Suy nhược thần kinh trong y học còn gọi là tâm căn suy nhược. Trước đây gọi là suy nhược thần kinh hay loại thần kinh suy nhược.
Bệnh suy nhược thần kinh là bệnh tâm căn phổ biến ở Việt Nam và nhiều
nước trên thế giới. Ở Việt Nam bệnh thần kinh suy nhược chiếm 3 – 4%, ở
các Phương Tây chiếm tới 5 – 10% số dân. Chiếm 60% trong số các bệnh tâm
căn. Gặp ở người lao động trí óc nhiều hơn ở chân tay, ở thành thị lớn
hơn ở nông thôn, nam chiếm nhiều hơn nữ, tuổi thường gặp 20-50 tuổi.
Là một loại bệnh phổ biến hiện nay mà nhiều người gọi nó là căn bệnh của
thời đại, như người ta lo toan tính toán mất quá nhiều thời gian vào
công việc để làm sao kiếm nhiều tiền, rất ít thời gian để nghỉ ngơi giải
trí, mất đi sự thanh nhàn thêm vào đó có quá nhiều sang chấn tâm lý
(Stress), đó là yếu tố thuận lợi để cho bệnh phát sinh, phát triển.
Bạn hay than phiền về tính dễ bị kích thích, hay mệt mỏi, âm ỉ đau đầu,
giấc ngủ bị rối loạn, mất tập trung trong công việc, giảm hứng thú, có
biểu hiện bằng trầm cảm, lo âu hoặc sợ hãi.
Dấu hiệu thường gặp nhất của suy nhược thần kinh là MỆT MỎI.
Mệt mỏi là trạng thái cơ thể mà mọi người đều có: Ở người bình thường
do vận động thể lực quá độ, lao động thể lực quá nặng nề dẫn đến mệt
mỏi. Mệt mỏi bình thường thì dễ phục hồi, chỉ cần có thời gian nghỉ ngơi
điều chỉnh, bổ sung dinh dưỡng, ngủ một giấc sẽ lấy lại sức lực như cũ.
Mệt mỏi do suy nhược thần kinh thì dường như không có nguyên nhân, nghỉ
ngơi bồi dưỡng thế nào cũng không thể phục hồi được thể lực, thậm chí
càng ngủ càng cảm thấy suy yếu, không có sức. Sự mệt mỏi tăng lên sau
hoạt động trí óc hoặc do suy yếu cơ thể. Đi kèm với mệt mỏi là trạng
thái tinh thần bực bội khó chịu, không yên, nằm trên giường cứ suy nghĩ
lung tung, khó đi vào giấc ngủ. Khả năng làm việc giảm sút do tình trạng
mệt mỏi, do mất khả năng tập trung. Các cơ quan khác của cơ thể cũng
thường cảm thấy khó chịu, như tim hồi hộp đập nhanh, tức ngực thở gấp,
chán ăn, khó chịu ở dạ dày, đôi khi tiêu chảy, táo bón, kinh nguyệt
không đều, chóng mặt, thiếu máu v.v… khiến người bệnh hoài nghi có bệnh
nặng trong cơ thể, nhưng khi kiểm tra kết quả nhiều lần chỉ phát hiện
một vài vấn đề rất nhỏ, không tương xứng với mức độ mệt mỏi mà họ cảm
nhận được.
Một biểu hiện rất thường gặp nữa của suy nhược thần kinh là người bệnh LUÔN NGHI NGỜ MÌNH CÓ BỆNH.
Chứng nghi bệnh có thể phát sinh chính từ cảm giác mệt mỏi khó giải
thích được của họ. Có thể do những cảm giác khó chịu nào đó trong cơ
thể, hoặc từ những kiến thức đọc được trong sách báo, trên mạng internet
mà lo sợ mình mắc bệnh, như khi đau đầu cho là hay là mình bị u não,
hồi hộp cho là bị bệnh tim, đầy hơi khó chịu trong dạ dày cho là bị viêm
loét hoặc ung thư dạ dày. Mặc dù đã được khám toàn diện cẩn thận xét
nghiệm nhiều lần, thậm chí chụp CT, điện não đồ, kiểm tra cộng hưởng từ…
đều cho thấy các tổ chức cơ quan hoàn toàn tốt, nhưng vẫn không thể
loại bỏ được hoài nghi trong đầu người bệnh, họ cho rằng bệnh của mình
rất đặc biệt, hoặc kiểm tra có thể bị nhầm, cho nên vẫn tiếp tục tìm bác
sĩ nổi tiếng để kiểm tra bằng những phương pháp cao cấp hơn, hy vọng có
thể biết được mình bị bệnh gì.
Nguyên nhân gây bệnh suy nhược thần kinh
Bệnh suy nhược thần kinh xuất hiện do chấn thương tâm lý kéo dài.
Stress
Thường là nhiều sang chấn tích lại, cường độ thường trường diễn,
làm cho người bị sang chấn luôn ở trạng thái lo âu, áy náy, căng thẳng
nội tâm. Trạng thái đó không tìm ra được phương hướng giải quyết, tức là
người bệnh luôn ở trạng thái tự kiềm chế, ức chế (lúc đầu còn bù trừ,
nhưng về sau do một yếu tố không thuận lợi, bệnh phát sinh).
Suy nhược thần kinh phải có stress tâm lý, nếu không chỉ là hội chứng suy nhược.
