Sách “THỰC HÀNH DIỆN CHẨN ”( Phần 1.1)
![]() |
Bắt đầu từ ngày
11/8/2012, mục GiáoTrình Diện Chẩn bắt đầu giới thiệu nội dung (trích
yếu) sách THỰC HÀNH DIỆN CHẨN – ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP”, gồm 2 tập:
-Tập I: Phương pháp Diện Chẩn
-Tập II: Thực hành Diện Chẩn
Mời bạn đọc theo dõi.
TẬP MỘT
PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
I/ ĐẠI CUƠNG
1.Diện Chẩn là gì ?
Diện Chẩn là tên gọi rút gọn của phương pháp Diện Chẩn – Điều khiển Liệu Pháp (Face diagnosis – Cybernetic Therapy – FACY). Đây
là một phương pháp phòng và trị bệnh mới của Việt Nam, ra đời vào đầu
năm 1980 do nhà nghiên cứu y học dân tộc, GS TSKH Bùi Quốc Châu sáng
tạo. Khác với Châm cứu, cần bắt mạch để biết bệnh và châm vào hệ kinh
lạc để chữa bệnh. Diện Chẩn là phương pháp chẩn đoán và chữa bệnh qua da
trên vùng mặt và toàn thân bằng cách tác động lên những điểm rất nhạy
cảm (gọi là Sinh Huyệt) và vùng tương ứng với các bộ phận bị bệnh trên
toàn thân được gọi là Đồ Hình Phản Chiếu.
Có thể định
nghĩa Diện Chẩn là phương pháp chẩn đoán các dấu hiệu về tình trạng sức
khỏe của con người trên khuôn mặt, từ đó có thể phát hiện và tác động
trong việc gia tăng sưc khỏe, phòng và điều trị các chứng bệnh.
Qua nghiên cứu
cho thấy khuôn mặt được xem như là điểm thông tin và kiểm soát toàn bộ
các hoạt động của cơ thể, dựa trên sự phản chiếu và đồng ứng với các bộ
phận ngoại vi và nội tạng của cơ thể. Mỗi điểm phản xạ trên khuôn mặt sẽ
phản ảnh một cơ quan tương ứng. Từ cơ sở này, ta có thể tác động lên
các huyệt đạo trên khuôn mặt để tạo sự biến chuyển trên các cơ quan đó.
Hiện nay, Diện Chẩn không chỉ là chẩn đoán trên khuôn mặt, mà dựa trên thuyết Đồng ứng,
đã mở rộng việc chẩn đoán và trị liệu ra toàn thân, đặc biệt là trên
bàn tay, cánh tay, từ đó có thể tác động trên bàn tay, bàn chân, cánh
tay, cổ tay để hỗ trợ việc trị liệu các vấn đề về sức khỏe của toàn thân
vì Diện Chẩn là một dạng phản xạ học đa hướng và đa hệ, nó khác biệt
với phản xạ học cổ điển có tính nhất hướng.
2.Tại sao gọi là Điều Khiển Liệu pháp ?
Sở dĩ gọi là
Điều Khiển Liệu Pháp là vì ta có thể tác động vào các huyệt đạo ở vùng
mặt và một số vùng trên cơ thể bằng các kỹ thuật như ấn, day, lăn, xoa,
cào... thông qua các công cụ của Diện Chẩn và sự tác động đó có khả năng
điều khiển để tạo ra những hiệu ứng trên các bộ phận nội tạng và ngoại
vi của cơ thể.
Việc điều khiển
gây ra những tác động cũng giống như ta điều khiển cái remote của các
loại máy móc ( TV, Máy Lạnh, Quạt máy...) để khởi động hay tắt các hoạt
động. Khi ta tác động lên các huyệt đạo cũng chính là việc khởi động cho
quá trình điểu chỉnh trên các bộ phận của cơ thể , tạo ra những biến
chuyển cho toàn bộ hệ thống sức khỏe của người bệnh.
3.Lịch sử phương pháp Diện Chẩn
Trong lịch sử Y học Thế giới đã có một số phương pháp tương tự với DIỆN CHẨN – ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP(FACY) nếu xét qua về mặt hình thức – vì nó dựa trên nguyên tắc phóng chiếu (Projection) – trong khi FACYdựa
trên nguyên tắc PHẢN CHIẾU (REFLECTION) là một hình thức tương tự PHÓNG
CHIẾU NHƯNG ĐA CHIỀU (MULTI - DIRECTION) TRONG KHI PHẢN CHIẾU CHỈ CÓ
MỘT CHIỀU TRÊN MỘT MẶT PHẲNG DUY NHẤT. PHẢN CHIẾU (REFLECTION) CÓ THỂ GỌI LÀ PHẢN XẠ NHIỀU CHIỀU VÀ ĐA HỆ (MULTISYSTEM). DO ĐÓ NÓ CŨNG KHÁC PHẢN XẠ CỔ ĐIỂN LÀ PHẢN XẠ ĐƠN HỆ.
