nhẹ,đang tăng hay giảm. Ví
dụ: Lấy QUE DÒ dò qua huyệt số 3 thấy bệnh nhân nhăn mặt và kêu đau thì
ta có thể suy luận ra cơ quan hô hấp của bệnh nhân đang suy yếu (cụ thể là :ho,cảm hoặc tức ngực…).
Sau khi chữa một thời
gian. DÒ lại huyệt trên không còn đau nhiều như lúc đầu thì biết ngay
bệnh nhân đã giảm và khi không còn đau,đó là đã hết bệnh hay dùng BÚA GÕ
và huyệt số 275 (cạnh dái tai) thấy bệnh nhân nhăn mặt kêu
đau, ta biết ngay là bệnh nhân đang viêm họng hay SƯNG Amidan,hoặc dùng
CÂY LĂN lăn vùng sống mũi thấy bệnh nhân kêu đau, ta biết bệnh nhân đang
mỏi lưng.
Hoặc ta có thể DÒ SINH HUYỆT bằng ĐIẾU NGẢI CỨU (theo kỹ thuật hơ ngải cứu theo kiểu DIỆN CHẨN) khi bắt gặp điểm nào HÚT NÓNG NHIỀU NHẤT, MẠNH NHẤT, SÂU NHẤT thì biết ngay là cơ quan hay bộ phận tương ứng đang có bệnh (thường là do HÀN). Đâycũng là cách DÒ SINH HUYỆT NHẠY NHẤT VÀ CHÍNH XAC NHẤT.
4. HỎI (Vấn: chẩn đoán bằng cách hỏi bệnh nhân).
“Hỏi” là việc cần thiết để tìnm hiểu bệnh tình (tình trạng bệnh) bệnh nguyên (nguyên nhân bệnh)
mà Đông hay Tây Y cũng thế. Vì có nhiều vấn đề liên quan đến bệnh mà
chỉ thông qua việc HỎI KỸ BỆNH NHÂN mới có thể hiểu được tỏ tường… Cho
nên qua việc HỎI,ta có thể biết được bệnh nhân đau như thế nào? Đau vào
lúc nào? Đau ở đâu? Cũng như nguyên nhân sâu kín của bệnh đ1o do đâu mà
có? (như:do quan hệ vợ chồng hay quan hệ nơi làm việc…).
Biết đặt câu hỏi một cách
KHOA HỌC và KHÉO LÉO thì người chữa bệnh sẽ nắm vững được tình trạng
bệnh cũng nguyên nhân bệnh gây ra, từ đó chọn phương án thích hợp để
chữa bệnh cho họ. Ví dụ: Sau khi hỏi một lúc,ta khám phá bệnh nhân hay
bị Viêm họng là vì có thói quen hay hút thuốc lá và sử dụng nhiều nước
đá lạnh trong ngày. Ta bảo bệnh nhân kiêng cữ hay giảm hẳn việc sử dụng
hai món trên là bệnh tự nhiên bớt hẳn và không cần phải chữa trị nhiều
lần,bệnh nhân cũng mau hết bệnh. Hoặc có nhiều bệnh nhân bị mệt mỏi cổ,
gáy, vai nguyên nhân lớn là do ngủ ở chỗ có gió lạnh lùa vào (đổi chỗ
ngủ này thì mới mau hết bệnh) hay sử dụng nước đá lạnh, ăn ít mà làm
việc nhiều. Rất nhiều bệnh sẽ được chữa khỏi một cách dễ dàng, nếu
ta biết cách hỏi để tìm ra nguyên nhân bệnh phải chịu khó HỎI bệnh nhân
đừng sợ mất thì giờ. VÌ MẤT THỜI GIỜ HỎI, SẼ BỚT ĐƯỢC THỜI GIAN TRỊ LIỆU. Tóm lại, đứng trước bệnh nhân, ta phải bình tĩnh, tự tin và tiến hành đầy đủ, cẩn thận BỐN BƯỚC KHÁM BỆNH đó, ta có thể yên tâm nắm chắc ít nhất 50% kết quả trị bệnh.
CÁC KỸ THUẬT CHỮA BỆNH
Để chữa bệnh, trước tiên ta cần phải hiểu rằng: thế nào là bệnh và thế nào là chữa bệnh.
Theo quan điểm Đông Y. Bệnh là do khí quyết không thông và Âm Dương mất quân bình(
có thể do ảnh hưởng của thời tiết hoặc ăn uống không điều độ hay tinh
thần, tình cảm bị xáo trộn hoặc do sự vận động quá mức hoặc ít vận
động…. và do đó, chữa bệnh là làm cho khí huyết lưu thông và tái lập quân bình Âm Dương (Tất
nhiên là hiểu theo một cách khái quát và cơ bản). Còn có nhiều nguyên
nhân sinh ra bệnh như đã nói ở trên . Theo Tây Y, chủ yếu là do vi trùng hay siêu vi trùng hoặc do rối loạn về thần kinh hay do tổn thương một cơ quan nào đó hoặc do thiếu sinh tố, thiếu dinh dưỡng,v.v..Và như thế,chữa bệnh có nghĩa là tìm ra những phương thức diệt trùng (như Trụ sinh) hoặc an thần hay thuốc bổ.
Hiểu như thế,ta sẽ bớt
thắc mắc và không ngạc nhiên khi thấy được tác dụng nhanh chóng của CÂY
LĂN, CÂY CÀO, BÚA GÕ, QUE DÒ, CAO DÁN, XỨC DẦU, HƠ NÓNG, CHƯỜM LẠNH tác
động lên vùng và huyệt.
Phần dưới đây giới thiệu
các thao tác kỹ thuật. Tất cả đều nhằm vào mục đích kích thích Huyệt
trên ĐẦU, MẶThoặc các bộ phận khác trong TÒAN THÂN để điều chỉnh các rối
lọan chức năng của CƠ THỂ.
LỜI DẶN CHUNG:
*Bất cứ dùng kỹ thuật,dụng cụ nào đều cần phải tìm
cho được những vùng hay những điểm nhạy cảm hơn so với xung quanh (đau,
thốn, lõm, cộm, rát, nóng ,lạnh..) đó là những nơi cần được tác động để
trị bệnh (không nên tránh né những chỗ đó). Sau khi tác động tòan bộ một lần,cần tác động kỹ hơn vào những nơi nhạy cảm ấy cho đến khi chứng giảm hẳn hoặc các nơi nhạy cảm ấy giảm nhạy cảm trong mỗi lần điều trị. Nếu không muốn tác động tòan bộ (vì ít thời giờ chẳng hạn). Ta có thể tìm ra các nơi nhạy cảm trong HỆ PHẢN CHIẾU của DC- ĐKLP hoặc tại nơi đang có bệnh,nếu thấy cần thiết.
*Trước và sau khi dùng dụng cụ để chữa bệnh,phải lau sạch dụng cụ bằng Acool (cồn) để tránh lây bệnh ngòai da.
1. Lăn: Cầm cây lăn cho thật thỏai mái, thuận tay,
cây lăn luôn luôn tạo với mặt da góc 45o(xéo góc với mặt da).Lăn mặt
thì theo da mặt,lăn đầu thì theo da đầu, lăn cơ thể thì theo da cơ
thể.Lăn đủ nhanh theo hai chiều tới và lui, sức đè tay vừa phải tùy theo người bệnh(nhưng nên biết: Lăn nhẹ quá thì không kết quả). Lưu ý nơi nhạy cảm lăn tới lăn lui nhiều lần từ nhẹ đến mạnh dần. Lăn cho đến khi cảm giác cảm giác của nơi đó giảm hẳn thì ngừng lăn. Cây lăn nhỏ dùng lăn ở mặt. Cây lăn trung dùng lăn ở cổ, gáy, tay, chân hoặc vùng rộng ở mặt như trán chẳng hạn. Cây lăn lớn dùng lăn ở đầu, gáy, cổ, tay, chân, lưng và ngực, bụng. Cây lăn đôi dùng lăn ở hai bên thăn lưng (dọc Bàng quang kinh).
Tác dụng:
Cải thiện hệ tuần hoàn, hệ bạch huyết, hệ thần kinh, lưu thông khí
huyết. Có tác dụng trong hầu hết các chứng bệnh do sự bế tắc khí huyết
mà ra như nẵng đầu, căng thẳng thần kinh, mệt mỏi, tê nhức do khí huyết
bị bế tắc.
2. Gõ: Có
hai loại búa: Loại nhỏ có 2 đầu, một đầu có cao su và một đầu có gai
(gồm 7 kim như Mai Hoa Châm)-Loại lớn cán dài, đầu nhôm có 5 gai bằng
cao su lớn và một đầu có viền cao su.
* Búa nhỏ: dùng
gõ vào huyệt, dùng sức bật của cổ tay và độ rung của búa, gõ thẳng góc
vào mặt da nơi nhạy cảm. Nếu gõ mạnh (hơi quá sức chịu đau) thì gõ chừng
5 cái rồi nghỉ một tí rồi lại gõ tiếp (tổng cộng chừng 20-30 cái),
không nên gõ quá mạnh hay quá nhiều có thể gây bầm. Nếu gõ nhè nhẹ thì
có thể gõ liên tục chừng 20-30 cái hoặc nhiều hơn.
* Búa to: Cán
dài, có 5 gai bằng cao su và một đầu có viền cao su dùng để gõ vào
lưng, vai, mông, đùi,…Các nơi có nhiều thịt thay cho quả đấm bằng tay
người, tạo nên một cảm giác dễ chịu, thoải mái vì làm cho máu ứ được lưu
thông tạo sự trao đổi lưu lượng máu ở các vùng khác nhau của cơ thể.
Ngoài ra, còn làm mềm cơ, dẻo gân.
* Tác dụng: Búa
nhỏ có đầu cao su có tác dụng cao trong những trường hợp co cơ, bong
gân, co mạch vì lạnh (trong chứng nhực đầu do lạnh). Búa đầu gai (phải
gõ thật nhẹ vì dễ trầy da) có tác dụng của ĐẦU GAI là tiết khí và tán khí.
3. Cào: Cầm
cán CÀO chắc tay, các răng cào thẳng mặt da. Cào dọc hay ngang tùy sự
thuận tay lúc cào. Lực đè đều tay, lưu ý những nơi nhạy cảm. Sau đó, có
thể đẩy CÀO tới, lui nơi nhạy cảm đó.
Tác dụng:
Làm huyết lưu thông mạnh, giải trừ những bế tắc về huyết, nhờ đó mà khí
thông theo. Ngoài ra còn có tác dụng an thần (làm dịu thần kinh), do đó
chống đau nhức, căng thẳng.
4. Ẩn: Cầm
QUE DÒ thẳng góc mặt da. Ấn vào huyệt tìm được, vừa sức chịu đựng của
bệnh nhân cho đến khi cảm giác đau nơi đang ấn giảm hẳn hoặc chứng bệnh
giảm hẳn thì ngưng ấn, đổi huyệt khác. Cách dò tìm sinh huyệt: Dùng QUE DÒ vạch trên da với lực đủ mạnh, xem điểm nào đau nhất trong các điểm đau,đó là điểm có giá trị cao trong chẩn đoán và điều trị bệnh(Huyệt được tìm đúng thường có dấu lõm hoặc cộm cứng khi vạch QUE DÒ trên da ngoài cảm giác đau thốn đã nói trên).
Tác dụng: Tác dụng của QUE DÒ (day, ấn, vạch,…) rất
rộng, có thể thay thế cho kim châm hay các kỹ thuật dụng cụ khác mà vẫn
có hiệu quả dù có thể không đặc hiệu như từng thủ pháp riêng biệt.
5. Day: Sau khi tìm được điểm nhạy cảm cần tác động (sinh huyệt) bằng QUE DÒ, ta day tròn hay di động tới lui đầu bi của QUE DÒ quanh huyệt, tóm lại là tạo được một kích thích động đều,còn Ấn là kích thích tĩnh.
Tác dụng: như kỹ thuật Ấn nhưng tác dụng mạnh hơn, gây đau cho bệnh nhân hơn.
6. Gạch: (Vạch):
Dùng QUE DÒ vạch dọc hoặc ngang (theo các đường cong đặc biệt như:viền
mũi, bờ cong ụ cằm, gờ xương lông mày,…)nhiều lần nơi nhạy cảm. Bệnh
nhân sẽ rất đau nhưng sau đó chứng bệnh sẽ dịu rất nhanh. Đây là thủ
pháp gây kích thích mạnh hơn DAY- ẤN. Dùng kỹ thuất này khi DAY-ẤN không
đạt kết quả cao.
7. Dán cao, sức dầu, dùng cao gián: (Salonpas hay loại tương tự): Cắt từng miếng nhỏ vuông, cạnh 4mm, dán lên Huyệt đã được tìm thấy bằng QUE DÒ. Nên dán theo hình thoi, cạnh hình vuông tạo với trục thẳng đứng góc 450 để tạo nét thẩm mỹ. Thời
gian lưu dán khỏang 2 giờ, mỗi ngày dán một lần cho các bệnh cần điều
trị lâu dài (các bệnh mãn tính, Hư, Hàn). Đối với người lớn tuổi suy
nhược, bệnh Hư Hàn có thể TỐI DÁN,SÁNG GỠ(dán qua đêm)để có kết quả cao
hơn và thuậnlợi hơn.Với những bệnh mới phát có thế dán 3 lần một
ngày,chia đều trong ngày.Dùng Dầu nên dùng lọai Dầu Cao(Dầu Cù là),chấm
đầu ngón tay vào Dầu Cao rồi chấm lên huyệt,lập lại quy trình này 3 lần
cho mỗi huyệt đề sức nóng đủ độ bền trên huyệt.Sau khỏang 2 giờ,có thể
chùi sạch dầu và lúc này mới được tắm rửa.Nếu làm ướt nơi xức dầu sớm,có thể bị trúng nước,cảm lạnh.
Tác dụng: Có
kết quả trong tất cả các chứng bệnh do lạnh gây ra như các chứng đau
nhức dữ dội mà không có nguyên nhân cụ thể nào gây ra.Vì có tác dụng
chống lạnh mạnh.Riêng DÁN CAO còn có tác dụng hút ẩm,làm khô ráo.
Lưu ý: Không dùng kỹ thuật CAO DÁN,XỨC DẤU cho những bệnh nhân nóng nhiệt(vì có thể sinh Táo bón,khô da,ngứa).
8. Hơ nóng: Dùng
điếu ngải nhỏ(đặc biệt của DIỆN CHẨN,cỡ điếu thuốc lá)hay bất cứ vật
liệu nào tỏa nhiệt như điếu thuốc lá,nhang.Cầm điếu ngải nhỏ(đã đước đốt
cháy đỏ)bằng 3 ngón tay cái,trỏ và giữa,dùng ngón tay út đè nhẹlên mặt
da làm điểm tựa,mồi lửa cách mặt da khỏang gần 1cm,di chuyển rất
chậm(rà)điếu ngải và để ý xem đến chỗ nào bệnh nhân có phản xạ
mạnh(như:giật tay nếu là hơ ở tay,né mặt là hơ ở mặt)hoặc kêu nóng quá,thì biết đó là huyệt cần hơ để điều trị bệnh (lưu ý:
Nếu bệnh nhân chỉ thấy ấm bình thường chỉ không nóng như phỏng hoặc
nóng buốt sâu vào trong thịt thí đó không phải là huyệt cần hơ).
Cách hơ điều trị:
Sau khi đã tìm đúng huyệt(nóng như phỏng,nóng buốt hoặc nóng rát tại
một điểm nhất định),ta lập tức nhấc điếu ngải xa cách mặt da độ 2cm(khỏi
tầm hút nhiệt của huyệt) và bôi VASELINE hay DẦU CÙ LÀ vào ĐIỂM VỪA HÚT
NÓNG.Rồi lại tiếp tục HƠ lại chỗ cũ 3 lần nữa.Như thế là đủ(HƠ nhiều
hơn sẽ gây phỏng da).
Lưu ý: Đối
với những người da mỏng và không quen với sức nóng nên lại càng phải HƠ
ít hơn kẻo phỏng da.Trường hợp mới tập hơ,không nên hơ trên mặt mà nên
hơ ở bàn tay hoặc trong thân thể.