Nguyên nhân chính của bệnh là sự căng thẳng cảm xúc kéo dài dẫn đến
suy nhược thần kinh. Gọi là bệnh tâm căn suy nhược, nếu bệnh chủ yếu do
chấn thương tâm thần gây ra. bệnh tâm căn suy nhược là một trạng thái
mệt mỏi, dễ bị kích thích, kèm theo lo âu.
Do những nhân tố gây chấn thương tâm thần tác động trên người bệnh,
thông thường cường độ không mạnh lắm nhưng kéo dài. Nguyên nhân chủ yếu
là do các chấn thương tinh thần và hoàn cảnh xung quanh kéo dài như mâu
thuẫn giữa quyền lợi cá nhân và yêu cầu xã hội, thất bại trong công việc
và đời sống, mâu thuẫn và bất hòa với tập thể, bị nghi ngờ oan uổng,
mâu thuẫn trong đời sống cá nhân và gia đình, thất bại trong tình yêu,
vợ chồng không hòa hợp, con cái bị tàn tật, bị hư hỏng, người thân chết,
xung đột giữa nhân cách người bệnh với môi trường sinh sống xung quanh.
Yếu tố chấn thương tinh thần gây bệnh có thể ít hay nhiều, thường gặp
chấn thương trường diễn kế tục nhau hoặc kết hợp với nhau.
Bệnh suy nhược thần kinh thường xuất hiện từ từ sau một thời gian sang
chấn và biểu hiện rõ khi gặp thêm một nhân tố thúc đẩy. Các nhân tố thúc
đẩy như loại hình thần kinh yếu, lao động trí óc quá mức, quá mệt mỏi,
cuộc sống quá căng thẳng, nơi sống và nơi làm việc có nhiều nhân tố kích
thích, tiếng ồn, điều kiện làm việc phức tạp, những bệnh viêm nhiễm mạn
tính: viêm mũi, viêm túi mật, viêm loét dạ dày, viêm đại tràng; những
bệnh nhiễm độc mạn tính: nhiễm độc rượu, thiếu dinh dưỡng kéo dài, kiệt
sức, thiếu ngủ lâu ngày.
Nhân cách
Theo Paplov, thường gặp ở loại hình trung gian yếu hay loại mạnh
không thăng bằng, tính cách lặn vào trong (introvertre), Biểu hiện
thường luôn luôn trật tự, ngăn nắp, ít xã giao, luôn thận trọng, hay tự
kiểm tra mình, hay lo xa nghĩ kỹ.
Môi trường cơ thể
Đóng vai trò khởi tác phương thức tác động:
– Khởi tác thúc đẩy, đẩy giai đoạn bù trừ đến mất bù trừ.
– Làm suy yếu, yếu tố cơ thể và hoạt động thần kinh cao cấp, tạo điều
kiện cho stress tác dụng gây bệnh. Ví dụ như : vợ chồng ly hôn, đột
nhiên bệnh nhân bị sốt xuất huyết rồi xuất hiện thần kinh suy nhược. Cần
hiểu nguyên nhân do stress hay do sốt xuất huyết.
Cơ chế phát sinh suy nhược thần kinh rất phức tạp, theo các thầy
thuốc Nga từ lúc bắt đầu mắc bệnh đến khi hình thành các thể lâm sàng,
quá trình sinh ký não biến đổi qua 3 giai đoạn. Mỗi giai đoạn tương ứng
với dấu hiệu lâm sàng nhất định, bệnh lý chủ yếu của bệnh tâm căn suy
nhược là rối loạn liên hệ lưới – vỏ não. Do đó các dòng xung đột từ bên
ngoài vào không được sàng lọc qua tổ chức lưới thân não dồn cả lên vỏ
não. Vì thế vỏ não không chịu đựng nổi dẫn đến sự suy yếu ức chế, suy
yếu quá trình hưng phấn và cuối cùng hậu quả của sự quá căng thẳng quá
trình thần kinh tâm thần trong vỏ não đi đến sự ức chế giới hạn.
Giai đoạn đầu do tính chất suy yếu quá trình ức chế trong bệnh cảnh lâm
sàng biểu hiện trạng thái kích thích, bùng nổ, khí sắc dao động trong
ngày, mất tập trung, khó ngủ. Giai đoạn hai suy yếu quá trình hưng phấn,
biểu hiện chống mệt mỏi, bối rối, giảm chú ý, đau đầu, dễ cảm xúc. Giai
đoạn ba ức chế, giới hạn bảo vệ tế bào thần kinh não, tránh những kích
thích quá mức, hậu quả là suy yếu cả quá trình ức chế và quá trình hưng
phấn, biểu hiện trạng thái ức chế, bàng quan, vô cảm hoặc trầm cảm, có
khuynh hướng phát sinh ám ảnh sợ. Các giai đoạn sinh lý bệnh trên trong
quá trình thay đổi gây nên các triệu chứng rất đa dạng và phức tạp.
Bệnh cảnh lâm sàng điển hình có 3 triệu chứng cơ bản :
Triệu chứng của suy nhược thần kinh
1. Hội chứng suy nhược thần kinh
A. Trạng thái kích thích suy nhược:
Bản chất biểu hiện một số suy yếu về quá trình ức chế, tức là bệnh nhân ở trạng thái hưng phấn lan tỏa.
