TẬP MỘT
PHƯƠNG PHÁP DIỆN CHẨN
I/ ĐẠI CƯƠNG (đã đăng ngày 11/8/2012)
II/ NGUYÊN LÝ
1. Lý thuyết cơ bản
Diện Chẩn
là một phương pháp được xây dựng trên nền tảng Văn hoá Việt và các
Nguyên lý Âm Dương – Ngũ hành, Người sáng lập ra phương pháp này là GS TSKH Bùi Quốc Châu đã
đưa ra những lý thuyết cơ bản để dựa vào đó, tạo ra rất nhiều các kỹ
thuật phòng và chữa bệnh khác nhau, tuy có những kỹ thuật mới xem qua
tưởng chừng như chuyện giả tưởng, nhưng thực ra đều có những cơ sở khoa
học vững chắc.
A/ Các thuyết của Diện Chẩn
1.Thuyết Phản chiếu : .
Nguyên lý phản chiếu cho rằng, con người với vũ trụ là một thế thống
nhất (Vạn vật đồng nhất thể) Do đó, con người được xem là một tiểu vũ trụ, là hình ảnh phản chiếu của vũ trụ (nhân thân tiểu thiên địa)
Trong con người, mỗi bộ phận đặc thù (đầu, mình, mặt, mũi tay chân...)
đều phản chiếu lại cái tổng thể, mà trong đó mặt là tấm gương ( gương
mặt) trên đó phản chiếu những cơ quan thuộc nội tạng và ngoại vi của cơ
thể con người. Như vậy, khuôn mặt cũng là một bộ phận tiêu biểu, đại
diện cho cơ thể và nhân cách con người (Mất mặt đồng nghĩa với mất thể
diện, mất danh dự) Vì vậy, mọi biểu hiện tâm sinh lý, bệnh lý, tình cảm,
tính cách của con người đều biểu lộ, phản chiếu nơi khuôn mặt. Bộ mặt
có vai trò như tấm gương và không những thể, còn ghi nhận một cách có hệ
thống, có chọn lọc những gì thuộc phạm vi con người ở trạng thái Tĩnh
và Động.
Thuyết này
được vận dụng vào phương pháp Diện Chẩn như sau : Mỗi huyệt trên mặt là
một điểm phản chiếu của một hay nhiều huyệt trong cơ thể tương ứng với
nó.
2.Thuyết Biểu hiện
Theo
thuyết Biểu hiện thì những gì (tình trạng đau yếu/ triệu chứng bệnh …) ở
bên trong sẽ hiện ra bên ngoài, ở bên dưới sẽ hiện ra bên trên. Còn về
giai đoạn thì những gì sắp xảy ra sẽ được báo trước, những gì đang xảy
ra sẽ biểu hiện và những gì đã xẩy ra sẽ lưu lại các dấu vết.
Những biểu
hiện này xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau, được thể hiện một cách có
hệ thống và chọn lọc, được gọi là biểu hiện bệnh lý . Chúng có tính
chất hai chiều thuận nghịch và nơi biểu hiện cũng là nơi mà ta có thể
điều trị.
Ví dụ : Thống điểm (điểm đau): điển hình như vết tàn nhang nơi mặt là dấu hiệu chẩn đoán cũng là nơi tác động để trị liệu.
3. Thuyết Phản hiện :
Ngược lại
với thuyết Biểu hiện, là thuyết Phản hiện. Đây là một tình trạng khá đặc
biệt do khả năng biểu hiện của cơ thể bị rối loạn, nên đưa đến biểu
hiện quá nhiều dấu hiệu ( Kể cả những dấu hiệu không có giá trị chẩn
đoán ) hay biểu hiện quá ít dấu hiệu đưa đến tình trạng nếu không biết
hay thiếu kinh nghiệm thì sẽ khó chẩn đoán được bệnh.