Tác dụng:
Thủ pháp này rất hiệu quả trong những bệnh do lạnh gây ra như:Cảm lạnh,
thấp khớp,viêm mũi dị ứng,viêm xoang,đau nhức, tê…Tốt hơn DÁN CAO hay
XỨC ẦU.Nhưng cần cẩn thận,không nên dùng bừa bãi và lạm dụng.
Chỉ nên dùng cách này mỗi
ngày 1 lần,dùng quá một lần,cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng và theo dõi
sát.Vìe cách này dễ gây phỏng và nếu lạm dụng sẽ làm cho bệnh nhân nóng
nhiệt,khô người,có thể sinh ra nổi nhọt,nhức đầu,mất ngủ,táo bón.Nếu lỡ
gặp được trường hợp này nên uống thức uống mát để giải trừ:nước dừa,rau
má,bột sắn…
9 Chườm lạnh: Dùng
cục nước đá cỡ ngón táy cái áp sát và rà trên da mặt.Nơi nào lạnh buốt
(khác với lạnh mát thông thường)thì áp vào cho đến khi nơi đó tê dại
hoặc người bệnh chịu không nổi hay triệu chứng bệnh giảm hắn thì
ngưng,đổi huyệt bằng cách tìm nơi lạnh buốt khác.
Lưu ý: Nơi vùng trán không nên áp đá lâu quá,dễ gây nhức đầu.
Tác dụng: Làm
co rút cơ,mạch máu,hạ nhiệt,chống viêm nhiễm sưng đau do nhiệt. Chữa
trị tốt các bệnh do nhiệt gây ra như:Cảm nóng,trúng nắng,Kiết lỵ mới
phát trong ngày đầu tiên (đột nhiên thấy đau bụng đi cầu,phân nhão,nóng
hậu môn,nhức răng do nóng,say rượu.v.v..) lòi dom, trĩ.
|
Bài giảng 6: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 6:
Thông tin bài giảng chi tiết được cập nhật trong ô bên dưới:
Tạng, Phủ, Kinh, Mạch
|
Nhìn
|
Ấn đau (thốn nhói) ấn lõm, cộm, cứng, hơ nóng
|
Triệu chứng
|
Bệnh
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
PHẾ
|
Tàn nhang hay nám ở quanh vùng huyệt 3,13,73,467
|
3,13,269,276,73,125,467
|
- Đau hố trên đòn.
- Đau huyệt Vân Môn trung phủ
- Đau dọc kinh Thủ thái âm phề (mặt trong cánh tay)
- Đau dọc Túc Thái Âm Tỳ kinh (mặt trong đùi).
- Mắt nóng mờ, có ghèn, táo bón.
- Ho, suyễn, viêm phế quản, tức ngực, nhói tim. Đổ mồ hôi tay chân. Bệnh ngoài da.
|
Ở KINH
Ở TẠNG
|
TỲ
|
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám ở vùng tỳ (huyệt 37,40,132)
|
37,40,132
|
- Tiểu vàng, tiểu gắt, nóng, cảm sốt.
- Đau dọc tỳ kinh (mặt trong đùi)
- Cơ quan chân tay bị teo
- Đau thần kinh tam thoa
- Tiểu vàng, gắt nóng, đái khó. Đầu bụng, kém ăn, ăn chậm tiêu. Huyết áp thấp. Suyễn do tỳ-tiêu chảy do Tỳ hàn.
|
Ở KINH
Ở TẠNG
|
ĐẠI TRƯỜNG
|
Tàn nhang hay nám ở quanh vùng huyệt 38,19,63
|
38,39,19,
32497,98,99,100
|
- Vai
và cánh tay đau giơ lên khó khăn (đau dọc kinh Đại trường mặt ngoài
cánh tay). Ngón tay trỏ bị đau. Cổ tay đau- Đau răng hàm dưới. Sung nướu
răng- Nghẹt mũi.
- Đau thượng vị
- Miệng khô, đau cổ, đau bụng, ỉa chảy hoặc táo bón-Đau lưng vùng thận
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
VỊ
|
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám ở huyệt 39,5, hoặc bờ môi trên hay ở huyệt 422 trái
|
19,39,121,5,120,
61,75,64,63,7,113,
422,405
|
- Sốt cao, U nhọt
- Đau dọc kinh Vị (mặt trước ngoài cẳng chân. Đau thốn huyệt Túc Tam Lý)
- Đau ngón tay trỏ và ngón chân trỏ. Viêm họng, sốt cao
- Miệng môi mọc mụn
- Nhức răng, sưng nướu
- Nghẹn họng
- Sưng vú, tắt tia sữa
- Đau dạ dày(bao tử lạnh hay bao tử nóng)
- Loét tá tràng
- Đau thượng vị, đau trung quản.
- Đầy bụng, kém ăn
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
TÂM
|
Nếp nhăn thẹo hay tàn nhang hay gân xanh ở vùng huyệt số 8,12,269,191
|
8,12,269,3,73,61,19,191
|
- Vai, mặt trong cánh tay (dọc Kinh tâm)
- Gan
bàn tay nóng hoặc lạnh-Miệng khô đắng- Lưỡi lở- Đau mắt-Cổ gáy cứng
mỏi- Ngứa cổ, ho khan- Đau nơi huyệt Thiếu hải (mặt trong khuỷu tay)
- Đau vùng tim, sườn, ngực đau tức,hay sợ sệt, nằm ngủ, thấy giấc mộng. Nặng ngực, khó thở, thiếu hơi.
|
Ở KINH
Ở TẠNG
|
THẬN
|
Tàn nhang hay vết mụn nám, mụn ruồi ở Ngọa tằm (mí mắt dưới) ở vùng cằm (huyệt 85, 87) vùng huyệt 38,17,45,300,0
|
0,17,38,29,222,
45,340,300,301,302,51
|
- Cột
sống, thắt lưng đau dọc mặt trong chân (dọc kinh thận). Lòng bàn chân
nóng hay lạnh, đau dọc Tâm kinh (mặt trong cánh tay). Miệng nóng, lưỡi
khô.
- Phù thủng, đái không thông, đau vùng hố chậu lan ra sau lưng (vùng thận), ho ra máu, suyễn, mắt hoa.
- Tim đập yếu chân lạnh, suy yếu tình dục. Liệt dương.
- Dương suy, xuất tinh sớm. Nhức xương chân.
|
Ở KINH
Ở TẠNG
|
TIỂU TRƯỜNG
|
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám, thẹo ở huyệt 22,53,85,348,228,191
|
22,348,53,228,127,191,226
|
- Ù tai, điếc tai, đau cổ gáy,họng, vai và bờ trong cánh tay.
- Đau dọc tiểu trường. Nhức răng hàm dưới.
- Đau bụng, tiêu chảy, đau bụng lan ra thắt lưng. Tiểu nhiều.
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
BÀNG QUANG
|
Tàn nhang,mụn ruồi, nếp nhăn ở cằm
|
87,85,126
|
- Mắt đau, kém mắt, chảy nước mắt sống, chảy mũi. Đau đầu, gáy, lưng, hai bên cột sống(dọc kinh bàng quang)
- Đái không thông, bí tiểu, đau tức bụng dưới, đái dầm, đái đục, đái đỏ, tiểu đêm, tiểu nhiều
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
TAM TIÊU
|
Tàn nhang hay thẹo, nốt ruồi ở vùnghuyệt235,138, 100 và dọc kinh Tam tiêu (mặt ngoài) cánh tay chạy xuống ngón áp út
|
235,100,29,185,290
|
- Ù tai, điếc tai, chảy mũi tai, thanh quản sưng đauy, đau đầu, đau mắt. Ngón tay áp út cử động khó. Cánh tay giơ lên không được.
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
ĐỞM
|
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám ở huyệt 41,124, bên mặt
|
41,124
|
- Ù
điếc, viêm tai, đau mắt, đau nửa bên đầu, đau hố trên đòn, lao hạch,
khớp háng đau ngón chân áp út cử động khó. Đau thần kinh tọa dọc Đởm
kinh(mặt ngoài của chân)
- Đau tức cạnh sườn. Miệng đắng, buồn nôn, xơ gan cổ trướng
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
TÂM BÀO
|
tàn nhang , Mụn ruồi hay vết nám ở gò má
|
60,269,73,3
|
- Mặt đỏ, nách sưng. Cánh tay, khuỷu tay đau. Gan bàn tay nóng.
- Gan
bàn tay nóng hoặc lạnh-Miệng khô đắng- Lưỡi lở- Đau mắt-Cổ gáy cứng
mỏi- Ngứa cổ, ho khan- Đau nơi huyệt Thiếu hải (mặt trong khuỷu tay)
- Đau vùng tim, bồn chồn, hồi hộp, tức ngực sườn, tim đập mạnh, nói nhảm, hôn mê.
|
Ở KINH
Ở TẠNG
|
CAN
|
Tàn nhang huyệt 50,233,423
|
50,233,423
|
- ĐỈNH ĐẦU ĐAU. Móng tay đau. Tắt tia sữa- mắt hoa-kinh phong-viêm mũi-dị ứng-bệnh ngoài da-đỗ mồ hôi chân
- Tức ngực-Nôn-Nấc-đau tức thượng vị -da vàng, ỉa lỏng- Thoát vị đệm
|
Ở KINH
Ở PHỦ
|
Bài giảng 7: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 7: Cảm mạo
I. Định nghĩa:
“Cảm”:
Là danh từ dùng để chỉ bệnh do sự thay đổi thời tiết. Ta thường gọi là
bệnh khi trái gió,trở trời. Đông Y hay gọi là Cảm mạo hay Ngoại cảm. Tây
Y cũng dùng để chỉ một bệnh do Virus gây nên.
Cần phân biệt với Cúm
(Grippe) là bệnh có thể lây làn nhanh chóng thành dịch lớn. Cúm thường
gây ra những biến chứng tai hại hơn Cảm.
II. Nguyên nhân
· Theo Tây Y: Bệnh cảm là bệnh có ảnh hưởng của thời tiết và do vi-rút(Virus)gây nên .
· Theo Đông Y :
Do sức chống đỡ của cơ thể kém,PHONG HÀN xâm nhập làm PHẾ KHÍ không
tuyên thông,gây nên CẢM MẠO.Nếu khí hậu trái thường uế khí nhiều,nhiệt
độ mạnh,xâm nhập PHẾ sẽ gây CÚM.Nếu lan truyền sẽ gây thành DỊCH CÚM.
III. Triệu chứng
· Đông Y: Có hai thể bệnh chính:
1/ Thể Phong hàn: Đau đầu, phát nóng, sợ lạnh, không có mồ hôi, nghẹt mũi (chãy nước mắt), rêu lưỡi mỏng, trắng, mạch phù, khẩn.
2/ Thể Phong nhiệt: Đau
căng đầu, đau họng, ho có đàm vàng đặc, sốt cao, không sợ lạnh, ít mồ
hôi, đau mình mẩy, khô miệng, rêu lưỡi mỏng vàng, mạch phù.
· Tây Y: Không phân chia CẢM nóng hay lạnh như Đông Y mà chỉ ghi triệu chứng nhức mỏi, sốt nhẹ, đau mình, nghẹt mũi, đau họng.
· Theo “Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp”
Qua nhận xét trên thục tế chúng ta thấy:
- Về nguyên nhân bệnh: Chủ yếu là do sức đề kháng của cơ thể kém,
do sự thay đổi thời tiết đột ngột hoặc do sinh họat không hợp lý (lao
lực,lao tâm, thói quen tắm đêm,tắm ngay sau khi đi làm mệt về đổ mồ
hôi:sau khi giao hợp còn để quạt may hay ăn uống một số thức ăn có tính
hạ nhiệt, giải biểu hạ áp như; chanh,cam, rau má, rễ tranh, nước dừa..
lâu ngày khiến da thưa hở, do đó dễ cảm nhiễm thời tiết). Bệnh bị xâm
nhập chủ yếu qua đường hô hấp, da lông, tạng phế và thận bị ảnh hưởng nhiều nhất.
- Về triệu chứng:
Cảm mạo do thời tiết thường đi liền với ho (cảm ho) và sổ mũi (cảm sổ
mũi), ớn lạnh, sợ gió, đau mình, mỏi mệt, hơi thở lạnh,tay chân lạnh ở
trường hợp cảm lạ. Đôi khi sốt cao, viêm họng, hơi thở nóng, tiểu nóng,
mạch nhanh ở trường hợp cảm nóng.
- Về chẩn đóan:
Dùng QUE DÒ khám, ta thường thấy xuất hiện những điểm đau(thống điểm)ở
các huyệt 26 ,3-,39, 38 ,15, 143 ,14, 16, 222 ,29 ,85 ,87 ,60 trên mặt
của các bệnh nhân bị cảm nóng.Và đối với các bệnh nhân bị cảm lạnh
thường khám thấy các điểm đau ở huyệt số 0-17-127-1-7-37-19-13-63 (vận
dụng thuyết ĐỒNG BỘ THỐNG ĐIỂM).
- Về mặt điều trị: Chỉ cần áp dụng một trong những cách sau đây(hoặc tổng hợp các cách).Bôi dấu xoa vuốt ấm nóng vùng
mang tai(trước tai) và vành tai,hai bên rườn mũi,đầu mũi,cằm,hai cung
mày(gờ mày), vành môi trên đối với bệnh cảm lạnh Day ấn hoặc lấy cục
nước đá nhỏ áp vào các huyệt 26-3-39-38-29-222-85-87-14-15-16-275 đối
với bệnh cảm nóng.Có thể dùng phương pháp DÁN CAO vào các huyệt trên hay
để ngón tay lên huyệt (Mỗi huyệt 1-2- phút).
- Đặc biệt, để ngửa bệnh Cảm mạo, chỉ cần làm một động tác đơn giản là đánh dầu cù là vào vùng mang tai (nhất là huyệt số 0) hai bên rườn mũi và cằm mỗi ngày vài phút. Sau đó, có thể DÁN CAO vào các huyệt số 0-287-7-127-51 mỗi đêm, sáng gỡ ra.
- Lý giải: Tác động huyệt dố 0 để tăng sức đề kháng, làm ấm người. Huyệt số 7-287 để làm ấm, cầm sổ mũi huyệt 51 để làm ấm chân.
- Về thuốc Nam: Ta có thể áp dụng toa Âm dương thang tức toa Tắc nghệ với liều lượng và cách dùng như sau:
+ Bệnh cảm nóng: 2 hoặc 3
trái tắc to, bổ đôi để vào chén.giã nát 3 lát nghệ sà cừ bỏ vào, thêm 3
muỗng mật ong 2/3 chén nước rồi đem chưng cách thủy. Sau khi sôi độ
10-15 phút, uống ngày 3 lần sau bữa ăn. Tránh uống lúc đói.
+ Bệnh cảm lạnh: Giã nát 1
củ nghệ độ 30-40gr (cỡ ngón chân cái người lớn) thêm vào nửa trái tắc 3
muỗng mật ong, 2/3 chén nước. Cách dùng như trên.
+ Bệnh không rõ NÓNG hoặc LẠNH; 2 trái tắc + 1 củ nghệ 30gr. Cách làm và cách dùng như trên.
CỮ ĂN: Cam, nước dừa, nước mía, nước đá nếu bị cảm lạnh.
Lưu ý:
- Không nên dùng quá liều lượng đã quy định trên,có hại .
- Cần linh động gia giảm tùy tình trạng bệnh.
- Trái TẮC thuộc ÂM làm mát (nếu dùng nhiều sẽ làm lạnh cơ thể). CỦ NGHỆ thuộc DƯƠNG làm ấm(nếu dùng nhiều sẽ làm nóng cơ thể).
Phòng bệnh tổng quát
Mỗi ngày ,ngay
sau khi thức dậy,lúc còn trong mùng xoa mặt bằng tay( có thể chấm thêm
một ít dầu cù là) chà sát khắp mặt,đầu,vành tai, cổ,gáy.Sau đó,lấy ngón
tay chà từng vùng trên mặt tương ứng với các cơ quan nội tạng hay bộ
phận bên dưới,làm khỏang 2 phút,xong ngồi trên giường xếp bằng để hai
tay bắt chéo ra sau lưng cúi gập 3 phía;trước mặt,bên phải, bên trái
.Mỗi phía từ 5-10 lần.Vừa làm vừa hít sâu.Xong đi ra rửa mặt bằng khăn nhúng nước ấm,chà sát khắp đầu, mặt cổ, gáy,
tai trong vòng 2 phút. Tất cả động tác thực hiện khỏang 10 phút, sau đó
đi tắm.Các động tác trên phải làm thường xuyên mỗi buổi sáng.