Biểu hiện: bệnh nhân dễ cáu kỉnh, dễ kích thích, dễ nhạy cảm với các
kích thích, thông thường khó tập trung, khó nhớ. Bệnh nhân dễ bị kích
thích, bất cứ 1 kích thích nhỏ nào cũng làm cho bệnh nhân khó chịu như
tiếng ồn ngoài phố, tiếng nói chuyện to, tiếng cười, tiếng động của 1
vật rơi… tất cả đều làm cho người bệnh bực tức. Sự kích thích dễ bùng và
cũng dễ tắt để thay thế nhanh bằng phản ứng suy nhược, chóng mệt mỏi,
có thể hưng phấn làm việc hăng hái 1 thời gian nhưng sau đó lại suy
nhược kéo dài. Lúc đầu người bệnh phản ứng, bực tức trong gia đình,
trong công việc về sau trong mọi trường hợp. Do dễ bị kích thích người
bệnh tỏ ra thiếu nhẫn nại, ai làm điều gì không vừa ý hoặc chậm trễ thì
gắt gỏng bực tức ngay, nóng nảy, cáu gắt, phản ứng quá mức. Bệnh nhân
kém kiên nhẫn, không chịu nổi khi phải chờ đợi, đợi tàu xe lâu người
bệnh cảm thấy sốt ruột, đi đi lại lại không chịu ngồi yên 1 chỗ. Khi có ý
định làm việc gì bệnh nhân muốn nôn nóng làm ngay nhưng khó làm, lại
mau chán, mệt mỏi hay bỏ cuộc. Thời kỳ đầu nghỉ ngơi còn đỡ mệt, về sau
nghỉ ngơi cũng không có tác dụng.
Căn nguyên sang chấn tâm lý (Stress) gây ra với bộ ba triệu chứng hay
găp là đau đầu, mất ngủ, kích thích suy nhược, và các triệu chứng cơ
thể vô cùng đa dạng như tức ngực, khó thở đau cột sống, tê tay chân,
giảm tình dục…, đây là bệnh rối loạn chức năng chưa có tổn thương thực
thể. Tuy nhiên, hiện nay người ta đã khẳng định rằng, các rối loạn chức
năng này nếu không sớm được khắc phục và điều trị sẽ dẫn đến tổn thương
thực thể.
B. Đau đầu:
Bệnh nhân có cảm giác căng hơn là đau dữ dội, căng đau lan tỏa hơn là
đau khu trú, căng đau bề nông hơn là đau bề sâu, đau luôn thay đổi, phụ
thuộc vào trạng thái cảm xúc (khác u não: đau dữ dội khu trú, chiều
sâu, thuốc giảm đau không đỡ).
Người bệnh thường than phiền đau đầu âm ỉ, đau toàn bộ hay khu trú ở
vùng trán, vùng đỉnh đầu hoặc vùng thái dương. Có cảm giác như đội mũ,
thắt khăn chặt, đau đầu tăng lên khi có kích thích, suy nghĩ, lo lắng có
thể kèm theo chóng mặt, choáng vángThời gian xuất hiện nhức đầu rất
khác nhau tuỳ từng bệnh nhân, có thể đau suốt ngày hoặc 1 vài giờ, nhức
đầu thường tăng lên khi xúc động hay mệt mỏi và giảm khi thoải mái, ngủ
tốt.
C. Rối loạn giấc ngủ: 87% là mất ngủ, còn 5% là ngủ nhiều.
– Ít ngủ: do trạng thái kích thích suy nhược, càng
không ngủ thì càng hưng phấn lan tỏa. Giấc ngủ nông dễ mộng, tần số mộng
tăng và phần nhiều là ác mộng.
Mất ngủ cũng là một trong những triệu chứng chủ yếu của suy nhược thần
kinh. Có một số người ngủ ít, nhưng ban ngày họ vẫn có thể tràn trề tinh
thần làm việc, học tập, đầu óc rất sáng suốt, tình cảm rất bình ổn, rất
ít bực bội, tức giận. Còn mất ngủ do suy nhược thần kinh thì giấc ngủ
thường không sâu, có nhiều chiêm bao mộng mị, có người nằm mãi không ngủ
được, trằn trọc nóng lòng chờ giấc ngủ vì thế lại càng không ngủ được,
có người chỉ ngủ được đến nửa đêm rồi tỉnh dậy dù cố gắng đến bao nhiêu
cũng không sao ngủ được, có người thức trắng suốt đêm. Ánh sáng, tiếng
động, tiếng ồn ào làm cho người bệnh khó ngủ, sáng dậy người bệnh mệt rã
rời; uể oải, cảm thấy toàn thân nặng nề đặc biệt là tay chân. Ban ngày
người bệnh lại buồn ngủ, ngủ gà nhưng lên giường nằm lại không ngủ được
và dùng thuốc an thần không có kết quả hoặc kết quả không đáng kể.
– Ngủ nhiều: vì trạng thái trên kéo dài gây suy yếu
cả trạng thái hưng phấn lan tỏa. Bệnh nhân mộng nhiều phần nhiều là ác
mộng. Bệnh nhân ngủ dễ nhưng mệt mỏi.
2. Rối loạn cảm giác, giác quan.
Hoa mắt, choáng mặt, nóng lạnh, đau buốt. Rối loạn trên gặp nhiều và
thường thay đổi trạng thái tâm lý bệnh vì bệnh nhân luôn ở trong trạng
thái dễ nhạy cảm và phần nào cũng dễ bị ám thị.
