Nghiên cứu cách chữa áp huyết thật, áp huyết gỉa của lục phủ ngũ tạng
I- SỰ THAY ĐỔI ÁP HUYẾT QUA TINH-KHÍ THẦN
Yếu tố do Tinh
Yếu tố Khí
a- Lục khí
b- Ngũ tạng khí
c- Khí hấp thụ
d- Khí công
e- Bội thực khí do ăn không tiêu
f- Cách chữa bệnh hôn mê vỡ mạch máu não do bội thực khí
Yếu tố Thần
III-THỬ NGHIỆM SỰ THAY ĐỔI ÁP HUYẾT GỈA TRÊN TỪNG HUYỆT
1- CÔNG DỤNG CỦA TỪNG HUYỆT
HUYỆT CƯU VĨ
HUYỆT CỰ KHUYẾT
HUYỆT THƯỢNG QUẢN
HUYỆT TRUNG QUẢN
HUYỆT KIẾN LÝ
HUYỆT HẠ QUẢN
HUYỆT THỦY PHÂN
HUYỆT THẦN KHUYẾT
HUYỆT ÂM GIAO
HUYỆT KHÍ HẢI
HUYỆT QUAN NGUYÊN
HUYỆT TRUNG CỰC
HUYỆT KHÚC CỐT
2- CÁCH PHỐI HỢP HUYỆT
Giới
y học tây y lấy làm ngạc nhiên lần đầu nghe nói đến áp huyết giả không
thể nào tin được. Nhưng chính áp huyết giả đã làm cho tây y chẩn đoán
sai lầm, và đã không có cách nào chữa dứt hẳn căn bệnh cao áp huyết,
cuối cùng gây ra nhiều biến chứng dẫn đến tử vong bất ngờ.
Việc
khám phá này thật ra không có gì mới mẻ, nó đã có sẵn trong lý thuyết
đông y về Khí và Huyết trong bát pháp : âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt,
biểu-lý. được áp dụng hàng ngày trong chẩn bệnh và chữa bệnh, nhưng
không ai học hiểu để chữa đúng, vì nó mơ hồ, không kiểm chứng được.
Giống như giáo lý Phật Giáo, trước kia chưa có ánh sáng khoa học thì
cũng không ai hiểu trong nước có vi trùng hay những vi sinh vật, nay nhờ
kính hiển vi mới thấy đúng, hay câu nói tam thiên đại thiên thế giới
cũng là mơ hồ, ngày nay khoa học chứng minh thấy có các vì tinh tú trong
những giải ngân hà galaxy khác nhau, có những sinh vật sống ở đó.
Cũng
nhờ vào khoa học, chúng ta có máy đo áp huyết. Nhưng tây y chỉ biết
cách sử dụng máy đo áp huyết để đo áp huyết tim mạch ở cánh tay trái, để
biết cao hay thấp. Ngược lại, đông y khí công đã nhờ máy đo áp huyết
của tây y để khám phá ra cách đo áp lực khí huyết trong tạng phủ, thay
cho bắt mạch chẩn bệnh để tìm âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt, biểu-lý một
cách đơn giản và áp dụng trong chữa bệnh có nhiều hiệu qủa không ngờ,
nhờ vào cách điều chỉnh huyệt.
Tây
y chú trọng áp huyết của tim mạch, chỉ kết luận bệnh nhân bị bệnh cao
áp huyết hay thấp áp huyết (hypertension hay hypotension) và điều trị
bằng thuốc hay giải phẫu tim mạch.
Đối với đông y khí công, tất
cả mọi bệnh đều xét về cả 3 yếu tố gây ra bệnh là Tinh-Khí-Thần, thì
trường hợp bệnh áp huyết cũng không ngoại lệ.
Tinh
là những thức ăn, thuốc uống đem vào cơ thể, nó có ảnh hưởng làm tăng
hay hạ áp huyết của tim mạch. Nói theo lý thuyết đông y : Tinh làm thay
đổi khí huyết trong cơ thể.
Khi một người bị bệnh cao áp huyết,
thí dụ 160/95mmHg mạch 80, uống thuốc làm hạ áp huyết xuống 140/85mmHg
mạch 78 và cứ giữ ổn định ở mức này, bệnh nhân sẽ phải uống thuốc suốt
đời để giữ được mức an toàn ấy, nếu bỏ thuốc áp huyết sẽ lên trở lại
160/95mmHg mạch 80.
Tinh còn do nguyên nhân thức ăn thay đổi hàng
ngày, nếu không hiểu do nguyên nhân ăn uống làm thay đổi áp huyết, như
ăn những thứ cay nóng, các loại ga, men, bia, rượu, coke, gan gà, cam
thảo, thuốc lá, trái cây nhiệt đới như nhãn, xoài, sầu riêng… áp huyết
lại tăng cao lên 150/95mmHg mạch 82, lúc đó bác sĩ sẽ tăng liều thuốc để
làm áp huyết hạ xuống dưới 140/90mmHg mạch 75.
Những trường hợp
này đông y khí công gọi là áp huyết giả tạo do thực phẩm gây ra. Tây y
cũng có ngành thực phẩm dinh dưỡng, nhưng chưa chú trọng nghiên cứu loại
thức ăn nào làm tăng áp huyết, loại thức ăn nào làm hạ áp huyết, vì
không biết đến tương quan ngũ hành về tính-khí-vị mà chỉ chú trọng đến calories, vitamines, chất khoáng, chất đường (glucid), chất đạm (protid), chất mỡ (lipid), chất xơ.
Còn
đông y xem tất cả các loại thức ăn là một vị thuốc, dù đơn chất hay hợp
chất pha chế trong nấu nướng đều phải phân chất theo tính-khí-vị.
Vị
là mùi vị của thức ăn, là chất dẫn thuốc đi vào riêng từng ngũ hành
tạng phủ như vị đắng vào tim, ngọt vào tỳ (lá mía), cay vào phổi, mặn
vào thận, chua vào gan.
Tính của thuốc hay món ăn nó tạo cho cơ thể trở nên lạnh hay trở nên nóng, hay ấm gọi là tính hàn hay nhiệt, hay ôn.
