2. Nếu bạn muốn có được những điều chưa bao giờ có, thì hãy làm những điều bạn chưa bao giờ làm.
3. Đừng bao giờ hối tiếc những gì đã xảy ra trong quá khứ, vì thời điểm ấy, đó chính xác là những gì bạn muốn.
4. Lo lắng chính là điều vô bổ nhất trên đời. Nó giống như việc bạn cầm một chiếc ô và chạy vòng vòng đợi trời mưa xuống.
5. "Đừng nhầm lẫn tính cách tôi và thái độ tôi. Tính cách của tôi nói lên con người tôi, còn thái độ của tôi tuỳ thuộc vào con người bạn".
6. Thành công không phải là đích đến cuối cùng, thất bại cũng chẳng phải vực sâu thăm thẳm, đó chỉ là động lực để bạn vững vàng hơn trên con đường sắp bước.
7. Sự khác biệt duy nhất giữa một ngày tốt đẹp và một ngày tồi tệ nằm ở chính thái độ của bạn.
8. Khi cuộc sống dồn bạn vào bước đường cùng, đừng hỏi: tại sao là tôi? Mà hãy nói rằng: cứ thử tôi đi!
9. Đừng bao giờ giao bí mật của bạn cho một ai, bởi vì, tự bạn còn không giữ được thì còn trông mong vào ai kia chứ?
10. Giống như hoa dại, hãy học cách sinh tồn trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, ngay cả khi người đời cho rằng bạn không thể.
11. Khi bạn muốn tìm một người thay đổi được cuộc đời bạn, hãy nhìn vào gương.
12. Hãy mạnh mẽ lên đi, mọi thứ rồi sẽ ổn thôi. Bầu trời có thể bão bùng, nhưng mưa không thể rơi mãi được đâu.
13. Nếu người khác tôn trọng bạn, hãy tôn trọng họ. Nếu họ không tôn trọng bạn, vẫn cứ tôn trọng họ, đừng để hành động của người khác ảnh hưởng đến nhân cách tốt đẹp của bạn. Bởi lẽ, bạn chính là bạn chứ không phải là một ai khác.
14. Đại dương mênh mông sẽ không thể đánh chìm một con tàu nếu nước không tràn vào bên trong nó. Cũng tương tự như thế, những khó khăn sẽ không thể quật ngã bạn nếu bạn không cho phép chúng làm thế.
15. Cuộc đời chỉ có một, vì thế hãy làm những gì khiến bạn hạnh phúc và ở bên người khiến bạn luôn mỉm cười.
16. Nếu như bạn mong đợi người đời sẽ tử tế với bạn chỉ vì bạn tử tế với họ, thì cũng giống như việc bạn trông chờ một con sư tử không ăn thịt mình chỉ vì mình không ăn thịt nó. Cuộc sống vốn dĩ không công bằng, hãy học cách thích ứng đi.
17. Nếu kẻ khác nói xấu bạn, phán xét bạn mặc dù không biết gì về bạn. Đừng buồn, hãy nhớ kĩ một điều: "chó sủa khi gặp người lạ"
18. Đôi khi, không phải là một người đã thay đổi, chỉ là mặt nạ của họ đã rơi xuống mà thôi.
3 huyệt là Thượng Quản, Trung Quản, Hạ Quản. Anh kể rằng khi Tổ bấm vào 3 huyệt trên bụng ở Mạch Nhâm của anh, tức thì anh nhận được thần lực từ Tổ truyền vào, anh thấy nội lực gia tăng khỏe ngay trong giấc mơ cho đến bây giờ, vì theo ý nghĩa mà Tổ giảng dạy, 3 huyệt này chính là nơi đặt Lư Đảnh nơi Đan Điền Thần để luyện tiên đơn trường sinh bất lão của Tổ Thái Thượng Lão Quân, từ đó trong môn tập khí công thiền, cách luyện thở Lập Lư Đảnh ở Đan Điền Thần là quan trọng trong qúa trình luyện đơn chuyển tinh chất của thức ăn hóa khí, khí hóa thần để nuôi dưỡng tinh khí thần cho cơ thể duy trì được khí huyết đầy đủ.
