Y học cổ truyền cho rằng:
Can tàng huyết, chủ về cân, khai khiếu ở mắt; Thận tàng tinh, chủ về xương, khai khiếu ở tai.
Hai
cơ quan này nằm ở phần dưới của cơ thể, có chức năng tương trợ lẫn
nhau, “Ất quý đồng nguyên, can thận đồng trị”, tinh huyết hỗ sinh.
Kỷ
tử là vị thuốc vào được cả kinh Can và Thận, một mặt bổ ích Thận tinh,
một mặt bổ dưỡng Can huyết nên có tác dụng chữa được các bệnh như đầu
choáng, hoa mắt, thị lực kém, tai ù, điếc, lưng đau gối mỏi, liệt dương,
di tinh…
Theo tài liệu cổ: Kỷ tử có vị ngọt, tính bình vào 3 kinh: Phế, can và thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt.
Câu kỷ tử là một loại quả có chỉ số đường huyết thấp:
Câu kỷ tử – 29. Táo – 38. Cam – 42. Chuối – 25. Nho khô – 64. Dưa hấu – 72
Chỉ số đường huyết của thực phẩm (GI) là con số đánh giá mức độ ảnh hưởng của thực phẩm tới lượng đường trong máu.
Một thực phẩm có chỉ số GI càng thấp thì lượng đường huyết tăng lên từ từ, đều đặn và giảm xuống chậm rãi nên lượng đường trong máu được ổn định, không kích thích tăng tạo insulin, không gây ra quá trình thèm ăn không kiểm soát như trên.
Câu kỷ tử là 1 thực phẩm giàu chất xơ giúp giảm cân:
Với 21% trọng lượng là chất xơ, khi dùng kỷ tử sẽ gây tăng cảm giác nhanh no, tăng đường huyết vừa phải.
Ngoài ra, kỷ tử còn cung cấp cho cơ thể một lương khoáng chất Chrom. Chrom vừa giúp kiểm soát lượng đường trong máu, vừa giúp tăng tạo cơ bắp, thúc đẩy sự trao đổi chất hiệu quả giúp giảm mỡ.
Câu Kỷ Tử kích thích quá trình đốt cháy năng lượng:
Kỷ tử chứa các chất giúp tăng quá trình đốt cháy thức ăn thành năng lượng thay vì tích trữ dưới dạng mỡ:
Mỗi quả kỳ tử được làm giàu với 18 axit amin, trong đó có 8 loại axit amin thiết yếu
Vitamin B1: tăng quá trình chuyển đổi carbonhydrat thành năng lượng và tốt cho tuyến giáp (gười bị suy giáp sẽ gây tăng cân). Canxi: ngoài việc giúp xương chắc khỏe, sự đầy đủ canxi còn liên quan đến mức độ thấp của chất béo trong cơ thể. Các khoáng chất khác: sự đầy đủ khoáng chất giúp quá trình chuyển hóa protein thêm hiệu quả. Ngoài canxi, chrom, câu kỷ tử còn chứa đồng, sắt, magie, mangan, phosphor, kali, selen, kẽm, natri.
Theo tài liệu cổ: Kỷ tử có vị ngọt, tính bình vào 3 kinh: Phế, can và thận, nhuận phế táo, mạnh gân cốt.
Câu kỷ tử là một loại quả có chỉ số đường huyết thấp:
Câu kỷ tử – 29. Táo – 38. Cam – 42. Chuối – 25. Nho khô – 64. Dưa hấu – 72
Chỉ số đường huyết của thực phẩm (GI) là con số đánh giá mức độ ảnh hưởng của thực phẩm tới lượng đường trong máu.
Một thực phẩm có chỉ số GI càng thấp thì lượng đường huyết tăng lên từ từ, đều đặn và giảm xuống chậm rãi nên lượng đường trong máu được ổn định, không kích thích tăng tạo insulin, không gây ra quá trình thèm ăn không kiểm soát như trên.
Câu kỷ tử là 1 thực phẩm giàu chất xơ giúp giảm cân:
Với 21% trọng lượng là chất xơ, khi dùng kỷ tử sẽ gây tăng cảm giác nhanh no, tăng đường huyết vừa phải.
Ngoài ra, kỷ tử còn cung cấp cho cơ thể một lương khoáng chất Chrom. Chrom vừa giúp kiểm soát lượng đường trong máu, vừa giúp tăng tạo cơ bắp, thúc đẩy sự trao đổi chất hiệu quả giúp giảm mỡ.
Câu Kỷ Tử kích thích quá trình đốt cháy năng lượng:
Kỷ tử chứa các chất giúp tăng quá trình đốt cháy thức ăn thành năng lượng thay vì tích trữ dưới dạng mỡ:
Mỗi quả kỳ tử được làm giàu với 18 axit amin, trong đó có 8 loại axit amin thiết yếu
Vitamin B1: tăng quá trình chuyển đổi carbonhydrat thành năng lượng và tốt cho tuyến giáp (gười bị suy giáp sẽ gây tăng cân). Canxi: ngoài việc giúp xương chắc khỏe, sự đầy đủ canxi còn liên quan đến mức độ thấp của chất béo trong cơ thể. Các khoáng chất khác: sự đầy đủ khoáng chất giúp quá trình chuyển hóa protein thêm hiệu quả. Ngoài canxi, chrom, câu kỷ tử còn chứa đồng, sắt, magie, mangan, phosphor, kali, selen, kẽm, natri.
Vị ngọt tính bình, qui kinh Can, Thận, Phế.
Theo các sách thuốc cổ:
- Sách Danh y biệt lục: hơi hàn không độc.
- Sách Dược tính bản thảo: ngọt, bình.
- Sách Thực liệu bản thảo: hàn, không độc.
- Sách Bản thảo hội ngôn: nhập túc thiếu âm, túc quyết âm kinh.
- Sách Bản thảo kinh giải: nhập túc thiếu âm thận kinh, thủ thiếu âm tâm kinh.
Carotene, thiamene, riboflavin, vitamin C, b-sitosterol, linoleic acid.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Kỷ tử có tác dụng tư bổ can thận, sinh tinh huyết, minh mục, nhuận phế.
Chủ trị các chứng can thận âm hư, âm huyết hư tổn, chứng tiêu khát, hư lao khái thấu.
Trích đoạn Y văn cổ:
Chủ trị các chứng can thận âm hư, âm huyết hư tổn, chứng tiêu khát, hư lao khái thấu.
Trích đoạn Y văn cổ:
- Sách Bản thảo kinh tập chú: " bổ ích tinh huyết, cường thịnh âm đạo".
- Sách Dược tính bản thảo: " bổ ích tinh bất túc. minh mục an thần".
- Sách Thực liệu bản thảo: " trừ phong, bổ ích gân cốt. khử hư lao".
- Sách Bản thảo cương mục: " tư thận, nhuận phế".
- Sách Bản thảo kinh sơ: " chuyên bổ thận, nhuận phế, sinh tân, ích khí, là thuốc chủ yếu bổ can thận chân âm bất túc. là thuốc tốt ích tinh, minh mục".