4.Thuyết Cục bộ
Khi một cơ
quan hay bộ phận trong cơ thể có sự bất ổn tiềm tàng hay bệnh đang tiến
triển thì tại vùng da nơi đó sẽ xuất hiện những dấu hiệu báo bệnh tương
ứng ( gọi là các dấu hiệu cục bộ) Quy luật này chi phối trên thân thể
hơn là trên vùng mặt.
Ví dụ : Da
vùng gan có tàn nhang đen hay đỏ hoặc tia máu, báo hiệu lá gan có bệnh .
Trong phạm vi Diện Chẩn Điều khiển liệu pháp thì mỗi một huyệt trên
vùng mặt ngoài tác dụng cho các cơ quan ( ngoại vi hay nội tạng) ở xa
trên cơ thể, các huyệt này còn có giá trị cục bộ ( tại chỗ ) và lân cận.
Ví dụ : Huyệt
188 ngoài tác dụng làm giảm đau cổ gáy và hạ huyết áp, còn có tác dụng
làm sáng mắt ( vì ở cạnh mắt) Huyệt 180 ngoài tác dụng làm giảm đau ngón
tay cái còn làm giảm đau vùng Thái dương ( vì huyệt này nằm trên vùng
thái dương).
5. Thuyết Đồng bộ :
Theo
thuyết đồng bộ thì có sự tương ứng về vị trí, số lượng, sắc độ hình thái
và thời kỳ xuất hiện giữa các dấu hiệu báo bệnh trên mặt và trên cơ
thể. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ là có những dấu hiệu chỉ xuất hiện một
trong hai nơi ( hoặc trên mặt hoặc trên cơ thể ) hay xuất hiện không
đồng thời và không cùng lúc với bệnh, có khi xuất hiện khá xa thời kỳ
bệnh tật xảy ra.
6.Thuyết Biến dạng :
Các dấu
hiệu báo bệnh trên mặt không phải là bất biến mà trái lại, có thể thay
đổi tính chất, màu sắc và hình thái tuỳ theo thời gian, mức độ, tình
trạng hay diễn biến bệnh của từng người.
Ví dụ :
Khi đang có bệnh thì tàn nhang hay vết nám nơi vùng da tương ứng với cơ
quan hay bộ phận bị bệnh có màu sậm hay bóng hơn. Bệnh giảm thì nhạt
dần. Nhưng vẫn có ngoại lệ như mụt ruồi ở cạnh nhân trung báo bệnh ở
noãn sào. Khi hết bệnh hay đã cắt bỏ noãn sào nhưng mụt ruồi vẫn không
mất đi.
7.Thuyết Đồng ứng thì
cho rằng, những gì giống nhau hay tương tự nhau thì có quan hệ với
nhau. Cụ thể là những bộ phận có hình dạng giống nhau hay tương tự nhau
đều có những tương quan, có thể ảnh hưởng hay tác động lẫn nhau.
Ví dụ :
Sống mũi tương tự sống lưng nên có quan hệ với sống lưng (và ngược
lại) hai cánh mũi có hình dạng tương tự như hai mông nên có ảnh hưởng
đến mông. Gờ mày có dạng tương tự như cánh tay nên có liên quan đến cánh
tay, ụ cằm có hình dạng như bọng đái nên có liên quan đến bọng đái...
Sống mũi đồng ứng với cột sống
Bàn tay nắm với ngón tay cái giơ ra đồng ứng với trái tim
Không những
thế, những bộ phận ngoại vi như cánh tay, bàn tay, ngón tay, ngón chân,
đầu gối... cũng có những hình dạng tương tự như một số bộ phận nội tạng,
như bàn tay nắm lại với ngón cái giơ lên đồng ứng với trái tim, bàn tay
đặt úp đồng ứng với lá mía, hai bàn tay úp lại đặt sát vào nhau lại
đồng ứng với não bộ nhìn từ bên dưới...