Chân khí truyện
Luồng khí nóng cuồn cuộn từ Đan
Điền tỏa lên khai thông huyệt Khí Hải,
Huyệt Âm Giao, Huyệt Thần Khuyết, Rún từ Đan Điền tỏa xuống khai thông huyệt
Trung Cực, huyệt Khúc Cốt khai thông xuống huyệt Hội Âm, rồi lan tỏa ra hai
bên khai thông nhiều huyệt đạo từ Rún huyệt Thần Khuyết xuống Hội Âm cuối phần
bụng dưới hai huyệt Hoang Du hai huyệt Thiên Khu hai huyệt Phúc Kết hai huyệt Đại Cự
phần bụng trên đan điền. Khai thông hai huyệt Đại Hách, hai huyệt Thủy Đạo hai
huyệt Khí Xung, phần bụng dưới đan điền.
Khai thông qua Xương Cụt, rồi từ xương cụt khai thông huyệt Trường
Cường, huyệt Hội Dương chạy lên khai thông huyệt Dương Quan của eo lưng gần cuối xương sống lưng, chỉ còn một đốt sống
lưng nữa là giáp xương cùng sống mông. Rồi tỏa ra khai thông các huyệt đạo hai
bên xương sống mông từ Trường Cường lên
Dương Quan. Hai huyệt Hạ Liêu hai huyệt
Trung Lữ Du, hai huyệt Bào Hoang, hai huyệt Trung Liêu, hai huyệt Thứ Liêu, hai
huyệt Thượng Liêu, hai huyệt
Bàng Quang Du Hai huyệt Tiểu Tràng Du, hai huyệt Quang Nguyên Du, hai huyệt Đại Tràng Du, hai
huyệt Đại Tràng Du nằm ngang hai bên huyệt Dương Quang.
Dồn hết chân khí từ huyệt Dương Quang dọc lên theo xương sống khai
thông Mệnh Môn, rồi tỏa ra hai bên xương sống khai thông các huyệt đạo, hai huyệt
Thận Du, hai huyệt Chí Thất, hai huyệt Tam Tiêu Du hai huyệt Thận Du nằm ngang
hai hai bên huyệt Mệnh Môn.
Dồn hết chân khí từ huyệt Mệnh Môn chạy dọc lên theo các đốt xương sống
khai thông huyệt Chí Dương, ở giữa lưng. Rồi tỏa ra hai nên xương sống khai
thông nhiều huyệt đạo, từ Mệnh Môn lên Chí Dương. Khai thông hai huyệt Vị Dụ,
hai huyệt Tỳ Du, hai huyệt Đảm Du, hai huyệt Can Du, hai huyệt Cách Quang, hai
huyện Cách Quan nằm ngang hai bên cách
ra xa Huyệt Chí Dương.
Thành Nghĩa lại tiếp tục vận hành dẫn chân khí từ huyệt Chí Dương,
giữa lưng, chạy dọc lên theo xương sống khai thông huyệt Thân Trụ, đốt xương sống
ngang xương hai cánh tay nối liền với xương bả vai. Chân khí tỏa ra hai biên
xương sống khai thông vùng lưng trên một số huyệt đạo từ huyệt Chí Dương lên
huyệt Thân Trụ. Hai huyệt Cách Du, hai huyệt Thần Đường, hai huyệt Tâm Du, hai
huyệt Cao Hoang, hai huyệt Quyết Âm Du, hai huyệt Phách Hộ hai huyệt Phụ Phân, hai huyệt Phế Du, hai huyệt Phế Du ngang hai bên huyệt
Thân Trụ.
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn chân khí từ huyệt Thân Trụ dọc theo
xương sống thông lên huyệt Đại Chùy, đốt xương cổ thấp nhất tiếp giáp với xương
sống. Chân khí lan tỏa ra hai bên bả vai vùng lưng trên cùng khai thông một số
huyện đạo, từ Thân Trụ đến đại chùy Hai huyệt
Đại Trứ, hai huyệt Khúc Viên, hai huyệt Kiên Trung Du, hai huyệt Phong
Môn, hai huyệt Kiên Ngoại Du, hai huyệt Thiên Liêu hai huyệt thông ra hai huyệt
xương cánh tay nối liền với xương bả vai hai huyệt Kiên Liêu hai huyệt Kiên Tỉnh.
