Quả kỷ tử khô
1-Kéo dài tuổi thọ.
Mười tỷ tỷ tế bào
trong cơ thể chúng ta thường xuyên bị các gốc tự do hủy diệt những tế
bào sống nhanh hơn sự sản sinh tế bào mới thay thế, làm cho tuổi thọ
giảm, nhưng Câu kỷ tử được biết dưới cái tên trái trường sinh duy nhất
chứa nhiều chất polysaccharides và antioxidants mạnh chống lão hóa, tiêu
diệt các gốc tự do làm hại cơ thể.
2-Tăng cường năng lượng và sức khỏe.
Câu kỷ tử làm tăng sức
chịu đựng, dẻo dai, bền bỉ cho cơ thể, giúp loại bỏ mệt mỏi, đặc biệt
có khả năng phục hồi sức khỏe sau khi bị bệnh.
3-Nhìn thấy và cảm thấy trẻ hơn
Câu kỷ tử kích thích
sự phóng thích hormone của tuyến yên hGH (humain growth hormone) làm
giảm chất béo của cơ thể, ngủ ngon, cải thiện trì nhớ, làm cơ thể ấm,
phục hồi khả năng sinh lý, và nhìn bề ngoài thấy trẻ hơn.
4-Làm hạ áp huyết.
Gần đây theo thống kê ở
Mỹ, cứ 4 người có một người bị bệnh cao áp huyết, không kiểm soát được
áp huyết ổn định sẽ dẫn đến hậu qủa tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ
tim, suy tim, suy thận. Đó là những bệnh giết người thầm lặng. Năm1998,
một nghiên cứu tìm ra chất polysaccharides trong Câu kỷ tử có thể ngăn
ngừa và kiểm soát được bệnh cao áp huyết.
5-Ngăn ngừa ung thư.
Câu kỷ là một trong
những cây duy nhất trên trái đất này có chứa một loại khoáng chất chống
ung thư. Những antioxidants mạnh và chất polysaccharides duy nhất có thể
chặn dừng lại những thay đổi đột biến của tế bào dẫn đến ung thư. Một
số nhà khoa học tin rằng Câu kỷ tử có thể là một loại dinh dưỡng bổ sung
tốt để ngăn ngừa ung thư gan, bởi vì nó tác động mạnh trong việc bảo vệ
gan và có hiệu qủa chống ung thư cùng một lúc. Điều này quan trọng vì
gan là cơ quan loại độc tố cho cơ thể.
6-Duy trì mức cholesterol tốt cho sức khỏe.
Câu kỷ tử chứ chất
beta-sitosterol làm hạ choleterol trong máu, chất antioxidants của nó
giữ cho cholesterol khỏi bị oxyde hóa đóng cục trong động mạch. Chất
flavonoids trong Câu kỷ làm giãn nở động mạch và mềm ống mạch.
7-Cân bằng lượng đường trong máu trong bệnh tiểu đường.
Câu kỷ tử đã được sử
dụng từ lâu ở Trung quốc dùng để trị bệnh tiểu đường, vì chất
polysaccharides giúp quân bình lượng đường trong máu và insulin tương
xứng, chất betaine trong Câu kỷ tử cũng ngừa được bệnh gan nhiễm mỡ và
những mao mạch bị tổn hại do bệnh tiểu đường gây ra.
8-Tăng sinh lý và khả năng tình dục.
Câu kỷ tử cũng là một
loại dược thảo đông y bồi bổ khả năng tình dục và theo truyền thuyết nó
làm tăng sự ham muốn. Thật ra, những nghiên cứu của khoa học cho thấy
Câu kỷ tử làm tăng testosterone trong máu nên làm tăng khả năng tình dục
của cả nam và nữ.
9- Giảm cân.
Trong một nghiên cứu
chống bệnh béo phì ở Á châu, những bệnh nhân phì mập được cho uống Câu
kỷ tử, ngày 2 lần sáng và chiều. Kết qủa trông thấy phần lớn bệnh nhân
iảm cân. Một nghiên cứu khác, chất polysaccharides trong Câu kỷ tử đã
làm giảm trọng lượng cơ thể bởi nó làm tăng sự chuyển hóa dưỡng trấp
thành năng lượng thay vì chuyển hóa thành chất béo.
10-Giảm đau đầu và chóng mặt.
Theo đông y cổ truyền,
nguyên nhân chóng mặt nhức đầu do chức năng của thận âm thận dương
không đủ, nguyên khí thiếu, thì Câu kỷ tử chính là một trong những dược
thảo đông y có khả năng phục hồi lại sự điều chỉnh chức năng âm dương
của thận.
11-Chữa bệnh mất ngủ, giúp ngủ ngon hơn.
Câu kỷ tử đã được dùng
từ lâu ở Châu Á chữa bệnh mất ngủ. Đã có rất nhiều nhóm nghiên cứu và
thử nghiệm cho những người lớn tuổi, hầu hết những bệnh nhân này công
nhận Câu kỷ tử giúp họ có được giấc ngủ sâu.
12-Cải thiện thị lực.