Khí
của thuốc hay thức ăn làm tăng khí (làm tăng áp huyết), hạ khí (làm hạ
áp huyết), tăng huyết bổ máu, giảm huyết phá máu, liễm khí, thoát khí,
làm ói mửa, làm táo bón hay tiêu chảy, xuất mồ hôi…
Cũng vì đặc
tính này của thức ăn, tây y không để ý, đó cũng là một nguyên nhân làm
tăng áp huyết giả, mặc dù vẫn đang dùng thuốc kiểm soát áp huyết, nên đã
có những trường hợp chết bất đắc kỳ tử trong khi ăn vẫn nói cười vui vẻ
rồi đột qụy, hay sau khi ăn rồi bị mệt đi vào hôn mê bất tỉnh.
Tôi
đã gặp nhiều trường hợp thân nhân mời đến bệnh viện cứu người trong
tình trạng chờ rút ống trợ thở vì bệnh nhân đã chết trong hôn mê do đứt
mạch máu não. Người nhà cho biết, áp huyết rất bình thường nhờ có uống
thuốc kiểm soát áp huyết đều đặn, lúc nào cũng ở mức dưới 130/85mmHg
mạch 82. Những trường hợp này khi tôi đến bên giưòng cấp cứu, nhìn máy
báo áp huyết lúc nào cũng 192/110mmHg mạch 100, hơi thở thì do máy trợ
thở. Tôi dùng phương pháp cấp cứu bằng khí công cũng không có kết qủa,
thân nhiệt bệnh nhân nóng, mặt đỏ, bụng căng. Hỏi người nhà về nguyên
nhân được biết hôm trước bệnh nhân gặp mấy người bạn từ Mỹ đến Canada rủ
nhau đi ăn sáng, sau đó mạnh ai về nhà nấy. Khi về nhà ông nói với vợ
là ông bị nhức đầu, chóng mặt khó chịu muốn ói, ông đi nằm nghỉ rồi ông
ói ngay ra giường, sau đó ông ngủ. Vợ ông nghĩ chắc ông bị trúng gió hay
ăn gì bị ói, ói ra được và ngủ một giấc dậy sẽ khỏe. Đến chiều gọi ông
không tỉnh dậy, mới gọi xe cứu thương đưa ông đến bệnh viện cấp cứu
trong một tuần không có kết qủa, khi tôi đến cũng đã không giúp gì được.
Có trường hợp đang ngồi ăn, cảm thấy đầy bụng khó chịu không
muốn ăn, rồi gục xuống bàn đi luôn, hay đã có một bà bị cao áp huyết,
con cái chăm sóc nuôi ăn kiêng khem rất cẩn thận, cụ vẫn khỏe mạnh, một
hôm cả nhà mua sầu riêng về ăn, cho cụ ăn 3 múi, sau đó cụ có vẻ thèm
muốn ăn thêm. Ngày hôm sau con cụ mua cho cụ 1 trái để ăn, ăn nửa chừng
cụ đi luôn, lúc đó vào bệnh viện áp huyết của cụ trên 200/125mmHg mạch
100 khi cụ chết.
Những trường hợp trên, bệnh nhân vẫn uống thuốc
giữ áp huyết luôn luôn ổn định, nhưng bất tử chết đột ngột đều do nguyên
nhân từ thức ăn uống.không tiêu, không phù hợp để chữa bệnh mà làm cho
bệnh tăng áp huyết giả lên đột ngột bới tính-khí-vị của thức ăn mà đông y
xem như tương đương với thuốc.
Ngoài ra áp huyết hay bất cứ một
loại bệnh nào khác mà cơ thể có, còn do 2 yếu tố khác là Khí và Thần,
thì tây y chỉ biết mơ hồ, không tin tuởng và không biết cách áp dụng
đúng.
Có 5 loại khí làm ra bệnh :
Khí
thời tiết và môi trường sống, có 6 thứ là phong ( gió), hàn (lạnh), thử
(nóng oi bức), thấp (ẩm thấp), táo ( khô ráo), nhiệt (nóng)
Khí
trong cơ thể cũng có 5 thứ là phong, hàn, thấp, táo, hỏa, ứng với ngũ
hành, phong thuộc gan, hàn thuộc thận, thấp thuộc tỳ, táo thuộc phế, hỏa
thuộc tâm.
Khí
là hơi thở, đem khí bên ngoài vào trong cơ thể, nó phù hợp hay cần
thiết theo nhu cầu sẽ làm cơ thể khỏe, nếu không thuận và hợp với cơ thể
sẽ làm cho cơ thể bệnh. Thí dụ như cơ thể đang lạnh nếu sống ở nơi có
thời tiết ấm nóng, cơ thể sẽ ít đau đớn bệnh hoạn hơn, ngược lại những
người đang bị nhiệt, cao áp huyết, mà phải làm việc trong lò nướng bánh
mì hay lò đúc thủy tinh thì không phù hợp để chữa khỏi được bệnh đau
sưng nhức thấp khớp, tim mạch và áp huyết mặc dù vẫn đang dùng thuốc
chữa áp huyết …
Do tập luyện khí công sai đã tạo ra áp huyết giả làm tăng hay giảm áp huyết đột ngột.
Có
nhiều loại khí công như biết phương pháp điều hòa hơi thở để làm cho cơ
thể ấm nóng tăng nhiệt hay làm mát để giảm nhiệt. Do đó luyện thở khí
công cũng có nhiều loại như tài chi dưỡng sinh, khí công ngoại lực để có
thân hình khỏe mạnh rắn chắc, khí công nội lực để có kình lực. Nhưng
khí công để chữa bệnh thuộc ngành y cũng phải tuân theo quy luật ngũ
hành tạng phủ để điều chỉnh hư thực, hàn nhiệt, thăng giáng, liễm xuất…
Vì
không hiểu quy luật dùng khí công chữa bệnh theo ngũ hành tạng phủ, nên
các nhà khí công cũng vẫn bị bệnh tim mạch, cao áp huyết, tiểu đường…mà
không thể tự chữa được.
Còn
một loại khí khác trong cơ thể cũng làm tăng áp huyết giả do vị khí quá
thực, là khí của bao tử khi ăn no bội thực, hay ăn uống không tiêu làm
đầy hơi khiến ngộp thở, chèn ép tim mạch, áp huyết tăng cao làm vỡ mạch
máu não dẫn đến hôn mê chết người, nếu không cho ói mửa thức ăn hay cho
tiêu xổ ra kịp thời, mặc dù người bệnh không có bệnh cao áp huyết,
trường hợp này đa số bị chết bất đắc kỳ tử mà tây y không tìm ra nguyên
nhân vì bội thực khí..