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn khí từ huyệt Đại Chùy đốt xương cổ thấp
nhất dẫn khí thông lên bảy đốt sống cổ khai thông huyệt Phong Phủ giáp xương đầu. Chân khí tỏa ra khai thông
các huyệt đạo các vùng sau cổ từ Đại Chùy tới Phong Phủ hai huyệt Thiên Dũ, hai
huyệt Thiên Trụ hai huyệt Phong Trì.
Thành Nghĩa lại tiếp tực dẫn khí thông lên các huyệt đạo lên đầu từ huyệt Phong Phủ chạy lên sau ót khai thông
huyệt Hậu Đình phần trên sau ót. Rồi dồn chân khí khai thông lên đỉnh đầu huyệt
Bách Hội, huyệt đạo nầy vô cùng quang trọng, khai thông được huyệt đạo nầy
không những thần lực con người tăng lên mà còn thông minh vô cùng. Khai thông từ huyệt Trường Cường, Huyệt Hội Dương xương cụt
đến Bách Hội đỉnh đầu ( gọi là khai thông dòng sông đốc
kinh ).
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn chân khí từ đại huyệt Bách Hội
chạy về phía trước khai xuống huyệt Tiền Đình khai thông xuống Tín Hội, khai
thông xuống Thần Đình Nê Hườm, mỏ ác. Chân
khí lan tỏa ra hai bên vùng đầu phía trước từ Bách Hội tới Thần Đình Nê Hườm mỏ ác khai thông hai huyệt Thông Thiên, hai huyệt Khúc Sai.
Thành Nghĩa lại tiếp tuc dẫn
chân khí từ Nê Hườm mỏ ác chạy xuống vùng trán khai thông xuống huyệt Ấn Đường
trung tâm giữa hai chân mày. Chân khí lan tỏa ra hai bên từ Mỏ Ác xuống Ấn Đường khai thông hai huyệt Dương Bạch, trên hai chân chân mày, khai
thông hai huyệt Toàn Túc hai huyệt Ty Trúc Không, đầu chân mày cuối chân mày.
Khai thông ra hai huyệt Thái Dương.
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn chân khí từ huyệt Ấn Đường thông xuống
huyệt Nhân Trung sóng rảnh sát chót mũi chân khí tỏa ra hai bên khai thông từ Ấn
Đường xuống Nhân Trung. Khai thông hai huyệt Tinh Minh, đầu mắt hai huyệt Đồng
Tử Liêu, cuối mắt khai thông xuống hai huyệt Tứ Bạch dưới hai con mắt. Khai
thông hai huyệt hai bên mũi huyệt Nghinh Hương, thông ra hai huyệt Cự Liêu, hai
huyệt Quyền Liêu.
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn chân khí từ huyệt Ấn Đường chạy xuống miệng thông xuống càm khai
thông huyệt Thừa Tương, Chân khí lan tỏa ra hai bên khai thông hai huyệt Hòa
Liêu, hai bên nhân trung. Khai thông hai huyện Địa Thương, hai bên khóe miệng.
Từ huyệt Thừa Tương trên càm Thành Nghĩa dẫn khí thông xuống huyệt Liêm tuyền
trên cùng phần cổ họng. Rồi dẫn khí xuống hết phần cổ tới ức tức là huyệt Thiên
Đột chân khí tỏa ra hai bên cổ từ Liêm Tuyền xuống Thiên Đột khai thông hai huyệt
Nhân Nghinh, hai huyệt Thủy Đột, hai huyệt Thiên Đỉnh, hai huyệt Khuyết Bồn hai
huyệt Khí Xá ngang hai bên huyệt Thiên Đột.
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn
chân khí từ Thiên Đột thông xuống hai phần ba xương ngực khai thông huyệt Đản
Trung chân khí tỏa ra hai bên xương ngực khai thông một số huyệt đạo từ Thiên Đột
xuống Đản Trung. Hai huyệt Du Phủ, hai
huyệt Vực Trung, chân tỏa ra khai thông hai huyệt Vân Môn, hai huyệt Trung Phủ.