Tối có thể chỉ nên xoa nóng gan bàn chân bằng 2 tay 2 chân (cọ sát nhau).Nếu tối xoa mặt bằng nước ấm hoặc chạy tại chỗ sẽ làm khó ngủ.
Phương pháp tập luyện đơn
giản này,nếu được thực hiện một cách nghiêm túc và đều đặn mỗi ngày, sẽ
giúp cho cơ thể bạn khỏe mạnh và khoan khóai.Đó là một cách phòng bệnh
đơn giản mà hữu hiện lại ít tốn sức, ít mất thời giờ,phù hợp với nhiều
người .
Mong Cô, Bác , Anh, Chị thử thực hiện xem sao!.
Bài giảng 8: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài giảng 9: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 9: Mất ngủ
I/ Đại cương:
Mất ngủ là một triệu chứng rất phổ biến,nhất là trong giới lao động trí óc và nhân dân thành thị. Mất ngủ là một hiện tượng phức tạp có nhiều nguyên nhân.
Giải quyết đơn thuần bằng thuốc chưa đủ, cần phải tìm nguyên nhân và tạo điều kiện cho bệnh nhân có thể ngủ mà không cần thuốc.
Mất ngủ là phản ánh sinh họat xã hội căng thẳng,ồn ào, vội vã của đời sống . Người mất ngủ thường lo âu, có nhiều mâu thuẫn xung độ nội tâm.
II/ Sơ lược về Đông Y và Tây Y
Nguyên nhân:
A. Theo Tây Y
Có nhiều nguyên nhân như: Khi có bệnh(sốt,khó tiêu hóa,đau nhức,bệnh thần kinh) hoặc lúc không có bệnh nhưng có những vấn đề (lo lắng, sợ sệt, chờ đợi,sợ lỡ tàu,n gủ chỗ lạ, hoặc đêm thức quá giấc,có cuộc bàn cãi sôi nổi…).Có niều tác nhân kích thích như: tDùng nhiều huốc lá,cá phê, trà đặc, ăn đêm, xem phim truyền hình hấp dẫn hoặc phải nghe trẻ em đùa nghịch, loa phóng thanh gây ồn ào…
Nhưng cũng có trường hợp không tìm thấy nguyên nhân.Chính trường hợp này mới gay go nhất. Nói chung, người mất ngủ không nguyên nhân thường ít nhiều có vấn đề về rối lọan thần kinh (ĐẶNG VĂN CHUNG: Điều trị Học II).
B. Theo Đông Y
Chứng mất ngủ có nhiều hình trạng khác nhau và nhiều nguyên nhân khác nhau như:
1. Tâm và Tỳ yếu: làm việc mết nhọc quá, lo nghĩ nhiều hại Tâm, Tỳ, Huyết dịch hao tổn, sinh ra mất ngủ.
2. Âm hư Hỏa vượng:Thận Thủy suy kém Tâm Hỏa vượng lên (Tâm-Thận bất giao) sinh ra mất ngủ
3. Đởm hư và Đởm nhiệt: Sinh buồn phiền, bứt rứt không ngủ được.
4. Khi trong Vị không điều hòa: Đởm hỏa ngưng trệ trong Vị làm cho Khí trong vị mất điều hòa sinh ra mất ngủ
5.Sau khi ốm bị suy nhược: Không ngủ được.
Triệu chứng:
A. Theo Đông Y
1. Tâm và Tỳ yếu: Sắc mặt không tươi, người mỏi mệt, tinh thần uể oải ăn không ngon, hay quên, hồi hộp, mạch Tế Nhược.
2. Âm hư hỏa vượng: Đầu nặng, choáng váng, ù tai, tâm phiền, miệng khô, tân dịch ít hoặc có mộng tinh, di tinh, chất lưỡi đỏ, mạch Tế.
3. Đởm hư Đởm nhiệt: Hay hoang mang, đặc biệt gặp việc hay sợ hãi, ngủ hay mộng, dễ tỉnh dậy, mạch Huyền Tế.
4. Vị không điều hòa: Hay ợ hơi, vùng thượng vị khó chịu, trong bụng không khoan khoái, rêu lưỡi nhờn, mạch họat.
5. Sau khi khỏi bệnh, còn suy yếu: Hình vóc gầy còm, sắc mặt trắng nhợt, mệt nhọc, lưỡi nhạt,mạch Tế Nhược (Viện Đông Y: Thuốc Nam và Châm cứu I).
B. Theo Tây Y:
Tây Y không chia ra nhiều lọai rõ rệt như Đông Y mà chỉ phân lọai mất ngủ một phần, mất ngủ hòan tòan hay ít ngủ hoặc ngủ không sâu (lơ mơ): khó ngủ.
III. Theo DC – Điều khiển liệu pháp
A. Nguyên nhân
Như Tây Y và Đông Y đã phân tích.Tuy nhiên nhận thấy thêm: Mất ngủ có thể do nóng nhiệt trong người, hay do lạnh, nhất là Thận yếu (Thận thủy suy), sinh Tâm Hỏa vượng, tiểu đêm, lạnh chân khiến không ngủ thẳng giấc được .
B. Chẩn đoán và điều trị
1- Trường hợp chung: Dùng QUE DÒ khám thường thấy đau, thốn ở huyệt 124-34-217-7-17-127-51-87-60-3-26-16. Nguyên tắc là “ấn đau đâu trị đó” Do đó,có thể dùng các hình thức sau tác động lên huyệt ấn đau:
- Bôi dầu (nước hay dầu cù là) vào các huyệt An thần và các huyệt Nội tạng có liên hệ (có thể là gốc bệnh).
- Dán cao: Huyệt 124-34-16 hoặc 124-26-16-217.
- Vuốt: Từ quai hàm đến cằm mỗi đêm trước khi ngủ, cho trường hợp MẤT NGỦ do lạnh chân (hoặc xoa căm mỗi đêm).
- Chà nóng: Hai bàn chân.
2- “Biện chứng luận trị” đối với bệnh mất ngủ do:
+ Tâm và Tỳ yếu: 8-60-37-39.
+ Âm hư Hỏa vượng 26-61-3-51-17-7-63-87 và 0
+ Can, Đởm đều có Hỏa nhiệt: 124-423-26-41
+ Tiêu hóa không tốt: 41-50-19-39-37
+ Khỏi bệnh còn yếu: 22-127-19-45-1-37-50-60-103-0
- DÁN CAO, BÔI DẦU hay XOA VUỐT nhẹ các huyệt trên ngày 2-3 lần và tối lúc sắp đi ngủ.
3. Bài thuốc dân gian: Uống nước sắc lá vông nem, lá mắc cỡ.
Lưu ý: Những người huyết áp thấp không nên sử dụng hai lạoi thuốc nam trên chúng làm hạ huyết áp.
Tóm lại
Mất ngủ cùng với đau đầu hiện nay là bệnh phổ biến và hay đi chung với nhau. Có thể nói, đây là bệnh thời đại, chủ yếu do bệnh họan cũng có, mà do cuộc sống cũng có. Phải tích cực và kiên trì vận dụng mọi phương pháp để chữa cho lành. Vì bệnh mất ngủ trầm trọng kéo dài sẽ đưa đến hấu quả xấu như: Suy nhược thần kinh, có những triệu chứng bệnh tâm thần.
Bài giảng 10: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
![]() |
Bài 10: TĂNG HUYẾT ÁP
I/. Đại cương
Tăng huyết áp là một bệnh rất phổ biến
ở các nước Âu, Mỹ. Ở nước ta, bệnh này đang có xu hướng tăng lên, mặc
dù tỉ lệ còn thấp hơn so với các nước khác.
Điều trị Nội khoa có nhiều tiến bộ vì
mang tính toàn diện, nhưng hiện nay chưa có phương pháp đặc hiệu để
có khả năng giảm huyết áp xuống mức bình thường một cách lâu dài. Chì
có thể làm giảm nhất thời khi huyết áp tăng quá cao và hạn chế những tai
biến có thể xảy ra.
Người ta cũng chỉ biết được một vài
khâu trong toàn bộ cớ chế sinh bệnh tăng huyết áp nên việc phòng tránh
bệnh và ngừa những biến chứng cũng khó khăn, ít kết quả. (Đặng Văn
Chung : điều trị học II)
II/. Nhắc sơ lược về Đông Y và Tây Y
A. TÂY Y:
1. Bệnh học: Tăng
huyết áp là hậu quả của một cơ chế phức tạp trong đó thần kinh đóng một
vai trò quan trọng, sau đó là Thể dịch và Nội tiết. Do thần kinh luôn
luôn ở trong tình trạnh kích thích nên các động mạch nhỏ ngoại biên co
lại, ban đầu còn thuộc cơ năng nghĩa là hồi phục được, sau dần dần thành
thực thể gây xơ cứng các động mạch nhỏ, nghĩa là không hồi phục được
nữa Huyết áp tăng vĩnh viễn.
* Tăng huyết áp: là hậu quả của nhiều bệnh (gọi là Cao huyết áp thứ phát) như:
a. Thận
- Viêm thận cả hai bên
- Bệnh mà tổn thương chỉ ở một bên Thận như:Lao, sỏi, teo thận hậu phát hay bẩm sinh.
b. Động mạch:
- Hẹp động mạch chủ bẩm sinh.
- Hẹp động mạch thận
- Viêm tắc động mạch do xơ cứng.
c. Nội tiết:
- Cường tuyến Yên hay Thượng Thận
- U tuyến Thượng Thận
Tăng huyết áp được coi như là một bệnh
nếu không tìm thấy nguyên nhân nói trên (gọi là Cao huyết áp nguyên
phát). Gần đây người ta phát hiện TÂM NHĨ tiết ra chất Auracline làm
giảm huyết áp.
2. Các thể bệnh:
a. Thể nhẹ: huyết áp tối thiểu từ 95 đến 104mmHg
b. Thể vừa: huyết áp tối thiểu từ 105 đến 115mmHg
c. Thể nặng: huyết áp tối thiểu cao hơn 115mmHg
- Xuất hiện biến chứng : Mắt, thận, Tim
- Biến chứng nhanh.
Phân loại theo tuổi: Tuổi nào cũng có
thể bị tình trạng này nặng hay nhẹ, nhưng nói chung thể nặng thường
xảy ra ở người tuổi trẻ (dưới 40), thể nhẹ xảy ra tuổi người già (trên
60).
3. Biện pháp điều trị:
+ Chế độ ăn uống: Ở người mập nên hạn
chế thực phẩm nhiều calo (trong thực đơn để làm gầy bớt, nên hạn chế
Na(Muối) dưới 5g mỗi ngày, nên hạn chế chất béo. Nên sử dụng dầu ăn,
tránh dùng mỡ động vật, bơ. Hạn chế đường, bột. Nên kiêng cữ: rượu,
thuốc lá, trà.
+ Chế độ làm việc: Tránh lao động
quá sức, tinh thần căng thẳng, lo lắng, sợ sệt, tránh thức khuya. Lao
động chân tay vừa phải là tốt nhất, thực hiện thể dục thể thao nhẹ
hằng ngày.
B-ĐÔNG Y
1. Nguyên nhân và Cơ chế sinh bệnh:
Nguyên nhân thường là do mất cân bằng
Âm Dương của CAN, THÂN. Can âm hư thì can dương vượng, Can Dương vượng
thì can âm hư. Can âm hư còn có nguyên nhân do Thận âm hư. Thận âm hư
làm ảnh hưởng đến thận dương làm cho Âm dương còn hư. Ngoài ra còn có
các nguyên nhân tính khí thất thường, đàm thấp, đàm hỏa, nội phong
huyết ứ , làm cho bệnh càng phức tạp hơn.
2. Triệu chứng:
* Can hư Dương vượng: Nhức đầu, bứt
rứt, vật vã, dễ cáu gắt, mắt đỏ, miệng khô, táo bón, rêu lưỡi vàng, mặt
đỏ, Mạch huyền và mạch sắc.
* Âm hư Dương vượng: Chóng mặt, ù tai,
đau lưng, mỏi gối, mất ngủ, hay mộng mị, sắc mặt tái nhợt, chân tay
tê dại, đái rát, đái đêm nhiều, di tinh, liệt dương, chất lưỡi nhạt,
mạch Trầm tế.
III. Theo DIỆN CHẨN - ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP:
1. Nguyên nhân:
Như Tây Y và Đông Y đã phân tích. Ngoài ra còn thấy thêm:
Do không biết cách sinh hoạt và ăn
uống, ví dụ: làm việc đầu óc căng thẳng, không biết cách thư giãn, không
biết cách sắp xếp công việc hay ăn những thức ăn quá mặn, quá lên men,
thức ăn và đồ uống có nhiều chất kích thích như: cà phê,rượu,
trà…Có thói quen tắm đêm bằng nước lạnh, đêm nằm ngủ để quạt máy. Do ảnh
hưởng của xã hội công nghiệp, môi trường ồn ào, căng thẳng xung quanh.
2. Triệu chứng:
Ngoài các triệu chứng như Tây Y và
Đông Y đã trình bày, chúng tôi nhận thấy bệnh nhân CAO HUYẾT ÁP thường
có triệu chứng cứng và mỏi cổ, gáy, nhức thái dương, nổi gân tthái
dương và gân trán, chóng mặt, tê cứng chân tay, mệt tim. Mắt nóng, khó
ngủ, căng đầu, nhức đỉnh đầu, mạch cổ căng cứng đập mạnh.
Nếu dò bằng que dò sẽ thấy ấn đau ở các huyệt
26-65-51-3-188-173-143-85-87-51-39-60(bên trái)-300-0(bên trái)-14-15-16-180-100-57
3. Điều trị: Dùng một (hoặc phối hợp) trong nhiều cách sau đây:
+ Vuốt bằng tay hay Que cào vùng thái
dương và giữa 2 đầu mày (vùng ấn đường) xuống đến Sơn căn (tránh: vuốt
mạnh và đụng đầu mũi sẽ phản tác dụng) trong vòng 3-5 phút.
+ Luân phiên Day Ấn nhẹ bằng QUE DÒ các huyệt 14-15-16-180-61-3-39-87-51
+Dùng búa gõ các huyệt 85-87 một cách đều đặn nhẹ nhàng và liên tục.
4. Phòng bệnh: Cữ
ăn thức ăn mặn, thức ăn lên men (mắm, cơm rượu), thuốc lá, cà phê,
rượu, nói nhiều, cãi vã. Tránh: thay đổi thời tiết và nhiệt độ đột ngột,
đi chơi thể thao rồi về tắm nước lạnh, tắm tối bằng nước lạnh, ngủ
ban đêm dưới quạt máy, sáng sớm ngủ dậy ra ngoài sân tập luyện ngay.
Một lối sống điều hòa, quân bình là biện pháp tốt nhất để phòng tránh bệnh Tăng huyết áp.
Bài giảng 12: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
![]() |
Bài 12: Đau dạ dày (đau bao tử)
I/. Đại cương
Đau dạ dày là triệu chứng chủ yếu của
cácbệnh ở Dạ dày: viêm loét dạ dày, át tràng, sa dạ dày, ung thư dạ
dày…Đông Y gọi là vị quản thống, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến việc
giải quyết triệu chứng của bệnh. Viêm dạ dày và viêm loét dạ dày và tá
tràng mãn tính.
II/. Sơ lược về Đông Y và Tây Y:
* Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh:
A-Theo Đông Y:
Nguyên nhân thường có :Tỳ
vị hư hàn, Vị nhiệt khí uất, Can vị khí trệ.Thức ăn tích trệ, đàm
ẩm, huyết ứ ngưng trệ …Tất cả những nguyên nhân trên đều làm rối loạn
vận hóa và thăng giáng của Vị KHÍ gây nên ĐAU DẠ DÀY.Nhưng lâm sàng
thường gặp có hai thể:CAN KHÍ PHẠM VỊ và Tỳ VỊ HƯ HÀN.