Đã có một bệnh nhân được thoát chết kịp
thời trong phòng mạch. Ông đưa vợ ông đến tập khí công chữa ung thư gan,
vợ ông đã được các bác sĩ hẹn ngày mổ thay gan, nhưng nhờ tập khí công,
các bác sĩ cho biết kết qủa tốt không tìm thấy dấu vết ung thư gan nên
khỏi mổ. Nhưng mới đây khi đưa vợ ông tới tập thở khí công chữa bệnh
gan, ông nói với tôi, ông bị nhức đầu như búa bổ, lại chóng mặt xây xẩm
muốn ói mửa. Tôi bảo ông nằm trên giường để do áp huyết. Áp huyết của
ông trước kia khoảng 130/85mmHg mạch 72, hôm nay 220/120mmHg mạch 100,
đó là áp huyết giả.
Khi bấm huyệt Cưu Vĩ, Cự Khuyết để khai thông
bế tắc thượng tiêu và trung tiêu, ông ợ lên, bụng sôi, khí trên tim
ngực thoát xuống bụng, vẫn để máy đo áp huyết trên tay, vừa bấm huyệt
vừa bấm máy đo, áp huyết xuống dần 180/100mmHg, ông nói ông muốn vào
toilet để ói, tôi đi theo sợ ông té xỉu, đứng ở ngoài tôi hỏi ông có sao
không, ông trả lời tôi đang đi cầu, thấy khỏe không sao cả. Sau khi
xong tôi bấm đến huyệt tiêu hóa cho đến khi áp huyết xuống 140/85mmHg
mạch 70 mới ngưng, ông đi cầu lần nữa. Tôi dặn ông phải nhịn ăn 2 buổi,
chỉ ăn cháo, không có thịt, cho tiêu hóa tốt, bụng nhẹ mới khỏi bệnh,
nếu ông không biết mà ăn cơm như bình thường áp huyết giả sẽ lên trở
lại.
Ông hỏi tôi tại sao tự nhiên ông lại bị lên áp huyết cao như
thế mà ông không biết. Tôi trả lời ông bị ăn không tiêu bội thực. Ông
nói: Thầy hay qúa, đúng là mấy bữa trước ăn ngon miệng ăn nhiều qúa,
nhưng còn áp huyết lên thì tôi không biết.
Ngày hôm sau tôi đến
thăm ông để xem tình trạng sức khỏe của ông, ông khỏe mạnh, tươi tỉnh,
làm việc bình thường, mấy con ông nói, hôm trước ông làm chúng nó sợ,
nếu đi bác sĩ tây y, áp huyết cao như vậy, bác sĩ sẽ gọi xe cứu thương
đưa vào bệnh viện cấp cứu chữa tim mạch mà không biết làm hạ khí tiêu
hóa kịp thời sẽ bị đứt mạch máu não hôn mê bất tỉnh bỏ mạng luôn.
Áp
huyết giả do nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tim mạch như áp huyết
giả từ gan gọi là can phong nội động, áp huyết giả từ bao tử là vị khí
thực không tiêu, áp giả từ phế khí thực như suyễn cấp tính, áp huyết giả
từ thận khí hư cơ thể phù trướng nước…
Cũng
đã có nhiều trường hợp thân nhân nhờ tôi đi cấp cứu những người bị hôn
mê trong bệnh viện, áp huyết của bệnh nhân vẫn trong tình trạng nguy
hiểm trên 175/100mmHg mặc dù đã được chích thuốc làm hạ áp huyết.
Trước
hết phải châm nặn máu ở huyệt Chí Âm góc móng chân ngón út cho ra được
máu bầm đặc rồi ra đến máu đỏ loãng để giải tỏa áp lực khí huyết đang
làm căng các mạch máu trên não, tránh vỡ thêm mạch máu não hay xuất
huyết não, rồi dùng 3 ngón tay bấm 3 huyệt liền nhau ở Mạch Nhâm trên
bụng là Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản để giúp vị khí đi xuống, khiến bụng
sô làm áp huyết hạ xuống thấp cho đến dưới 140/90mmHg mới có hy vọng
cứu sống bệnh nhân được.
Nếu bấm huyệt mà các con số trên bảng
điện tử không thay đổi, không hạ áp huyết thì không còn hy vọng vì máu
trong não đã khô đặc không tuần hoàn.
Còn một yếu tố khác là theo dõi hơi thở ờ bụng bệnh nhân và trên biểu đồ ở máy về hơi thở, nhịp thở, nhịp tim.
Nhìn
bụng bệnh nhân, khi máy trợ thở kêu xì….xạch, xì….xạch, là máy bơm hơi
vào bệnh nhân, bụng bệnh nhân phải phồng lên xẹp xuống đồng bộ với máy,
là bệnh nhân cũng đang thở. Con số trên máy hiện ra nhịp thở ổn định lý
tưởng là 18-20 hơi thở trong 1 phút, nếu chỉ có máy thở 100%, số nhịp
thở không hiện lên máy, hoặc bệnh nhân thở gấp máy hiện lên số cao hơn
từ 30-60 như vậy sẽ làm nhịp tim đập quá nhanh 120 nhịp 1 phút, trên 120
nhịp là đang bị sốt.
Đường biểu đồ chỉ SpO2 là một đường thẳng
nằm ngang, không hiện số, là cơ thể không thu nạp oxy từ máy trợ thở,
khi bấm 3 huyệt trên, bắt đầu đường biểu diễn thay đổi, con số hiện lên
an toàn từ 90-100 là cơ thể đủ oxy.
Để ý khi đè 3 ngón tay trên
huyệt, giữ mãi với một lực ấn tự nhiên theo hơi thở phồng xẹp của bệnh
nhân để điều chỉnh hơi thở giúp bệnh nhân tự thở làm thông thượng tiêu
xuống trung tiêu và hạ tiêu, khi áp huyết trên máy xuống dưới 105 thì
phải buông tay ra không bấm vào huyệt nữa để tránh áp huyết bị tụt thấp.