Từ thời Trung quốc cổ
đại, đã được dùng Câu kỷ tử chữa thị lực suy giảm. Ngày nay các khoa học
gia Trung quốc đã khám phá ra Câu kỷ có khả năng rút ngắn thời gian
thích nghi của mắt vớI bong tối, nó cũng cải thiện thị lực trong ánh
sáng mờ. Những dấu đốm làm mù mắt bị giảm khi dùng Câu kỷ tử. Câu kỷ tử
chứa nhiều antioxidant carotenoids cũng có thể bảo vệ chống lại sự thoái
hóa gây ra cườm mắt.
13-Làm mạnh tim .
Câu kỷ tử chứa
cyperone, một sesquiterpene có lợi cho tim và áp lực tuần hoàn huyết,
chất anthocyanins giúp duy trì sự bền dẻo động mạch làm cho không bị
nghẽn mạch.
14-Ngăn chặn sự peroxide hóa chất béo.
Cholesterol và những
chất béo khác trong máu có thể làm chết ngườI khi chúng tạo phản ứng
hình thành peroxides hóa chất béo trong máu có thể dẫn tớI bệnh tim
mạch, nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch và tai biến mạch máu não. Câu kỷ
tử làm tăng một enzyme quan trọng trong máu để ngăn ngừa sự hình thành
peroxide hóa lipid nguy hiểm này.
15-Chống lại bệnh tật.
Sự peroxide hóa qúa
nhiều các gốc tự do đã tham dự và đóng vai trò quan trọng vào sự phát
triển mầm bệnh. Chất này trung hòa mất enzyme trong máu, trong khi cơ
thể sản xuất ra enzyme SuperOxide Dismutase (SOD) ít đi khi chúng ta
gìa. Bất cứ tuổi nào, sự căng thẳng trong đời sống hàng ngày cũng có thể
khống chế mất khả năng sản xuất SOD để phòng chống bệnh tật. Nhưng Câu
kỷ tử đã cho thấy rõ kết qủa được ghi nhận làm tăng 40% chất enzyme SOD
trong cơ thể.
16-Cải thiện hệ thống miễn nhiễm.
Hệ thống miễn nhiễm
trong cơ thể là lực lượng chiến đãu. Hơn 40 nghiên cứu Câu kỷ tử, kết
qủa cho thấy nó có khả năng chỉ huy, kiểm soát và điều chỉnh được chức
năng của hệ miễn nhiễm mạnh hơn. Chất polysaccharides làm tăng và quân
bình những hoạt động của các tế bào miễn dịch, bao gồm cả tế bào T,
chống được các tế bào gây bệnh cytotoxic-T-cells, NK cell, lysozyme,
khối u độc hại, kháng thể IgA , IgG và Interleukin-2.
17-Khống chế được ung thư.
Bệnh nhân uống thuốc
trị ung thư chung với Câu kỷ tử cho thấy khả năng hiệu qủa chữa bệnh
tăng 250% so với những người chỉ dùng riêng thuốc trị ung thư. Những
ngườI bị bệnh ung thư nặng ngạc nhiên khi những tế bào độc giảm, như tế
bào biểu mô tuyến thượng thận, ung thư phổi, ung thư mũi, tràn dịch màng
phổi. Thời kỳ thuyên giảm bệnh ung thư có dùng Câu kỷ tử đời sống kéo
dài hơn là những bệnh nhân không dùng đến kỷ tử.
18-Bảo vệ DNA qúi cho cơ thể.
DNA là một loại hóa
chất quan trọng trong cơ thể truyền tải những đặc tính di truyền của tổ
tiên, và cũng bảo đảm khi chúng cần thay thế thì hàng chục tỷ tỷ tế bào
trung thành lại tái sản xuất những tế bào mới sao chép đúng như tế bào
gốc. Những chất hóa học, chất ô nhiễm, những gốc tự do có thể gây hại
cho DNA bị phá hỏng dẫn đến sự thay đổi đột biến tính di truyền tạo nên
ung thư thậm chí gây tử vong. Chất betaine và polysaccharides trong Câu
kỷ có khả năng duy trì và sửa chữa DNA bị hư hỏng.
19-Ức chế sự phát triển khối u.
Chất Interleukin-2
(IL-2) trong Câu kỷ là một chất chính phân hủy tế bào protein có khả
năng chống u bướu trong nhiều bệnh ung thư khác nhau. Trung quốc nghiên
cứu Câu kỷ để sản xuất chất IL-2, còn Hoa Kỳ nghiên cứu dùng IL-2 tăng
cường hệ miễn nhiễm phòng chống ung thư và sida từ năm 1983. Câu kỷ cũng
có khả năng tạo ra một tiến trình phá vỡ tế bào ung thư và đào thải ra
ngoài.
20-Làm giảm hậu qủa độc hại do hóa chất trị liệu và phóng xạ trị liệu.
Trong một nghiên cứu
khả năng chữa bệnh của Câu kỷ tử, nó có thể ngăn chặn những hậu qủa tai
hại của phóng xạ trị liệu trong bệnh ung thư phổi, giúp cho giảm liều
phóng xạ trị liệu mà vẫn có kết qủa. Một nghiên cứu khác, nó cũng ngăn
chặn chống độc hại của những phản ứng phụ khi dùng hóa chất hay phóng xạ
trị liệu.