Các triệu chứng cơ thể và thần kinh: đau cột sống, mỏi cổ, đau thắt
lưng, buốt xương sống, rối loạn cảm giác, giác quan và nội tạng : chóng
mặt, hoa mắt, mờ mắt, cảm giác đau nhức cơ, cảm giác khó chịu ngoài da
như
kiến bò, kim châm, nóng lạnh, tê, buồn… tăng phản xạ gân xương : run tay, run lưỡi, mi mắt…
3. Rối loạn thần kinh thực vật nội tạng.
- Tim mạch: hồi hộp, đau vùng ngực, nhịp nhanh, có thể có thổi tâm thu.
- Tiêu hóa: cảm giác buồn nôn, nôn, ăn không ngon, trướng bụng, đầy hơi, táo bón.
- Sinh dục, tiết niệu:+ Nam: bất lực sinh dục.+ Nữ: rối loạn kinh nguyệt.Đó chỉ là những rối loạn chức năng. Nếu là thực thể thì lại là bệnh cơ thể tâm sinh (bệnh cơ thể xảy ra sau một stress tâm lý).
- Rối loạn cảm xúc: khí sắc trầm, dễ mủi lòng, dễ xúc động (trạng thái trầm cảm nhẹ).
- Lo lắng: là một triệu chứng của tất cả các bệnh tâm căn, càng lo âu thì bệnh càng tiến triện nặng. Nếu nó nổi bật thành hội chứng thì sẽ chẩn đoán là bệnh lo âu tâm can.
- Tiêu chuẩn khác: khó chú ý chủ động, khó tập trung, khó thở.
Các rối loạn thần kinh thực vật nội tạng rất đa dạng:
mạch không ổn định khi nhanh khi chậm, huyết áp dao động với chiều
hướng hạ, đánh trống ngực, đau vùng tim, tiếng thổi tâm thu chức năng,
cảm thấy khó thở, hụt hơi không liên quan tới suy tuần hoàn, hô hấp.
Thân nhiệt tăng hoặc giảm nhẹ, không đều ở các khu vực khác nhau trong
cơ thể. Rối loạn tiêu hóa : đầy bụng, táo bón, ăn mất ngon, chán ăn,
tăng tiết mồ hôi ở tay, chân hay khắp người. Di tinh, xuất tinh sớm,
liệt dương, lãnh khí, rối loạn vòng kinh, đau bụng khi hành kinh, tăng
hay giảm bạch cầu, đường huyết, các rối loạn trên thường biến đổi và đặc
biệt tăng hay giảm theo tác động tăng hay giảm của yếu tố chấn thương
tâm thần.
Các triệu chứng tâm thần: rối loạn cảm xúc, cảm xúc
không ổn định, Bệnh nhân dễ xúc động, mủi lòng, dễ khóc, lo lắng, mất tự
chủ, khí sắc giảm, không cầm được nước mắt khi xem phim, hồi hợp lo âu,
lo lắng về bệnh tình, càng lo âu bệnh càng tiến triển xấu, bệnh càng
tiến triển xấu lại càng lo âu, khí sắc hơi trầm, giảm nhiệt tình trong
công việc, có khi mất hứng thú cả những thú vui trước đây. Khả năng tập
trung chú ý kém, trí nhớ giảm sút nên khả năng học tập và công tác đều
bị hạn chế.
Người bệnh thường than phiền trí nhớ giảm sút thường hay quên đồ dùng
hàng ngày, quên tên những người vừa mới gặp, quên công việc mới giao
nhận hôm trước, nhưng quá trình phát triển bệnh của mình ra sao đã khám
và điều trị ở đâu thì người bệnh lại nhớ rất tỉ mỉ. Hành vi tác phong
của người bệnh cũng thay đổi, đi lại hối hả, đứng ngồi không yên, động
tác không dứt khoát, ngón tay run rẩy.
Bạn nên nhớ các triệu chứng kể trên không nhất thiết xuất hiện đầy đủ và có mức độ giống nhau ở tất cả mọi bệnh nhân, có thể 1 nhóm triệu chứng nào đó biểu hiện rõ nét hơn.
Các thể lâm sàng:
Bệnh suy nhược thần kinh biểu hiện rất đa dạng, phần lớn các tác giả
căn cứ vào các triệu chứng chiếm ưu thế trong bệnh cảnh mà chia ra các
thể lâm sàng khác nhau.
Thể cường: nét nổi bật là bệnh nhân dễ kích thích, dễ
phản ứng, cảm xúc không ổn định, dễ xúc động, hồi hộp, lo âu, hưng phấn
vận động, đứng ngồi không yên, có bệnh nhân tăng tình dục, khó ngủ, dễ
thức giấc, các triệu chứng rối loạn thực vật nội tạng xuất hiện rầm rộ.
Thể nhược: đặc trưng là bệnh nhân chóng mệt mỏi, suy
yếu, khí sắc giảm, dễ mủi lòng hờn dỗi, khả năng lao động giảm sút, ngủ
không ngon sáng dậy thấy mệt, ban ngày lại buồn ngủ thường buổi trưa khá
hơn, buổi chiều lại mệt mỏi. Gặp những kích thích mạnh bệnh nhân đáp
ứng yếu, ngược lại đối với kích thích nhẹ bệnh nhân đáp ứng mạnh. Có
triệu chứng rối loạn thực vật nội tạng đa dạng nhưng không nặng, một số
bệnh nhân trở nên gầy yếu suy kiệt.