B-Theo Tây Y:
a/ Viêm Dạ Dày:
+ Rượu, thuốc lá
+ Thuốc men, Aspirine, corticoid
+ Tâm lý
+ Dị ứng
+ Độc tố vi khuẩn
b/ Loét Dạ Dày –Tá tràng:
+ Yếu tố tâm lý
+ Thiếu đạm
+ Bệnh gan(xơ gan)
+ U tụy tạng
* Triệu chứng:
1. CAN KHÍ PHẠM VỊ: Lo lắng, tức
giận, thất thường, khí uất làm thương tổn đến GAN, CAN KHÍ hòanh
nghịch, xúc pạhm đến VỊ, VỊ bị trở ngại sinh đau vùng Dạ Dày. Triệu
chứng: Bụng trên đầy chướng, đau xuyên lên sườn, ợ hơi hoặc ợ chua.
2. TỲ VỊ HƯ HÀN: Vùng bụng trên đau
lâm râm, nôn ra nước trong, thích nóng, ghét lạnh, ấn vào đau
giảm, người mệt mỏi, không có sức, mạch hư.
B. Theo Tây Y:
1. Viêm Dạ Dày mạn tính:
Đau rát vùng Thượng vị, không có gì
đặc hiệu cả khi đau lúc đói, có khi đau lúc no, ấn vào đau ngay hoặc
một lúc sau, không có chu kỳ rõ rệt, có khi chỉ đau lúc ăn cơm bữa
trưa, còn buổi tối và sáng không đau.Đầy bụng, ợ hơi, ợ chua, nôn
ọe, co khi nôn ra máu.Biếng ăn, mệt mỏi, do đó gầy xanh và xanh xao.
Trong khi đó khám thực tế không thấy gì đặc biệt.
2. Loét dạ dày - tá tràng: Đau
vùng Thượng vị liên quan đến bữa ăn, đau lan sang bờ sườn trái hoặc bờ
sườ phải thốn ra sau lưng và tái phát theo mùa, kèm theo ợ hơi hay ợ
chua, đầy bụng.
III/.Theo DC – Điều khiển liệu pháp
Qua nhận xét thực tế và kinh nghiệm điều trị chúng ta thấy:
+ Nguyên nhân: Chủ yếu là do suy nghĩ
quá nhiều, căng thẳng đầu óc (thường xuyên hoặc tức giận thái quá, hay
ăn uống thất thường (quá no hay quá đói), ăn thức ăn nhiều
dầu, mỡ, đồ cay nóng, hoặc uống trà, cà-phê quá đậm đặc lúc bụng
trống hay uống nhiều rượu mạnh, hút nhiều thuốc lá.
Ngoài ra, còn có nhiều thói quen uống
nhiều nước đá lạnh lúc đói. Ăn xong đi làm nặng ngay hoặc phải tập
trung suy nghĩ nhiều sau khi ăn.
Tất cả những yếu tố trên là nguyên nhân dẫn đến bệnh DẠ DÀY.
+ Chẩn đoán: Những người có bệnh Dạ Dày thường có các dấu hiệu sau đây hiện lên trên mặt:
- Vành môi trên nám đen như có râu.
- Có tàn nhang ở vùng Dạ Dày trong đồ hình phản chiếu NỘI TẠNG (ở cánh mũi, ở môi, ở vùng huyệt 39-120-121-37)
- Có thẹo ở vùng huyệt 423 (bên trái).
- Nếu dùng que dò, ta khám sẽ thấy ẤN ĐAU các huyệt 61-120-3-121-39-63-19-113-37-50-45-14-423-0-124-34-127-222-16.
+ Điều trị: Dùng
QUE DÒ day, ấn thường xuyên các huyệt trên mỗi huyệt 1 phút. Ngày vài
lần. Lúc đau thì ấn để cắt cơn đau, sau đó DÁN CAO Salonpas vào các
huyệt đau thốn nhiều nhất (hoặc bôi dầu).
+ Giải thích: Dùng
61 để cắt cơn đau thắt DẠ DÀY, huyệt 50 để là tiêu hơi, huyệt 127-37
để ấm bụng, huyệt 0-16 để giảm tiết dịch, huyệt 61-3 để hàn vá các vết
loát, giảm xót xa trong bao tử, huyệt 124-34 để an thần.
Dùng toa ÂM DƯƠNG THANG với lượng NGHỆ NHIỀU HƠN ở các bệnh LOÉT DẠ DÀY (hoặc dùng NGHỆ và MẬT ONG một chung nhỏ uống lúc bụng đói).
+ Kinh nghiệm dân gian:
- Mật ong (đơn thuần thứ tốt) uống một chung nhỏ lúc sáng sớm lúc bụng đói và tối trước khi ngủ.
- Cam thảo nấu như nước trà uống thay nước cả ngày
+ Ăn uống và sinh hoạt:
- Cữ: Uống nước đá trước và trong bữa ăn, cà phê hoặc trà đậm lúc đói, rượu quá mạnh lúc bụng trống nhất là chuối già hương.
- Cữ sau khi ăn làm việc nặng nhọc hoặc căng thẳng đầu óc.
- Cữ giao hợp sau khi ăn no.
SÁCH THAM KHẢO
- Thuốc Nam – Châm cứu của VIỆN ĐÔNG Y
- Bệnh học - Nội khoa của ĐẶNG VĂN CHUNG
- Điều trị học của ĐẶNG VĂN CHUNG
- Gazette Médicale.
Bài giảng 13: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 13: Kiết lỵ
I/. Đại cương
Theo Tây Y: Kiết lỵ chia làm hai loại:
loại do trực trừng Shigella và các loại do ký sinh trùng Amib. Bệnh lỵ
trực tràng là một bệnh cấp tính thường ít tái phát nhưng dễ nguy hiểm
đến tính mạng do đi cầu quá nhiều lần trong ngày (920-30 lần) có thể gây
trụy tim mạch.
Lỵ do Amib là bệnh ít nguy hiểm hơn nhưng dễ tái phát thành bệnh kinh niên (mạn tính) hoặc đưa đến những biến chứng tai họa.
Trong bài này chỉ đề cập đến loại Kiết lỵ do Amib là loại bệnh thường gặp ở nước ta.
II/. Nhắc sơ lược về Đông Y và Tây Y
* Nguyên nhân và cơ chế bệnh lý:
Bệnh do lây lan mà ra. Trùng Amib và
kén theo phân người bệnh ra ngoài. Phân theo nước mưa chảy xuống ao
hồ, rạch, nước ao hồ được múc lên để tưới rau; ăn rau sống không rửa
sạch, người ta sẽ nuốt theo vào bụng những KÉN vào ruột, KÉN biến
thành thể hoạt động gây vết lóet ở ruột già, các MỤN LOÉT lở ra. Bệnh
nhân bắt đầu đi pâhn có lẫn đàm và máu.
* Triệu chứng: Ở đây chia thành hai thể: Cấp và mãn tính
1. Ở thể Cấp tính: Phát
bệnh đột ngột, sốt cao hoặc nhẹ, đi cầu nhiều lần cấp bách, mót
rặn, ngồi lâu, phân ít hoặc không có phân, trong phân có lẫn ít hoặc
tàn chất đàm đính máu.
2. Ở thể Mạn tính: Do
bệnh cấp tính không chữa được hoặc chữa không khỏi hẳn, lâu ngày biến
thành Mạn tính, hoặc người vốn nguyên khí Hư hàn, mắc bệnh lý chứng
trạng lâm sàng nhẹ hơn so với cấp tính nhưng khó chữa hơn.
III/. Theo “Diện Chẩn - ĐKLP”
Qua nhận xét và kinh nghệim trên thực tế, chúng tôi thấy:
* Nguyên nhân: Ngoài
lý do nhiễm trùng do lây lan từ thức ăn như rau sống…còn có những trường
hợp do ăn uống bất hợp lý như ăn xoài sống rồi uống nước đá lạnh hoặc
ăn chuối tiêu rồi uống trá đá, …cũng sinh ra KIẾT LỴ rất nhanh. Đôi khi
do trong mình quá nóng vì dùng nhiều thức ăn, thức uống tích có tính
nóng tích nhiệt ở Đại trường cũng sinh ra bệnh.
* Chẩn đoán: Dùng que dò khám, ta thường thấy những điểm đau ở huyệt 143 -19-38-127-61-50-37-104-222-63-0-132.
Các dấu hiệu thấy bằng mắt :tàn nhang ở viền môi và cằm hoặc đầu chót mũi.
* Điều trị: Dùng que
dò ấn vào các huyệt trên, mỗi huyệt vài phút. Ngày làm 3-4 lần hoặc mỗi
khi đau quặn bụng quá.Đồng thời uống thêm rau má rửa sạch hãm nước sôi
hặoc giả nát lấy nước chưng và cách thủy hay rau má + nước dừa xiêm.
Cũng có thể dùng toa ÂM DƯƠNG THANG với lượng trái tắc nhiều hơn
nghệ, hoặc lấy cục nước đá áp lần lượt vào các huyệt trên cho đến khi
khỏi bệnh.
* Giải thích phương huyệt: Tác
động lên huyệt 143-36-222-104 để làm giảm mát ruột già, huyệt 37-132
tiêu đàm, mát huếyt, 19-61-127-50 để giảm Nhu động ruột, huyệt 37-0
để làm bớt mệt mỏi tứ chi.
* Phòng bệnh và trị bệnh bằng ăn uống
+ Cữ: ăn uống cùng lúc chuối chiên (hoặc các đồ chiên xào) với nước đá lạnh hoặc xoài sống hay me chua với nước đá.
+ Tránh: Dùng thức ăn có dầu mỡ trong khi bệnh , cà phê, rượu, thuốc lá, trà đậm.
+ Nên: ăn cháo trắng trong khi bệnh, ăn rau má, rau sam luộc, xương xa, xương xáo.
Bài giảng 15: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 15: Yếu sinh lý hay suy nhược sinh dục
I/ Đại cương
Cần phân biệt giữa Thận của Đông Y và
Tây Y. Thận (Đông Y) chủ yếu nói về chức năng của Thận bao gồm vấn đề
sinh lý, sinh dục của nam, nữ trong đó có Quả Thận và Cơ quan sinh
dục.
Còn Thận (Tây Y) chỉ là quả thận và
bệnh Thận là các bệnh có liên quan đến thực thể của THẬN như: Viêm cầu
thận, hội chứng thận hư nhiễm mỡ, lao thận, …
Ngoài ra, ngay chính trong Đông Y
cũng cần phân biệt chữ YẾU THẬN (Thận suy) như : mỏi lưng, đau
lưng, tiểu đêm, đái rát, mắt mờ, tai điếc với yếu thận (hiểu theo
nghĩa là yếu sinh lý)…Ví dụ: xuất tinh sớm (tảo tinh), dương vật mềm
nhão (Dương nuy), không ham muốn tình dục ở phụ nữ (Lãnh cảm), dương
vật không cương (Liệt dương)…dù rằng trong một số trường hợp chúng có
liên quan với nhau.
Trong bài này, chủ yếu đề cập đến bệnh XUẤT TINH SỚM, DƯƠNG NUY, LIỆT DƯƠNG, LÃNH CẢM mà thôi.
II/. Theo Đông Y và Tây Y
A. TÂY Y: Phải nói là tài liệu TÂY Y về bệnh yếu sinh lý rất hiếm hoi ở Việt Nam, do đó chúng tôi không đề cập đến phần này.
B. ĐÔNG Y: Đông Y ngược lại rất sở trường về việc cho thuốc phục hồi sự suy yếu của Thận.
Qua các bài thuốc Bắc rất
nổi tiếng, những toa thuốc tễ, thuốc rượu, những đơn thuốc có tính
kích dục, làm bền tinh đầy dẫy trong kho tàng Đông Y : tắc kè, hải mã,
rắn hổ, ba kích, câu kỷ tử, dâm dương hoắc, …
Căn cứ vào lý thuyết và lý luận Đông Y:THẬN là một tạng rất quan trọng, đứng hàng đầu trong Năm tạng và Sáu phủ.
Tạng là nguồn gốc tiên
thiên, là cơ sở của Âm Dương Thủy Hỏa trong cơ thể của chức năng sinh
dục, phát dục và hoạt động của con người. Nếu một cơ năng của THẬN bị
yếu, bất cứ trường hợp nào cũng đều ảnh hưởng đến cơ thể, bệnh Thận
sinh ra nhiều triệu chứng như: đau lưng, mỏi gối, di tinh, mộng
tinh, hoạt tiết tinh, liệt dương và phù thủng…
Bệnh chứng: Những tiêu chuẩn để xác định bệnh thận như :
1. Lưng và cột sống đau mỏi
2. Đùi, gối, cẳng chân, gót chân đau nhức
3. Tài ù, tai điếc
4. Tóc rụng và khô héo
5. Răng lung lay và hở thưa
6. Cơ năng của bộ máy snh dục mất bình thường
7. Xích mạch yếu
Khi thấy có ba trong bảy tiêu chuẩn trên thể hiện ra, ta có thể chẩn đoán là THẬN TẠNG SUY YẾU (Thận hư)
· Những điểm thuộc loại THẬN ÂM HƯ:
- Gan bàn tay, bàn chân nóng – không ngủ được
- Nóng hâm hấm nửa người về phía trên. Mạch tế, Huyền, Sác
- Lưỡi đỏ hoặc có nứt rạn – Về buổi chiều miệng khô,
- Quay đầu chóng mặt – Mộng tinh. Di tinh
- Nứơc đái vàng, đỏ, phân táo bón.
Kết hợp ba trong bảy tiêu chuẩn trên, cộng với ba, bốn hiện tượng này nữa, ta sẽ khẳng định là THẬN ÂM HƯ TỔN.
· Những điểm thuộc loại THẬN DƯƠNG HƯ:
- Sợ lạnh – Lưỡi nhạt
- Tay chân thường lạnh – Nước đái trắng
- Hay đi đái đêm – Thở yếu, nói mệt.
- Đại tiên lỏng – Tinh thần mờ tối
- Tự ra mồ hôi – Liệt dương
- Sắc mặt kém tươi – tảo tinh
- Phù thũng – mạch vi, Trì, Nhược
Kết hợp với ba trong bảy tiêu chuẩn trên cộng với 3-4 hiện tượng này, ta khẳng định là thuộc loại THẬN DƯƠNG HƯ TỔN.
III/. Theo Diện Chẩn- ĐKLP
A. NGUYÊN NHÂN:
Nguyên nhân của bệnh yếu sinh lý là do nhiều yếu tố như: bẩm sinh, di truyền, hoàn cảnh địa phương, giống (race), khí
hậu, thời tiết, thức ăn, tiếng động, sự giao hợp quá độ hoặc quá
kiêng cữ giao hợp, già yếu, nhưng chủ yếu là do trạng thái thần
kinh, do mức độ tự chủ của mỗi người.
B. TRIỆU CHỨNG:
1. XUẤT TINH SỚM: Mới giao hợp hoặc chưa giao hợp đã xuất tinh
2. DƯƠNG NUY: Dương vật mềm nhũn, không đủ cứng để giao hợp
3. LIỆT DƯƠNG: Dương vật không hoạt động được
4. LÃNH
CẢM:Phụ nữ không có cảm giác hoặc rất ít cảm giác ham muốn tình dục khi
gần người khác phái. Đôi khi còn chán ghét dự sinh hoạt tình dục.
C. CÁCH CHỮA:
1. XUẤT
TINH SỚM: Day ấn hoặc dán cao các huyệt 124+- 34+-
45+-1-127*22-7+-16+-0+, đồng thời ăn trái cau, chuối chát, khoai
sọ, khoai môn, hải mã hoặc tắc kè (ngâm rượu), …Đông thời phải chà sát
vùng mang tai, vùng cằm, vùng đầu mũi và trên trán (vùng huyệt 300+
-301+ -0302+)
2. DƯƠNG
NUY: Day ấn hay dán cao, hơ nóng các huyệt
127-19-0-40-37-7-63-1-45, đồng thời ăn uống củ cà rốt, chuối chát, sa
bô chê, hột gà, ca cao.