21-Chất sinh sản ra máu.
Câu kỷ tử là một chất
sinh sản và tái tạo ra máu, làm cho máu của những người già trẻ lại.
Trong một thử nghiệm, tế bào hồng cầu đã có khả năng chống lại các gốc
tự do nhờ bởi chất flavonoids có trong Câu kỷ tử. Một vài thử nghiệm lâm
sàng mới đây cho biết nó cũng chữa được bệnh thiếu tủy xương là nguyên
nhân giảm không sản sinh được hồng cầu, bạch cầu và huyết bản.
22-Chữa được bệnh ho khan mãn tính.
Các thầy thuốc đông y
thường dùng một vị Câu kỷ tử, hoặc thêm những dược thảo khác chữa bệnh
ho mãn tính và thở khò khè có hiệu qủa.
23-Chữa được bệnh sưng đau nhức viêm khớp.
Những cuộc nghiên cứu
khoa học mở rộng trên 20 năm qua về đề tài trên đã cho thấy, bệnh sưng
đau cấp tính và mãn tính do sự peroxide hóa của các gốc tự tăng nhiều
vượt qúa khả năng enzyme SOD của cơ thể. Sự mất quân bình ấy gây sưng
đau và phá hủy khớp nối với các mô chung quanh. Câu kỷ tử có thể duy trì
lại được sự quân bình enzyme SOD để phòng chống sưng đau viêm khớp.
24-Cải thiện tế bào bạch huyết.
Tế bào bạch huyết là
một nhóm bạch cầu quan trọng nhất trong hệ thống miễn nhiễm của cơ thể.
Tỷ lệ phần trăm đáp ứng của hệ miễn nhiễm tăng theo khi sự nguy hiểm tấn
công vào tạng phủ xâm nhập qua tuyến phòng thủ của nó. Câu kỷ tử có khả
năng làm tăng và làm hoạt hóa tế bào bạch cầu để chống bệnh.
25-Chữa được triệu chứng tiền mãn kinh.
Triệu chứng tiền mãn
kinh được xem là do chức năng thận âm yếu kém. Khi lớn tuổi, cần phải bổ
thận âm để duy trì cân bằng kích thích tố hormone, Y học cổ truyền
Trung quốc phải chọn đến Câu kỷ tử.
26-Ngăn ngừa chứng mệt mỏi về buổi sáng.
Câu kỷ tử dưới hình
thức pha như trà nóng uống vào mỗi sáng ngừa được chứng bệnh ưa mệt mỏi
như bị bệnh về buổi sáng. Uống như trà có hiệu qủa nhanh nhất.
27-Cải thiện sinh lực.
Câu kỷ tử được các
thầy thuốc đông y biết dùng từ lâu để chữa bệnh cho người già ngăn ngừa
stress, bảo tồn sinh lực, đối với người nữ thì dưỡng khí nguyên âm, với
người nam thì tồn tinh.
28-Tăng cường bắp thịt và xương.
Câu kỷ tử dễ dàng tiết
và phóng thích chất hGH có nhiệm vụ bảo vệ sửa chữa chức năng phát
triển cơ thể, bao gồm bắp thịt và những chất liên kết của calcium tạo ra
xương và răng.
29-Làm mạnh chức năng thận.
Thận là cơ quan quan
trọng nhất theo y học cổ truyền, có liên quan vớI não và các cơ quan
tạng phủ khác. Nhiệm vụ chính của thận là cung cấp nguyên khí tạo ra sự
sống căn bản cho cơ thể. Câu kỷ tử là loại thuốc đại bổ xứng đáng cho
thận có ảnh hưởng đến cả thận âm và thận dương.
30-Cải thiện trí nhớ.
Câu kỷ tử cũng là loại
thuốc bổ óc đầu tiên được dùng ở Châu Á. Nó chứa betain, vào cơ thể
chuyển đổi thành choline, một chất làm tăng cường và có khả năng phục
hồi trí nhớ.
31-Thuốc bổ gan.
Câu kỷ tử có chức một
chất độc đáo là cerebroside để bảo vệ tế bào gan chống lại độc tố, ngay
cả loại độc tố mạnh như chlorinated hydrocarbons.
32-Làm dịu sự lo lắng và căng thẳng thần kinh.
Câu kỷ tử giống như là
một chất thích ứng giúp cơ thể đối phó được vớ sự căng thẳng thần kinh,
nó cung cấp năng lượng dự trữ để khắc phục được bất cứ những khó khăn
nào.
33-Làm tỉnh thần trí.
Ở Á châu ngườI ta nói rằng dùng Câu kỷ tử thường xuyên sẽ đem lại tinh thần vui vẻ, xứng với tên gọi là trái dâu hạnh phúc.
34-Cải thiện tiêu hóa.