Thể trung gian: bệnh cảnh lâm sàng biểu hiện các trạng
thái kích thích lẫn suy nhược, khí sắc có khuynh hướng giảm, bàng quan,
có khi trầm cảm, có ám ảnh sợ hãi, khả năng lao động lên xuống thất
thường khi thì hưng phấn khi thì giảm sút, có nhiều rối loạn thực vật
nội tạng.
Người bị suy nhược thần kinh thường không được can thiệp sớm do đó để
lại hậu quả tâm lý thêm nặng nề và gây tốn kém cho người bệnh. Chẳng
hạn người bị đầu óc quay cuồng, đau đầu dữ dội thường đi đến khoa thần
kinh; người tim hồi hộp tức ngực, mạch nhanh thở gấp thường đến khoa tim
mạch; người ăn không tiêu, đầy bụng, ợ hơi thường đến khoa tiêu hoá;
người kinh nguyệt không đều, giảm ham muốn tình dục thường đến khoa phụ
sản hoặc khoa tiết niệu; người tinh thần mệt mỏi, ngày càng sụt cân
thường đến khoa nội tiết; người mất ngủ nghiêm trọng, lo lắng không yên
thường đến khoa nội v v… Các khoa ở bệnh viện đa khoa, dường như đều có
thể tìm thấy bệnh nhân bị suy nhược thần kinh, mặc dù các bác sĩ luôn
cho biết kiểm tra chưa phát hiện có bệnh ở cơ quan nào. Nhưng bệnh nhân
thường tự chuyển khoa hoặc chuyển viện tiếp tục tìm nguyên nhân gây
bệnh, hoặc tìm bác sĩ nổi tiếng, thuốc linh nghiệm để làm giảm đau khổ
cho mình, nhưng lại không muốn hoặc không nghĩ ra đi đến khoa tâm thần
để chẩn đoán và điều trị. Họ không hiểu, cũng không có nhận thức vấn đề
tâm lý và trạng thái tình cảm có ảnh hưởng then chốt đối với cảm giác cơ
thể và chức năng ngủ.
Điều trị suy nhược thần kinh theo tây y
Theo tây y bệnh suy nhược thần kinh là 1 bệnh do căn
nguyên tâm lý với những nhân tố thúc đẩy phức tạp, bệnh có nhiều triệu
chứng nên biện pháp điều trị chủ yếu là phương pháp tâm lý đồng thời kết
hợp dùng thuốc điều trị triệu chứng.
1. Điều trị triệu chứng.
Giảm đau (đau đầu, đau lưng…) bằng thuốc, châm cứu, xoa bóp, lý liệu pháp, ám thị….
– Mất ngủ: dùng thuốc ngủ.
– Lo âu: thuốc trấn tĩnh, giảm lo âu.
– Chống trầm cảm (bệnh nhân có hội chứng suy nhược: seduxen), giảm đau, gây ngủ, giảm lo âu, trấn tĩnh.
2. Điều trị bệnh nguyên, bệnh sinh.
– Chủ yếu là biện pháp tâm lý:
+ Loại trừ được stress.
+ Tăng khả năng phản ứng.
+ Tạo ra trạng thái tâm lý ổn định thoải mái (thư giản, luyện tập, tọa đàm tâm lý).
– Bồi dưỡng nhân cách cho bệnh nhân, làm cho bệnh nhân vững vàng chống
đỡ stress, liệu pháp gia đình, tọa đàm tâm lý, tâm lý nhóm, tâm lý tác
phong.
3. Điều trị toàn diện.
– Loại trừ bệnh cơ thể.
– Bồi dưỡng cơ thể bằng chế độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi.
– Loại trừ bệnh nguyên.
– Loại trừ tác động của stress.
– Giáo dục từ nhỏ do loại trừ những nhân cách mạnh.
– Tạo một tâm lý hoàn toàn thoải mái, tạo được một cơ thể lành mạnh, khỏe mạnh.
Điều trị cụ thể:
Dùng thuốc chữa triệu chứng, tùy theo trạng thái bệnh mà chỉ định các thuốc điều trị khác nhau, thường dùng các loại thuốc an thần nhẹ.
- Trạng thái kích thích suy nhược: dùng méprobamate, librium, seduxen liều 10 – 30mg/ngày chia làm 2 lần sáng và tối, vitamin B1, vitamin B6.
- Nhức đầu: hay dùng là các dẫn chất của paracetamol. Các thuốc này có đặc điểm là tác dụng nhanh nhưng bất lợi là độc với gan nếu dùng liều cao và thường xuyên. Khi sử dụng nên dùng xa bữa ăn, uống với nhiều nước. Dùng các thuốc giảm đau analgin, seda, APC, hỗn hợp thần kinh 2 – 4 viên/ngày.