3. LIỆT DƯƠNG: Day ấn, dán cao, hơ nóng các huyệt 127-19-1-7-0-17-113-50-37-300 (bên phải). Chú ý: tránh huyệt 300 (bên trái). Ăn uống (như trên)
4. LÃNH
CẢM: Dán cao, bấm day huyệt 63-7-113-287 chà sát thường xuyên vùng môi
trên (ngày 3 lần, mỗi lần vài phút). Kết hợp ăn tròng đỏ trứng
gà, sa-bô-chê, cà rôt (quay sinh tố) vài lần mỗi tuần.
CỮ: Cà phê, thuốc lá, rượu. Riêng
trường hợp xuất tinh sớm, tránh xem phim ảnh hay phim truyện có tính
kích thích, khiêu dâm.
NÊN: Tập thở sâu, tập chạy tại
chổ, tập nằm ngữa cong mình lên, hai chân đạp (kiểu xe đạp) hoặc đá
chân tới lui (2 chân thay phiên nhau).
Bài giảng 16: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 16: Ẩm thực liêu pháp hay là ăn uống trị bệnh
I. Đặt vấn đề
Ăn uống là một vấn đề sống còn của con người. Không Ăn uống thì chết nhưng ăn uống sai lầm ,
không điều độ cũng sinh bệnh, đôi khi dẫn đến cái chết một cách nhanh chóng.
Do đó có câu: “Bệnh tòng nhập khẩu” (Bệnh theo miệng mà vào).
Đây là một vấn đề lớn khó thể trình
bày hết qua một bài giảng. Do đó, chúng tôi trình bày ở đây một số
nguyên tắc về ăn uống, một BẢNG TỔNG HỢP CÁC THỨC ĂN được phân loại
theo ÂM DƯƠNG và một số thức ăn, thức ăn uống có hại cho sức khỏe. Và
nếu ăn uống sai lầm sinh bệnh thì ăn uống cho đúng cách lại có khả năng
trị bệnh.
II. Nguyên tắc Ăn, Uống
TÂY Y cũng có đề cập đến vấn đề ăn
uống trị bệnh nhưng lấy thước đo là Protêin, Calorie, Vitamin…. ĐÔNG Y
khác hơn, phong phú và phức tạp hơn, đặt tiêu chuẩn đo lường là Âm
dương, cho rằng hệ thống âm dương quân bình là không bệnh.
Chúng tôi nghiên cứu cả hai lối
ăn, hai loại thức ăn và thấy có trùng nhau ở một số điểm như:
Calorie, Protein tương đương với dương tính, ít Calorie, protein
tương đương với âm tính. Điều này sẽ được trình bày trong BẢNG CHỮA BỆNH
BẰNG THỨC ĂN do chúng tôi soạn thảo.
1. Nguyên tắc thứ nhất:
của ăn uống là ĐIỀU ĐỘ và TIẾT CHẾ, nhưng nên nhớ rằng nếu có người
bệnh vì dư ăn thì cũng có người bệnh vì thiếu ăn.
2. Nguyên tắc thứ hai: là ăn uống sao cho trong cơ thể được quân bình ÂM DƯƠNG . Ví dụ:
- Người tạng HÀN thì đừng ăn thức ăn mát.
- Người tạng NHIỆT thì tránh thức ăn có tính nóng.
3. Nguyên tắc thứ ba: là
phải biết dùng thức ăn bổ dưỡng thích hợp với TẠNG của mình. Không nên
ăn ĐỒ BỔ cũng như cây chỉ tưới nước mà không bón phân thì không thể nào
lớn mạnh, tươi tốt được, nhưng BỔ bậy bạ có khi còn mau chết hơn.
III. Một số thức ăn cần thận trọng khi sử dụng
Một số loại thức ăn, thức uống thường
được bà con sử dụng tưởng là có lơi cho sức khỏe để cho khoái
khẩu, không dè nó là thủ phạm gây một số bệnh mà bà con hay mắc phải và
rất khó chữa (vì không biết thủ phạm). Đó là nước đá, nước dừa, nươc
chanh, nước mía, sữa hộp, nước sâm, nước ngọt vô chai (nói chung là
thức uống công nghiệp).
1. Nước đá: Đây
là sản phẩm công nghiệp nhiều người tiêu thụ nhất và cũng chính vì vậy
mà hậu quả của nó càng to lớn, nhất là khi bà con ta không ý thức được
cái hại của nó, nó hại như thế nào.
Tại sao lại có hại?
Nếu phân tích, ta sẽ thấy
nước đá ở dạnh hình khối đặc va rất lạnh.Cơ thể ta vốn nóng, nhất là
bên trong cơ thể. Do đó, khi uống nước đá vào, nhiệt độ cơ thể của ta
sẽ bị xáo trộn, thường xuyên do thói quen uống nước đá sẽ sinh ra nhiều
bệnh tật về sau.
Đặt vấn đề: Chai
nước lọc để thường xuyên trong tủ lạnh, mỗi khi đi nắng về uống cho
đã, thì đó là chai thuốc độc. Nó thường gây ra những bệnh sau đây:
- NHỨC MỎI, CỨNG CỖ và BẢ VAI
- Đau lưng
- Thấp khớp
- U nhọt
- Suyễn
- Tiểu gắt, tiểu đỏ, đái dắt
- Viêm họng
- Trĩ, lòi đom…
Nếu ta biết hạn chế sử dụng hoặc cữ hẳn nước đá thì bệnh sẽ giảm rất nhiều, việc chữa trị của thầy thuốc sẽ hiệu quả hơn.
2. Nước dừa: Nhiều
người theo Tây Y cho nước dừa là thức uống lý tưởng vì có nhiều
Vitamin, muối khoáng….nên có dịp là uống, nhất là những khi đi nắng
hoặc trời nóng thì tha hồ uống. Có biết đâu rằng nước dừa rất ÂM cho nên
uống nhiều sẽ tự động là ÂM HÓA cơ thể mình nên sau đó sinh ra: lạnh
bụng, lạnh tay chân, yếu tim, trĩ nội, xuất huyết, tiêu hóa, thấp
khớp, …là những bệnh do lạnh sinh ra. Thật ra nước dừa uống ít thì giải
nhiệt mà uống nhiều thì có hại.
3. Cam: Rất nhiều người lầm tưởng uống cam là bổ (vì có nhiều Vitamin C): muốn bổ phổi uống nhiều Cam tươi, Cam vắt
có thêm mật ong hay tròng đỏ trứng gà càng tốt. Thật ra nó chỉ đúng ở
một số trường hợp bệnh nhất định như bệnh do nóng nhiệt trong mình. Còn
đối với bệnh HƯ HÀN, bệnh MẠN TÍNH như: Suyễn hàn, Thấp khớp, đau đầu
kinh niên, huyết áp thấp, viêm xoang, viem mũi dị ứng, cứng mỏi
cổ, gáy, vai, đổ mồ hôi, ảnh chân tay, lạnh bụng, mệt tim, lả
người, …đều phải nên tránh dùng cam tươi. Có
nhiều bệnh mà thầy thuốc chữa hoài không hết cũng vì không dè bệnh nhân
hay dùng nhiều Cam vắt mỗi ngày (vì bệnh nhân tưởng CAM là thuốc bổ, uống càng nhiều càng khỏe).
Thật ra CAM và CHANH cũng là trái cây có nhiều dược tính: Hạ nhiệt, hạ áp, làm loãng máu, giản mạch và trị được một số bệnh. Nhưng
cần phải biết dùng cho đúng cách của nó. Còn dùng sai chỗ hoặc lạm dụng
loại trái cây này thì dễ sinh các bệnh như: ĐAU ĐẦU KINH NIÊN, HAY BỊ
CẢM CÚM, THẤP KHỚP, MỆT MỎI, ĐỔ MỒ HÔI, SUYỄN HÀN, BAO TỬ
LẠNH, VIÊM MŨI DỊ ỨNG, TIÊU RA MÁU, VIÊM XOANG, MỎI CỔ, GÁY, ….
4. Sữa:
Theo Tây Y thì SỮA (sữa đặc có đường) cũng như CAM là loại thức ăn rất bổ dưỡng và cho bệnh nhân dùng rất tốt. Cho nên thói thường, hễ đi thăm bệnh ở Bệnh viện, người ta cho CAM hay SỮA. Thật ra, thói quen nên xét lại. Vì rằng SỮA cũng như CAM (đã nói ở phần trên ) dùng không đúng sẽ có hai.
Thật vậy, sữa đặc có đường là một
thức ăn bổ, nhiều Protêin sản sinh nhiều Calorie và có thể dùng thay
thế SỮA TỰ NHIÊN, nhưng cũng là thức ăn có hại vì chứa nhiều chất
nhầy, chất ngọt, chất lòng trắng trứng (albumine). Do đó, nếu đang
bị các bệnh đường hô hấp, đường ruột, đau dạ dày thì nên hạn chế sử
dụng, vì sẽ làm cho tình trạng SUYỄN tăng nặng hơn, có đàm nhiều
hơn, dễ tiêu chảy , …
Do đó, ta phải hạn chế dùng nhiều
sữa, nhất là khi có bệnh về đường HÔ HẤP, đường RUỘT, …(chú ý: Sữa mà
chúng tôi đề cập ở đây không phải là sữa tươi, mà là sữa hộp tức là SỮA
ĐẶC CÓ ĐƯỜNG mà bà con thường dùng khi có bệnh )
TÓM LẠI: ĂN để mà sống
nhưng không biết cách ăn hoặc ăn quá nhiều sẽ sinh ra bệnh tật. Phần
trên trình bày 4 thức ăn uống mà nhiều người hay lạm dụng vì nghĩ rằng
nó bổ hoặc thích khẩu. Thật ra, dù là thức ăn bổ cũng phải nên biết
rằng: THUỐC BỔ CŨNG LÀ THUỐC ĐỘC NẾU KHÔNG KHÉO SỬ DỤNG NÓ.
Ngoài ra cón các món
ăn, thức uống cũng dễ sinh ra một số bệnh nhất là bệnh đường
ruột, bệnh nhiễm trùng. Đó là nước mía, nước sâm, nước rau mà, kem,
….và các loại trái cây bán trên các xe ba bánh ngoài đường như:
thơm, cóc, ổi, dưa hấu, củ sắn, sơ-ri, …
Để kết thúc bài giảng
này, chúng tôi xin nhắc lại “BỆNH TÒNG NHẬP KHẨU”. Do đó, phải chịu
khó và lựa chọn thức ăn, thức uống hàng ngày của mình, chịu khó chọn
để ý xem cơ thể mình thích hợp với món ăn mà mình hay dùng không? Nếu ăn
vào thấy khỏe là đúng và thấy có phản ứng bất lợi là sai. Thật ra một
thức ăn kỵ với người này có thể kết hợp với người
khác. Đó là bệnh TẠNG và BỆNH của mỗi người khác nhau. Cho nên chớ bắt
chước người khác, cứ theo dõi, hễ thấy thích hợp với mình là tốt cho
bệnh mình và cứ dùng, nhưng nếu có hại thì phải ngưng ngay và điều
chỉnh lại.
BẢNG HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ CÁCH PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
(bằng THỨC ĂN, THỨC UỐNG, tức Ẩm thực liệu pháp và sinh hoạt hàng ngày)
Tác giả: BÙI QUỐC CHÂU-Tháng 3/1989
BỆNH
|
KHÔNG NÊN DÙNG
|
NÊN DÙNG
|
(1)
|
(2)
|
(3)
|
Cảm lạnh
|
Nước đá, nước cam, nước chanh, nước dừa
|
Gừng, nghệ, sả
|
Viêm mũi dị ứng
|
Như trên + mắm các loại
|
-nt-
|
Viêm xoang
|
Như trên + Chuối già, khoai lang, khoai mì, cà bát, cà tím, cà pháo, thịt gà, rau dền
|
-nt-
-nt-
|
Suyễn
|
Mắm, nước đá, nước cam nước chanh, nước dừa, cà bát, cà pháo, sữa hộp, cải bẹ xanh, măng tre, tương chao, dưa hấu
|
-nt-
|
Thấp khớp-nhức mỏi
|
Mắm, nước đá, dưa leo, chanh, cải bẹ xanh, măng tre, các loại cà, nước dừa, nước suối
|
-nt-
|
Đau bao tử
|
Chuối già, chuối cau, cà tím, cà pháo, dưa leo, nước đá, nước suối, tương chao, táo tây
|
-nt+ Cải bẹ xanh
|
Trĩ
|
Nước đá, nước dừa, chanh, cam, mía, hột vịt lộn, cà bát, ớt, ốc bươu, ốc lác
|
Chè đậu đen
|
Nhức đầu kinh niên
|
Nước dừa, nước chanh, cam, nước đá, dưa leo, cà bát, cà tím, chuối già, cải bẹ xanh
|
Gừng, nghệ, tỏi
|
Viêm họng khan tiếng
|
Nước đá, nước ngọt, nước suối, cam, sữa hộp, đậu phộng, thuốc lá, tương chao
|
Me đất, tắc muối, chanh muối đen ( không gọt vỏ khi muối)
|
Huyết áp cao
|
Mắm các loại, các thức ăn mặn, nước suối, thịt mỡ, rượu, cà phê, tương chao
|
Các thức ăn lạt, cá, cải bẹ xanh, nước dừa, nước chanh, nước cam, rau má
|
Suy nhược thần kinh
|
Nước dừa, nước đá, nước sâm, cam, chanh
|
Bí đỏ, cá lóc
|
Mất ngủ
|
Cà phê, rượu, thuốc lá
|
Chè đậu xanh, nhãn lồng
|
Táo bón
|
Nghệ, chuối chát, thịt, ca cao, chocolate, sabôchê (hồng xiêm)
|
Chuối xiêm, đu đủ, bưởi, me, rau muống, rau lang, quýt
|
Tiêu chảy
|
Nước cốt dừa, xương xa, chuối xiêm, quýt, hột gà
|
Nghệ, chuối chát
|
Kiết lỵ
|
Cà phê, ca cao, chocolate, rượu, cà ri, các thức ăn có nhiều dầu mỡ
|
Xương xáo, xương xa
|
Viêm gan, xơ gan
|
Trứng các loại
|
Nghệ
|
Nhức răng
|
Tiêu, nước đá, thịt gà, rau dền
|
Ngậm nước muối pha loãng, nước dừa
|
Sử dụng nhiều và thường xuyên các thức ăn và uống sau đây sẽ bị bệnh do mất cân bằng Âm Dương
Tác giả: BÙI QUỐC CHÂU-Tháng 3/1989
Lạm dụng (ăn uống mỗi ngày)
|
Sẽ dễ dẫn đến việc bị các bệnh
|
1. Nước đá hoặc chai nước lọc để trong tủ lạnh - các thức ăn công nghiệp
|
1.