Câu kỷ tử còn dùng để
chữa bệnh teo bao tử, chức năng chuyển hóa yếu bởi giảm tính hoạt hóa tế
bào của bao tử . Nhờ Câu kỷ tử giúp cho sự tiêu hóa dễ dàng, đặc biệt
nhất là dùng nước ép nguyên chất của nó với hàm lượng cao.
Chú ý : Do tùy thuộc vào cơ địa của từng người nên cũng có người dùng có kết quả tốt và có người kết quả không được như mong muốn
Hướng dẫn cách dùng
Dùng 500ml nước sôi
và hãm cùng 30 gram quả kỷ tử khô trong khoảng 20 phút, có thể hãm
vài lần nước sôi cho tới khi nước nhạt thì thôi
Những ai không nên dùng kỷ tử
+ Người đang đi ngoài
+ Phụ nữ đang mang thai không nên dùng kỷ tử
Kỷ Tử và công dụng chữa bệnh
Nguồn bài viết: http://agarwood.org.vn/ky-tu-va-cong-dung-chua-benh-cua-ky-tu-2875.html
Nguồn bài viết: http://agarwood.org.vn/ky-tu-va-cong-dung-chua-benh-cua-ky-tu-2875.html
Tên Việt Nam của Kỷ Tử: Kỷ tử, Câu khởi, Khởi tử, Địa cốt tử, Khủ khởi.
Tên Hán Việt khác:
Cẩu kế tử (Nhĩ Nhã), Cẩu cúc tử (Bản Thảo Diễn Nghĩa), Khổ kỷ tử (Thi
Sơ), Điềm thái tử (Bản Thảo Đồ Kinh), Thiên tinh tử (Bảo Phát), Địa cốt
tử, Địa tiết tử (Bản Kinh), Địa tiên tử (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Khước
lão tử, Dương nhủ tử, Tiên nhân trượng tử, Tây vương mẫu trượng tử, Cẩu
kỵ tử, (Biệt Lục), Xích bảo, Linh bàng tử, Nhị thi lục, Tam thi lục,
Thạch nạp cương, Thanh tinh tử, Minh nhãn thảo tử, Tuyết áp san hô (Hòa
Hán Dược Khảo).
Tên khoa học: Fructus Lycii.
Họ khoa học: Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Mô tả:
Là cây bụi mọc đứng, phân cành nhiều, cao 0,5-1,5m. Cành mảnh, thỉnh
thoảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá nguyên nhẵn, mọc cách, một số mọc
vòng, cuống lá ngắn, phiến lá hình müi mác, hẹp đầu ở gốc. Hoa nhỏ mọc
đơn độc ở kẽ lá hoặc có một số hoa mọc chụm lại. Đài nhẵn, hình chuông,
có 3-4 thùy hình trái xoan nhọn, xẻ đến tận giữa ống. Tràng màu tím đỏ,
hình phễu, chia 5 thùy hình trái xoan tù, có lông ở mép. Nhị 5, chỉ nhị
hình chỉ đính ở đỉnh của ống tràng, dài hơn tràng. Bầu có 2 ô, vòi nhụy
nhẵn dài bằng nhụy, đầu nhụy chẻ đôi. Quả mọng hình trứng, khi chín màu
đỏ sầm, hoặc vàng đỏ. Hạt nhiều hình thân dẹp. Ra hoa từ tháng 6-9, có
quả từ tháng 7-10.
Địa lý: Có nhiều ở Trung Quốc nước ta còn phải nhập, có ở các tỉnh biên giới Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam.
Phần dùng làm thuốc: Dùng quả khô rụng (Fructus Lycii).
Mô tả dược liệu:
Quả khô Câu kỷ tử hình bầu dục dài khoảng 0,5-1cm, đường kính khoảng
hơn 0,2cm. Vỏ quả màu tím đỏ hoặc đỏ tươi, mặt ngoài nhăn teo bên trong
có nhiều hạt hình tạng thận màu vàng, có một đầu có vết của cuống quả,
không mùi, vị ngọt hơi chua, sau khi nếm nước bọt có màu vàng hồng. Loại
sản xuất ở Cam túc có quả tròn dài, hạt ít, vị ngọt là loại tốt nhất
nên gọi là Cam kỷ tử hay Cam câu kỷ (Dược Tài Học).
Thu hái, sơ chế:
Hái quả hàng năm vào tháng 8-9, phơi khô. Khi quả chín đỏ hái vào sáng
sớm hoặc chiều mát, trải mỏng, phơi trong râm mát cho đến khi bắt đầu
nhăn mới phơi chỗ nắng nhiều cho đến khi thật khô.
Bào chế:
+ Lựa thứ quả đỏ tươi, tẩm rượu vừa đều để một hôm, gĩa dập dùng.
+
Thường dùng sống, có khi tẩm rượu sấy khô, hoặc tẩm mật rồi sắc lấy
nước đặc, sấy nhẹ cho khô, đem tán bột mịn. Bảo quản: Đựng vào lọ kín để
nơi khô ráo, nếu bị thâm đen đem xông diêm sinh hoặc phun rượu, xóc lên
sẽ trở lại màu đỏ đẹp
Thành phần hóa học:
+
Thành phần chủ yếu có Betain, nhiều loại axit amin, polysaccharid,
vltamin B1, B2, C, acid nicotinic, Ca, P, Fe.. . (Trung Dược Học).