- Mất ngủ : không dùng gardenal mà dùng các loại thuốc an thần gây ngủ bằng tân dược hoặc đông dược, seduxen, elenium, stilnox liều 10 – 20mg uống trước khi đi ngủ, nhưng chỉ dùng liều thấp và trong 1 thời gian ngắn. Các thuốc an thần đông dược có tác dụng tốt như viên sen vông, cao lạc tiên…
- Lo âu: Thuốc an thần, trấn tĩnh: nên dùng các thuốc có tác dụng an thần nhẹ, trấn tĩnh. Tuy nhiên nhóm thuốc này thường gây quen thuốc nên sử dụng cần thận trọng. dùng seduxen, librium, elenium, ananxyl… liều 10 – 30mg/ngày chia làm 2 – 3 lần uống kết hợp với liệu pháp tâm lý.
- Trầm cảm : amitriptyline liều 50 – 100mg/ngày, stablon (tianeptine) 10 – 30mg/ngày.Rối loạn thực vật nội tạng : tuỳ theo từng rối loạn mà có biện pháp điều trị riêng
Bệnh nhân không nên tự động dùng thuốc mà cần có sự hướng
dẫn của thầy thuốc để sử dụng cho hợp lý, tránh các tác dụng không mong
muốn của thuốc.
Liệu pháp tâm lý: phương pháp chữa bệnh bằng tâm lý
là 1 phương pháp khoa học đồng thời là 1 nghệ thuật. Thầy thuốc bằng
thái độ ân cần, niềm nở, tìm hiểu được tình hình bệnh tật, hoàn cảnh
sinh sống và công tác của họ, trên cơ sở đó mà gây được niềm tin tưởng
cho người bệnh. Giải thích hợp lý làm cho bệnh nhân hiểu được bản chất
và nguyên nhân gây bệnh. Thuyết phục bệnh nhân tin tưởng vào toàn bộ kế
hoạch điều trị, hợp tác chặt chẽ với thầy thuốc trong việc chữa bệnh,
hạn chế tác nhân gây sang chấn.
Thầy thuốc phải tổ chức hướng dẫn các phương pháp luyện tập khí công,
liệu pháp thể dục, thư giãn luyện tập để người bệnh biết các phương
pháp tự chữa bệnh. Liệu pháp thư giãn luyện tập đã chữa khỏi hầu hết
các trường hợp tâm căn suy nhược kể cả những trường hợp bệnh đã kéo dài
hàng năm.
Nói vậy, đó là mặt lý thuyết, song trong thực tế nhiều khi lại rất khó
khăn, đòi hỏi sự hòa hợp, sự tin tưởng, sự cảm thông… giữa thầy thuốc và
bệnh nhân thì chẩn đoán và điều trị mới mang lại kết quả cao. Vì ai
cũng biết, trừ một số sang chấn có thể khai thác dễ dàng (như người thân
mất, cháy nhà mất của…), còn lai họ thường dấu kín không cho thầy thuốc
biết, nhất là lại động chạm tới vấn đề tế nhị nhậy cảm (như tham vọng
cá nhân, chuyện vợ chồng, con cái hư hỏng …).
Các phương pháp chữa bệnh bằng xoa bóp, châm cứu, liệu pháp vật lý
cũng có tác dụng tốt. Kết hợp với các thuốc giải lo âu, giải thích và ám
thị làm cho bệnh nhân mất trạng thái lo âu.
Liệu pháp vật lý có nhiều phương pháp: tắm nước nóng hàng ngày 10 – 15 phút, liều điều trị 10 – 20 ngày : tắm nước muối hoặc nước khoáng ấm liều như trên.
Hạn chế các yếu tố thúc đẩy, cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt
hợp lý có kế hoạch; điều trị các bệnh thực thể mạn tính kèm theo, chú
trọng đảm bảo dinh dưỡng, bồi dưỡng cơ thể, tổ chức các cơ sở điều dưỡng
tốt đối với người đã bị bệnh lâu ngày.
Phòng tránh bệnh suy nhược thần kinh như thế nào?
Bệnh thần kinh suy nhược có thể chữa khỏi và có thể đề phòng được, áp
dụng các biện pháp vệ sinh phòng bệnh chung. Ngoài ra đối vơí bệnh nhân
suy nhược thần kinh cần chú ý đến những điểm sau đây: xây dựng mối quan
hệ tốt giữa các thành viên trong gia đình, cơ quan, tập thể, tránh các
chấn thương tâm thần mạn tính; khắc phục các tình trạng căng thẳng, cảm
xúc mệt mỏi; tổ chức lao động và sinh hoạt hợp lý giữa lao động trí óc
và lao động chân tay, giữa lao động với nghỉ ngơi giải trí; tạo điều
kiện giảm bớt tiếng ồn, tiếng động trong sản xuất cũng như ở môi trường
sinh sống, đảm bảo giấc ngủ tốt, rèn luyện thân thể, rèn luyện nhân cách
vững mạnh, phát hiện điều trị kịp thời các bệnh thực thể.
Nguyên nhân của tất cả các biểu hiện trên đây là do áp lực tinh thần,
cho nên phải bắt tay vào giải quyết vấn đề tinh thần trước, có nghĩa là
muốn loại bỏ sự mệt mỏi do suy nhược thần kinh, phải bắt đầu từ vấn đề
điều chỉnh tâm lý, trên khía cạnh tinh thần. Bác sĩ hiểu rõ bản chất
bệnh của họ; vì thế người bị suy nhược thần kinh cho dù có triệu chứng
thân thể loại nào, nên đến khoa tâm thần để chẩn đoán và điều trị là hợp
lý nhất
Cuối cùng việc điều trị cho bệnh nhân, cơ bản phải dùng Liệu pháp tâm lý
giải thích hợp lý cho bệnh nhân, loại trừ sang chấn tâm lý phối hơp với
dùng thuốc. Nhưng vấn đề ở đây là dùng thuốc gì và dùng như thế nào?