Cảm lạnh, viêm họng, thấp khớp, rụng tóc, già sớm, viêm mũi dị
ứng, Suyễn, suy nhược thần kinh, suy nhược sinh dục, đau bao
tử, nhức đầu kinh niên, mệt mỏi trong người
|
2. Nước dừa
|
2.Thấp
khớp, cảm lạnh, trĩ, huyết áp thấp, xuất huyết nội, rong
kinh, đau bao lưng, mệt tim, mỏi gối, yếu gân, yếu sức, bệnh về mắt
|
3. Nước cam
|
3. Trúng lạnh, thấp khớp, suyễn, trĩ, cảm lạnh, viêm đường hô hấp, dễ viêm nhiễm, viêm đại tràng mạn tính, viêm bao tử.
|
4. Nước chanh
|
4. Huyết áp thấp, thấp khớp trĩ, ung bướu
|
5. Nước mía
|
5. Trĩ, trúng lạnh, xuất huyết tiêu hóa, tiểu đường (diabète)
|
6. Dưa leo
|
6. Thấp khớp, đau bao tử
|
7. Dưa hấu
|
7. Táo bón, kiết lỵ, tắt tiếng
|
8. Cà tím, cà pháo, cà bát
|
8. Suyễn, thấp khớp, đau bao tử, sạn thận
|
9. Hột vịt lộn
|
9. Trúng thực, ói mửa, suyễn
|
10. Hột gà, hột vịt
|
10. Tiêu chảy, đau gan, suyễn
|
11. Chuối già, chuối cau (chuối tiêu)
|
11.Đau bao tử, khó tiêu, u nhọt, nhức đầu
|
12. Nhãn, trái vải
|
12. Mệt tim, nóng mặt
|
NHỮNG BỆNH THƯỜNG GẶP KHI SINH HOẠT SAI LẦM
SINH HOẠT SAI LẦM THƯỜNG XUYÊN
|
DỄ ĐƯA ĐẾN CÁC BỆNH
|
1. Quạt máy thổi sau gáy
|
1. Cứng gáy, vẹo cổ, nhức đầu (cổ gáy)
|
2. Ngồi trước quạt máy
|
2. Khan tiếng, tắt tiếng
|
3. Uống nước đá khi bụng đói
|
3. Trúng lạnh, đau bao tử
|
4. Uống trà đá + ăn chuối chiên, đồ dầu mỡ, chiên xào
|
4. Kiết lỵ
|
5. Đi tiểu ngay trước và sau lúc tắm
|
5. Cảm lạnh
|
6. Tắm khi vừ ăn xong
|
6. Đau bao tử
|
7. Tắm nước lạnh ngay sau khi đi xa ban đêm
|
7. Cảm lạnh, liệt nửa người do tai biến mạch máu não, liệt mặt
|
8. Dầm mưa lâu, ngủ kế bên cửa sổ mở rộng
|
8. Cảm lạnh, liệt nửa người do tai biến mạch máu não, liệt mặt
|
9. Uống nước nửa chín nửa sống
|
9. Đau bụng, buồn ói
|
10. Gội đầu bằng nước lạnh ngay sau khi đi nắng về
|
10. Nhức đầu như búa bổ
|
11. Gội đầu ban đêm
|
11. Nhức đầu kinh niên
|
12. Ngủ dưới đất, không trải chiếu lúc trời nóng
|
12. Nhức mỏi, thấp khớp, đau cứng cơ khớp
|
13. Giao hợp xong đi tắm ngay
|
13. Trúng nước, nhức mỏi, yếu thận
|
14. Giao hợp xong nằm ngủ dưới quạt máy
|
14. Trúng gió, nhức đầu, cứng cơ
|
15. Giao hợp dưới nước
|
15. Nhức mình kéo dài, hại thận, cảm lạnh
|
16. Phụ nữ mới sinh vọc nước, giặt giũ sớm, ăn cam chanh
|
16. Nhức mỏi thấp khớp, các bệnh về kinh huyệt sau này
|
17. Cởi trần, ngủ ngoài trời
|
17. Cảm lạnh, sưng phổi, suyễn
|
18. Đi ra ngoài sớm quá hay khuya quá (dầm sương)
|
18. Cảm lạnh, sưng phổi, suyễn, viêm mũi dị ứng
|
19. Ngồi dưới mái tôn lúc trời nóng
|
19. Viêm mũi, cảm sổ mũi, nhức đầu
|
Bài giảng 17: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 17: Bảng phân loại huyệt
Để giúp các bạn học viên đỡ mất thì
giờ trong việc tìm kiếm các mối liên hệ giữa các Huyệt với một vùng hay
cơ quan nào đó (hoặc kiên hê đến một triệu chứng hay tác dụng cần thiết
nào đó) chúng tôi soạn:” Bảng Phân loại huyệt” dưới đây:
* Cách sử dụng:
Dò các bảng dưới đây thấy huyệt nào có
liên quan đến trường hợp bệnh mình đang điều trị thì chọn ra. Ví dụ:
Đối với bệnh nhân đau đỉnh đầu, ta có thể nghĩ đến các huyệt sau ( vốn
có liên hệ với nó): 103-197-175-126—50-51-87-365 và sau đó, lấy que dò
để xác định trong số các huyệt trên, huyệt nào báo đau thì sẽ DAY ẤN
hoặc DÁN CAO hay chấm huyệt (chứ không phải hễ đau đâu là day ấn hay dán
cao hết cà huyệt trên cùng một lúc).
Chú ý: Các Huyệt có gạch dưới là Huyệt Chính thường hay báo đau khi có bệnh.
PHÂN LOẠI HUYỆT THEO TÁC DỤNG
PHÂN LOẠI “HUYỆT” THEO “TRIỆU CHỨNG CẢM GIÁC”
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bài giảng 18: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 18: Bí mật vùng đầu phần đầu nhìn từ bên trên
Phản chiếu đồ hình dương
Đây là phần phát triển của Diện Chẩn –
Điều khiển liệu pháp, chúng tôi tìm ra da đầu là phản chiếu da mặt, hay
nói khác đi, da đầu là phần âm, da mặt là phần dương.
Dó đó toàn bộ các hệ thống phản chiếu
của da mặt được phản chiếu một lần nữa lên da đầu qua trục bản lề MÍ TÓC
TRÁN và ĐƯỜNG TIẾP TUYẾN VỚI BÌNH TAI (qua huyệt số 0 và 138).
Phần đầu nhìn nghiêng
Qua đồ hình dương, xuất hiện ở vùng
đầu , ta có thể dùng búa gõ (Mai hoa hay Gôm), cây lăn, cây dò, cây cào
để phát hiện vùng nào của cơ quan nào bị bệnh. Khi đã phát hiện vùng đau
hay điểm có cảm giác khó chịu (sinh huyệt) ta lấy búa gõ vào huyệt
trên, vừa gõ vừa theo dõi xem bệnh nhân có dễ chịu hay không. Nếu có, gõ
cho đến khi thấy thật sự dễ chịu (Lưu ý: Trước khi Gõ, nên LĂN, CÀO
khoảng 5 – 10 phút cho khí huyết lưu thông)
Mời các bạn xem những ĐIỂM và VÙNG ĐẦU tương ứng với bộ mặt và xa hơn nữa là tương ứng với toàn cơ thể.
PHẦN PHẢN CHIẾU VÙNG ĐẦU
|
ĐẦU
|
1. ĐẦU
|
1. Phần trên mí tóc trán (từ huyệt Thượng tinh trở lên vài phân)
|
2. VAI- CÁNH TAY
|
2. Từ trục dọc giữa đỉnh đầu bàng khai ra vùng có các huyệt Thừa quang,Mục song va 2phía sau Đầu duy
|
3. BÀN TAY VÀ CÁC NGÓN
|
3. Vùng các huyệt Hàm yến, Huyền tử, Huyền ly
|
4. CỘT SỐNG
|
4. Trục dọc giữa đỉnh đầu, tiếp theo phân 1 nếu kéo dài đến huyệt Bá hội.
|
5. MÔNG
|
5. Phần trước huyệt Bá hội một chút và bàng khai ra hai bên khoảng vài phân.
|
6. ĐÙI –GỐI
|
6. Từ Bá hội đi hơi chéo xuống sau và trên đỉnh tai (vùng huyệt chính doanh. Thiên xung)
|
7. CẲNG CHÂN-BÀN CHÂN-NGÓN CHÂN
|
7. Từ phần trên kéo vòng ra sau CHẪM ( vùng huyệt ngọc chẫm, Não bộ) và mí tóc gáy.
|
Cách sử dụng hệ phản chiếu nói trên trong việc chữa bệnh:
Khi có bệnh ở ĐẦU, MÌNH và TỨ CHI
(phần ngoại vi) , ta dùng BÚA (cao su, mai hoa) hoặc các dụng cụ khác
(QUE DÒ, CÂY CÀO, CÂY LĂN, NGÓN TAY) tác động vào sinh huyệt xuất hiện
hệ phản chiếu nói trên tương ứng với bộ vị của ơc thể. Ví dụ: Đau mỏi
vai, tay ( vùng các bộ vị cơ thể) , ta lấy BÚA GÕ vào vùng TAY,
VAI của đồ hình DƯƠNG (hình người đàn ông ở trong tư thế nằm sấp), để
tìm ĐIỂM tương ứng của cơ thể . Nếu bệnh nhân đau lưng, ta gõ vào Lưng
của đồ hình. Cũng thế cho các phân khác của cơ thể (mỗi huyệt tác động
2-3 lần cách khoảng và mỗi ngày tác động 2-3 đợt (sáng trưa chiều) sẽ
có hiệu quả hơn. Có thể đổi phương tiện tác động nếu không có kết quả.
Ví dụ: có thể hơ bằng ngải cứu hay dùng QUE DÒ huyệt để DAY ẤN,…
Bài giảng 19: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 19: Kỹ thuật hơ nóng các huyệt trên cơ thể theo DC - ĐKLP
Con người là một sinh vật rất nhỏ bé
trong vũ trụ nên chịu tác động rất lớn của những biến chuyển trong trời
đất, không kể những yếu tố khó thấy như: vũ trụ tuyến, tia tử ngoại, tia
hồng ngoại, từ trường…
Tuy nhiên yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe của con người dễ thấy nhầt là nhiệt độ. Sự nóng lạnh nếu vừa phải
thì tốt, nếu quá đều gây ra bệnh tật, thậm chí chết chóc cho con người.
Chính vì biết nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến con người mà loài người
nagy từ thuở xa xưa cũng đã biết dùng lửa và nước để phòng chống bệnh
tật hay làm cho mình khỏe mạnh hơn.
Tất nhiên, ở mỗi nơi, mỗi nước có hình
thức trị liệu bằng sức nóng khác nhau. Riêng ở Châu Á thì rất lâu,
ngoài việc biết dùng vật nhọn kích thích một số điểm mẫn cảm trên cơ thể
để trị bệnh, về sau biến thành hình thức CHÂM bằng kim, người ta còn
biết dùng LỬA để hơ nóng vào nơi đang đau để làm giảm đau, hình thức này
về sau đưa đến việc CỨU bằng ngải nhung trực tiếp hay gián tiếp trên
huyệt, đem lại hiệu quả trị bệnh, đôi khi rất kì diệu.
Ở những nơi lạnh lẽo, người ta thương
cứu nhiều hơn châm, vì hình thức này đem lại sức nóng dẽ chịu và kết quả
rõ rệt trên nhiều bệnh nhất là bệnh có gốc HƯ HÀN. Ngày nay, ở nước ta,
các thầy thuốc hay dùng ÔN CHÂM thay vì dùng điếu ngải nhung để CỨU
trực tiếp như trước đây. Như thế là từ rất lâu, ở Á Châu , người ta biết
dùng sức nóng để trị bệnh qua huyệt bằng hình thức cứu hay hơ về sau.
Trong việc này chúng tôi đề cập đến
việc dùng phép CỨU hay HƠ nóng huyệt để trị bệnh nhưng theo một số
nguyên lý mới.Nguyên lý này đước chúng tôi xây dựng qua việc phát hiện
trước đó về một đặc tính của DA và HUYỆT từ câu (PHẾ CHỦ BÌ MAO) trong
Nội kinh , chúng tôi đi đến suy nghĩ là DA LÔNG CŨNG THỞ NHƯ PHỔI. Mà
nói đến thở là có thở ra và hít vào (tức là hô hấp). Các huyệt trong cơ
thể vì nằm trong hệ da, lông nên cũng mang đặc tính của hệ da là htở ra
và hít vào, nhưng thở ra hít vào trong nguy6en tắc tự điều chỉnh của cơ
thể, tức là hô và hấp khi cần thiết, nghĩa là khi cơ thể bị bệnh hoặc bị
trục trặc một cơ quan nào đó, bộ phận hay tòan cơ thể. Khí có các huyệt
có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến cơ quan bị bệnh sẽ mở ra hút
lấy năng lượng vũ trụ (khí) vào để tự điều chỉnh lấy nó( Đạo trời đất
một hô một hấp, một co một duii64, một mở một đóng, một lên một xuống).
Và chỉ khi nào cơ thể bị bệnh nặng đến mức mất đi cơ chế tự điều chỉnh
này thì mới không xảy ra hiện tượng trên. Do đó, vấn đề trị bệnh, thật
ra là giúp cho cơ thể tự điều chỉnh nhanh, mạnh và có hiệu quả hơn mà
thôi. Vai trò của thầy thuốc là vai trò hỗ trợ chứ không phải là thay
thế cơ thể.
Trên đây là giả thiết của chúng tôi về
đặc tính của huyệt. giả thuyết này sớm được xác minh ngay sau khi đưa
vào thực tế trị bệnh. Rõ ràng là các huyệt trên mặt tương ứng với cơ
quan đang bị bệnh, có hiện tượng hút hơi nóng vào khi được hơ bằng cây
ngải cứu nhỏ dù để cách mặt da chứng 1cm. Hiện tượng này được xác minh
bằng cách thử để lệch vị trí huyệt 1mm (một ly) thì sẽ không thấy hiện
tượng nóng buốt nóng như phỏng, nóng như có luồng hơi hút xoáy sâu vào
bên trong huyệt nữa mà chỉ có cảm giác ấm mà thôi. Rồi sau đó giảm dần
để rồi chỉ có cảm giác ấm bình thường dù vẫn giữ nguyên vị trí và cách
mặt da cùng cự ly.
Thời gian vừa nói lâu hay mau là tùy ở
tình trạng bệnh nặng hay nhẹ và tùy ở diễn biến của bệnh. Nếu bệnh mau
lành thì huyệt liên hệ với cơ quan đang bệnh mau đóng lại (và ngược lại
sẽ lâu có hiện tượng bão hòa khi huyệt hấp thụ đủ nhiệt năng cần thiết
để điều chỉnh nơi đang cần. Và khi đó huyệt sẽ thôi không hút sức nóng
từ điếu ngải cứu tỏa ra nữa. Dù cho ta có để lâu cả phút cũng chỉ có cảm
giác ấm ở MẶT DA mà thôi. Hiện tượng này xảy ra ở các huyệt khắp nơi
trên cơ thể chứ không chỉ ở các huyệt trên mặt.
* KỸ THUẬT HƠ NÓNG CÁC HUYỆT TRÊN MẶT:
Từ việc khám phá ra nguyên lý mới về
huyệt và các hiện tượng trình bày trên, chúng tôi tiến hành việc chẩn
đoán và điều trị bằng cách: Điếu ngải cứ quấn nhỏ hơn điếu ngải vẫn
thường dùng cho THỂ CHÂM (điếu ngải này chỉ to bằng điếu thuốc lá). Bằng
cách cầm điếu ngải giữa hai ngón trỏ và ngón cái, với ngón út để nhẹ
trên mặt da làm chổ tựa, ta di chuyển chầm chậm (rà) điếu ngải trên mặt
da khoảng 1cm, và để ý xem chổ nào thì bệnh nhân né mặt và kêu nóng quá.
Kinh nghiệm cho biết rằng: nếu rà đúng huyệt đang mở(sinh huyệt) thì
không quá 2 giây, bệnh nhân sẽ cảm thấy nóng ngay. Một cảm giác nóng dữ
dội như bị phỏng và nhói buuốt sâu trong da thịt như có lực hút xoáy vào
trong một cái lỗ gây cảm giác nóng nà nhức buốt (đôi khi nóng rát, nóng
ngứa), khiến người bệnh không thể nào chịu đựng nổi, phải né mặt kêu
lên.
Trái lại, nếu không có những hiện
tượng như trên mà chỉ có cảm giác ấm thì không phải là huyệt đang có như
cầu của nó. Tất nhiên là không nên mất thì giờ hơ làm gì vì không có
tác dụng. Đối với việc chữa bệnh bằng phương pháp DIỆN CHẨN – ĐIỀU KHIỂN
LIỆU PHÁP thì ta chỉ việc căn cứ vào các đồ hình và sinh huyệt trên
vùng mặt, đầu, cồ ,gáy tức là những điểm cực kỳ nhạy cảm với sức nóng
của điếu ngải tỏa ra, để định bệnh và điều trị (đặc biệt trong DC-ĐKLP,
điểm chẩn đóan cũng là điểm để điều trị bệnh)
Còn với các huyệt trong cơ thể thì ta
dò các sinh huyệt nằm trên các đồ hình phản chiếu khắp các bộ phận của
cơ thể (theo hệ phản chiếu của DC-ĐKLP) để chẩn đoán và trị bệnh. T6át
cả cũng đều cùng một nguyên lý như các huyệt trên mặt.