+Trong Kỷ tử có chừng 0,09% chất Betain (C5H11O2N) (Sổ Tay Lâm Sàng
Trung Dược).
+
Trong 100g quả có 3,96mg Caroten, 150mg Canxi, 6,7mg P, 3,4mg sắt, 3mg
Vit C, 1, 7mg axit nicotic, 0,23mg Amon sunfat (Từ Quốc Quân và Triệu
Thủ Huấn) + Trong Khởi tử có Lysin, Cholin, Betain, 2,2% chất béo và
4,6% chất Protein, Acid cyanhydric và có thể có Atropin (Những Cây Thuốc
Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Carotene, Thiameme, Riboflavin, Vitamin C, b-Sitosterol, Linoleic acid (Chinese Herbal Medicine).
+ Betain (Nishiyama R, C A 1965, 63 (4): 4660).
+ Valine, Glutamine, Asparagine (Nishiyama R, C A 1963, 59 (11): 13113b).
+
Trong 100g Câu kỷ tử có Carotene 3,39mg, Thiamine 0,23g, Riboflavine
0,33mg, Nicotinic acid 1,7mg, Vitamin C 3mg (Từ Quốc Quân, Dược Tài Học,
Bắc Kinh 1960: 513).
Tác dụng dược lý:
1. Thuốc có tác dụng tăng cường miễn dịch không đặc hiệu. Trên súc vật
thực nghiệm có tác dụng tàng cường khả năng thực bào của hệ lưới nội mô,
kết quả nghiên cứu gần đây cho biết Kỷ tử có tác dụng nâng cao khả năng
thực bào của tế bào đại thực bào, tăng hoạt lực của enzym dung khuẩn
của huyết thanh, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể, chứng tỏ Kỷ tử có
tác dụng tăng cường tính miễn dịch của cơ thể, thành phần có tác dụng là
Polysaccharide Kỷ tử (Trung Dược Học).
2. Thuốc có tác dụng tăng cường chức năng tạo máu của chuột nhắt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Chất Betain là chất kích thích sinh vật, cho vào thức ăn cho gà ăn có
tác dụng tăng trọng và đẻ trứng nhiều hơn, cüng làm cho chuột nhắt tăng
trọng rõ (Trung Dược Học).
+
Thuốc có tác dụng hạ Cholesterol của chuột cống, chất Betain của thuốc
có tác dụng bảo vệ gan chống thoái hóa mỡ, hạ đường huyết (Trung Dược
Học).
+
Chất chiết xuất nước của thuốc có tác dụng hạ huyết áp ức chế tim, hưng
phấn ruột (tác dụng như Cholin). Chất Betain không có tác dụng này
(Trung Dược Học). 6. Nước sắc Kỷ tử có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập
của thỏ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Thuốc có tác dụng ức chế ung thư đối với chuột nhắt S180. Các học giả
Nhật Bản có báo cáo năm 1979 là lá và quả Kỷ tử có tác dụng ức chế tế
bào ung thư trong ống nghiệm (Trung Dược Học).
+ Các tác giả Trung Quốc trên thực nghiệm cüng phát hiện thuốc (lá, quả
và cuống quả của Kỷ tử (vùng Ninh Hạ) có tác dụng ức chế ở mức độ khác
nhau hai loại tế bào ung thư ở người (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Tính hơi hàn, không độc (Danh Y Biệt Lục).
+ Vị ngọt, tính bình (Dược Tính Bản Thảo).
+ Vị hàn, không độc (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Vị ngọt, tính bình (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Vị ngọt, tính bình (Trung Dược Học).
Qui kinh:
+ Vào kinh túc Thiếu âm Thận, túc Quyết âm Can (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vào kinh túc thiếu âm Thận, thủ Thiếu âm tâm (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Can, Thận, Phế (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Can, Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng:
+ Bổ ích tinh huyết, cường thịnh âm đạo (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Bổ ích tinh bất túc, minh mục, an thần (Dược Tính Bản Thảo).
+ Trừ phong, bổ ích gân cốt, khử hư lao (Thực Liệu Bản Thảo).
+Tư thận, nhuận phế (Bản Thảo Cương Mục).
+
Chuyên bổ thận, nhuận phế, sinh tân, ích khí, là thuốc chủ yếu bổ can
thận chân âm bất túc, là thuốc tốt để ích tinh, minh mụ c… (Bản Thảo
Kinh Sơ)
+ Kỷ tử có tác dụng tư bổ can thận, sinh tinh huyết, minh mục, nhuận phế (Trung Dược Học).
+ Tư dưỡng Can Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ trị:
luyện mật làm viên uống hằng ngày (Tứ Thần Hoàn – Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương).