Như trên ta đã nói dùng thuốc tây chủ yếu chữa triệu chứng, tùy theo
trạng thái bệnh mà chỉ định các thuốc điều trị khác nhau, thường dùng
các loại thuốc an thần nhẹ nhưng kết quả còn nhiều hạn chế, có khi còn
tai hại như Seduxen dùng lâu gây nghiện … Vậy nên bạn nên điều trị bằng
thuốc đông y hiệu quả an toàn hơn!
Chữa suy nhược thần kinh theo đông y
- Suy nhược thần kinh là một bệnh được miêu tả trong phạm vi nhiều chứng bệnh của y học cổ truyền: kinh quý, chính xung, kiện vong, đầu thống, di tinh, thất miên…
- Nguyên nhân: sang chấn tinh thần, lo nghĩ căng thẳng quá độ, cơ địa thần kinh yếu (tiên thiên không đầy đủ) dẫn tới công năng (tinh, khí, thần) của các tạng phủ là tâm, can, thận bị rối loạn.
Phân loại thể bệnh và cách chữa bệnh của y học cổ truyền cũng gần
giống các giai đoạn rối loạn thần kinh chức năng, cách chữa bệnh chủ yếu
là dùng tâm lý liệu pháp và khôi phục lại quá trình ức chế vỏ não của y
học hiện đại.
Phân loại các thể theo đông y
1. Can khí uất kết.
Tương ứng với các giai đoạn hưng phấn tăng và do sang chấn tập trung gây bệnh.
A, Triệu chứng: nhức đầu vùng đỉnh và thái dương, nhức từng
cơn, khó ngủ hay thức giấc, hay cáu giận, buồn bực, thở dài, đầy tức hại
mạng sườn, bụng trướng đầy hơi, có thể ợ hơi, biếng ăn, mạch huyền.
B, Pháp : sơ can, lý khí, giải uất, an thần.
C, Bài thuốc:
– Kinh nghiệm.
Câu đằng | 12g | Tơ hồng | 8g |
Cúc hoa | 8g | Hương phụ | 8g |
Thảo quyết minh | 12g | Chỉ xác | 8g |
Cam thảo dây | 12g | Uất kim | 8g |
– Cổ phương.
+ Bài Tiêu giao thang gia giảm:
Sài hồ | 12g | Thanh bì | 8g |
Chỉ xác | 8g | Hoàng cầm | 12g |
Cam thảo | 6g | Đại táo | 8g |
Bạch linh | 12g | Bạc hà | 8g |
Đại táo | 12g | Bạch truật | 12g |
Uất kim | 8g | Bạch thược | 12g |
Hương phụ | 8g |
+ Bài Lý khí giải uất thang:
Hương phụ | 12g | Chỉ xác | 8g |
Uất kim | 12g | Bạch linh | 12g |
Bạch truật | 12g |
Gia giảm :
- Nếu hưng phấn tăng (uất hóa hỏa) thì gia: Đan bì 8g, Chi tử 12g.
- Hồi hộp hay ngủ mê, táo, rêu vàng, mạch huyền hoạt (đàm hỏa uất kiết) thì gia: Trúc nhự 6g, Bán hạ chế 8g.
- Khó thở, ngực tức, nuốt khó (đàm khí trở trệ) thì gia thêm: Tô ngạnh 8g, Hậu phác 8g, Bán hạ chế 8g.
– Châm cứu các huyệt Thái xung, Nội quan, Thần môn.
+ Nhức đầu thì gia: Phong trì, Bách hội, Thái dương.
+ Nếu đàm hỏa, đàm uất thì gia: Túc lâm khấp, Đởm du…
2. Can tâm hư
Tương ứng với giai đoạn ức chế thần kinh, chia làm mấy thể sau:
2.1 Âm hư hỏa vượng(âm hư, dương xung).
Tương ứng với giai đoạn ức chế giảm, hưng phấn tăng.
A, Triệu chứng: hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, ù tai, hay
quên, hồi hộp, hay động, vui buồn thất thường, ít ngủ, hay mê, miệng
họng khô, người hay bừng nóng, nước tiểu đỏ, mạch huyền tế sác.
B, Pháp: tư âm giáng hỏa, bình can tiềm dương, an thần.
C, Bài thuốc:
– Kinh nghiệm.
Kỷ tử | 12g | Cúc hoa | 18g |
Sa sâm | 12g | Câu đằng | 16g |
Thạch hộc | 12g | Long cốt | 16g |
Mạch môn | 12g | Táo nhân | 8g |
Đan cốt bì | 8g | Hạ khô thảo | 8g |
Trạch tả | 12g | Mẫu lệ | 12g |
– Cổ phương:
+ Ký cúc địa hoàng thang gia câu đằng, Sa sâm, Mạch môn, Táo nhân, Bá tử nhân.
+Chu sa an thần hoàn gia giảm.
Sinh địa | Đương quy |
Bạch thược | Mạch môn |
Chu sa | Cam thảo |
Hoàng liên | Táo nhân |
Phục linh |
- Nếu tinh thần hoảng hốt, hay xúc động gia Cam thảo.