- Sách Cảnh nhạc toàn thư: ". dùng với Thục địa là rất hay, thuốc làm sáng mắt, rõ tai, ích tinh cố tủy, kiêïn cốt cường cân, thiện bổ lao thương, chỉ tiêu khát, chân âm hư mà bụng rốn đau không khỏi, dùng nhiều rất hay".
- Sách Trùng khánh đường tùy bút: " Câu kỷ tử chuyên bổ huyết, không dùng thuốc nào hơn ( chuyên bổ dĩ huyết, phi tha dược sở năng cập dã)".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
- Thuốc có tác dụng tăng cường miễn dịch không đặc hiệu. Trên súc vật thực nghiệm có tác dụng khả năng thực bào của hệ lưới nội mô, kết quả nghiên cứu gần đây cho biết Kỷ tử có tác dụng nâng cao khả năng thực bào của tế bào thực bào, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể, chứng tỏ Kỷ tử có tác dụng tăng cường tính miễn dịch của cơ thể, thành phần có tác dụng là Polysaccharide Kỷ tử.
- Thuốc có tác dụng tăng cường chức năng tạo máu của chuột nhắt.
- Chất Betain là chất kích thích sinh vật cho vào thức ăn cho gà ăn có tác dụng tăng trọng và đẻ trứng nhiều hơn, cũng làm cho chuột nhắt tăng trọng rõ.
- Thuốc có tác dụng hạ cholesterol của chuột cống, chất Betain của thuốc có tác dụng bảo vệ gan chống thoái hóa mỡ, hạ đường huyết.
- Chất chiết xuất nước của thuốc có tác dụng hạ huyết áp, ức chế tim, hưng phấn ruột ( tác dụng như cholin), chất Betain thì không có tác dụng này.
- Nước sắc Kỷ tử có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập của thỏ.
- Thuốc có tác dụng ức chế ung thư đối với chuột nhắt S180. Các tác giả Nhật bản có báo cáo năm 1979 là: lá và quả Kỷ tử có tác dụng ức chế tế bào ung thư trong ống nghiệm. Các tác giả Trung quốc trên thực nghiệm cũng phát hiện thuốc lá ( lá, quả và cuống quả của Kỷ tử Ninh hạ) có tác dụng ức chế ở mức độ khác nhau hai loại tế bào ung thư ở người.
Ứng dụng lâm sàng:
Là vị thuốc thường dùng Bổ can,
thận, thuốc không hàn, không nhiệt, âm hư dương hư đều dùng được, nhưng
phần lớn dùng cho chứng âm hư.
1.Trị bệnh về gan ( viêm gan mạn, xơ gan thuộc thể âm hư): thuốc
có tác dụng bảo vệ gan, thường phối hợp với Đương qui để bổ huyết; Sa
sâm, Mạch môn để tư âm; Xuyên luyện tử để thư can, dùng bài:
- Nhất quán tiển ( Liễu châu y thoại): Bắc sa sâm 12g, Mạch môn 12g, Đương qui 12g, Kỷ tử 12 - 24g, Sinh địa 24 - 40g, Xuyên luyện tử 6g, sắc nước uống.
2.Trị chứng suy nhược, thận hư, lưng gối nhức mỏi, di tinh, huyết trắng nhiều: thường
phối hợp với Thục địa, Đỗ trọng, Nữ trinh tử, dùng bài Tả qui hoàn (
Cảnh nhạc toàn thư): Thục địa 320g, Sơn dược (sao) 160g, Câu kỷ tử 160g,
Sơn thù nhục 160g, Xuyên Ngưu tất 120g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giao ( sao)
160g, Qui bản ( sao) 160g, tất cả tán bột mịn làm hoàn, mỗi lần uống 12
- 16g, trường hợp ho lao lâu ngày thêm Mạch môn, Ngũ vị tử.
3.Dùng trong bệnh nhãn khoa, trị chứng hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi già, đục thủy tinh thể: thường phối hợp với Cúc hoa, bài thuốc:
- Kỷ cúc địa hoàng hoàn ( Y cấp) tức bài Lục vị gia Kỷ tử Cúc hoa.
- Cúc thanh thang: Cúc hoa 8g, Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g, sắc nước uống.
4.Trị nam giới suy sinh dục ( vô sinh): Mỗi
tối nhai ăn Câu kỷ tử 15g, liệu trình 1 tháng, thường sau khi tinh dịch
trở lại bình thường, uống thêm 1 tháng. Thời gian uống thuốc, kiêng
phòng dục. Đã trị 42 ca sau 1 liệu trình hồi phục bình thường 23 ca, sau
2 tháng bình thường 10 ca, có 6 ca không kết quả vì không có tinh
trùng, 3 ca không kết quả, theo dõi sau 2 năm tinh dịch trở lại bình
thường 33 đã có con ( Động Đức Vệ và cộng sự, Kỷ tử trị vô sinh nam
giới, Báo tân trung y 1988,2:20).
5.Trị viêm teo bao tử mạn tính: dùng
Kỷ tử rửa sạch, sao khô, giã nát, đóng gói. Mỗi ngày uống 20g, chia làm
2 lần lúc bụng đói và nhai uống, 2 tháng là 1 liệu trình. Trong thời
gian uống thuốc, ngưng tất cả các loại thuốc khác. Đã trị 20 ca, theo
dõi 2 - 4 tháng, có kết quả tốt 15 ca, có kết quả 5 ca ( Trần thiệu Dung
và cộng sự. Báo cáo 20 ca viêm teo bao tử mạn tính điều trị bằng Câu kỷ
tử, Tạp chí Trung y 1987,2:92).
Liều lượng và chú ý lúc dùng:
·
Liều thường dùng: 8 - 24g, ngoài thuốc thang còn
có thể dùng ngâm rượu, dùng độc vị.
·
Chú ý: Thuốc có tính chất nê trệ nên thận trọng
đối với những người tỳ vị hư yếu, tiêu chảy kéo dài.
Giới thiệu một số bài thuốc
đơn giản:
·
Rượu Khởi tử: Khởi tử 600g, rượu 35 - 40 độ 2
lít. Giã nhỏ Khởi tử, cho rượu vào ngâm trong 2 tuần lễ trở lên, lọc lấy rượu
mà uống, ngày uống 1 - 2 cốc làm thuốc bổ.
·
Đơn thuốc bổ chữa di tinh: Khởi tử 6g, Ngũ vị tử
2g, Nhục thung dung 2g, Sinh khương 2g, Cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml,
chia 3 lần uống trong ngày.
·
Lá Khởi tử ( Rau củ Khởi): nấu canh với thịt để
chữa ho, sốt.
·
Địa cốt bì ( vỏ rể cây Khởi tử) trị xuất huyết:
- Bài thuốc chữa thổ huyết: sắc
12g Địa cốt bì với 200ml nước, uống trong ngày.
- Bài thuốc chữa tiểu tiện ra
huyết: Địa cốt bì tươi, rửa sạch, giã lấy nước uống, mỗi lần 25 - 30g.
- Bài thuốc trị âm hộ lở lóet: sắc nước Địa cốt bì rửa.