* KẾT QUẢ BAN ĐẦU:
Cho đến nay, sau một năm phát hiện và
áp dụng nguyên lý trên trong việc chẩn trị, chúng tôi thấy đây là một
phương pháp có tác dụng và hiệu quả rất cao trên nhiều loại bệnh, nhất
là các bệnh HƯ HÀN như:cảm lạnh, nhức đầu do lạnh, suy nhược cơ thể,
viêm đại tràng mạn tính, đau lưng, nhức mỏi, thấp khớp, suyển hàn, viêm
mũi dị ứng, đau bụng kinh,…Các bệnh đặc biệt như di chứng tai biến mạch
máu não, bầm sưng do chấn thương..cũng đều có kết quả đáng ngạc nhiên.
TÓM LẠI, cách hơ nóng huyệt vừa trình
bày có tác dụng làm thông kinh hoạt lạc rất mạnh và rất nhanh, làm tan
huyết ứ, khí bế, làm mềm cơ, mạch gân, ngoài ra cũng làm an thần và trấn
thống, tiêu đàm tích rất tốt. Tuy nhiên, nó cũng có những hạ chế, do đó
không hợp với những bệnh sau: U bướu trong cơ thể, nhất là ở bộ phận
sinh dục nữ (như U XƠ TỬ CUNG, BƯỚU BUỒNG TRỨNG) , loét dạ dày, viêm
gan…Cho nên phải cẩn thận không nên hơ nhiều càc huyệt thuộc gan, dạ dày
Lưu ý: Dù đem lại hiệu quả cao cho nhiều bệnh kỹ thuật này vẫn có những bất tiện, như sau:
- Các huyệt hút nóng rất dữ dội cho
nên rất dễ gây phỏng, nếu ta hơ lâu một huyệt . Dó đó, phải đổi sang
huyệt khác, sau khi bệnh nhân né mặt ba lần. Sau đó có thể hơ trở lại
trong lượt thứ nhì của phác đồ điều trị (có lẽ thuở xưa, cổ nhân cấm CỨU
các huyệt trên mặt, vì sợ gây phỏng mặt cho bệnh nhân và tăng khí dương
nhiều quá).
- Không nên hơ quá nhiều huyệt trong
mỗi lần điều trị (Phác đồ có quá nhiều huyệt_. Điều này sẽ gây ra những
hiện tượng nóng nhiệt trong người như nổi mụn nhọt, ngầy ngật, táo bón,
khó ngủ,…
- Mỗi ngày chỉ hơ một lần, nếu không sẽ gặp những hậu quả nêu trên. Nếu bệnh đã giảm nên cách ngày hơ một lần.
Ngoài việc sử dụng ngải cứu, ta có thể dùng bất cứ phương itện gì tỏa
nhiệt như: thuốc lá, nhang, tia sóng ngắn đều có tác dụng trị bệnh tương
tự như ngải cứu. Điều này sẽ giúp cho bệnh nhân tự trị được một số bệnh
thông thường chủ yếu là các bệnh do rối loạn các chức năng, ở nhà, góp
phần thực hiện chủ trương biến người bệnh thành người chữa bệnh trong
phạm vi chăm sóc sức khỏe ban đầu, mạng lưới Y tế gia đình, chữa bệnh
tại nhà.
Bài giảng 20: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài giảng 20: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp |
Bài 20: Vina Massage
Vina: Việt Nam Massage:
Xoa bóp, Vinamassage là tên gọi của một phương pháp xoa bóp mới do
chúng tôi nghiên cứu lập ra trong thời gian gần đây (1988-1989).
Nó được xây dựng từ những nguyên lý
của Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp như nguyên lý phản chiếu, Đồng bộ
thổ điểm, đồng ứng, giao thoa,…cũng như Diện Chẩn – Điều khiển liệu
pháp. Đây cũng là tác phẩm tổng hợp có sáng tạo từ Ba nền Y học: Đông,
Tây và Y học dân gian.
Vinamassage như tên gọi là một môn xoa
bóp, do đó không nên dùng kim châm mà chủ yếu là sử dụng các dụng cụ để
xoa bóp do chúng tôi sáng chế ra (từ năm 1983) như CÂY LĂN (Mini
roller), CÂY CÀO (Mini raker), CÂY BÚA ( Mini hammer with rubber tip),
QUE DÒ HUYỆT(Finding point stick) và phạm vi tác dụng của nó là toàn
thân chứ không khu trú ở một bộ phận nào.
Chúng ta đã biết, cho đến nay, trên
thế giới có 3 khuynh hướng xoa bóp chính: một là theo Tây Y lấy hệ thần
kinh làm cơ sở, hai là theo Đông y lấy hệ kinh huyệt làm nền tảng,
khuynh hướng thứ 3 là tổng hợp vừa theo Đông Y vừa theo Tây Y.
Vinamassage E là phương pháp kế thừa
và tổng hợp tinh thần và tinh túy của 3 nền Y học: Dân gian, cổ truyền
và hiện đại, nên không những kế thừa vận dụng tất cả kiến thức của Tây Y
trong việc giải thích cũng như ứng dụng (như: Giải phẫu học, sinh lý
học, thần kinh học…)và Đông Y như thuyết chỉnh thể, Âm dương, Ngũ hành,
hệ Kinh lạc…Mà còn đưa ra được những khám phá mới của mình về các hệ
phản chiếu trên toàn thân và đặc biệt là các lý luận đặc thù của nó. Do
đó, trên lâm sàng, dù lấy hệ phản chiếu trên toàn thân là mục tiêu tác
động chính, nó vẫn không loại trừ sự tác động vào các hệ khác của cơ thể
mà y học hiện đại cũng như ổc truyền đã khám phá được như: hệ thần
kinh, hệ bạch huyết, hệ Zakharin- Head, Tiết đoạn thần kinh, hệ tuần
hoàn, hệ cơ bắp, hệ phản xạ thuộc các hệ thống nhỏ (Micro-system) và hệ
Kinh lạc,..
Tuy nhiên với một điều kiện hết sức
quan trọng là tùy ở tình trạng bệnh lý hiện tại của bệnh nhân, hệ thống
nào phát ra tín hiệu bệnh lý thì lấy hệ đó là mục tiêu chính để tác động
(chứ không phải lúc nào cũng dùng tất cả các hệ)…Đó là quy tắc ứng dụng
(có ứng mới dùng).
Tại sao chúng tôi lại đề ra phương pháp trị bệnh này?
Vì qua nhiều năm nghiên cứu và điều
trị bệnh, chúng tôi phát hiện được một điều rất quan trọng là các hệ
thống trong cơ thể, chủ yếu là các hệ thống không thể thấy được bằng mắt
thường như hệ Kinh lạc, hệ phản chiếu không có tính chất cố định (Non
fixé) và ĐỘC NHẤT MÀ LUÔN THAY ĐỔI BIẾN THIÊN TÙY THEO SỰ DIỄN BIẾN CỦA
TÌNH TRẠNG BỆNH LÝ ĐANG XẢY RA TRONG CƠ THỂ, và do đó DƯA ĐẾN TÌNH TRẠNG
THỰC TẾ LÀ PHẢI CÓ NHIỀU HỆ PHẢN CHIẾU CHỨ KHÔNG THỂ CÓ MỘT HỆ ĐỘC NHẤT
VÀ CỐ ĐỊNH.
Tức là tùy theo sự chi phối của QUY
LUẬT lúc bấy giờ mà hệ này sẽ biến thành hệ khác, tương tự phép biến đổi
điểm trong toán học. Ví dụ: MŨI tương ứng với LƯNG nhưng có lúc nó lại
tương ứng với TỬ CUNG hay PHẾ QUẢN hoặc DƯƠNG VẬT..hoặc PHẾ KINH, có lúc
n1o không còn là PHẾ KINH nữa mà là TỲ KINH (hay kinh nào khác), khi đó
cổ tay sẽ là cổ chân và ngóntay cái sẽ là ngón chân cái và huyệt Thiếu
Thương sẽ thành sẽ thành huyệt Ẩn bạch, Ngư tế sẽ thành Đại đô…tức là
nếu khu vực hay bộ phận nào đó đã biến đổi để tương ứng với bộ phận khác
trong cơ thể thì các huyệt nằm trong khu vực hay hệ thống đó cũng phải
theo cho phù hợp. Tóm lại, A có thể trở thành B hay C hay D (cũng có
nghĩa là A không hcỉ là A mà còn là B,C,D nữa) là tùy ở diễn biến của cơ
thể qua các thời điểm khác nhau. Khi đó những chi tiết (huyệt, các bộ
phận nhỏ) nằm trong hệ thống cũ cũng biến đổi theo cho phù hợp với hệ
thống mới. Ví dụ: A trở thành B thì a cũng phải trở thành b.
Dựa vào thực tế lúc bấy giờ, ta chữa bệnh bằng phương pháp DC-ĐKLP hay
Vinamassage sẽ dùng những kỹ thuật đặc biệt để xác định các khu vực của
ơc thể lúc bấy giờ là tương ứng với A,B hay C. Từ đó, chọn dụng cụ thích
hợp để tác động vào điểm thích ứng.
Vì thế, chúng tôi kết luận là : Xét về
mặt ứng dụng, không có một bộ phận hay khu vực nào tương ứng cố định và
độc nhất với một bộ phận khác của cơ thể và như thế sẽ không có hệ
thống (hay huyệt) nào có giá trị ưu thế so với những cái khác khi nó có
vấn đề và được tác động đúng lúc, đ1ung chổ, đúng cách và đúng mức (cũng
như trong DC-ĐKLP, không có dụng cụ nào có giá trị nhất mà mỗi dụng cụ
chỉ chứng tỏ được giá trị cao nhất của nó khi nó được sử dụng đúng
trong mỗi trường hợp của nó). Ví dụ: Trường hợp Vẹo cổ, bong
gân thì dùng búa gõ (đầu cao su) là hay nhất, nhưng đối với tê tay chân
do khí huyết không thông thì cây lăn là hay nhất chứ không phải là cây
búa. Nói khác đi, giá trị của một vật có được là tùy vào sự đối đãi mà
ra, không có gì đứng một mình mà có giá trị cả.
Do đó, trên lâm sàng chúng tôi cần khám xem hệ nào bị trục trắc, khi đ1o sẽ tác động vào hệ đ1o. VÍ
DỤ: một bệnh nhân bị đau Lưỡi, sau khi tìm điểm phản chiếu của hệ phản
chiếu trong DC-ĐKLP đều không thấy phản ứng mà ta lại tìm thấy điểm phản
ứng (gọi là sinh huyệt) .Ở cạnh cằm, là vùng lưỡi thuộc hệ
Zakharin-Head lúc đó ta phải tác điộng vào điểm này mới có kết quả, đó
là ta sử dụng hệ Zakharin-Head . Hoặc một người bị đau cớ bắp ta mà ta
không tìm thấy điểm phản chiếu nào hay kinh huyệt nào phản ứng thì do hệ
cơ tại chổ đau, khi đó ta phải tác động tại chổ đau là chủ yếu.Cũng
tương tự như thế nếu một bệnh nhân bị nóng Thận (theo Đông Y) mà khám
không thấy điểm thận nào trong hệ phản chiếu ở mặt báo tín hiệu trái lại
chỉ tìm thấy điểm báo rõ nét nhất ở huyệt Nhiên cốc (Hỏa huyệt của Thận
kinh) và sau khi tác động vào nó, ta thấy bệnh giảm rõ rết nhanh chóng
thì lúc bấy giờ huyệt Nhiên cốc mới là cái nút để giải quyết vấn đề. Tuy
nhiên, đây là những trường hợp ít xảy ra vì hiện nay con số các hệ phản
chiếu của DC-ĐKLP hay Vinamassage đã được khám phá rất nhiều, do đó
thường là chúng ta sẽ tìm thấy tín hiệu cần tìm trên hệ thống phản chiếu
đa hệ này.
Ngoài ra , vì con người là một thể
thống nhất, mọi cơ quan, bộ phận đều có liên hệ với nhau nên chúng tôi
cũng không quên nguyên tắc nâng cao tổng trạng của cơ thể trong hầu hết
các bệnh nặng và khó, nhất là đối với những người già yếu, suy nhược cơ
thể (bằng xoa bóp, khở động toàn thân) để phốo hợp việc chữa cơ quan, bộ
phận đang trực tiếp bị bệnh, cũng như vận dụng nguyên tắc Âm dương, Ngũ
hành, Sinh khắc, Tạng tượng, Kinh lạc vào việc điều chỉnh các bấtb ổn
trong cơ thể. Tóm lại, nguyên tắc điều trị của chúng tôi là phối hợp
tổng quát với cá biệt, gián tiếp với trực tiếp, gốc với ngọn, diện với
điểm, lý luận với kinh nghiệm thực tiễn, tay chân với dụng cụ.
Tuy lý thuyết phức tạp, nhưng trên
thực tế thực hiện lại khá đơn giản. Cụ thể như chúng ta có thể hướng dẫn
cho những người mới bắt đầu, chỉ cần dùng dụng cụ dò tìm các vùng và
điểm phản ứng rõ nét của ừtng khu vực phản chiếu có liên quan đến cơ
quan đang bệnh, để tác động bằng dụng cụ thích hợp với bệnh. Kết quả
thường đến một cách rõ rệt và nhanh chóng, nhất là đối với các bệnh mới
và bệnh đã lâu, bệnh khó hoặc bệnh già yếu thì không quá 3 lần là phải
có chuyển biến tốt ít nhiều. Nếu hoàn toàn không có kết quả thì chúng ta
phải xem lại đã chọn đúng hệ thống bị bệnh và đã tác động đúng cách,
đúng mức chưa?
Tóm lại, Vinamassage, có những điểm mới và khác so với những phướng pháp đã có như sau:
1. Tác động chủ yếu vào các hệ thống
phản chiếu trong toàn thân, nhưng không loại trừ tác động vào các hệ
khác nếu các hệ này có phát ra tín hiệu bệnh lý rõ nét và có hiệu quả
nhanh chóng khi tác động vào.
2. Chỉ tác động vào những vùng điểm và
điểm của hệ đang có biểu hiện bệnh lý (tín hiệu) chứ không tác động vào
vùng và điểm của các hệ thống không phát ra tín hiệu để tiết kiệm thời
giờ, công sức mà lại đạt hiệu quả cao một cách nhanh chóng nhất.
3. Phối hợp tác động DIỆN (vùng, cả bộ
phận), TUYẾN (kinh đường dài) và ĐIỂM chứ không đơn thuần tác động vào
điểm Tuyến hay Diện, nhưng chủ yếu là tác động điểm.
4. Phối hợp tác động TRỰC TIẾP hay
GIÁN TIẾP (ở gần, tại chổ, ở xa) nhưng chủ yếu là tác động GIÁN TIẾP
(không phải tại nơi đang có bệnh). Tương tự như lối ĐAU NAM CHỮA BẮC
trong dân gian. Ví dụ: Đau đầu gối lại chữa ở cùi chỏ, đau cổ chân thì
chữa ở cổ tay, đau bàn chân thì chữa ở bàn tay.
5. Phối hợp sử dụng TAY CHÂN và DỤNG CỤ, nhưng dụng cụ là chính.
6. Chọn dụng cụ và thủ pháp thích hợp
cho từng bộ phận và từng bệnh khác nhau chứ không nhất thiết khi nào
cũng dùng tất cả dụng cụ cùng một lúc.
7. Khám phá ra mỗi bộ phận đặc thù như
Mặt, Đầu, Mình, Tay, bàn tay, bàn chân, Lưng,…có nhiều hệ phản chiếu
khác nhau chứ không phải chỉ có một hệ thống phản chiếu duy nhất và điểm
đặc biệt là các hệ này không xuất hiện cùng lúc mà tùy từng lúc sẽ xuất
hiện hệ này hay hệ kia. Nói khác đi, một bộ phận trong cơ thể có thể
tương ứng với nhiều bộ phận khác trong cơ thể, nhưng tùy trường hợp
bệnh, tùy lúc mà phản chiếu (tương ứng) bộ phận này hay bộ phận kia.
Nguyên tắc ĐỒNG ỨNG sẽ chỉ cho ta lúc này bộ phận này sẽ tương ứng với
bộ phận khác trong cơ thể. Như thế, VINAMASSAGE cũng như FACY(DC-ĐKLP)
có thể coi như là một bộ máy phản chiếu đa hệ (MULTISYSTEM OF REFLECTION) chứ không phải là một HỆ PHẢN CHIẾU DUY NHẤT (Monosystem of Reflection) như NHĨ CHÂM, ĐẦU CHÂM, TÚC CHÂM, THỦ CHÂM đã có.