Hai huyệt Thần Phong ngang hai bên huyệt Đảng Trung. Thành Nghĩa tiếp tục dẫn
khí từ huyệt Đản Trung thông xuống huyệt Cưu Vĩ chót xương mỏ ác chấn thủy cuối
xương ngực. Chân khí tỏa ra hai bên xương ngực khai thông một số huyệt đạo từ Đản
Trung xuống Cưu Vĩ, hai huyệt Nhũ Căn, hai huyệt Nhũ Trung, Hai huyệt Ưng Song,
hai huyệt Thiên Khê, rồi từ huyệt
Cưu Vĩ Thành Nghĩa dẫn chân khí thông xuống huyệt Cự Khuyết. Thông xuống
huyệt Trung Quản. Chân khí tỏa ra hai bên vùng bụng trên khai thông một số huyệt
đạo từ Cưu Vĩ xuống Trung Quản hai huyệt Bất Dung, hai huyệt Lương Môn, hai huyệt Kỳ Môn, khai thông ra hai huyệt Chương Môn. Hai huyệt Nhật Nguyệt.
Thành Nghĩa lại tiếp tục dẫn
chân khí từ huyệt Trung Quản, xuống Thủy Phân, chạy thông xuống lỗ rún huyệt Thần
Khuyết chân khí từ Rún tỏa ra xung quanh khai thông hai huyệt Hoang
Du, hai huyệt Thiên Khu, hai huyệt Đới Mạch, rồi thông xuống huyệt Âm Giao, Khí
Hải, Đan Điền chân khí tỏa rộng ra xung
quanh khai thông, hai huyệt Đại Cự, hai huyệt Thủy Đạo, hai huyệt Cự Liêu hai
huyệt Ngũ Khu, khai thông xuống Quan Nguyên Trung Cực, thông xuống Khúc Cốt,
thông xuống Hội Âm khai thông hai huyệt
Đại Hách, hai huyệt Xung Môn. Thành Nghĩa thâu chân khí trở lại Đan Điền
Trung Nguyên, rồi đều hòa hơi thở. Tiếp tục hít lấy luồng chân khí vào Đan Điền,
tiếp tục dẫn khí thông xuống Trung Cực, thông xuống khúc cốt thông xuống Hội
Âm, rồi thông qua Xương Cụt Trường Cường chạy lên Đỉnh Đầu Bách Hội, dẫn chân
khí chạy về phía trước xuống Đan Điền thời coi như giáp một vòng tròn Chu
Thiên. Thái Cực. Khai thông hai dòng sông lớn, dòng sông phía trước chạy từ
Bách Hội xuống Khí Hải Đan Điền. Thông xuống Hội Âm gọi là dòng Sông Nhâm Kinh. KHÍ HẢI, ĐAN ĐIỀN là biển
cả Chân Khí vô cùng quan trọng cho người tu luyện võ công, cũng như tu luyện kết
thành nhị xác thân. Sức Mạnh con người từ biển Khí Hải, Đan Điền nầy phát động
tạo ra, nếu nó được khai thông Mạch, Lạc nói liền các Huyệt Đạo. Tuôn ra dòng
sông lớn chảy về Đan Điền, bằng ngược lại.
Từ huyệt Trường Cường, Hội Dương lên đến đỉnh đầu Bách Hội, gọi là
Dòng Sông Đốc Kinh. Nếu khai thông được hai dòng sông Kinh lớn nầy làm cho
thông suốt từ Âm sang Dương, từ Hạ đến Thượng. Thành vòng Châu Thiên Thái Cực.
Thời coi như nền tản võ học đã thành. Khai thông hai dòng sông lớn. Tức thời Lục Phủ - Ngũ Tạng, thông suốt mạnh lên gấp
trăm lần tạo ra nguồn năng lượng chu cấp cho cơ thể bất tận. Hình Thành Tiên
Thiên Thần Công một loại Thần Công tối cao trong võ học.
Nguồn Gốc Tiên Thiên Thần Công :
Khí Tiên Thiên là Khí Huyết do Mẹ Âu Cơ
truyền xuống Tinh Hoa khí hóa con người. Nguyên Khí nối dòng từ đời nầy
sang đời khác còn khí hậu thiên là khí thu nạp từ ngoài vào. Hít thở thu nạp
qua bốn thời Tý - Ngọ - Mẹo - Dậu nuôi lớn khí Tiên Thiên Trong người lên. Qua
tu thiền luyện khí. Khai thông huyệt đạo tức là liên kết sức mạnh toàn thể của
khí Tiên Tiên. Khí Tiên Thiên Lớn mạnh làm cho Lục Phủ, Ngũ Tạng đều hòa thông
suốt tạo ra năng lượng sức mạnh con người.