Tác giả tìm ra thuyết này từ câu :
«Đồng Thanh tương ứng, đồng khí tương cầu » trong Kinh Dịch, hay quan
niệm « ăn gì bổ nấy » trong dân gian, cho rằng ăn tim heo chưng cách
thuỷ với Châu sa, thần sa có tác dụng làm cho tim hết hồi hộp, ăn bồ dục
(quả cật) heo hầm với đậu đen để trị đau lưng (liên quan đến quả thận
của người) ... Từ điều này, tác giả đã tìm ra hàng loạt bộ phận có liên
quan, đồng ứng một cách có hệ thống trên cơ thể con người.
Hệ luận 1 : Thuyết Đồng hình tương tụ :
Những gì có
hình dạng tương tự nhau thì có liên hệ mật thiết, thu hút và tác động
lẫn nhau. Ví dụ : Cánh mũi có hình dáng tương tự mông, do đó có liên hệ
đến mông – Sống mũi có hình dáng tương tự sống lưng do đó có liên hệ đến
sống lưng.
Hệ luận 2 : Thuyết Đồng Tính Tương liên :
Những gì có
tính chất tương tự nhau thì có liên hệ mật thiết, thu hút và tác động
lẫn nhau, tăng cường hay hoá giải ( Tình trạng đau/khoẻ) nhau. Ví dụ :
Huyệt số 106 và 08 có tác dụng tương tự do đó có thể hỗ trợ hay khắc chế
nhau.
8. Thuyết Giao thoa :
Thông thường
thì các dấu hiệu chẩn đoán hiện ra ở cùng một bên với cơ
quan hay bộ phận bị bệnh. Ví dụ : Gờ mày bên mặt bệnh nhân có
dấu báo bệnh thì cánh tay mặt của bệnh nhân bị đau ( vì gờ
mày liên hệ với cánh tay) . Nhưng có một số các dấu hiệu báo
bệnh ở vùng mắt, tay chân, buồng trứng và mông của đồ hình
phản chiếu trên mặt thỉnh thoảng lại có tính giao thoa đối với
một số bệnh nhân.
Hiện tượng
này cũng thấy xảy ra đối với các huyệt ở các vùng và bộ
phận nói trên. Trong trường hợp này thường có sự gia tăng mức
độ nhạy cảm nơi huyệt hoặc tình trạng bệnh.
Ví dụ :
Chân mày bên mặt có dấu tàn nhang thì cánh tay bên trái có
bệnh, hay ở bệnh nhân phái nữ thì bên mặt nhân trung có tàn
nhang nghĩa là buồng trứng bên trái có bệnh. Dấu hiệu giao thoa
cho thấy đây là một triệu chứng bệnh khá năng.
B. Các thuyết trong Điều Khiển Liệu Pháp :
Ngoài các lý thuyết quan trọng của Diện Chẩn còn có một số thuyết khác của Điều khiển liệu pháp như :
1.Thuyết Đồng bộ thống điểm :
Khi trong cơ
thể có sự bất ổn thì ngoài những triệu chứng hay cảm giác đau tại chỗ
còn xuất hiện một hay nhiều chỗ đau tương ứng ( Đồng bộ thống điểm) tại
vùng phản chiếu của nó trên mặt. Cảm giác đau ( thốn, cộm, mỏi, tức,
nhói, tê, nhức, nóng, rát …) tại các điểm đau sẽ tỷ lệ thuận với mức độ
và tình trạng của bệnh chứng ( Bệnh nặng thì đau nhiều) . Vì thế khi
bệnh giảm bớt thì cảm giác đau cũng sẽ bớt. Nhưng nên nhớ, điều này chỉ
là một trong những biểu hiện của bệnh lý.
2.Thuyết Bất thống điểm :
Theo Thuyết
Bất thống điểm thì lại có tình trạng, khi một cơ quan hay bộ phận nào
đau, thì tại vùng tương ứng với nó trên mặt sẽ xuất hiện một hay nhiều
điểm không đau (Bất thống điểm) Những điểm không đau sẽ nằm trong vùng
đau tương ứng ( phản chiếu) với bộ phận có bệnh trong cơ thể. Đôi khi
tác động vào những điểm không đau lại có hiệu quả hơn là tác động vào
những điểm đau .