+
Trị gan viêm mạn tính, gan xơ do âm hư: Bắc sa sâm 12g, Mạch môn 12g,
Đưung qui 12g, Kỷ tử 12-24g, Sinh địa 24-40g, Xuyên luyện tử 6g, sắc
nước uống (Nhất Quán Tiễn – Liễu Châu Y Thoại)
+
Trị suy nhược, thận hư, lưng đau, gối mỏi, di tinh, huyết trắng nhiều:
Thục địa 320g, Sơn dược (sao) 160g, Câu kỷ tử 160g, Sơn thù nhục 160g,
Ngưu tất 120g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giao (sao) 160g, Quy bản (sao) 160g,
tán bột, trộn mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12-16g, ngày 2-3 lần (Tả Quy
Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).
+ Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể dục:
Thục địa 320g, Sơn thù 1690, Sơn dược 160g, Đơn bì 80g, Trạch tả 80g,
Phục linh 80g, Cúc hoa 120g, Câu kỷ tử 120g. Tán bột, trộn với mật làm
hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-12g (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn – Y Cấp) .
+
Câu kỷ tử, Thục địa, Ngü vị tử, Mạch môn đông, Địa cốt bì, Thanh hoa,
Miết giáp, Ngưu tất trị âm hư lao nhiệt nóng bức rứt âm ỉ trong xương,
hoặc muốn dùng làm thuốc chính để trị phát sốt, lạnh thì thêm Thiên môn
đông, Bách bộ, Tz bà diệp, có thể trị được cả chứng ho do âm hư, phế
nhiệt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+
Câu kỷ tử, hái những quả chín đỏ hằng ngày, tẩm giấm, rượu,rồi lấy giấy
sáp phong niêm kín lại đừng làm cho bay hơi đủ hai tháng đổ vào chậu
khuấy nhừ nát lọc lấy nước rồi ngâm với rượu. Sau đó cho vào nồi bạc nấu
lửa liu riu nhỏ, đồng thời quấy luôn để khỏi dính và đều cho tới khi
thành cao như Mạch nha, cuối cùng bỏ vào bình sạch đậy kỹ, mỗi buổi sáng
uống mỗi lần 2 muỗng canh lớn, trước khi đi ngủ, liên tục trong 100
ngày mới thấy mạnh khỏe (Kim Tủy Tiễn – Kinh Nghiệm Phương).
+
Câu kỷ tử 2 thăng, vào ngày Nhâm qu{ tháng 10 giờ Dần, đứng quay về
hướng đông mà hái rồi lấy rượu tốt 2 thăng ngâm trong bình sứ 21 ngày
xong cho vào 3 thăng nước cốt Sinh địa trộn đều, niêm lại cho thật kín,
Đến ngày 30 trước tiết Lập xuân mở bình, uống một chén hâm nóng lúc bụng
đói, đến sau tiết lập xuân râu tóc bạc thì cüng biến thành đen. Cấm ăn
hành, tỏi, su hào (Câu Kỷ Tử – Kinh nghiệm phương).
+
Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể dục:
Cúc hoa 8g, Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g, sắc nước
uống (Cúc Thanh Thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+
Trị nam giới sinh dục suy yếu (vô sinh): Mỗi tối nhai 15g Câu kỷ tử,
liên tục 1 tháng, thường sau khi tinh dịch trở lại bình thường, uống
thêm 1 tháng. Trong thời gian uống thuốc, kiêng phòng dục. Đã trị 42 ca,
sau 1 liệu trình: hồi phục bình thường 23 ca, sau 2 tháng bình thường
10 ca, có 6 ca không có kết quả vì không có tinh trùng, 3 ca không kết
quả, theo dõi sau 2 năm, tinh dịch trở lại bình thường, 3 ca đã có con
(Đông Đức Vệ và cộng sự, ‘Kỷ Tử Trị Vô Sinh Nam Giới’, Tân Trung Tạp Chí
1987, 2: 92)
+
Trị dạ dầy viêm teo mạn tính: Dùng Kỷ tử rửa sạch, sao khô, giă nát,
đóng gói. Mỗi ngày uống 20g, chia làm 2 lần lúc bụng đói và nhai uống, 2
tháng là một liệu trình. Trong thời gian uống thuốc, ngưng tất cả các
loại thuốc khác. Đã trị 20 ca, theo dõi 2- 4 tháng, có kết quả tốt 15
ca, có kết quả 5 ca (Trần Thiệu Dung và cộng sự, ‘Báo Cáo 20 Ca Dạ Dầy
Viêm Teo Mạn Tính Điều Trị Bằng Câu Kỷ Tử,’ Trung Y Tạp Chí 1987, 2:
92).
+
Trị thận hư, tinh thiếu, lưng đau, vùng thắt lưng đau mỏi: Câu kỷ tử,
Hoàng tinh, 2 vị bằng nhau, tán bột, luyện mật làm viên, mỗi lần 12g,
ngày uống 2 lần với nước nóng (Câu Kỷ Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách)..
+
Trị Can hư sinh ra bệnh ở mắt, ra gió chảy nước mắt: Câu kỷ tử, dùng
rượu ngâm sau 3-7 ngày, mỗi lần uống 1-2 muỗng canh, ngày 2 lần (Câu Kỷ
Tửu – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Câu kỷ tử có tác dụng bổ tinh khí, bổ suy nhược làm cho người xinh
tươi hồng hào, sáng rõ tai mắt, yên thần định chí sống lâu (Bản Thảo
Dược Tính).