Các phương pháp đó là Vọng chẩn của Đông Y cổ truyền (Médecine Traditionnelle Orientale). Nhãn chẩn (L’Iriscopie) của Ignas Peczely (1980) phương pháp kích thích vùng bên trong mũi để trị bệnh (Réflexothérapie endonasale) của Bonnier (1930), cũng như của Asuero (1931), Diện châm (Faciopuncture), Tỵ châm (Nasopuncture) của Trung Y (Médecine Chinoise), Nhĩ châm (Ariculothérapie) của P.Nogier, thủ châm (Manopuncture) và túc châm (Podopuncture). Mỗi phương pháp trên đều có hình chiếu hoặc nhũng điểm tương ứng với các bộ phận của cơ thể, dùng để chuẩn đoán hay trị bệnh.
Trong khi đó, Diện Chẩn – Điều Khiển Liệu pháp ( DC – ĐKLP -Réflexologie faciale)
là một phương pháp do GS.TSKH Bùi Quốc Châu tìm tòi và xây dựng
nên cách đây 13 năm (từ đầu năm 1980 tại Thành Phố Hồ Chí Minh). với
xuất phát điểm từ những kinh nghiệm dân gian Việt Nam, từ nền văn hóa
triết học đông phương, trong đó có ngôn ngữ Việt Nam, văn chương bình
dân Việt Nam được thể hiện qua ca dao, tục ngữ, phương ngôn và những câu
nói dung tục (vulgaire) trong dân gian.
Với
niềm tin tưởng và quyết tâm, cộng với môi trường rất tốt cho việc nghiên
cứu đã giúp GS.TSKH Bùi Quốc Châu có nhiều dịp quan sát các dấu vết
bất thường trên mặt các bệnh nhân cũng như có điều kiện để châm từng
mũi kim trên các huyệt ở MẶT để tìm hiểu sự liên quan giữa các điểm trên
vùng MẶT với từng bộ phận của cơ thể, đồng thời đề xác minh cho các giả
thuyết của mình về sau này. Qua đó tác giả phát hiện ra những dầu
mối quan hệ giữa những điểm trên MẶT và các khu vực với toàn thân. Nhưng
đặc biệt là tác giả đã nghiên cứu khám phá ra những bí ẩn của
BỘ MẶT theo một hướng khác với các tác giả có những công trình tương tự
trước đây (như Nhĩ châm, Đầu châm,Thủ châm, Túc châm).
Có thể nói DIỆN CHẨN - ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP (FACY) xây dựng theo một hướng đã định trước dựa trên một phương pháp luận đã có ngay từ bước đầu. Thật
vậy, những nguyên tắc tìm ra huyệt hay Đồ hình một cách chính
xác và mau chóng đã được tác giả khám phá và xây dựng từ
những câu nói đơn giản của cổ nhân, chủ yếu trong lãnh vực
Triết học, Văn học, Ngôn ngữ học Đông phương và Việt Nam.
“ Còn
việc khám phá và vẽ ra các Đồ hình trên Mặt (và sau này trên
toàn thân) tức là những vùng phản xạ được hệ thống hóa một
cách nhất quán là do tôi vận dụng một trong những quy tắc cốt
yếu và đồng thời cũng là quy tắc đầu tiên để khám phá và
thiết lập Đồ hình. Đó là quy tắc ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỰ
(Correspondance en même forme). Phải nói chính nhờ quy tắc này mà
tôi khám phá ra nhiều Đồ hình phản chiếu một cách rất dễ
dàng và nhanh chóng.
( GS.TSKH. BQC)
Việc
xác nhận giả thuyết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG là
đúng, xảy ra vào sáng ngày 26 tháng 03 năm 1980 trên bệnh nhân
nghiện ma túy tên là Trần Văn Sáu tại trường Fatima, Bình
Triệu. Như các trường hợp nghiện ma túy khác, bệnh nhân rất đau
ở cột sống thắt lưng khi lên cơn nghiện ma túy. Thế mà chỉ sau
hơn một phút kể từ khi tác giả châm một mũi kim vào đầu mũi
(tương ứng với thắt lưng đang bị đau của bệnh nhân theo quy tắc
CHÂM VÀO BẤT THỐNG ĐIỂM (điểm không đau) thì một sự kỳ diệu
xảy ra là bệnh nhân giảm đau cột sống thắt lưng một cách rõ
nét đến mức giảm đau nhiều hơn là châm vào điểm đốt sống
thắt lưng ở đối vành tai theo Nhĩ châm (cũng châm vào điểm không
đau) cũng để trị cơn đau cột sống thắt lưng của anh ta. Ngoài
ra, còn có hiện tượng đặc biệt là có một đường dẫn truyền
như kiến bò chạy từ nơi châm vòng qua đầu đến nơi đang đau ở
cột sống thắt lưng ngay sau khi châm, nghĩa là điều này đã
chứng minh được giả thuyết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG)
là chính xác.