3.Thuyết Thái Cực :
Bộ mặt con người cũng là nơi phản chiếu của thái cực theo nguyên lý :
Thái cực sinh
Lưỡng nghi ( Âm/Dương) – Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng ( Thiếu Dương – Thái
Dương / Thiếu Ấm – Thái Âm) Bên Trên, Phải thuộc Dương. Bên dưới, Trái
thuộc Âm. Từ trái sang phải, từ ngoài vào trong thuộc Dương – Từ phải
sang trái, từ trong ra ngoài thuộc Âm. Chiều thẳng đứng ( Tung ) thuộc
Dương, Chiều nằm ngang (hoành) thuộc Âm – Âm Dương đối xứng nhau qua một
trục hay một tâm điểm trung tính ( phi Âm phi Dương) – Âm Dương vừa có
tính đối kháng vừa có tính phụ trợ nhau. Trong Âm có Dương, trong Dương
có Âm, Cực Dương sinh Âm, Cực Âm sinh Dương – Dương tụ, Âm tán – Âm hàm
Dương : Dương tụ - Dương hàm Âm : Dương tán – Cô Dương bất sinh, độc Âm
bất trưởng.
4.Thuyết Phản phục :
Tuỳ theo tình
trạng bệnh lý, mỗi huyệt thích nghi với một tần số, cường độ và thời
gian kích thích nhất định. Nếu vượt quá giới hạn này thì sẽ phản tác
dụng hay không tác dụng.
Điều này cho
thấy khi tác động bằng kỹ thuật Diện Chẩn ( với dụng cụ hay không ) cũng
chỉ nên tác động đúng mức, không nhiều và cũng không ít hơn mức độ cần
thiết.
Thuyết Đối
xứng : Một số huyệt trên mặt có tính đối xứng : Đối xứng theo chiếu dọc
(Tuyến 0 ) và đối xứng theo chiều ngang ( tuyến V và tuyến IV )
Các huyệt đối xứng có tính tương tự nhau hay đối kháng nhau, do đó có thể tăng cường hay hoá giải nhau.
5.Thuyết Đối xứng :
Một số
huyệt trong cơ thể, nhất là trên mặt thường có tính đối xứng
trong nhiều chiều không gian. Có 3 trục đối xứng quan trọng trên
mặt :
- Trục dọc giữa mặt ( Tuyến tung 0 )
- Trục ngang qua hai con mắt ( Tuyến Hoành số V)
- Trục ngang qua hai lông mày ( Tuyến Hoành số IV)
Có hai tâm
đối xứng quan trọng : Huyệt số 26 ( Chính giữa hai lông mày )
và huyệt số 19 ( Chính giữa hai lỗ mũi – bên trên nhân trung ).
Những huyệt hoặc bộ phận đối xứng nhau thì có tính tương tự
hoặc đối kháng nhau. Do đó có thể tăng cường hay hoá giải nhau.
Ví dụ : Huyệt số 106 ( phần thấp dưới trán) đối xứng với
huyệt số 8 ( giữa sống mũi dưới hai lông mày) qua huyệt số 26.
Hai huyệt này có tính tương tự nhau, nhưng cũng có tính đối
kháng nên có thể hoá giải nhau khi được tác động đúng lúc.
6.Thuyết Bình thông nhau :
Giữa người
bệnh và người chữa bệnh có mối quan hệ tương tác, điều này có nghĩa là
nếu người bệnh đau bệnh gì, thì người chữa bệnh cũng có thể bị bệnh đó (
nhất là khi người chữa bệnh lại có sức khoẻ kém hơn người bệnh ) – Vì
thế cần phải cẩn trọng trong việc chữa bệnh với những bệnh mãn tính do
thời gian chữa và tiếp xúc với người bệnh kéo dài.