+ Câu kỷ tử làm cứng mạnh gân xương, sống dai lâu gìa, trừ phòng phong bệnh bổ hư lao, ích tinh khí (Thực Liệu Bản Thảo).
+
Câu kỷ tử chữa được những bệnh ở tim, ọe khan đau tim, đau họng khát
nước vì thận có bệnh cho nên hay làm nên chứng tiêu khát (Thang Dịch Bản
Thảo).
+ Câu kỷ tử có tính giúp cho thận, nhuận được phế, dùng nó ép lấy dầu thắp sáng đèn làm sáng mắt (Bản Thảo Cương Mục).
+
Câu kỷ tử có vị cay vừa, khí ấm vừa và mát, tính có thể lên xuống được,
vị nặng nên hay bổ âm nhưng tính của nó là âm trong có dương nên cổ
được khí. Xét cho đúng thì nó chỉ x t cho dương một phần nào thôi, chứ
không có tính cách kích động nên những người biết dùng thì dùng để tiếp
thêm sức cho Thục địa là đúng. Còn vấn đề công dụng của nó thì có thể
làm cho thông minh tai mắt, yên ổn tâm thần tăng thêm tinh tủy, cứng
mạnh gân xương, bù đắp vào những chỗ bất túc nhất là lao thương quá độ.
Vì vậy khi mà thận khí đã đầy đủ thì chứng tiêu khát không còn nữa, còn
những người bị chân âm suy tổn mà đau ở sau lưng dưới rốn, mê man dùng
nó thì công hiệu (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
+
Câu kỷ tử có vị ngọt tính bình là vị thuốc chính của Thận, vì vậy mà bổ
Thận ích tinh, khi Thận thủy đã mạnh thì gân xương rắn chắc vững vàng
nên chứng tiêu khát lui cả, còn những chứng mắt mờ, tai điếc, lưng đau,
chân yếu cüng theo đó mà biến mất (Bản Thảo Thông Nguyên).
+
Đi xa ngàn dặm thì không nên dùng Câu kỷ tử vì nó bổ thận quá cho nên
kích thích đến tình dục, nó có khí bình không nóng, nó có tác dụng bổ
thận chế hỏa, công hiệu như Thục địa nhưng chỉ tiếc khí nóng bứt rứt
trong xương muốn trừ nó mà chưa từng dùng được (Danh Y Biệt Lục).
+
Câu kỷ tử vị ngọt mát tính nhuận, các sách ghi rằng có tác dụng khu
phong, minh mục, mạnh gân xương, bổ tinh, tráng dương. X t đúng ra thì
Thận thủy suy thiếu uống vào có tính cam nhuận thì âm phải theo dương mà
sinh trưởng. Khi Thận thủy đã đầy đủ thì tự nhiên phong sẽ bị tán ngay,
vì thế nó có tác dụng làm sáng được tai mắt, cứng xương, mạnh gân. Đó
lại càng chứng minh rằng Câu kỷ tử là một vị thuốc tư thủy, do đó mà các
sách đều cho rằng nó có tác dụng chữa được tiêu khát. Ngày nay thấy nó
sắc đỏ mà tưởng lầm là thuốc bổ dương thì quá sai lầm. Tại sao không
biết rằng những thứ đã gọi là khí hàn thì có bao giờ mà bổ dương được?
Nếu cứ cho sắc đỏ đó là bổ dương thì Hồng hoa, Tử thảo thì sắc nó cüng
đỏ mà có ai quả quyết là thuốc bổ dương đâu, có kẻ lại cho rằng tính nó
hoạt huyết. Than ôi! đạo làm thầy thuốc mà không rành, chỉ hạn hẹp trong
mấy cuốn sách, nghĩ quẩn quanh, cái gì còn hồ nghi phải gắng sức nghiên
cứu cho tới đầu tới đuôi. Nói chung quy chỉ vì xem sách không tinh,
định câu không rõ nghĩa không thể nhận xét mà lý hội cho đến cùng, chỉ
biết một đoạn nào đó thì biết làm sao được! Chẳng hạn những bệnh thuộc
hư hàn mà dám dùng nó thì chuyện xảy ra chẳng những không thể bổ được
phần dương mà hư lại càng hư thêm rồi sinh ra những chứng tiêu chảy
không cầm được, có khi tới chết. Đó chính là sai một ly đi một dặm nó
biến chuyển nhanh như thế, sao lại cho rằng dùng thuốc không cần cẩn
thận lắm cüng được vậy mà? (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Câu tử có vị ngọt đắng tính lạnh, nhập vào kinh Can và Thận, có tác
dụng bổ âm tráng thủy, tưới nhuần được cho Can, thanh trừ được phong
độc. Nhờ được tính đắng mát cho nên Tz dễ tiết, với những dạng người có
bệnh Tz thổ khô táo, táo bón mới nên dùng nó; Với nhưng người có thủy
hàn khô thấp, trường vị hoạt tiết, tiêu lỏng, tiêu sệt luôn thì không
nên dùng nó vì có thể sinh ra tiêu chảy. Nếu ai gọi nó là thuốc trợ
dương khí là sai hoàn toàn (Trường Sa Dược Giải).