Khai ra hai dòng sông lớn nữa. Dòng sông Lưỡng Nghi, Âm Dương. Thành
Nghĩa dẫn chân khí từ Đan Điền xuống Hội Âm dùng tư tưởng phân làm hai luồn
chân khí, thông qua hai huyệt Xung Môn. Thông qua xương mông hai huyệt Thừa
Phù. Dẫn khí chạy lên xương chậu, khai thông hai huyệt Cư Liêu, hai huyệt Ngũ
Khu, hai huyệt Chương Môn, dọc theo hai bên hông bụng. Rồi dẫn chân khí thông
lên hai nách khai thông hai huyệt Cực Tuyền, rồi thông lên hai bả vai khai
thông hai huyệt Kiên Ngung, cuối hai bả vai, thông lên hai huyệt Kiên Tỉnh giữa
hai bả vai dẫn chân khí thông lên hai huyệt Thiên Đỉnh giáp hai vai cổ. Dẫn
chân khí thông lên hai huyệt Thiên Song giữa hai bên cổ. Rồi dẫn chân khí thông
lên Nhĩ Châu chỗ sụn nhỏ chắn trước hai lỗ tai. Rồi trụ ở đây chân khí tỏa lan
ra khai thông một số huyệt đạo xung quanh hai tai hai huyệt Ế Phong, hai huyệt
Hoàn Cốt. hai huyệt Phong Trì, hai huyệt Thiên Dung, hai huyệt Hạ Quan. Hai huyệt
Khách Chủ Nhân, hai huyệt Hiệp Xa, hai huyệt Khiếu Âm, hai huyệt Nhĩ Môn, hai
huyệt Thính Cung, hai huyệt Khúc Tấn, hai huyệt Thiên Dung, hai huyệt Giác Tôn.
Rồi từ Nhĩ Châu sụn nhỏ chắn trước hai lỗ tai dẫn chân khí chạy lên khai thông
hai huyệt Đầu Duy, hai huyệt Hàm Yếm, trên tai ngang thẳng vào trán trên hai
chân mày. Rồi dẫn chân khí thông lên hai huyệt Thông Thiên, hai huyệt Thừa
Linh, rồi thông lên Bách Hội, trụ chân khí lại ở đây để cho chân khí lan tỏa ra
khai thông các huyệt đạo trên vùng đỉnh đầu, huyệt Tinh Hội, huyệt Thần Đình,
Hai huyệt Thông Thiên, hai huyệt Thừa Linh hai huyệt Khúc Sai, huyệt Hậu Đình.
Rồi từ Bách Hội dẫn chân khí chạy về phía trước xuống Mỏ Ác xuống trán xuống Ấn
Dường, xuống Nhân Trung, xuống Liêm Tuyền, xuống Thiên Đột, xuống Đản Trung, xuống
Cưu Vĩ, xuống rún, xuống Đan Điền trụ lại để cho chân khí lan tỏa khắp vùng bụng
dưới. Vận hành chân khí từ Đan Điền ra đi rồi trở về Đan Điền khai mở dòng sông
lớn Tiên Thiên Âm Dương, cứ như thế hết
vận hành Tiên Thiên Thái Cực, tới vận hành Tiên Thiên Âm Dương, càng vận hành
thời các huyệt đạo cũng như Kinh Mạch càng thông suốt, thân thể càng nhẹ nhàng
như không có trọng lượng, chỉ cần nhích chân động tay là chân khí tuôn ra làm bị
thương người ngay. Để luyện Kinh Công, Quyền Pháp, Chưởng Pháp, Kiếm Thuật, Chỉ,
Trảo, mau chóng thành đạt đến cảnh giới thượng thừa đỉnh cao của võ học. Thành
Nghĩa phải khai thông huyệt mạch tứ chi hai tay hai chân làm cho các huyệt đạo
thông suốt. Thành Nghĩa hít một luồn chân khí vào Đan Điền rồi dồn chân khí lên
hai bả vai dẫn chân khí thông xuống hai cánh tay xuống cùi chỏ khai thông huyệt