7.Thuyết Nước chảy chỗ trũng :
Mỗi huyệt
trên mặt khi bị tác động sẽ chuyển khí về nơi cơ quan hay bộ phận đang
có bệnh. Bệnh càng nặng thì đường dẫn truyền ( khí ) này càng rõ nét, và
khi hết bệnh thì khí không dẫn đến nữa. Vì thế, theo thuyết này thì có
khi cùng một huyệt, nhưng lại dẫn khí ra các vùng khác nhau, điều này
tuỳ thuộc vào bệnh nhân đang đau ở đâu.
Đường dẫn
truyền khi dẫn khí sẽ tạo cảm giác rần rần như kiến bò dẫn đến cơ quan
hay bộ phận đang bị bệnh. Thường thấy ở các bệnh nhân nhạy cảm khi được
tác động đúng huyệt.
8.Thuyết Sinh khắc :
Có sự sinh
khắc giữa các huyệt trên mặt. Sự sinh khắc này là tương đối và phần lớn
tuỳ thuộc vào chu kỳ khí lực giữa các huyệt với nhau trong một thời điểm
nhất định nào đó.
Ví dụ : Huyệt 26 khắc với huyệt số 6 ( Hai huyệt này làm giảm tác dụng của nhau)
Huyệt 34 sinh huyệt 124 (2 huyệt này hỗ trợ nhau, có tác dụng tốt hơn khi đi chung với nhau ).
Cũng có sự
sinh khắc giữa các dấu hiệu chẩn đoán và tình trạng bệnh lý. Ví dụ :
Bệnh nặng mà gặp chứng nấc cục hay sưng chân thì có nguy cơ tử vong. Hay
vùng má thuộc Phế ( Phổi – sắc trắng ) tự nhiên hiện ra sắc hồng (
thuộc Hỏa ) thì có nghĩa là phổi đang có bệnh vì Hỏa khắc Kim. Hay gò má thuộc Tâm ( sắc đỏ ) tự nhiên có màu xanh đen (thuộc Thủy) thì tim có bệnh vì Thủykhắc Hoả.
Các thuyết trên đã
tạo nên một hệ thống lý luận có cơ sở vững chắc cho phương pháp Diện
Chẩn – Điều Khiển Liệu pháp, để từ đó hình thành hàng loạt các kỹ thuật
thực hành dưới nhiều hình thức khác nhau : bằng tay không, bằng các công
cụ bình thường và nhất là các dụng cụ đặc chế của phương pháp, do chính
tác giả sáng tạo ra, đã đăng ký bản quyền sáng chế để phục vụ cho sức
khỏe của con người, giúp giải quyết những vấn nạn về phương diện y tế,
tạo ra một hệ thống can thiệp và tác động vào sức khỏe cộng đồng, thực
hiện đúng nguyên tắc « phòng bệnh hơn chữa bệnh » và hình thành một
biện pháp trị liệu đơn giản, rẻ tiền và có thể tiến hành mọi lúc mọi
nơi.
B. Hệ thống phản chiếu trên mặt:
1. Đồ hình phản chiếu Ngoại vI
Hệ thống
đồ hình phản chiếu các bộ phận ngoại vi cơ thể và các nội
tạng lên gương mặt là cơ sở chẩn trị căn bản của phương pháp
Diện Chẩn. Qua đó ta có thể sử dụng các dụng cụ diện chẩn
để tác động lên các bộ huyệt, tương ứng với các bộ phận phản
chiếu trên gương mặt nhằm chữa trị các bệnh chứng tại các bộ
phận ngoại vi và cơ quan nội tạng này.
Nhìn
trên đồ hình ta sẽ thấy trên gương mặt sẽ phản chiếu rât nhiều
các bộ phận khác nhau từ bên ngoài như tay chân, đầu, thân
hình… cho đến các cơ quan bên trong như ngũ tạng lục phủ…Như
vậy, khi tác động lên một khu vực là ta đã tác động lên nhiều
cơ quan khác nhau, nhưng chỉ có các cơ quan đang có bệnh, đang có
những vấn đề không ổn định mới chịu ảnh hưởng của sự tác
động này. Đây là một yếu tố độc đáo của phương pháp Diện
Chẩn. Điều đó có nghĩa là chỉ bộ phận đau, được tác động
đúng mới có hiệu quả, còn bộ phận không đau hay tác động không
đúng sẽ không có hiệu quả cũng như bất cứ phản ứng phụ nào,
đây cũng là tính an toàn của phương pháp.