Công dụng của Câu kỷ theo đông y
Câu kỷ tử có vị ngọt tính bình, vào hai
kinh can thận, đại bổ phế thận, có công dụng dưỡng gan, làm mát gan,
sáng mắt, ích tinh, giải được khí nóng trong người, chứng phổi nóng,
ruột nóng, khát nước, chứng phong hàn, đau nhức do phong thấp, nó được
coi là vị thuốc bổ toàn thân dùng cho cơ thể suy nhược, sinh tinh huyết,
chữa hư lao tổn, mạnh gân cốt, thông lợi đại tiểu trường, có tác dụng
bổ huyết, thêm khí lực, ức chế tế bào ung thư. Uống nhiều sẽ khỏe mạnh,
thân thể nhẹ nhàng, chống lão hóa, đẹp nhan sắc, tăng tuổi thọ.
1-Cách chế thuốc cao bổ Câu kỷ tử :
Đông y dùng Trái Câu kỷ chín tẩm dấm và
rượu cho vào bình thủy tinh đậy kín trong 2 tháng, rồi cho vào chậu men
cho thêm rượu quậy nát nhừ, gạn nước cốt, sau đó nấu cạn, quậy cho đều
cho đến khi đặc lại thành cao. Đổ cao vào bình sạch để dành. Sáng và tối
mỗi lần uống 1-2 thìa với nước nóng hay pha thêm với một ít rượu hâm
nóng. Sách đông y nói ai uống được đủ 100 ngày, thân thể nhẹ nhàng, hình
dung tươi tỉnh, khí lực dồi dào. Cho nên người xưa đã có câu ‘’Ly gia thiên lý nhân vật phục’’, Nghĩa là ai đi xa ngàn dặm, chớ dùng bởi vì nó bổ mạnh khiến người ta động lòng tình dục.
2-Rượu Câu kỷ tử :
Dùng 1kg Câu kỷ tử khô ngâm với 1 lít rượu sau 21 ngày thì uống được. Chữa các bệnh sau:
Mỗi sáng sớm uống 1 chén nhỏ, uống nguội
pha với nước sôi hoặc để nguyên chất hâm nóng. Khi uống gần hết thì
ngâm tiếp tục. Uống nhiều râu tóc sẽ đen lại, sức lực dồi dào khỏe mạnh.
Chữa được gan hư yếu hay làm chảy nước mắt, Chữa phổi yếu làm ho lâu
ngày không khỏi, chữa người nóng lạnh, sốt.
3-Cháo Câu kỷ tử :
Dùng Câu kỷ tử khô 100g nấu chung với cháo trắng ăn để bổ tinh huyết, ích thận khí, chữa bệnh thận suy, huyết thiếu.
4-Chữa mắt đau đỏ, có màng mộng.
Dùng Câu kỷ tử trái tươi, ép vát lấy nước cốt, lọc sạch, nhỏ vào mắt ngày 3 lần, hiệu nghiệm như thần.
5-.Chữa người suy nhược buồn phiền, cổ khô khát.
Dùng Câu kỷ tử và Ngũ vị tử bắng nhau, nghiền nhỏ, pha với nước sôi uống thay trà.
6-Chữa da mặt nám đen, mụn sần sùi.
Dùng Câu kỷ tử 10 cân (pounds), Sinh địa hoàng
3 cân, làm thành bột. hoặc viên to bằng
hạt nhãn. MỗI lần uống 10 viên với nước nóng, uống lâu nhan sắc xinh
tươi, da mặt trắng trẻo.
7-Tăng cường hệ miễn dịch.
Uống nước sắc Câu kỷ đặc với liều
2,5g/kg/ngày làm tăng khả năng thực bào, hệ thống miễn dịch của
ngườiI già suy giảm sẽ được điều chỉnh làm chuyển hóa nguyên bạch cầu
leukocytoblast, globulin miễn dịch trong huyết thanh IgG, IgA, IgM đều
tăng. Tăng kháng thể hồng cầu của huyết thanh và tăng số lượng tế bào có
kháng thể trong lách.
8-Hạ đường huyết.
Những ngườI già trên 60 tuổi uống Câu kỷ
tử dạng chiết suất liều 100mg trong 4 tuần thì cholesterol- huyết,
beta-lipoprotein và triglyceride đều giảm.
9-Bảo vệ gan.
Trong Câu kỷ tử có chứa betain có tác dụng bảo vệ gan chống lại những tổn thương do tetrachlorure carbon gây ra.
10-Chậm lão suy.
NgườI già dùng mỗi ngày 5-10g Câu kỷ tử trong
10 ngày liên tiếp làm tăng hoạt
độ của men SOD (Superoxide dimustase) tới 48%, Hb (Hémoglobin)
tăng 12% và lipide peroxide giảm 65%.
11-Làm tăng bạch cầu chống bệnh.
Những bệnh nhân ung thư, nếu do chất
cyclophosphamide trong điều trị bệnh ung thư làm bạch cầu giảm, dùng Câu
kỷ tử mỗi ngày trong 2 tuần lễ sẽ tăng thêm số lượng bạch cầu.
Chống chỉ định :
Câu kỷ tử tính hàn dễ bị tiêu chảy. Những người có bệnh đường ruột thường bị tiêu chảy, hoặc tỳ vị hư hàn thì không được dùng.
CÂU KỶ TỬ 枸 杞 子
Fructus Lycii.
Xuất xứ: Bản Kinh.
Tên Việt Nam: Kỷ tử, Câu khởi, Khởi tử, Địa cốt tử, Khủ khởi.
Tên khác:
Cẩu kế tử (Nhĩ Nhã), Cẩu cúc tử (Bản Thảo Diễn Nghĩa), Khổ kỷ tử (Thi
Sơ), Điềm thái tử (Bản Thảo Đồ Kinh), Thiên tinh tử (Bảo Phát), Địa cốt
tử, Địa tiết tử (Bản Kinh), Địa tiên tử (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Khước
lão tử, Dương nhủ tử, Tiên nhân trượng tử, Tây vương mẫu trượng tử, Cẩu
kỵ tử, (Biệt Lục), Xích bảo, Linh bàng tử, Nhị thi lục, Tam thi lục,
Thạch nạp cương, Thanh tinh tử, Minh nhãn thảo tử, Tuyết áp san hô (Hòa
Hán Dược Khảo).
Tên khoa học: Fructus Lycii.
Họ khoa học: Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Mô tả:
Là cây bụi mọc đứng, phân cành nhiều, cao 0,5-1,5m. Cành mảnh, thỉnh
thoảng có gai ngắn mọc ở kẽ lá. Lá nguyên nhẵn, mọc cách, một số mọc
vòng, cuống lá ngắn, phiến lá hình mũi mác, hẹp đầu ở gốc. Hoa nhỏ mọc
đơn độc ở kẽ lá hoặc có một số hoa mọc chụm lại. Đài nhẵn, hình chuông,
có 3-4 thùy hình trái xoan nhọn, xẻ đến tận giữa ống. Tràng màu tím đỏ,
hình phễu, chia 5 thùy hình trái xoan tù, có lông ở mép. Nhị 5, chỉ nhị
hình chỉ đính ở đỉnh của ống tràng, dài hơn tràng. Bầu có 2 ô, vòi nhụy
nhẵn dài bằng nhụy, đầu nhụy chẻ đôi. Quả mọng hình trứng, khi chín màu
đỏ sầm, hoặc vàng đỏ. Hạt nhiều hình thân dẹp. Ra hoa từ tháng 6-9, có
quả từ tháng 7-10.