Vinamassage là một phương pháp xoa bóp
mới có tính chất tổng hợp, toàn diện, linh động và sáng tạo, phạm vi
tác động của nó là toàn thân, phương tiện sử dụng của nó là dụng cụ.
Trên lâm sàng, để đạt kết quả tốt và
chắc chắn, chúng ta cần phải tuân thủ các quy tắc sau: ĐỒNG ỨNG, ỨNG
HIỆN, ỨNG DỤNG, ĐỘNG ỨNG, ĐỘNG BIẾN, TỨ ĐẮC (Đắc thời, đắc pháp, đắc vị,
đắc độ) và TAM BIẾN (3 Phép biến:biến về đồ hình, về huyệt, dụng cụ)
Cho đến nay, chúng tôi đã tìm ra nhiều
HỆ phản chiếu trên toàn thân, và đặc biệt là tại một bộ phận nào đó của
cơ thể từ lớn (như Lưng) đến nhỏ (ngón tay, ngón chân), chúng tôi cũng
đều tìm thấy nhiều hệ phản chiếu khác nhau, tùy theo trạng thái bệnh lý ở
thời điểm đó mà một bộ phận hay một điểm của bộ phận đó sẽ phản chiếu
bộ pậhn này hay bộ phận khác của cơ thể.
Ví dụ: Cổ
tay có khi tương ứng với cổ, gáy có khi lại tương ứng với cổ chân –
lòng bàn tay ứng với lòng bàn chân. Đối với khớp ngón tay cũng thế. Tóm
lại, hiện nay trong Vinamassage, chúng tôi vận dụng rất linh hoạt nhờ
nắm vững hai nguyên lý lớn: TẤT CẢ LÀ MỘT, MỘT LÀ TẤT CẢ: cũng như
nguyên tắc BIẾN DỊCH của tất cả cá hệ phản chiếu và các Hệ khác như hệ
thần kinh, hệ tuần hoàn…trên cơ thể sống
Sau đây, chúng tôi giới thiệu một số
đồ hình phản chiếu ở vùng Lưng, lưng là một bộ phận quan trọng đối với
con người. Vừa qua, theo sự phát hiện của chúng tôi, nó phản chiếu nhiều
bộ phận trên đó như phản chiếu hai bàn chân(các ngón chân ở bả vai, hai
gót ở bờ mông), hai bàn tay(các ngón ở bả vai, hai cùi tay, cằm ở hai
bờ mông), bộ mặt từ chân mày xuống cằm (hai chân mày ở hai bả vai, cằm ở
giữa hai bờ mông). Ngược lại các ngón tay, ngón chân sẽ phản chiếu bả
vai, cùi tay, gót chân sẽ phản chiếu mông và còn nhiều hệ phản chiếu
khác sẽ trình bày đầy đủ sau này.
Đặc điểm này ở đây là vì nó phản chiếu
bàn chân, bàn tay hay bộbmặt nên LƯNG cũng phản chiếu luôn phần phản
chiếu của Bàn tay, bàn chân hay bộ mặt (tức là PHẢN CHIẾU CỦA PHẢN
CHIẾU). Để hiểu rõ vấn đề này, phải nghiên cứu thêm các hệ phản chiếu
của DC-ĐKLP và phản xạ Bàn tay, Bàn chân…Phần điều trị, căn cứ vào hệ
phản chiếu này, ta sẽ có nhiều đáp số giải quyết vấn đề bệnh lý của con
người.
Vấn đề quan trọng và sự khác biệt của
Vinamassage với các môn Phản xạ liệu pháp khác là các Đồ hình phản chiếu
trên không cố định (Non fixé) nói một cách khác là nó không có giá trị
tuyệt đối trong tất cả các trường hợp mà nó thay đổi tùy từng thời điểm,
từng trường hợp khác nhau. Do đó, một bộ phận có thể phản chiếu nhiều
bộ phận khác trong cơ thể, nhưng vào thời điểm nào đó, nó sẽ phản chiếu
cái gì.
Đó chính là vấn đề và đó cũng chính là
sự hấp dẫn mới lạ của nó. Tất nhiên người áp dụng Vinamassage sẽ biết
khi nào một vùng DA trong cơ thể là tương ứng với bộ phận này hay bộ
phận khác.
* Về áp dụng thì cụ thể như sau: Nếu
bạn đau các ngón chân, bạn dùng dụng cụ như CÂY BÚA GAI GÔM hoặc CÂY
LĂN, QUE DÒ, ĐIẾU NGẢI, thủ phản ứng trên vùng Bả vai xem có phản ứng
dương tính hay không, nếu có thì lúc bấy giờ Bả vai đang tương ứng với
các ngón chân vậy. Ta chỉ việc dùng các thủ pháp Xoa bóp của VINAMASSAGE
(bằng tay hay bằng dụng cụ) hoặc Cổ, Gáy đang mỏi đau, ta có thể kiểm
tra xem có tín hiệu ở vùng Cổ tay không. Nếu có ta xoa bóp Cổ tay một
lúc sẽ hết đau mỏi cổ, gáy ngay. Còn đối với bệnh mạn tính thì tất nhiên
làm nhiều lần hơn. Bạn có thể áp dụng ngược lại tức là nếu Vai đang
đau, bạn có thể xoa bóp các ngón chân nếu có phản ứng Dương tính và nếu
kết quả đến nhanh chóng sau đó thì chắc chắn là bạn đã chọn đúng bộ phận
tương ứng với nơi đang mắc bệnh.
Điều rất quan trọng của phương pháp
này là ngoài việc chữa bệnh, phòng bệnh, nó còn giúp ta có một trí tuệ
sắc sảo, năng động, giàu tưởng tượng, giàu óc suy luận, tôi luyện một tư
duy sắc bén nhanh nhẹn, rất cần thiết cho cuộc sống ngày nay, cũng như
giúp ta có cái nhìn “thoáng” hơn về cuộc sống, về con người và sự vật,
không định kiến, vì lẽ thấy được tính tương đối và luôn luôn biến đổi
(có thể nói là thiên biến vạn hóa) của sự vật. Đó là tinh thần SẮC KHÔNG
của Phật học, PHÁ CHẤP của Thiền học, BIẾN DỊCH của Dịch lý. Những
nguyên lý vĩ đại này được thể hiện rất rõ trên cơ thể sống của con
người. Việc mà chúng tôi đã và đang làm chính là đưa tinh thần Triết học
vào Y học. Cái mà chúng tôi đã từng gọi là Y học- Văn hóa- Triết học,
tức là chúng tôi muốn thông qua Y học để hiểu Triết học, Văn hóa một
cách sinh động cụ thể và dễ hiểu hơn (qua Rừng Y mới đến biển Đạo) và
ngược lại dùng Triết học để hướng dẫn Y học. Như thế, với phương pháp
này, chúng tôi không chỉ chữa bệnh của THÂN(sinh lỳ, bệnh lý) của con
người mà còn chữa đựơc phần nào bệnh của TÂM (tâm lý, tinh thần), tức là
giúp con người khỏe hơn, hiểu mình và người hơn, tự chủ hơn, minh triết
hơn. Tất nhiên, việc làm đầy cao vọng này chỉ có thể được sự thông cảm
đối với những ai ít nhiều chủng tử (Gien) đối với ĐẠO, chứ không phải
đối với bất cứ ai (ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU).
Rất mong các bạn chia sẻ cho ước vọng này.
TP.HCM ngày 6 tháng 3 năm 1990
|
Bài giảng 21: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp
Bài 21: Giới thiệu một số Phác đồ đặc hiệu
Nhằm mục đích giúp cho các học viên và
các bạn yêu thích Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp có được Phác đồ đặc
hiệu “giúp cho việc chữa bệnh có hiệu quả chắc chắn hơn và đỡ mất thì
giờ dò dẫm vô ích” chúng tôi giới thiệu trong bài này một số “Phác đồ
đặc hiệu”.
Những phác đồ này là kinh nghiệm trị
liệu có kết quả của chúng tôi và anh em trong nhóm trong thời gain qua.
Bước đầu chúng tôi giới thiệu một số vài chục “PHÁC ĐỒ” để các bạn tham
khảo và áp dụng, có dịp chúng tôi sẽ trình bày đầy đảu hơn.
Cũng như có dịp trình bày trong sách
“DIỆN CHẨN-ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP”, đây chỉ là “PHÁC ĐỒ” gợi ý về bệnh tật
thì đa dạng và phức tạp, cho nên các bạn hãy coi những “PHÁC ĐỒ” dưới
đây chỉ là “TIẾP CẬN CHÂN LÝ” chứ không pảhi là “CHÂN LÝ”. Vì như thế là
quan niệm đúng đắn có tiến bộ được. Chúc các bạn vận dụng tốt và đạt
nhiều kết quả trong thực tế điều trị.
1. SUY NHƯỢC CƠ THỂ: (Do làm việc quá sức hay sau cơn đau ốm nặng hoặc thiếu ăn, mất ngủ trong thời gian dài gây ra)
a/ Tăng lực: 0-22-62-162-1-460-300-301 (Nguyễn Linh – Long Khánh)
b/ Bổ máu: 37-28-50-0-14-41-19 (Nguyễn Văn Tân –Quận 5)
2. SUY NHƯỢC THẦN KINH:(Do làm việc trí óc nhiều quá khiến căng thẳng đầu óc, mất ngủ, kém trí nhớ, lâu ngày thành bệnh):
* 127-19-50-1-37-103-300-324-340-175-106-107-0 (Tạ Minh)
* 127-37-1-50-73-106-103 (BQC)
Chú thích: Hai
Phác đồ có thể dùng cai thuốc lá (thuốc lá đen có hiệu quả hơn hoặc
người hay bị ớn lạnh, uể oải, chán đời). Người bị huyết áp cao tránh sử
dụng Phác đồ này. Nếu dùng, phải sử dụng các Huyệt hạ áp như
26-51-156-55-14-16-8 trước đó
3. MẤT NGỦ:
a/ 127 (BQC)
b/ 14-15-16 (BQC)
c/ 34-98-51 (Nguyễn Thị Minh- ĐH Văn hóa Hà Nội)
d/ 0-1 (B/s Nguyễn Đình Trứ - BV Quận Hoàn Kiếm Hà Nội)
4.BIẾNG ĂN:
a/ 39 (BQC)
b/54-55 (BQC)
c/ 41-50-19-37-39 (BQC)
5. VIÊM GAN MẠN TÍNH (GIAI ĐOẠN ĐẦU)
a/ 41-233-50-19-58-37-39 (BQC)
b/ 50-19-37 (BQC)
6.VIÊM MŨI DỊ ỨNG:
a/ 127-7-467127 (BQC)
b/ 41-233-50-61-37-127-87 (BQC)
c/ 126-65-184-61-39-7 (Tôn Thất Kim –BV.Quận Phú Nhuận)
7.VIÊM KHỚP CÁC NGÓN TAY:
a/ 19 (BQC)
b/ 19-460-38-17-300 (BQC)
c/ 19-61-460-48-0 (BQC)
8. VIÊM THẦN KINH TỌA:
a/ 5-74-51-219 (Tôn Thất Kim –BV.Quận Phú Nhuận)
b/ 19-5-277-61 (BQC)
9.RỤNG TÓC:
a/
300-1-45 (BQC)
b/ 127-145-103 (BQC)
10. MÁU CHẢY NHIỀU: (Da thịt bị đứt sâu, rộng do vật bén nhọn hay bị va chạm chấn thương)
a/ 16 (lấy ngón tay ấn vào huyệt một lúc cho đến khi máu ngưng chảy) (BQC)
b/ 16-61-0 (BQC)
c/ 16-61-50-37-0 (BQC)
11.BƯỚU CỔ ĐƠN THUẦN:
26-196-12-8-61-19 (Tôn Thất Kim)
12.TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO:
34-97-98-99-100-140-219-113-222-51-19 (Tôn Thất Kim)
13.KẸT KHỚP VAI:(Viêm khớp vai)
a/ 219 (Tôn Thất Kim)
b/ 278-88-50 (BQC)
14. ĐAU THẦN KINH TAM THOA
a/ 0-7-156(Gõ búa Mai hoa hay dán cao) (BQC)
b/ 0-50-7-156-99 (BQC)
15.SUYỄN:
Lưu ý: Bảo bệnh nhân vuốt xuống vùng trước tai huyệt 138-0-275 hàng đêm trước khi lên cơn
a/ Gõ 275 hặoc 300-423
b/ Dùng thuốc hay ngải cứu hơ nóng
huyệt 127 vùng cằm, vùng hai bên mũi (huyệt số 3), vùng hai bên mang tai
(huyệt số 0) (Nguyễn Thị Niên –khóa 6)
16.VIÊM PHẤ QUẢN MẠN TÍNH:
138-28-Phế (61-491-467)
17. VIÊM HỌNG HẠT
8-12-20-132-3 (Dương Văn Mạnh –tổ 5 –lớp A)
18.VIÊM XOANG:
38-17 (Soeur Nguyễn Thị Liễu – BV Phụ Sản)
19. TRỄ KINH:
a/ 1-63-7-50-127 (Hình Ích Viễn)
b/ 50-58-37 (BQC)
c/ 180-0-26-61-63-7-287-127-156-235-87-51 (Trịnh Phan Công Khanh-Q1)
d/ 26-65-3-50-7-37-156-51 (BQC)
20.RONG KINH:
a/ Gõ huyệt 127-7-37-16 (Lê Kim Nghĩa-Tân Thuận- Nhà Bè)
b/ 16-61-40-7-37 (BQC)
c/ 22-127-7-1-50-37-103 (BQC)
21.TIỂU NHIỀU: ( Đi tiểu vài chục lần trong ngày)
37-19 (BQC)
22.NÁM MẶT:
87-51-50-41-37-61-3-360-124 (Ngô Minh Hồng-CLB Hội Văn Nghệ TP)
23.NÓNG NHỨC TAY CHÂN: (Dùng CÂY LĂN lăn vùng GỜ MÀY và Vùng chân của các đồ hình ngoại vi trong vài phút)
24. CẢM LẠNH:
a/ 287-127-0 + Dán cao (BQC)
b/ 287-1-73-103 (BQC)
c/ 127-50-19-37-43-73-103-0 (Minh)
d/ Dán cao trị luôn trúng gió:0-28-50-19-39-275 (Lê Kim Nghĩa)
25. BƯỚU BUỒNG TRỨNG:
a/ 124-26-37-50-63-7 (BQC)
b/26-65-3-37-16-87-27 (BQC)
26.VẸO CỔ:
a/ 106-108
27. XÂY XẨM:
107-63-61-65-19 (Tống Hồ Huấn –tổ 6, lớp B KHÓA 5/87)
28. NHỨC ĐẦU MỘT BÊN:
324-131-235-41-437 (Tạ Minh –học viên khóa 4)
29. U NHỌT CHƯA CÓ MŨ, U BƯỚU CÁC LOẠI TÍCH TỤ TRONG CƠ THỂ:
41-143-127-19-37-38 (Lý Phước Lộc)
30. TIÊU VIÊM TIÊU ĐỘC:
Day ấn,dán cao: 26-188-196-61-74-64-38-156-14-143-5 (BQC)
31. MỤN CÓC:
Gõ rồi dán cao :26*3-50-51-0
Chú ý: nên làm vào buổi chiều tối mới có hiệu quả cao hơn (làm khoảng một tuần là có kết quả ngay-BQC)
32. CƠN CAO HUYẾT ÁP ( Đối với huyết áo nguyên phát hay vô căn):
Chà xát hai cung mày(gờ mày) và viền cong ụ cằm. Sau đó ấn huyệt 15 (sau dái tai)
Lưu ý: Bên
nào đau nhiều thì chà xát và ấn bên đó cho đén khi hết đau nơi huyệt,
lúc đó huyết áp sẽ hạ xuống ( BQC). Nếu làm mỗi ngày 3 lần thì huyết áp
sẽ ổn định lâu dài
Lưu ý: Cữ ăn mặn, cà phê, rượu.
|
GSTSKH. Bùi Quốc Châu |
No comments:
Post a Comment