Thiếu Hải, huyệt Khúc Trạch, huyệt Xích Trạch, ba huyệt trong cùi chỏ, huyệt
Thiên Tinh, huyệt Khúc Trì hai ngoài cùi chỏ, của hai cánh Cùi Chỏ cánh tay,
khai thông một số huyệt từ hai vai xuống cùi chỏ, huyệt Vân Môn, huyệt Kiên Tỉnh,
huyệt Kiên Ngung, huyệt Khúc Viên, huyệt Kiên Trung Du, huyệt Kiên Ngoại Du,
huyệt Thiên Tông, huyệt Thiên Liêu, huyệt Cực Tuyền, huyệt Hiệp Bạch, rồi từ
Cùi Chỏ dẫn chân khí thông xướng cổ tay khai thông huyệt Thần Môn, huyệt Đại
Lăng, huyệt Thái Uyên, ba huyệt trong cổ tay, huyệt Dương Cốc, huyệt Dương Trì,
huyệt Dương Khê, huyệt Dưỡng Lão bốn huyệt ngoài cổ tay, bảy huyệt hai cổ tay rồi
thông ra bàn tay các ngón tay. Tức thời khai thông một số huyệt đạo từ hai Cùi
Chỏ đến hai bàn tay huyệt Thủ Tam Lý, huyệt Khổng Tối, huyệt Khích Môn, huyệt Nội
Quan, huyệt Liệt Khuyết, huyệt Âm Kích, huyệt Ôn Lưu, huyệt Ngoại Quan, huyệt
Thiếu Xung, huyệt Ngư Tế, huyệt Hợp Cốc huyệt Thương Dương, huyệt Thiếu Xung,
huyệt Thiếu Trạch. Thông suốt ra các ngón tay. Rồi thâu chân khí trở lại Đan Điền.
Cứ như thế vận hành đi vận hành lại cho đến khi thông suốt. Chỉ cần ý tưởng là
chân khí tuôn ra hai bàn tay ngay.
Vận hành chân khí từ Đan Điền
dồn xuống hai mông rồi vận tưởng chân khí thông xuống hai đầu gối khai thông
huyệt NỘI TẤT NHÂN, HUYỆT NGOẠI TẤT
NHÂN, HUYỆT LƯƠNG KHÂU, HUYỆT ĐỘC TRỊ,
TRƯỚC ĐẦU GỐI. HUYỆT ÂM CỐC, HUYỆT ỦY TRUNG, HUYỆT KHÚC TUYỀN, HUYỆT ÂM LĂNG
TUYỀN hai bên đầu gối sau đầu gối.
Khai thông một số huyệt đạo từ đầu hai bắp vế, mông xuống đầu gối
hai bên huyệt đạo y nhau, huyệt Âm Liêm,
huyệt Xung Môn, huyệt Phục Thỏ, huyệt Cơ Môn, huyệt Huyết Hải, huyệt Thừa Phù,
huyệt Ân Môn, huyệt Tam Túc Lý.
Dồn chân khí thông xuống cổ chân dưới mắt cá xung quanh trước sau
trong ngoài dưới mắt cá khai thông huyệt Tam
Âm Giao, huyệt Thái Khê, huyệt Thân Mạch, huyệt Thương Khâu, huyệt Chiếu Hải,
phía sau và phía trong dưới mắt cá, huyệt
Côn Lôn, huyệt Khâu Khư, huyệt Xung Dương, huyệt Giải Khê. Phía ngoài và
phía trước dưới mắt cá rồi dồn khí xuống hai lòng bàn chân thông ra các ngón
chân khai thông một số huyệt đạo từ hai đầu gối xuống tới hai bàn chân,
Thông suốt các huyệt đạo hai
chân Huyệt Địa Cơ, huyệt Trung Đô, huyệt
Lãi Câu, huyệt Thừa Cân, huyệt Thừa Sơn, huyệt Phi Dương, huyệt Trúc Cân, huyệt Phụ Lưu, huyệt Trung Dộc,
huyệt Dương Lăng Tuyền, huyệt Quan Minh, huyệt Huyền Chung, huyệt Lệ Đài, huyệt
Thái Đôn, huyệt Nội Đình, huyệt Thái Xung, huyệt Chí Âm, huyệt Nội Đình, huyệt
Nội Dũng Tuyền, huyệt Dũng Tuyền.
No comments:
Post a Comment