Địa lý: Có nhiều ở Trung Quốc nước ta còn phải nhập, có ở các tỉnh biên giới Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam.
Phần dùng làm thuốc: Dùng quả khô rụng (Fructus Lycii).
Mô tả dược
liệu: Quả khô Câu kỷ tử hình bầu dục dài khoảng 0,5-1cm, đường kính
khoảng hơn 0,2cm. Vỏ quả màu tím đỏ hoặc đỏ tươi, mặt ngoài nhăn teo bên
trong có nhiều hạt hình tạng Thận màu vàng, có một đầu có vết của cuống
quả, không mùi, vị ngọt hơi chua, sau khi nếm nước bọt có màu vàng
hồng. Loại sản xuất ở Cam túc có quả tròn dài, hạt ít, vị ngọt là loại
tốt nhất nên gọi là Cam kỷ tử hay Cam câu kỷ (Dược Tài Học).
Thu hái, sơ chế:
Hái quả hàng năm vào tháng 8-9, phơi khô. Khi quả chín đỏ hái vào sáng
sớm hoặc chiều mát, trải mỏng, phơi trong râm mát cho đến khi bắt đầu
nhăn mới phơi chỗ nắng nhiều cho đến khi thật khô.
Bào chế:
+ Lựa thứ quả đỏ tươi, tẩm rượu vừa đều để một hôm, giã dập dùng.
+ Thường dùng sống, có khi tẩm rượu sấy khô, hoặc tẩm mật rồi sắc lấy nước đặc, sấy nhẹ cho khô, đem tán bột mịn.
Bảo quản: Đựng vào lọ kín để nơi khô ráo, nếu bị thâm đen đem xông diêm sinh hoặc phun rượu, xóc lên sẽ trở lại màu đỏ đẹp.
Thành phần hóa học:
+ Thành phần chủ yếu có Betain, nhiều loại axit amin, polysaccharid,
vltamin B1, B2, C, acid nicotinic, Ca, P, Fe.. . (Trung Dược Học).
+ Trong Kỷ tử có chừng 0,09% chất Betain (C5H11O2N) (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trong 100g quả có 3,96mg Caroten, 150mg Canxi, 6,7mg P, 3,4mg sắt,
3mg Vit C, 1, 7mg axit nicotic, 0,23mg Amon sunfat (Từ Quốc Quân và
Triệu Thủ Huấn - Dược Tài Học, Bắc Kinh 1960 : 513)
+ Trong
Khởi tử có Lysin, Cholin, Betain, 2,2% chất béo và 4,6% chất Protein,
Acid cyanhydric và có thể có Atropin (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt
Nam).
+ Carotene, Thiameme, Riboflavin, Vitamin C, b-Sitosterol, Linoleic acid (Chinese Herbal Medicine).
+ Betain (Nishiyama R, C A 1965, 63 (4) : 4660).
+ Valine, Glutamine, Asparagine (Nishiyama R, C A 1963, 59 (11) : 13113b).
+ Trong 100g Câu kỷ tử có Carotene 3,39mg, Thiamine 0,23g,
Riboflavine 0,33mg, Nicotinic acid 1,7mg, Vitamin C 3mg (Từ Quốc Quân,
Dược Tài Học, Bắc Kinh 1960 : 513).
Tác dụng dược lý:
. Thuốc có tác dụng tăng cường miễn dịch không đặc hiệu. Trên súc vật
thực nghiệm có tác dụng tàng cường khả năng thực bào của hệ lưới nội
mô, kết quả nghiên cứu gần đây cho biết Kỷ tử có tác dụng nâng cao khả
năng thực bào của tế bào đại thực bào, tăng hoạt lực của enzym dung
khuẩn của huyết thanh, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể, chứng tỏ Kỷ
tử có tác dụng tăng cường tính miễn dịch của cơ thể, thành phần có tác
dụng là Polysaccharide Kỷ tử (Trung Dược Học).
. Thuốc có tác dụng tăng cường chức năng tạo máu của chuột nhắt (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
. Chất Betain là chất kích thích sinh vật, cho vào thức ăn cho gà ăn
có tác dụng tăng trọng và đẻ trứng nhiều hơn, cũng làm cho chuột nhắt
tăng trọng rõ (Trung Dược Học).
. Thuốc có tác dụng hạ
Cholesterol của chuột cống, chất Betain của thuốc có tác dụng bảo vệ
gan chống thoái hóa mỡ, hạ đường huyết (Trung Dược Học).
. Chất
chiết xuất nước của thuốc có tác dụng hạ huyết áp ức chế tim, hưng phấn
ruột (tác dụng như Cholin). Chất Betain không có tác dụng này (Trung
Dược Học).
. Nước sắc Kỷ tử có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập của thỏ (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
. Thuốc có tác dụng ức chế ung thư đối với chuột nhắt S180. Các học
giả Nhật Bản có báo cáo năm 1979 là lá và quả Kỷ tử có tác dụng ức chế
tế bào ung thư trong ống nghiệm (Trung Dược Học).
+ Các tác giả
Trung Quốc trên thực nghiệm cũng phát hiện thuốc (lá, quả và cuống quả
của Kỷ tử (vùng Ninh Hạ) có tác dụng ức chế ở mức độ khác nhau hai
loại tế bào ung thư ở người (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Tính hơi hàn, không độc (Danh Y Biệt Lục).
+ Vị ngọt, tính bình (Dược Tính Bản Thảo).
+ Vị hàn, không độc (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Vị ngọt, tính bình (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Vị ngọt, tính bình (Trung Dược Học).
Qui kinh:
+ Vào kinh túc Thiếu âm Thận, túc Quyết âm Can (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vào kinh túc thiếu âm Thận, thủ Thiếu âm tâm ( Bản Thảo Kinh Giải).
+ Vào kinh Can, Thận, Phế (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Can, Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tác dụng:
+ Bổ ích tinh huyết, cường thịnh âm đạo (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Bổ ích tinh bất túc, minh mục, an thần (Dược Tính Bản Thảo).
+ Trừ phong, bổ ích gân cốt, khử hư lao (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Tư Thận, nhuận Phế (Bản Thảo Cương Mục).
+ Chuyên bổ Thận, nhuận Phế, sinh tân, ích khí, là thuốc chủ yếu bổ
can Thận chân âm bất túc, là thuốc tốt để ích tinh, minh mụ c... (Bản
Thảo Kinh Sơ)
+ Kỷ tử có tác dụng tư bổ can Thận, sinh tinh huyết, minh mục, nhuận Phế (Trung Dược Học).
+ Tư dưỡng Can Thận (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chủ trị:
+ Trị xoay xẫm, chóng mặt do huyết hư, thắt lưng đau, di tinh, tiểu đường (Trung Dược Học).