Nếu mức độ phồng xẹp ở bụng bệnh nhân lên cao xuống thấp đều đặn
rõ ràng, thì đồ thị sẽ là hình sin, với biên độ cao, cuối đường biểu
diễn này hiện số 18-20 là lý tưởng. Nhưng sự sống có được phục hồi hay
không là khi buông tay không bấm huyệt nữa mà con số trên máy giữ được
ổn định mãi giúp khí huyết lưu thông toàn thân, bệnh nhân sẽ tỉnh lại.
Trong
trường hợp áp huyết tụt thấp dưới 100 mà không lên, dùng ngón tay cái
bấm đè vào 2 huyệt liền nhau Cưu Vĩ, Cự Khuyết, áp huyết sẽ tăng dần lên
đến con số lý tưởng 130/80mmHg thì buông tay, nếu tiếp tục bấm, áp
huyết có thể lên cao 170/95mmHg làm xuất huyết não thêm rất nguy hiểm..
Sự
sống bệnh nhân được phục hồi khi thấy áp huyết, nhịp tim, nhịp hơi thở,
lượng oxy trên máy có thay đổi khi bấn huyệt, khi buông ra, các con số
đó vẫn ổn định, không bị trở lại như cũ là cao qúa, thấp qúa, hay không
hiện số nào, nếu nó trở lại như cũ là não bệnh nhân đã chết thì khó cứu
sống.
Người thân phải luôn túc trực cạnh giường bệnh để điều
chỉnh những con số đó khoảng 1 tuần sức khỏe được cải thiện dần, bệnh
nhân sẽ tỉnh dần sau khi bị hôn mê trùng hai lần, một lần do đứt mạch
máu não, một lần do chích thuốc ngủ sâu.
Khi các con số được ổn
định, mỗi ngày vê 10 đầu ngón tay, ngón chân kích thích thần kinh não
làm thông kinh mạch, từ từ thấy tay chân bệnh nhân cử động, gọi bệnh
nhân nghe được và mở mắt, sau đó chữa vào 10 đầu ngón tay ngón chân để
phục hồi chức năng vận động khỏi bị tê liệt
Cũng có nhiều trường
hợp bệnh nhân đã bị hôn mê lâu 2 tuần mới nhờ tôi đến cứu, khi bấm huyệt
các con số không thay đổi, thì bệnh nhân đã chết thực sự, ngược lại,
cũng có những trường hợp chết oan, khi tây y đã chữa 2 tuần không thấy
có sự thay đổi nào, lúc đó thân nhân nhờ đến cứu, bấm huyệt các con số
thay đổi tốt, nhưng các bác sĩ đã đóng hồ sơ không còn theo dõi bệnh
nhân nữa, lúc đó cho người thân đến thăm tự do trong vài giờ rồi rút ống
trợ thở hay tắt các máy móc.
Trong tây y có ngành chuyên khoa tâm lý thần kinh để chữa bệnh, chỉ là một phần trong yếu tố Thần của đông y.
Đông y dùng Thần để chữa bệnh hay khám bệnh cũng quy về nguyên tắc ngũ hành về tâm lý, âm thanh, mầu sắc.
a- Tâm lý ứng với ngũ hành tạng phủ như : Vui thuộc tâm, Lo thuộc Tỳ, Buồn thuộc Phế, Sợ thuộc Thận, Giận thuộc Gan.
b-
Âm thanh có ngũ âm như : Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ theo nốt nhạc để
diễn tả như Vui qúa thì cười như điên như dại, Lo thì hay ca hát, Buồn
thì khóc, Sợ thì rên, Giận thì la hét.
c- Mầu sắc cũng chia ngũ
hành như mầu đỏ thuộc tim, mầu vàng thuộc tỳ, mầu trắng thuộc phổi, mầu
đen thuộc thận, mầu xanh thuộc gan.
Những người có bệnh chán đời,
bác sĩ tâm lý thần kinh khuyên nên vui vẻ lạc quan yêu đời. Những người
điên thì không khuyên gì theo tâm lý ngũ hành mà chỉ uống thuốc an
thần. Những người vui qúa khích như đội Hockey nhà thắng trận, đi đập
phá bể kính các cửa tiệm buôn, đã có bảo hiểm đền, không cần phải quan
tâm chữa bệnh cho những người này, nên cảnh này vẫn tái diễn. Nếu chữa
theo ngũ hành của đông y, vui qúa khích là hỏa của tim, dùng thận thủy
là mầu đen, và sợ để khắc chế, có nghĩa là nếu những người bệnh này cho ở
trong phòng sơn mầu đen, hay tối không có ánh sáng, và có luật phạt
tiền phạt tù về tội phá hoại, làm cho họ sợ sẽ mất hết tính qúa khích,
hay chữa bằng cách mẹ thực tả con, tim là mẹ quá vui, tả con là tỳ, có
nghĩa làm cho họ biết lo lắng…
Đối với đông y, thần có vai trò quan trọng làm giảm bệnh hay tăng bệnh cũng tương đương với cách chữa bằng thuốc.
Riêng
về bệnh cao áp huyết, cấm kỵ không được giận sẽ hại gan co bóp bơm máu
làm căng đứt các ống mạch và sợi thần kinh, gọi là stroke.
Như
vậy nếu có bệnh cao áp huyết mà chỉ chữa bằng thuốc là một phần của
Tinh, còn phần thức ăn cũng là thuốc, yếu tố Khí và Thần cũng là thuốc,
mà không biết sử dụng đúng để chữa bệnh, sẽ làm cho bệnh càng ngày càng
nặng thêm.
a-
Đối với Tây y, chỉ có một loại áp huyết thật, làm gì có áp huyết giả.
Nhưng thực tế theo kinh nghiệm khám phá của môn đông y khí công, về ảnh
hưởng của Tinh-Khí-Thần đã có ảnh hưởng làm thay đổi áp huyết, đa số
những bệnh nhân bị bệnh áp huyết đều là áp huyết giả do sự xung khắc ngũ
hành tạng phủ làm xáo trộn gây ra bệnh. Tuy nhiên, nếu các bác sĩ
chuyên khoa tim mạch chịu khó nghiên cứu để ý những bệnh nhân bị bệnh
tim mạch là áp huyết thực sự do bệnh của tim mạch gây ra, các bác sĩ đã
chữa bằng thuốc hay bằng giải phẫu giúp bệnh nhân được ổn định áp huyết,
bỗng nhiên, bệnh nhân bị áp huyết tăng cao đột ngột gây tử vong, đều bỏ
qua không tìm hiểu nguyên nhân tại sao. Đông y khí công gọi là áp huyết
giả tạo, có nguyên nhân mà đông y đã biết khi xét đến 3 yếu tố căn bản
của đông y là Tinh-Khí-Thần.
b- Có những trường hợp, đông y chẩn
bệnh một bệnh nhân khí huyết suy kém, nhưng dùng máy đo áp huyết vẫn bị
bệnh cao áp huyết theo tây y, phải uống thuốc.
c- Có những bệnh
nhân áp huyết ở mức giới hạn, tây y chưa cần phải cho uống thuốc, nhưng
bỗng nhiên chết bất đắc kỳ tử do áp huyết tăng cao đột ngột trước khi
chết mà tây y không khám phá ra nguyên nhân, trường hợp này đông y cũng
đã biết trước.