- Hoa mắt, chóng mặt, hồi hộp gia Mẫu lệ 12g, Chân châu mẫu 40g.
+ Lục vị gia Ngũ vị tử, Táo nhân, Thạch hộc, Hoàng liên.
+ Điều trị thận âm hư gây hội chứng tâm thận bất giao, mất ngủ, hồi hộp nhức trong xương, đau lưng, di tinh, ù tai, hay quên.
2.2. Tâm,can, thận hư.
Nặng về ức chế giảm, ít vì hưng phấn tăng (nặng về triệu chứng của thận âm, can huyết, tâm âm hư, ít triệu chứng về dương xung).
A, Triệu chứng: đau lưng, ù tai, ít ngủ, nhức đầu, tiểu tiện trong, đại tiện ít, miệng khô, mạch tế.
B, Pháp: bộ thận âm, bổ can huyết, an thần, cố tinh.
Có thể thêm một số thuốc trợ dương: Thỏ ty tử, Ba kích, Tục đoạn, Cẩu tích…
C, Bài thuốc:
– Kinh nghiệm:
Thục địa | 12g | Khiếm thực | 8g |
Kỷ tử | 12g | Kim anh tử | 8g |
Hoàng tinh | 12g | Thỏ ty tử | 8g |
Hà thủ ô | 12g | Tục đoạn | 12g |
Táo nhân | 8g | Ba kích | 8g |
Bá tử nhân | 8g | Long nhãn | 8g |
– Cổ phương:
+ Tả quy hoàn gia giảm (không có nội nhiệt).
Thục địa | 12g | Lộc giác giao | 12g |
Hoài sơn | 12g | Ngưu tất | 12g |
Thỏ ty tử | 8g | Quy bản | 12g |
Sơn thù | 12g | Táo nhân | 8g |
Kỷ tử | 12g | Bá tử nhân | 8g |
+ Lục vị quy thược gia giảm:
Thục địa | 12g | Bạch thược | 8g |
Kim anh | 12g | Hoài sơn | 8g |
Đương quy | 8g | Khiếm thực | 12g |
Sơn thù | 12g | Táo nhân | 8g |
Trần bì | 8g | Bá tử nhân | 8g |
Phục linh | 8g | Liên nhục | 12g |
Phụ tử chế | 4g |
2.3. Tâm tỳ hư
Ức chế thần kinh giảm, suy nhược, ăn kém.
A, Triệu chứng: ngủ ít, kém ăn, sút cân, người mệt mỏi, hai mắt thâm quầng, hồi hộp, ít nhức đầu, rêu lưỡi trắng, mạch nhu tế hoãn.
B, Pháp: dưỡng tâm kiện tỳ (kiện tỳ an thần).
C, Bài thuốc:
– Kinh nghiệm:
Bạch truật | 12g | Đảng sâm | 12g |
Hoài sơn | 12g | Ý dĩ | 12g |
Liên nhục | 12g | Long nhãn | 8g |
Táo nhân | 8g | Bá tử nhân | 8g |
Kỷ tử | 12g | Đỗ đen sao | 12g |
Cổ phương: dùng bài Quy tỳ thang xem thêm tại đây
2.4. Thận âm,thận dương hư (tương ứng với giai đoạn III)
A, Triệu chứng: Sắc mặt trắng, tinh thần ủy mị, gối mỏi, di
tinh, liệt dương, sợ lạnh, lưng và chân tay lạnh, ngủ ít, tiểu tiện
trong bài nhiều lần, lưỡi đạm nhạt, mạch tế vô lực.
B, Pháp: ôn thận dương, bổ thận âm, an thần, cố tinh.
C, Bài thuốc:
– Kinh nghiệm:
Thục địa | 12g | Nhục quế | 8g |
Kim anh | 12g | Hoàng tinh | 12g |
Ba kích | 12g | Khiếm thực | 12g |
Kỷ tử | 12g | Thỏ ty tử | 12g |
Táo nhân | 8g | Phụ tử | 4g |
Tục đoạn | 12g | Liên nhục | 12g |
– Cổ phương:
+ Thận khí hoàn gia giảm:
Thục địa | 12g | Kim anh | 12g |
Hoài sơn | 8g | Khiếm thục | 12g |
Sơn thù | 12g | Ba kích | 12g |
Phục linh | 8g | Thỏ ty tử | 12g |
Trạch tả | 8g | Phụ quế | 8g |
Đan bì | 4g | Nhục quế | 4g |
Táo nhân | 8g | Đại táo | 12g |
Viễn chí | 6g |
+ Hữu quy hoàn:
Thục địa | 12g | Đỗ trọng | 8g |
Sơn thù | 8g | Phụ tử chế | 8g |
Sơn dược | 12g | Nhục quế | 4g |
Kỷ tử | 12g | Táo nhân | 8g |
Cao ban long | 12g | Viễn chí | 8g |
Chú ý: Tác động tâm lý sau khi các triệu chứng suy nhược thần kinh
đã đỡ hơn, củng cố kết quả bằng bố trí công tác thích hợp, dùng thuốc
bột, thuốc viên một thời gian nhằm củng cố quá trình ức chế. Hướng dẫn
bệnh nhân một số phương pháp chữa trị, xoa bóp, khí công dưỡng sinh, thể
dục…
No comments:
Post a Comment