+ Trị các chứng can Thận âm hư, âm huyết hư tổn, chứng tiêu khát, hư lao, khái thấu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Liều dùng: 8 – 20g.
Kiêng kỵ:
+ Câu kỷ tử có tính chất nê trệ, vì vậy, Thận trọng đối với những
bênh nhân tỳ vị hư yếu, tiêu chảy kéo dài (Trung Dược Học).
+
Tỳ vị suy nhược, tỳ hư thấp trệ tiêu chảy cấm dùng, có ngoại tà thực
nhiệt cấm dùng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị mắt đỏ, mắt sinh mộc thịt: Câu kỷ giã nát lấy nước, điểm 3-4 lần vào khóe mắt, rất hiệu nghiệm (Trửu Hậu Phương).
+ Trị mặt nám, da mặt sần sùi: Câu kỷ 10 cân, Sinh địa 3 cân, tán
bột, uống 1 muỗng với rượu nóng, ngày uống 3 lần, uống lâu da đẹp như
con nít (Thánh Huệ Phương).
+ Trị chảy nước mắt do Can hư: Câu
kỷ tử 960g bọc trong túi lụa ngâm trong rượu, đậy thật kín , 21 ngày sau
uống (Long Mộc Luận).
+ Trị Can Thận âm hư, sốt về chiều, ra
mồ hôi trộm, mắt mờ, hoa mắt, hoặc đau rít sáp trong mắt: Câu kỷ tử,
Cúc hoa mỗi thứ 12g, Thục địa 16g, Sơn dược mỗi thứ 8g, Phục linh, Đơn
bì, Trạch tả mỗi thứ 6g. Tán bột trộn làm viên. Mỗi lần uống 12g ngày 2
lần, với nước muối nhạt (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).
+ Trị suy nhược vào mùa hè, không chịu nổi với thời tiết: Câu kỷ tử,
Ngũ vị tử, tán bột pha nước sôi uống thay trà (Nhiếp Sinh Chúng Diệu
Phương).
+ Trị suy nhược, Thận hư, hoa mắt, mắt mộng thịt: Cam
câu kỷ tử 1 cân, ngâm cho thấm với rượu ngon rồi chia làm 4 phần, 1
phần sao với 40g Thục tiêu, 1 phần sao với 40g Tiểu hồi hương, 1 phần
sao với 40g Chi ma (mè), 1 phần sao với Câu kỷ không thôi. Thêm Thục
địa, Bạch truật, Bạch phục linh mỗi thứ 40g, tán bột, luyện mật làm viên
uống hằng ngày (Tứ Thần Hoàn - Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương).
+ Trị gan viêm mạn tính, gan xơ do âm hư: Bắc sa sâm 12g, Mạch môn
12g, Đưung qui 12g, Kỷ tử 12-24g, Sinh địa 24-40g, Xuyên luyện tử 6g,
sắc nước uống (Nhất Quán Tiễn - Liễu Châu Y Thoại)
+ Trị suy
nhược, Thận hư, lưng đau, gối mỏi, di tinh, huyết trắng nhiều: Thục địa
320g, Sơn dược (sao) 160g, Câu kỷ tử 160g, Sơn thù nhục 160g, Ngưu tất
120g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giao (sao) 160g, Quy bản (sao) 160g, tán bột,
trộn mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12-16g, ngày 2-3 lần (Tả Quy Hoàn – Cảnh
Nhạc Toàn Thư).
+ Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi
già, thủy tinh thể dục: Thục địa 320g, Sơn thù 1690, Sơn dược 160g,
Đơn bì 80g, Trạch tả 80g, Phục linh 80g, Cúc hoa 120g, Câu kỷ tử 120g.
Tán bột, trộn với mật làm hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-12g (Kỷ
Cúc Địa Hoàng Hoàn - Y Cấp) .
+ Câu kỷ tử, Thục địa, Ngũ vị tử,
Mạch môn đông, Địa cốt bì, Thanh hoa, Miết giáp, Ngưu tất trị âm hư lao
nhiệt nóng bức rứt âm ỉ trong xương, hoặc muốn dùng làm thuốc chính để
trị phát sốt, lạnh thì thêm Thiên môn đông, Bách bộ, Tỳ bà diệp, có thể
trị được cả chứng ho do âm hư, Phế nhiệt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ
Điển).
+ Câu kỷ tử, hái những quả chín đỏ hằng ngày, tẩm giấm,
rượu ,rồi lấy giấy sáp phong niêm kín lại đừng làm cho bay hơi đủ hai
tháng đổ vào chậu khuấy nhừ nát lọc lấy nước rồi ngâm với rượu. Sau đó
cho vào nồi bạc nấu lửa liu riu nhỏ, đồng thời quấy luôn để khỏi dính và
đều cho tới khi thành cao như Mạch nha, cuối cùng bỏ vào bình sạch đậy
kỹ, mỗi buổi sáng uống mỗi lần 2 muỗng canh lớn, trước khi đi ngủ, liên
tục trong 100 ngày mới thấy mạnh khỏe (Kim Tủy Tiễn - Kinh Nghiệm
Phương).
+ Câu kỷ tử 2 thăng, vào ngày Nhâm quý tháng 10 giờ
Dần, đứng quay về hướng đông mà hái rồi lấy rượu tốt 2 thăng ngâm trong
bình sứ 21 ngày xong cho vào 3 thăng nước cốt Sinh địa trộn đều, niêm
lại cho thật kín, Đến ngày 30 trước tiết Lập xuân mở bình, uống một chén
hâm nóng lúc bụng đói, đến sau tiết lập xuân râu tóc bạc thì cũng biến
thành đen. Cấm ăn hành, tỏi, su hào (Câu Kỷ Tử - Kinh nghiệm phương).
+ Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi già, thủy tinh thể
dục: Cúc hoa 8g, Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g, sắc
nước uống ( Cúc Thanh Thang - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+
Trị nam giới sinh dục suy yếu (vô sinh) : Mỗi tối nhai 15g Câu kỷ tử ,
liên tục 1 tháng, thường sau khi tinh dịch trở lại bình thường, uống
thêm 1 tháng. Trong thời gian uống thuốc, kiêng phòng dục. Đã trị 42 ca,
sau 1 liệu trình: hồi phục bình thường 23 ca, sau 2 tháng bình thường
10 ca, có 6 ca không có kết quả vì không có tinh trùng, 3 ca không kết
quả, theo dõi sau 2 năm, tinh dịch trở lại bình thường, 3 ca đã có con
(Đông Đức Vệ và cộng sự , ‘Kỷ Tử Trị Vô Sinh Nam Giới’, Tân Trung Tạp
Chí 1987, 2 : 92)
+ Trị dạ dầy viêm teo mạn tính: Dùng Kỷ tử
rửa sạch, sao khô, giă nát, đóng gói. Mỗi ngày uống 20g, chia làm 2 lần
lúc bụng đói và nhai uống, 2 tháng là một liệu trình. Trong thời gian
uống thuốc, ngưng tất cả các loại thuốc khác. Đã trị 20 ca, theo dõi 2- 4
tháng, có kết quả tốt 15 ca, có kết quả 5 ca (Trần Thiệu Dung và cộng
sự, ‘Báo Cáo 20 Ca Dạ Dầy Viêm Teo Mạn Tính Điều Trị Bằng Câu Kỷ Tử,’
Trung Y Tạp Chí 1987, 2 : 92).