Cả 3 trường hợp trên đông y đã biết nguyên nhân
trước khi bệnh nhân chết, nhưng không có thể chứng minh được bằng lý
thuyết đông y vì tây y thấy mơ hồ không thể chấp nhận.
Ngày nay
đông y khí công có thể chứng minh cho tây y hiểu bằng máy đo áp huyết
được áp dụng trên từng huyệt. Từ đó tây y mới có thể tin huyệt là một
điểm nhạy cảm trên đường kinh mạch là có thực vì nó đã ảnh hưởng đến sự
thay đổi áp huyết khác nhau trên từng huyệt.
Máy đo áp huyết của
tây y đem áp dụng thử nghiệm đo áp lực khí trên các huyệt lại có những
kết qủa khác nhau, mặc dù vẫn để máy đo ở cánh tay. Tại sao có sự khác
biệt ấy.
Theo lý thuyết đông y gọi là ngũ tạng khí, khi chúng
hoạt động đúng chức năng để điều hòa khí đẩy huyết lưu thông khắp cơ thể
thì chúng ta không bệnh tật. Nhưng khi khí ngũ tạng bị xáo trộn do
nguyên nhân Tinh-Khí-Thần mà khí công gọi là Tinh sai, Khí thiếu, Thần
suy, như đã đề cập ở trên, thì khí riêng của những tạng như can khí, tâm
khí, tỳ khí, phế khí, thận khí mất chức năng hòa hợp tạo ra áp lực khí
từng vùng, chỗ nhiều chỗ ít, chỗ bị tắc nghẹt, chỗ được thông không đồng
đều gây sưng đau, nóng lạnh, chỗ mạnh chỗ yếu, chỗ dư chỗ thiếu, đông y
bắt mạch tìm ra khí hay huyết ở tạng hay phủ nào hư hay thực, hàn hay
nhiệt. Nhưng không có máy móc để chứng minh cho tây y công nhận, vả lại
các thầy thuốc bắt mạch chính xác ngày nay rất hiếm, và hiện nay khoa
học cũng chưa phát minh ra được máy bắt mạch hoàn chỉnh.
Vì thế
ngay cả một tên bệnh Tai biến Mạch Máu Não mà đông y gọi là trúng gió
cũng đã bị tây y hiểu sai, đã có những vị bác sĩ mời tôi đến chữa bệnh
tai biến mạch máu não cho người mẹ cách đây 20 năm, ông cho biết, mẹ ông
không phải trúng gió, ông chăm sóc mẹ rất cẩn thận, không ra khỏi nhà,
không ra đường, không ra gió lạnh, làm sao mà trúng gió được. Tôi đã
giải thích đó là tên gọi nôm na của giới bình dân, trúng phong ở đây là can phong nội động thuộc
khí của gan, gió là áp lực khí bên trong người phát ra từ gan do
tinh-khí-thần làm gan bơm căng các ống máu tăng áp huyết vỡ mạch máu
não, chứ không phải gió bên ngoài.
Khi vỡ mạch máu não, ít nhất
áp huyết lúc đó cao hơn 200/120mmHg mạch 90-100, sau khi mạch máu não bị
vỡ, áp huyết xuống thật thấp, có nghĩa là áp lực khí mất, bệnh nhân đã
chết, nếu áp lực khí xuống trên trung bình 145-150/mmHg là bị đứt những
mạch máu nhỏ, nếu áp huyết còn cao 180-190/mmHg bệnh nhân vẫn còn đang
trong cơn hôn mê, không chữa kịp thời cho áp huyết hạ xuống, máu não sẽ
tiếp tục xuất huyết cho đến khi não bị bầm máu nghẽn lưu thông, tây y
không chữa được thì gọi là não chết. Có nhiều người áp huyết tự nhiên
vọt lên qúa cao do bội thực, ăn không tiêu, áp huyết đo cao hơn
200/100mmHg nhưng may mắn thoát chết nhờ những ống mạch máu nhỏ ở niêm
mạc mũi vỡ ra, chảy máu mũi lênh láng khoảng 200cc máu là chỗ thoát của
áp lực khí, sau đó áp huyết trở lại bình thường.
Những số đo áp
huyết này tây y vẫn gọi là áp huyết thực sự của tim mạch, nên tìm cách
chữa vào tim mạch mãi mà không thấy có kết qủa, nên phải mổ là giải pháp
cuối cùng, thực ra, các bệnh nhân đã được mổ và tin tưởng sẽ hết bệnh
cao áp huyết, cuối cùng cũng vẫn bị tai biến, chết vì áp huyết giả của
các loại khí trong tạng phủ từ tim, gan, bao tử, phổi, thận…
.
Trong
những trường hợp cấp cứu tại bệnh viện, tôi không chữa tim mạch mà tìm
cách cho áp lực đẩy máu thoát ra lối khác như châm nặn máu ra sau tai ở
huyệt É Phong, đầu ngón tay, đầu ngón chân, ( huyệt thập tuyên) để giải
tỏa áp lực trên não, bấm huyệt dẫn áp lực khí xuống đường tiêu tiểu.
Nhìn biểu đồ áp huyết trên máy xuống bình thường, bệnh nhân tỉnh dần,
máu trong não, máu ứ nghẹt trong cơ thể từ từ thoát ra theo mũi, miệng,
chảy theo ống tiểu mầu nâu đen bầm khoảng 300-500cc lẫn trong nước tiểu,
lúc đó bệnh nhân đã được cứu sống. Đông y khí công gọi những trường hợp
này là áp huyết giả, vì trước kia vẫn uống thuốc kiểm soát áp huyết lúc
nào cũng ổn định, tự nhiên áp huyết tăng cao bất ngờ làm vỡ mạch máu
não do nguyên nhân khác mà không phải do tim mạch.