Từ
những Đồ hình phản chiếu ở trên Mặt được khám phá và vẽ ra
trong vòng 3 năm (từ năm 1980 đến 1983) với 22 hệ, cho đến những
hệ thống Đồ hình phản chiếu trên DA ĐẦU được tìm ra năm 1988
và hệ thống phản chiếu CÁC BỘ PHẬN Ở TOÀN THÂN (năm 1989), kể
cả hệ phản chiếu trên LOA TAI với nhiều Đồ hình khác nhau
(tất nhiên là khác với Đồ hình Bào thai lộn ngược của BS
Nogier) đều có sự đóng góp chủ yếu của thuyết ĐỒNG ỨNG. Trong
phương pháp DIỆN CHẨN FACY còn có nhiều thuyết
khác, như thuyết PHẢN CHIẾU, ĐỐI XỨNG, GIAO THOA, BẤT THỐNG
ĐIỂM, TAM GIÁC, NƯỚC CHẢY VỀ CHỖ TRŨNG … Tất cả đều góp phần
vào việc xây dựng phương pháp. Nhưng có một điều cần được
nhấn mạnh ở đây là hầu hết những thuyết nền tảng của phương
pháp đều được gợi ý từ những lãnh vực ngoài Y học chính
thống mặc dù trong việc kiến trúc toàn bộ phương pháp đều có
sự góp mặt của ba dòng Y học.
Y học cổ truyền, Y học hiện đại và Y học Dân gian. Đây có lẽ là nét đặc thù của phương pháp DIỆN CHẨN (FACY) so với các phương pháp tương tự khác
đã có trên thế giới trước đây. Vì rõ ràng từ xuất phát điểm
cho đến việc tiến hành xây dựng hệ thống lý thuyết không
đi theo chiều dọc thẳng từ Y học xuống mà lại đi theo chiều
ngang từ các ngành Khoa Học Nhân Văn như Triết học, Văn học, Ngôn
ngữ học, Tướng học … Sau đó được bổ sung bằng các chất liệu
khác như điều khiển học, Hình học, Trường sinh học, Vật lý
học v.v…
Tóm lại, DIỆN CHẨN (FACY) không
phải là một sản phẩm đơn thuần Y học mà là kết quả tổng
hợp của nhiều ngành khác trong đó chủ yếu là văn hóa và
triết học Đông phương (như Phật, Khổng, Lão, Thiền, Dịch học …)
có thể nói là đứa con tinh thần của Văn hóa Việt Nam với tính
TỔNG HỢP, CHIẾT TRUNG VÀ SÁNG TẠO NHUẦN NHUYỄN. Chúng tôi gọi nó là Y ĐẠO (I’TAO) hay là Y HỌC - VĂN HÓA - TRIẾT HỌC vì nó không dừng ở chỗ Y-thuật hay Y-đức, mà cái nó nhắm tới là không chỉ đem lại SỨC
KHỎE CHO THÂN THỂ VÀ TINH THẦN CỦA CON NGƯỜI MÀ CÒN GIÚP MỞ
MANG TÂM TRÍ (MINH TRIẾT HƠN) RỒI THÔNG QUA VIỆC CHỮA BỆNH CHO
MÌNH VÀ CHO NGƯỜI MÀ DẦN DẦN ĐẠT LÝ CỦA TRỜI ĐẤT VÌ CON
NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ LÀ MỘT (THIÊN NHÂN HỢP NHẤT) CHO NÊN THẤU HIỂU
MÌNH TẤT SẼ HIỂU CÁI LÝ CỦA TRỜI ĐẤT. Ngoài ra nó còn giúp
mở rộng sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau (vì theo
NHẤT NGUYÊN LUẬN, TẤT CẢ LÀ MỘT), đóng góp vào việc hình
thành một nền văn hóa thế giới. Còn xét về mặt hình thức
thì nó là tổng hợp của Phản xạ học, châm cứu và Xoa bóp. Tuy
nhiên, có lẽ nó gần gũi với Phản xạ học nhiều hơn, nhưng là
một Phản xạ học mới : PHẢN XẠ ĐA HỆ (nếu có thể gọi được
như vậy để phân biệt với Phản xạ học cổ điển hay là PHẢN XẠ
ĐƠN HỆ) hay còn gọi là PHẢN XẠ HỌC VIỆT NAM (Réflexologie
Vietnamienne). Đây cũng là một loại NHU Y (Médecine douce) hay Y
HỌC TỰ NHIÊN (Médecine naturelle) vì KHÔNG DÙNG THUỐC CŨNG KHÔNG
DÙNG KIM CHÂM MÀ CHỈ DÙNG MÀ CHỈ DÙNG TAY HAY DỤNG CỤ (như
: cây lăn, cây cào, búa gõ, que dò, ngải cứu, máy xung điện).
Nó cũng là một hình thức của Y TẾ CỘNG ĐỒNG (La Santé
Commune) vì có thể phổ biến rộng rãi cho nhiều người cùng học
và làm được một cách dễ dàng và an toàn nhất là trong phạm
vi chăm sóc sức khỏe ban đầu.
No comments:
Post a Comment