+ Trị Thận hư, tinh thiếu, lưng
đau, vùng thắt lưng đau mỏi: Câu kỷ tử, Hoàng tinh, 2 vị bằng nhau, tán
bột, luyện mật làm viên, mỗi lần 12g, ngày uống 2 lần với nước nóng
(Câu Kỷ Hoàn - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)..
+
Trị Can hư sinh ra bệnh ở mắt, ra gió chảy nước mắt: Câu kỷ tử, dùng
rượu ngâm sau 3-7 ngày, mỗi lần uống 1-2 muỗng canh, ngày 2 lần (Câu Kỷ
Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Đi xa ngàn dặm thì không nên dùng Câu kỷ tử vì nó bổ Thận quá cho
nên kích thích đến tình dục, nó có khí bình không nóng, nó có tác dụng
bổ Thận chế hỏa, công hiệu như Thục địa nhưng chỉ tiếc khí nóng bứt rứt
trong xương muốn trừ nó mà chưa từng dùng được (Danh Y Biệt Lục).
+ Câu kỷ tử có tác dụng bổ tinh khí, bổ suy nhược làm cho người xinh
tươi hồng hào, sáng rõ tai mắt, yên thần định chí sống lâu (Bản Thảo
Dược Tính).
+ Câu kỷ tử làm cứng mạnh gân xương, sống dai lâu già, trừ phòng phong bệnh bổ hư lao, ích tinh khí (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Câu kỷ tử chữa được những bệnh ở tim, ọe khan đau tim, đau họng
khát nước vì Thận có bệnh cho nên hay làm nên chứng tiêu khát (Thang
Dịch Bản Thảo).
+ Câu kỷ tử có tính giúp cho Thận, nhuận được Phế, dùng nó ép lấy dầu thắp sáng đèn làm sáng mắt (Bản Thảo Cương Mục).
+ Câu kỷ tử có vị cay vừa, khí ấm vừa và mát, tính có thể lên xuống
được, vị nặng nên hay bổ âm nhưng tính của nó là âm trong có dương nên
cổ được khí. Xét cho đúng thì nó chỉ xét cho dương một phần nào thôi,
chứ không có tính cách kích động nên những người biết dùng thì dùng để
tiếp thêm sức cho Thục địa là đúng. Còn vấn đề công dụng của nó thì có
thể làm cho thông minh tai mắt, yên ổn tâm thần tăng thêm tinh tủy, cứng
mạnh gân xương, bù đắp vào những chỗ bất túc nhất là lao thương quá độ.
Vì vậy khi mà Thận khí đã đầy đủ thì chứng tiêu khát không còn nữa, còn
những người bị chân âm suy tổn mà đau ở sau lưng dưới rốn, mê man dùng
nó thì công hiệu (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
+ Câu kỷ tử có vị ngọt
tính bình là vị thuốc chính của Thận, vì vậy mà bổ Thận ích tinh, khi
Thận thủy đã mạnh thì gân xương rắn chắc vững vàng nên chứng tiêu khát
lui cả, còn những chứng mắt mờ, tai điếc, lưng đau, chân yếu cũng theo
đó mà biến mất (Bản Thảo Thông Nguyên).
+ Câu kỷ tử vị ngọt mát
tính nhuận, các sách ghi rằng có tác dụng khu phong, minh mục, mạnh
gân xương, bổ tinh, tráng dương. Xét đúng ra thì Thận thủy suy thiếu
uống vào có tính cam nhuận thì âm phải theo dương mà sinh trưởng. Khi
Thận thủy đã đầy đủ thì tự nhiên phong sẽ bị tán ngay, vì thế nó có tác
dụng làm sáng được tai mắt, cứng xương, mạnh gân. Đó lại càng chứng
minh rằng Câu kỷ tử là một vị thuốc tư thủy, do đó mà các sách đều cho
rằng nó có tác dụng chữa được tiêu khát. Ngày nay thấy nó sắc đỏ mà
tưởng lầm là thuốc bổ dương thì quá sai lầm. Tại sao không biết rằng
những thứ đã gọi là khí hàn thì có bao giờ mà bổ dương được? Nếu cứ cho
sắc đỏ đó là bổ dương thì Hồng hoa, Tử thảo thì sắc nó cũng đỏ mà có ai
quả quyết là thuốc bổ dương đâu, có kẻ lại cho rằng tính nó hoạt huyết.
Than ôi! đạo làm thầy thuốc mà không rành, chỉ hạn hẹp trong mấy cuốn
sách, nghĩ quẩn quanh, cái gì còn hồ nghi phải gắng sức nghiên cứu cho
tới đầu tới đuôi. Nói chung quy chỉ vì xem sách không tinh, định câu
không rõ nghĩa không thể nhận xét mà lý hội cho đến cùng, chỉ biết một
đoạn nào đó thì biết làm sao được! Chẳng hạn những bệnh thuộc hư hàn mà
dám dùng nó thì chuyện xảy ra chẳng những không thể bổ được phần dương
mà hư lại càng hư thêm rồi sinh ra những chứng tiêu chảy không cầm được,
có khi tới chết. Đó chính là sai một ly đi một dặm nó biến chuyển nhanh
như thế, sao lại cho rằng dùng thuốc không cần cẩn Thận lắm cũng được
vậy mà? (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Câu tử có vị ngọt đắng tính
lạnh, nhập vào kinh Can và Thận, có tác dụng bổ âm tráng thủy, tưới
nhuần được cho Can, thanh trừ được phong độc. Nhờ được tính đắng mát cho
nên Tỳ dễ tiết, với những dạng người có bệnh Tỳ thổ khô táo, táo bón
mới nên dùng nó; Với nhưng người có thủy hàn khô thấp, trường vị hoạt
tiết, tiêu lỏng, tiêu sệt luôn thì không nên dùng nó vì có thể sinh ra
tiêu chảy. Nếu ai gọi nó là thuốc trợ dương khí là sai hoàn toàn (Trường
Sa Dược Giải).
+ Dùng với Thục địa là rất hay, thuốc làm sáng
mắt, thính tai, ích tinh, cố tủy, kiện cốt, cường cân, chuyên bổ lao
thương, chỉ tiêu khát, chân âm hư mà bụng rốn đau không khỏi, dùng nhiều
rất hay (Cảnh Nhạc Toàn Thư').
+ Câu kỷ tử chuyên bổ huyết, không thuốc nào hơn (Trùng Khánh Đường Tùy Bút).
+ Câu kỷ tử cảm khí xuân hàn của trời, lại được cả khí xung hòa của
đất để sinh ra, vị nó ngọt, tính bình cho nên là vị thuốc chính có công
năng chuyên bổ cho chân âm của Can và Thận. Họ Đào nói: Xa nhà ngàn dặm
chớ ăn Câu kỷ tử, ý nói sức cường dương của nó đó thôi (Dược Phẩm Vậng
Yếu).