Trước
hết, chúng ta hãy tìm hiểu công dụng của huyệt và vị trí huyệt để áp
dụng trong việc khám phá cách chữa bệnh kỳ diệu của huyệt trong trường
hợp cấp cứu những bệnh về áp huyết giả.
trên
đây là đồ hình huyệt của Mạch Nhâm, để ý đoạn giao điểm của 2 bờ xương
sườn giao nhau tại huyệt Trung Đình. Từ Trung Đình xuống rốn chia làm 8
đoạn đều nhau, có 8 huyệt : Huyệt ở mỏm xương ức là Cưu Vì, đến Cự
Khuyết, Thượng Quản, Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản, Thủy Phân và Thần
Khuyết.
Từ rốn là huyệt Thần Khuyết đến đỉnh xương mu là Khúc
Cốt, chia làm 5 đoạn đều nhau. đoạn thứ nhất từ rốn xuống là huyệt Âm
Giao, Thạch Môn, Quan Nguyên, Trung Cực. Huyệt Khí Hải chiếm 1 đoạn
rưỡi, giữa Âm Giao và Thạch Môn.
Trước hết đo áp huyết thực ở hai cánh tay, có những trường hợp khác nhau xẩy ra sau đây
a-Áp huyết tự nhiên ở hai tay bằng nhau dưới 140/90mmHg mạch 75 là người không bị bệnh áp huyết.
b-Áp huyết 2 tay cao bằng nhau 150/95mmHg là người có bệnh cao áp huyết, mà không uống thuốc chữa bệnh áp huyết.
c-Áp
huyết tay bên trái thấp 140/90mmHg mạch 75, bên tay phải 150/90mmHg
mạch 78 là bệnh nhân đang uống thuốc chữa cao áp huyết.
d-Áp
huyết tay trái 135/90mmHg mạch 72, tay phải cao hơn nhiều 160/95mmHg,
mạch 80, có dấu hiệu tê 5 ngón tay phải, đau cổ gáy tay vai phải, không
dơ cánh tay lên đươc. Nếu chữa thuốc giảm đau hau giải phẫu thần kinh
hay gân cổ tay, vai là chữa ngọn. Nguyên nhân chính là áp huyết cao,
thần kinh ngoại biên bên tay phải bị co thắt làm đau. Đã có một bác sĩ
tây y người ngoại quốc làm ở bệnh viện gần chỗ tôi, đến chữa bệnh đau
cánh tay phải. Khi tôi đem máy đo áp huyết ra đo. Ông tức cười nói rằng,
tôi là bác sĩ, lúc nào tôi cũng đo kiểm soát áp huyết rất tốt khoảng
120/85mmHg mạch 75. Khi tôi đo tay trái đúng như ông nói. Ông bảo : Đấy,
tôi nói đâu có sai. Tôi trả lời : Ông hãy chờ xem.
Tôi đo áp
huyết bên tay phải làm ông ngạc nhiên, và ông càng ngạc nhiên hơn khi áp
huyết lên 165/95mmHg mạch 82. Tôi nhờ ông giải thích tại sao có sự khác
biệt. Ông im lặng. Tôi giải thích chính sự khác biệt này mà thần kinh
ngoại biên ở bên tay phải co thắt do áp huyết tăng cao ông mới bị đau.
Tôi không chữa vào ngọn là tay đau, mà tôi chữa vào gốc làm giảm áp
huyết ở tay phải xuống còn 120 bằng với tay bên trái là ông hết đau. Sau
khi dùng kim châm tiểu đường nặn máu làm thông 6 đường kinh tay và đo
lại áp huyết xuống còn 120, Tay ông cử động dơ lên dơ xuống hết đau làm
ông ngạc nhiên. Như vậy áp huyết của tay phải là áp huyết giả, do dùng
thuốc làm áp huyết 2 tay chênh lệch nhiều, nếu không điều chỉnh lại áp
huyết giả tay phải, cuối cùng bệnh nhân vẫn bị stroke và tê liệt như
thường.
e- Áp huyết tự nhiên ở một tay tốt như 120-130/80mmHg
mạch 65-75, một tay qúa thấp dưói 100/65mmHg mạch 65. Bên nào thấp là
nửa đầu bên đó bị đau thiên đầu thống, tây y gọi là migraine, do tắc ống
mạch dẫn máu ở sau tai lên nuôi não là huyệt É Phong. Bấm giữ huyệt này
lâu trong thời gian đang đo áp huyết bên thấp, áp huyết nửa bên đầu sẽ
tăng cao hơn 140/90mmHg, lúc đó mặt đỏ hồng, trán nóng ấm rịn mồ hôi, và
đo lại áp huyết lên tự nhiên khoảng 110/80mmHg. Bấm huyệt É Phong một
lần nữa cho áp huyết lên hơn 145/90mmHg, sau đó đo áp huyết tự nhiên ở
cả 2 tay thấy xuống bằng nhau khoảng 110-115/80mmHg mạch 65-70. Như vậy
áp huyết bất bình thường trước khi chưa điều chỉnh là áp huyết giả làm
ra bệnh.
f- Đo áp huyết hai tay thấp dưới 110/70mmHg mạch 65 đối
với tây y là áp huyết tốt, nhưng bệnh nhân vẫn bị mệt, chóng mặt, rụng
tóc, mất trí nhớ, kém ăn, mặt mất sắc không có thần, tinh thần suy
nhược, hay phải chữa đau cổ gáy tai vai kinh niên mà không khỏi. Đây là
áp huyết giả, khi bấm huyệt điều hòa khí thông toàn thân, áp lực khí của
lục phủ ngũ tạng chia đều, lúc đó áp huyết thực xuống ở cả 2 bên tay
còn 95/60mmHg mạch 60, cần phải uống sirop bổ máu để áp huyết lên đúng
và đủ mới tránh được những bệnh ung thư sọ não vì thiếu máu não và máu
toàn thân.