+
Dùng với Thục địa là rất hay, thuốc làm sáng mắt, thính tai, ích tinh,
cố tủy, kiện cốt, cường cân, chuyên bổ lao thương, chỉ tiêu khát, chân
âm hư mà bụng rốn đau không khỏi, dùng nhiều rất hay (Cảnh Nhạc Toàn
Thư’).
+ Câu kỷ tử chuyên bổ huyết, không thuốc nào hơn (Trùng Khánh Đường Tùy Bút).
+
Câu kỷ tử cảm khí xuân hàn của trời, lại được cả khí xung hòa của đất
để sinh ra, vị nó ngọt, tính bình cho nên là vị thuốc chính có công năng
chuyên bổ cho chân âm của Can và Thận. Họ Đào nói: Xa nhà ngàn dặm chớ
ăn Câu kỷ tử, ý nói sức cường dương của nó đó thôi (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+
Chu Nhụ Tử trông thấy bên chỗ khe suối có hai bụi rậm hoa xanh tươi
trông rất đẹp, bỗng thấy một chó lớn đuổi một con chó nhỏ phóng vào bụi
hoa gần ngay gốc cây Kỷ tử. Họ trông thấy vậy nhưng không biết nó biến
đi đâu, liền cùng nhau đào ở gốc cây Kỷ tử thì thấy ở gốc có hai cái rễ
lớn nhỏ như hai con chó nằm gọn ở đó, họ bèn đem về nấu ăn, tự nhiên
thấy khỏe, khoan khoái trong người. Ông nói đó là cây Kỷ tử của tiên
trồng có hơn cả ngàn năm nên mới hóa hình con chó (Trung Quốc Dược Học
Đại Từ Điển). + Tục truyền ngày xưa cây này mùa xuân gọi là Thiên tinh
tử, mùa hè gọi là Câu kỷ diệp, mùa thu gọi là Khước lão, mùa đông gọi là
Địa cốt bì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Câu kỷ tử còn cho lá và ngọn gọi là Câu kỷ hành diệp, có vị đắng,
tính lạnh, không độc, thường nấu với thịt dê ăn bổ, có tác dụng trừ
phong, sáng mắt. Có thể thay trà để uống, công dụng chỉ khát, hết bứt
rứt, nóng nảy, bổ sinh dục, giải độc của miến. Nó rất ghét sữa tô. Lấy
nước cốt của nó nhỏ vào mắt có tác dụng trừ mộng thịt ở mắt, màng đỏ ở
mắt, choáng váng, hoa mắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+
Cây còn cho mầm gọi là Câu kỷ miêu có vị đắng tính lạnh, có tác dụng
trừ phiền, ích chí, khu phong, minh mục, tiêu nhiệt độc, tán sang thủy
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+
Dùng hạt Câu kỷ tử loại ở Cam châu nấu chín, gĩa nát, trộn với men gạo
hoặc lấy hạt Câu kỷ cùng với Sinh địa hoàng chế thành rượu uống gọi là
rượu Câu kỷ (Câu Kỷ Tửu). Dùng hạt Câu kỷ trộn gạo nấu cháo có tác dụng
bổ tinh huyết, ích thận khí, thiếu huyết, thận suy dùng rất tốt gọi là
Câu kỷ tử chúc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Loại Câu kỷ ở Cam châu, Trung Quốc có màu đỏ thịt dẻo, ít hột là thứ tốt nhất (Trung Dược Đại Từ Điển).
+
Câu kỷ, hột của nó gọi là Câu kỷ tử, rễ gọi là Địa cốt bì. Rễ có vị
đắng hơn, tính hàn hơn, còn hột thì ngọt nhiều, đắng ít. Công dụng của
hai thứ này có khác nhau. Câu kỷ tử là thuốc tư bổ Thận âm, Địa cốt bì
là thuốc trị chứng nóng âm ỉ trong xương (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Phân biệt:
(1)
Ở Việt Nam không có loại Lycium chinensis Miller, mà có cây Câu kỷ
(Lycium ruthanicum Murray) cùng họ trên đó là cây cỏ, cành có gai. Lá
nguyên mọc so le. Hoa tím nhạt mọc ở kẽ lá. Quả hình trứng thuôn, khi
chín màu đỏ, có nhiều hạt. Cây được trồng nhiều nơi làm rau ăn và làm
thuốc. Trồng bằng cành hoặc hạt vào mùa xuân, chỉ dùng lá nấu canh và
chữa ho. Có khi quả chín đỏ được dùng thay thế Khởi tử, Vỏ rễ làm Địa
cốt bì, không đúng với cây trên, cần phải nghiên cứu lại.
(2) Vị này cho vỏ rễ của cây (Cortex lycii Chinensis) gọi là Địa cốt bì (Danh Từ Dược Học Đông Y).
No comments:
Post a Comment