+ Chu Nhụ Tử trông thấy bên chỗ khe suối có hai bụi rậm
hoa xanh tươi trông rất đẹp, bỗng thấy một chó lớn đuổi một con chó nhỏ
phóng vào bụi hoa gần ngay gốc cây Kỷ tử. Họ trông thấy vậy nhưng không
biết nó biến đi đâu, liền cùng nhau đào ở gốc cây Kỷ tử thì thấy ở gốc
có hai cái rễ lớn nhỏ như hai con chó nằm gọn ở đó, họ bèn đem về nấu
ăn, tự nhiên thấy khỏe, khoan khoái trong người. Ông nói đó là cây Kỷ tử
của tiên trồng có hơn cả ngàn năm nên mới hóa hình con chó (Trung Quốc
Dược Học Đại Từ Điển).
+ Tục truyền ngày xưa cây này mùa xuân
gọi là Thiên tinh tử, mùa hè gọi là Câu kỷ diệp, mùa thu gọi là Khước
lão, mùa đông gọi là Địa cốt bì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Câu kỷ tử còn cho lá và ngọn gọi là Câu kỷ hành diệp, có vị đắng,
tính lạnh, không độc, thường nấu với thịt dê ăn bổ, có tác dụng trừ
phong, sáng mắt. Có thể thay trà để uống, công dụng chỉ khát, hết bứt
rứt, nóng nảy, bổ sinh dục, giải độc của miến. Nó rất ghét sữa tô. Lấy
nước cốt của nó nhỏ vào mắt có tác dụng trừ mộng thịt ở mắt, màng đỏ ở
mắt, choáng váng, hoa mắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+
Cây còn cho mầm gọi là Câu kỷ miêu có vị đắng tính lạnh, có tác dụng
trừ phiền, ích chí, khu phong, minh mục, tiêu nhiệt độc, tán sang thủy
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Dùng hạt Câu kỷ tử loại ở
Cam châu nấu chín, giã nát, trộn với men gạo hoặc lấy hạt Câu kỷ cùng
với Sinh địa hoàng chế thành rượu uống gọi là rượu Câu kỷ (Câu Kỷ Tửu).
Dùng hạt Câu kỷ trộn gạo nấu cháo có tác dụng bổ tinh huyết, ích Thận
khí, thiếu huyết, Thận suy dùng rất tốt gọi là Câu kỷ tử chúc (Trung
Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Loại Câu kỷ ở Cam châu, Trung Quốc có màu đỏ thịt dẻo, ít hột là thứ tốt nhất (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Câu kỷ, hột của nó gọi là Câu kỷ tử, rễ gọi là Địa cốt bì. Rễ có vị
đắng hơn, tính hàn hơn, còn hột thì ngọt nhiều, đắng ít. Công dụng của
hai thứ này có khác nhau. Câu kỷ tử là thuốc tư bổ Thận âm, Địa cốt bì
là thuốc trị chứng nóng âm ỉ trong xương (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Câu kỷ tử tính hoạt nhuận, bổ Can để dưỡng huyết, ích tinh nên trợ
được dương, thích hợp với chứng Can Thận âm suy, dương suy, di tinh, mắt
mờ, đầu váng. Rễ là Địa cốt bì dùng cho âm hư, lao nhiệt, nóng trong
xương, mồ hôi trộm, ho ra máu do Phế nhiệt (Thực Dụng Trung Y Học).
Phân biệt:
. Ở Việt Nam không có loại Lycium chinensis Miller, mà có cây Câu kỷ
(Lycium ruthanicum Murray) cùng họ trên đó là cây cỏ, cành có gai. Lá
nguyên mọc so le. Hoa tím nhạt mọc ở kẽ lá. Quả hình trứng thuôn, khi
chín màu đỏ, có nhiều hạt. Cây được trồng nhiều nơi làm rau ăn và làm
thuốc. Trồng bằng cành hoặc hạt vào mùa xuân, chỉ dùng lá nấu canh và
chữa ho. Có khi quả chín đỏ được dùng thay thế Khởi tử, Vỏ rễ làm Địa
cốt bì, không đúng với cây trên, cần phải nghiên cứu lại (Danh Từ Dược
Học Đông Y).
CÂU KỶ TỬ
LYCIUM SINENSE MILL
CÂU KỶ TỬ
LYCIUM SINENSE MILL
Từ
xa xưa, Câu kỷ tử nổi tiếng là vị thuốc bổ toàn thân. Uống nhiều sẽ
khỏe mạnh, thân thể nhẹ nhàng, chống lão hóa, đẹp nhan sắc, tăng tuổi
thọ.
CÂU KỶ TỬ
LYCIUM SINENSE MILL
- See more at: http://sdpharma.com.vn/blog/chi-tiet-tu-dien-vi-thuoc-cau-ky-tu.html#sthash.evrPBwRw.dpuf
1. Tên khoa học: Lycium sinense Mill.
2. Họ: Cà (Solanaceae).
3. Tên khác: Kỷ tử, Câu khởi, Khởi tử, Địa cốt tử, Khủ khởi.
4. Mô tả:
Cây: Cây nhỏ, mọc đứng thành bụi sum sê, cao 0,5 - 1m. Cành cứng đôi
khi có gai ngắn ở kẽ lá. Lá nguyên mọc so le hoặc tụ tập 4 -5 cái, hình
mũi mác, mép uốn lượn, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt; cuống
lá ngắn.
Hoa nhỏ, mọc đơn độc hoặc 2 - 3 cái ở kẽ lá, màu tím nhạt hoặc tím
đỏ, tràng hình phễu, 5 cánh, có lông ở mép, nhị 5 đính ở đỉnh của ống
tràng.
Quả mọng, hình trứng, khi chín màu đỏ sẫm hoặc vàng đỏ; hạt nhiều, hình thận dẹt.
Ngoài ra còn có loài câu kỷ quả tím đen (Lycium ruthenicum Murray) cũng được dùng.
Dược liệu: Quả hình trứng dài hay trái soan, hai đầu hơi lõm, dài 6 – 20 mm, đường kính 3 – 10 mm. Mặt ngoài màu đỏ cam, mềm, bóng, thường nhăn nheo. Gốc quả có vết cuống quả màu trắng còn sót lại, đỉnh quả có điểm nhỏ hơi nhô lên. Quả có nhiều hạt nhò hình thận dẹt, hai mặt hơi cong phồng hoặc có một mặt lõm. Hạt màu vàng nâu có nội nhũ, rốn hạt là một điểm lõm nhỏ ở mép hạt. Chất mềm, vị ngọt hơi chua.
Quả mọng, hình trứng, khi chín màu đỏ sẫm hoặc vàng đỏ; hạt nhiều, hình thận dẹt.
Ngoài ra còn có loài câu kỷ quả tím đen (Lycium ruthenicum Murray) cũng được dùng.