g- Nếu áp huyết đo bình thường ở 2 tay thấp dưới
100/65mmHg mạch mạch 65 là thiếu máu bẩm sinh, khi lớn tuổi áp huyết vẫn
không lên do ăn uống kiêng khem, ăn chay, không có chất bổ máu, những
người này thường hay bị bệnh ung thư, vì hồng cầu mất dần, bạch cầu
tăng. Nếu phụ nữ, thường ung thứ vú sau di căn sang ung thư tử cung, đàn
ông thường ung thư phổi di căn sang gan hay bao tử
h- Những
người có áp huyết 125/80mmHg mạch lúc nào cũng cao trên 110, tây y cho
rằng áp huyết tốt, chỉ có mạch hơi cao. Thực ra bệnh này do thiếu lượng
máu trong cơ thể trầm trọng, áp huyết giả đã gạt bác sĩ. Áp huyết thật
sự của loại người này là 95/65mmHg mạch 80. Nếu mạch 80 không đủ lực bơm
máu tuần hoàn cho đủ một chu kỳ toàn thân, nên tim phải đập nhanh thêm
30 lần nữa trong một phút, làm áp huyết tăng giả lên thêm 30 mới được
125.
Đông y khí công lúc nào cũng điều chỉnh khí để tìm ra áp
huyết thật sự, nên mới khám phá ra những căn bệnh nan y mà tây không
giải quyết được. Có người bị những trường hợp này, trở thành bệnh tâm
thần, hoảng sợ, tim đập nhanh, hồi hộp, mất ngủ. Tây y chữa vào ngọn,
dùng thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc trị điên suốt đời mà không chữa vào
gốc bênh nên bệnh càng ngày càng trầm trọng thêm. Trường hợp này đông y
khí công cho dùng thuốc bổ máu, đủ máu nhịp tim sẽ chậm lại và áp huyết
tăng dần cho đến mức tiêu chuẩn bình thường là khỏi bệnh
Là giao hội huyệt của Mạch Nhâm Đốc để điều chỉnh tim phổi, chữa đau tức dưới tim nghẹn ngực khó thở, thư giãn ngực, định thần
Đo
áp huyết ờ 2 tay khi chưa chữa bằng huyệt, tay nào cao hơn hết sẽ giữ
máy đo thường trực ở tay đó, thí dụ tay bên cao là 220/120mmHg mạch 95.
Sau dùng ngón tay cái bấm đè vào Cưu Vĩ rồi bấm máy, máy đo được
240/130mmHg mạch 95. Cứ bấm tiếp trên huyệt, bệnh nhân được thư giãn
ngực, định thần, lần thứ 2 áp huyết xuống 190/110mmHg mạch 90, bấm tiếp
lần thứ 3 bệnh nhân hết bị nấc nghẹn, dưới tay mình nghe có khí và nước
từ lồng ngực chảy xuống kêu rọc rọc, áp huyết xuống 160/90mmHg, tiếp tục
lần thứ 4 áp huyết xuống 140/90mmHg mạch 80. Buông tay ra không bấm vào
huyệt nào cả, đo áp huyết tự nhiên trên tay xuống còn 130/85mmHg mạch
80. Nghĩa là áp huyết ở tay đo tự nhiên thấp hơn áp huyết ở tay lúc bấm
huyệt Cưu Vĩ
Trường hợp tây y không thể giải thích được, như áp
huyết đo được ở tay lên tới 220-240/140mmHg mạch 120 mà không chết, vì
áp huyết này là áp lực lồng ngực dẫn ra mạch ở tay chứ không phải là áp
lực của tim dẫn ra mạch ở tay.
Là
huyệt giao hội của tim với bao tử, có công hiệu thông hòa ngăn nghẹn ở
cách mô, giúp điều hòa tiêu hóa trung tiêu, chữa khí của tim suy, tỉnh
thần, khí huyết suy nhược do áp huyết thấp.
Khi đo áp huyết ở 2
tay hay nhìn ở biểu đồ áp huyết trên máy trong phòng cấp cứu thấy áp
huyết thiếu dưới 105/65mmHg mạch 75. Khi bấm đè giữ vào huyệt này, áp
huyết lên từ từ đến mức 135-140/85-90 mạch 75 thì buông ra. Nếu buông
tay không bấm huyệt, đo lại áp huyết vẫn ổn định thì không cần bấm nữa.
Đó là áp huyết thực của bệnh nhân.
Là
huyệt giao hội của lá mía, bao tử, ruột non. Có chức năng tiêu đàm ngăn
nghẹn, hóa đàm tiêu thấp trọc, thông chức năng hoạt động của tỳ vị, làm
tỉnh thần.
Khi đo áp huyết tự nhiên ở tay 190/100mmHg mạch 90,
do đờm dãi trong lồng ngực ngăn nghẹn vì thức ăn trong bao tử không tiêu
hóa thành đàm ứ đọng ở cách mô, khó thở khò khè. Bấm ngón tay cái vào
huyệt này, nghe bụng sôi, hạ đàm, áp huyết lên tới 220/120mmHg mạch 100,
thông vài lần nghe tiếng ọc ạch, ho sặc, khạc đàm, hay có khí có nước
chạy xuống bụng là đàm đã hạ, đo lại áp huyết xuống còn 140/90mmHg ở
huyệt này, nhưng buông tay không bấm huyệt nữa, đo áp huyết thực ở tay
bây giờ là 130/85mmHg mạch 75
Là giao hội huyệt của khí, bao tử, tam tiêu, tiểu trường, dẫn thức ăn xuống ruột non để thu nạp chất bổ khí toàn thân.
Khi
đo áp huyết bình thường ở tay khoảng 160/100mmHg mạch 100, bấm huyệt
này, nghe tiếng nước hay khí chạy xuống bụng và ruột, hơi thở mạnh hơn,
bụng phồng xẹp được nhiều hơn, đều hơn. Lúc đó áp huyết xuống
120-130/80-90mmHg là lý tưởng, và nhìn vào nhịp thở đang thấp, có khi
máy không chỉ vì dùng máy trợ thở mà cơ thể bệnh nhân không thở, chỉ
nghe tiếng xì…xạch của máy, bệnh nhân không thở, nhưng khi bấm vào huyệt
này, hơi thở bệnh nhân tăng lên, đều đặn hơn, giữ nhịp 18-20 hơi thở
trong 1 phút. Như vậy huyệt này dùng để chỉnh giữ nhịp thở bệnh nhân
được tự thở đều đặn. Khi buông tay ra khỏi huyệt, con số nhịp thở vẫn
được duy trì, chứng tỏ thần của bệnh nhân được phục hồi, sẽ tỉnh ra khỏi
cơn hôn mê rất nhanh.