Đồ hình phản chiếu ngoại vi cơ thể Nam & Nữ trên mặt
TRÊN MẶT
|
CƠ THỂ
|
Đồ hình Âm: hình người đàn bà ( màu xanh)
|
Khu vực giữa mí tóc trán
1- Khu vực nằm hai bên vùng giữa trán
2- Đoạn từ giữa trán đên khu vực giữa hai đầu mày (Ấn đường)
3- Đoạn từ ấn đường đến Sơn căn (chỗ thấp nhất sống mũi giữa 2 đâu mắt)
4- Sơn căn
5- Khu vưc sống mũi sát với sơn căn
6- Chỗ hõm dưới cung gò má (vùng huyệt hạ quan)
7- Hai gò má /(2 vú)
8- Đoạn
từ hõm dưới cung gò má chéo 45 độ xuống dưới và ra trước đến ngang dái
tai thẳng ra đến viền mũi và chay dài theo nếp nhăn mũi má đên khỏi khóe
miệng độ 1cm
9- Nhân trung
10- Hai bên nhân trung
11- Viền mũi
12- Vùng từ đầu trên mũi xuống bờ môi trên kéo dài ra đến đầu xương quai hàm (nơi huyệt giáp xa)
13- Từ huyệt giáp xa chéo 45 độ xuống dưới và ra trước đến bờ dưới xương hàm dưới
14- Dọc theo bờ dưới xương hàm dưới đến cằm
|
Đỉnh đầu
Hai mắt
Mũi
Nhân trung
Môi, miệng, lưỡi
Cằm
Khớp vai
Hai vú
Cánh tay, cùi chỏ
Âm hộ (âm đạo-tử cung)
Noãn sào
Háng
Vùng đùi gối
Vùng đầu gối và cẳng chân
Các ngón chân: ngón cái về phía quai hàm, ngón út về phía quai hàm
|
Đồ hình Dương: hình người đàn ông ( màu đỏ)
|
1- Giữa trán
2- Phần trên ấn đường
3- Hai chân mày và gờ cung mày
4- Đầu mày
5- Góc nhọn của chân mày
6- Chỗ hõm dưới gờ chân mày
7- Từ cuối chân mày ra thái dương và theo viền tóc mai xuống đến ngang đỉnh xương má
8- Sống mũi ( là cột sống)
9- Cánh mũi
10- Đầu trên rãnh Nhân trung
11- Nhân trung
12- Hai bên Nhân trung
13- Từ viền mũi qua bờ môi trên
14- Khóe miệng và khu vực bọng má
15- Từ bọng má chéo xuống cằm
16- Bờ cong ụ cằm
17-Từ chóp cằm trở ra theo bờ dưới xương hàm xương hàm dưới
|
Đỉnh đầu
Chẩm và cổ gáy
Hai cánh tay
Khớp vai
Cùi chỏ
Cổ tay
Bàn tay (úp xuống) và các ngón cái ở thái dương, ngón út ở ngang đỉnh xương gò mũi
cột sống (sống lưng)
Mông
Hậu môn
Dương vật
Dịch hoàn
Háng-đùi
Nhượng chân và gối
Cẳng chân, cổ chân, bàn chân, ngón chân
Gót chân
Các ngón đầu ngón chân
|
 |  |
Đồ hình phản chiếu bàn tay mở | Đồ hình phản chiếu bàn tay nắm |
 |  |
Đồ hình phản chiếu bàn chân | Đồ hình phản chiếu hai lỗ tai |
No comments:
Post a Comment