Là
huyệt điều chỉnh tỳ vị, dẫn khí từ thượng tiêu xuống trung tiêu, từ
trung tiêu thức ăn được điều chỉnh tiêu tích trệ ứ đọng xuống hạ tiêu.
Đo
áp huyết trước khi bấm vào huyệt này khoảng 180/100mmHg mạch 100 là ăn
không tiêu, là áp huyết tăng giả tạo. Bấm huyệt này cho áp huyết xuống
120/80mmHg mạch 80 là lý tưởng. Buông tay, đo lại áp huyết xuống
120-125/80mạch 75 là áp huyết thực của tim mạch được thư giãn không do
sức ép của bao tử ở lồng ngực nữa.
Là
huyệt giao hội của tỳ (lá mía) có công dụng giúp bao tử tiêu hóa, hấp
thụ thức ăn thành chất bổ khí huyết, làm trống bao tử tiêu hóa thức ăn.
Đo
áp huyết trước khi bấm huyệt này, khoảng 170-200/100-120mmHg mạch
80-100 là bao tử bị đầy không tiêu. Bấm huyệt giữ lâu, bệnh nhân thở sâu
hơn, bụng có tiếng kêu ọc ọc, bao tử bị đẩy thức ăn xuống dưới, nhịp
thở mạnh hơn, có lực hơn. Đo lại áp huyết xuống còn 120/80mmHg là áp
huyết thật của tim mạch.
Có thể cùng lúc bấm cả hai huyệt Kiến Lý
và Hạ Quản. để giùp nhịp thở đều 18 hơi và tăng biên độ hơi thở để máy
vẽ ra hình sin đều và cao hơn, mới trở thành người khỏe mạnh.
Là
huyệt điều chỉnh chức năng của thận và tỳ, hai chức năng này tương phản
không hòa hợp, tỳ vị ngăn chặn sự thoát nước của thận làm ra sưng phù
nê.
Đo áp huyết trước khi bấm huyệt lên tới 200/120mmHg mạch 100,
trong khi bấm huyệt, đo áp huyết xuống dần 120/80mmHg là lý tưởng, sau
đó đo lại tự nhiên áp huyết thực của tim mạch bây giờ cũng khoảng 120/80
mạch 75.
Là
huyệt của bao tử và ruột già, có chức năng làm ấm bụng do mất nhiệt,
điều chỉnh trường vị, huyệt cấp cứu hồi dương cố thoát do mất máu mất
nước vì tiêu chảy.
Là huyệt giao hội của Thận và Mạch Xung (của tim), có chức năng phân thanh trọc, cho xuất nước xuất hàn lạnh ra khỏi cơ thể.
Cùng
một lúc bấm hai huyệt Thần Khuyết và Âm Giao chữa người lạnh bụng
trướng đầy nước, phù thủng. Hai huyệt này ít làm thay đổi áp huyết,
nhưng có gí trị chữa bí tiểu do hàn kết.
Là huyệt điều khí bổ nguyên khí, ấm hạ tiêu, ấm toàn thân ra chân tay, khử thấp trọc, hòa vinh huyết để bổ khí huyết.
Bấm huyệt này áp huyết xuống, giúp hơi thở được sâu, có lực.
Huyệt
giao hội của Tiểu Trường và Vị, ôn nguyên dương, bảo kiện gan-tỳ-thận
âm dương, chữa ứ kết, tán tà, tiêu viêm, trừ hàn thấp, phân thanh trọc,
tiêu bướu vùng hạ tiêu.
Bấm huyệt này để bổ khí huyết điều chỉnh từ gan-tỳ-thận. Huyệt điều chỉnh áp huyết ổn định.
Là
huyệt chuyên trị bệnh của bàng quang, chữa bí tiểu, viêm đường tiểu, ôn
điều huyết ở tử cung, tiêu bướu tử cung, tuyến tiền liệt, giúp ổn định
áp huyết, làm ấm hạ tiêu, tiêu thấp nhiệt.
Tiêu viêm vùng bàng quang, tử cung, dịch hoàn, bí tiểu, không làm ảnh hưởng áp huyết.
Khi
qúy vị đã hiểu rõ chức năng của mỗi huyệt có ảnh hưởng đối với áp
huyết. Chúng ta lấy máy đo áp huyết đo ở tay nào cũng được ở thế nằm tốt
hơn ở thế ngồi, khoảng cách chênh lệch hiệu số áp huyết giống như hiệu
số điện thế sẽ không làm ảnh hưởng đến não và tim mạch. Có những giai
đoạn sau :
1- Chúng ta thực tập đo áp huyết khi chưa bấm vào huyệt nào.
2-
Đo từng huyệt trong khi cho máy đo áp huyết làm việc xem là bao nhiêu.
Rồi đo lại khi không bấm huyệt, để ghi nhớ huyệt nào làm tăng áp huyết,
huyệt nào làm giảm áp huyết ở mỗi người hơi khác nhau do áp lực khí của
tạng phủ mỗi người có bệnh khác nhau.
3- Cuối cùng, không bấm
huyệt nào nữa, chỉ đo áp huyết ở 2 tay, đó mới là áp huyết thực sự, mới
lòi ra được những căn bệnh tiềm ẩn tích lũy trong cơ thể từ lâu, khi so
sánh nó với số đo lúc ban đầu.
Thí dụ nhìn một người thấy mặt
xanh xao, áp huyết cao 140/90mmHg mạch 110, vẫn uống thuốc áp huyết mà
không xuống, thực ra khả năng của thuốc đã làm cho xuống thấp, nhưng cơ
thể đã phản ứng chống lại khi áp huyết bị tụt, mạch phải đập nhanh hơn
để đưa áp huyết lên cho phù hợp với sức khỏe của cơ thể. Khi áp dụng tìm
áp huyết thật theo phương pháp này, ở thế nằm. áp huyết sẽ xuống dưới
100/70mmHg nhưng mạch đập chậm hơn. Lúc đó mới biết áp huyết giả đã hại
mình và vì sao uống thuốc suốt đời mà không hạ, nhưng bỏ thuốc sẽ bị tai
biến mạch máu não.
No comments:
Post a Comment