Dược liệu: Quả hình trứng dài hay trái soan, hai đầu hơi lõm, dài 6 – 20 mm, đường kính 3 – 10 mm. Mặt ngoài màu đỏ cam, mềm, bóng, thường nhăn nheo. Gốc quả có vết cuống quả màu trắng còn sót lại, đỉnh quả có điểm nhỏ hơi nhô lên. Quả có nhiều hạt nhò hình thận dẹt, hai mặt hơi cong phồng hoặc có một mặt lõm. Hạt màu vàng nâu có nội nhũ, rốn hạt là một điểm lõm nhỏ ở mép hạt. Chất mềm, vị ngọt hơi chua.
5. Phân bố:
Cây này có trồng ở nước ta,
6. Trồng trọt:
7. Bộ phận dùng:
Quả chín phơi khô của cây Câu kỷ tử hay Khủ khởi (Lycium sinense Mill.), họ Cà (Solanaceae).
8. Thu hái, chế biến: Vào mùa Hạ và mùa Thu khi quả
đã chuyển màu đỏ vàng. Sau khi phơi âm can để vỏ ngoài nhăn lại, lấy ra
phơi nắng hoặc sấy nhẹ đến khi vỏ ngoài quả khô và cứng, thịt quả mềm.
Loại bỏ cuống.
Quả thường dùng sống, hoặc tẩm rượu sao, đem sắc ngay hoặc sấy nhẹ
(dưới 50 oC) đến khô giòn, tán bột hoặc phun rượu cho quả trở nên đỏ
tươi, khi dùng giã nát.
9. Thành phần hoá học:
Quả chứa betain, 8 - 10% acid amin trong đó chừng một nửa ở dạng tự
do, acid ascorbic (vitamin C), caroten, thiamin, riboflavin, acid
nicotinic, tinh dầu và các nguyên tố vi lượng như phospho, canxi, sắt.
Vỏ rễ chứa một alcaloid gọi là kukoamin và một dipeptid gọi
lyciumamid (N -benzoyl - L - phenylalanyl - L - phenylalaninol acetat).
10. Tác dụng dược lý
10.1. Tăng cường miễn dịch:
Nước sắc câu kỳ tử làm tăng cường khả năng thực bào của đại thực bào, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể.
10.2. Hạ cholesterol huyết, đường huyết, bảo vệ gan:
Dạng chiết nước từ câu kỳ tử có tác dụng làm giảm cholesterol và có
tác dụng bảo vệ gan, hạ đường huyết, tăng khả năng dung nạp đường.
10.3. Tác dụng đối với hệ thống máu:
Nước sắc câu kỳ tử làm tăng lượng bạch cầu.
11. Công năng:
Dưỡng can, minh mục, bổ thận, ích tinh, nhuận phế.
12. Công dụng:
Thuốc bổ, chữa ho lao, đau lưng mỏi gối, di tinh, mắt ra nhiều nước, mắt mờ, tiểu đường.
13. Cách dùng, liều lượng:
Ngày dùng 4 - 10g, dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.
14. Bài thuốc:
14.1. Trị mắt đỏ, mắt sinh mộc thịt: Câu kỷ gĩa nát lấy nước, điểm 3-4 lần vào khóe mắt, rất hiệu nghiệm (Trửu Hậu Phương).
14.2. Trị mặt nám, da mặt sần sùi: Câu kỷ 10 cân, Sinh địa 3 cân, tán
bột, uống 1 muỗng với rượu nóng, ngày uống 3 lần, uống lâu da đẹp như
con nít (Thánh Huệ Phương).
14.3. Trị chảy nước mắt do Can hư: Câu kỷ tử 960g bọc trong túi lụa
ngâm trong rượu, đậy thật kín, 21 ngày sau uống (Long Mộc Luận).
14.4. Trị Can Thận âm hư, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, mắt mờ, hoa
mắt, hoặc đau rít sáp trong mắt: Câu kỷ tử, Cúc hoa mỗi thứ 12g, Thục
địa 16g, Sơn dược mỗi thứ 8g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả mỗi thứ 6g.
Tán bột trộn làm viên. Mỗi lần uống 12g ngày 2 lần, với nước muối nhạt
(Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).
14.5. Trị suy nhược vào mùa hè, không chịu nổi với thời tiết: Câu kỷ
tử, Ngũ vị tử, tán bột pha nước sôi uống thay trà (Nhiếp Sinh Chúng Diệu
Phương).
14.6. Trị suy nhược, thận hư, hoa mắt, mắt mộng thịt: Cam câu kỷ tử 1 cân, ngâm cho thấm với rượu ngon rồi chia làm 4 phần, 1 phần sao với 40g Thục tiêu, 1 phần sao với 40g Tiểu hồi hương, 1 phần sao với 40g Chi ma (mè), 1 phần sao với Câu kỷ không thôi. Thêm Thục địa, Bạch truật, Bạch phục linh mỗi thứ 40g, tán bột, luyện mật làm viên uống hằng ngày (Tứ Thần Hoàn - Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương).
14.6. Trị suy nhược, thận hư, hoa mắt, mắt mộng thịt: Cam câu kỷ tử 1 cân, ngâm cho thấm với rượu ngon rồi chia làm 4 phần, 1 phần sao với 40g Thục tiêu, 1 phần sao với 40g Tiểu hồi hương, 1 phần sao với 40g Chi ma (mè), 1 phần sao với Câu kỷ không thôi. Thêm Thục địa, Bạch truật, Bạch phục linh mỗi thứ 40g, tán bột, luyện mật làm viên uống hằng ngày (Tứ Thần Hoàn - Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm Phương).
14.7. Trị gan viêm mạn tính, gan xơ do âm hư: Bắc sa sâm 12g, Mạch
môn 12g, Đưung qui 12g, Kỷ tử 12-24g, Sinh địa 24-40g, Xuyên luyện tử
6g, sắc nước uống (Nhất Quán Tiễn - Liễu Châu Y Thoại).
14.8. Trị suy nhược, thận hư, lưng đau, gối mỏi, di tinh, huyết trắng
nhiều: Thục địa 320g, Sơn dược (sao) 160g, Câu kỷ tử 160g, Sơn thù nhục
160g, Ngưu tất 120g, Thỏ ty tử 160g, Lộc giao (sao) 160g, Quy bản (sao)
160g, tán bột, trộn mật làm hoàn. Mỗi lần uống 12-16g, ngày 2-3 lần (Tả
Quy Hoàn – Cảnh Nhạc Toàn Thư).
14.9. Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể dục: Thục địa 320g, Sơn thù 1690, Sơn dược 160g, Đơn bì 80g, Trạch tả 80g, Phục linh 80g, Cúc hoa 120g, Câu kỷ tử 120g. Tán bột, trộn với mật làm hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-12g (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn - Y Cấp).
14.9. Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể dục: Thục địa 320g, Sơn thù 1690, Sơn dược 160g, Đơn bì 80g, Trạch tả 80g, Phục linh 80g, Cúc hoa 120g, Câu kỷ tử 120g. Tán bột, trộn với mật làm hoàn, ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10-12g (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn - Y Cấp).
14.10. Câu kỷ tử, Thục địa, Ngũ vị tử, Mạch môn đông, Địa cốt bì,
Thanh hoa, Miết giáp, Ngưu tất trị âm hư lao nhiệt nóng bức rứt âm ỉ
trong xương, hoặc muốn dùng làm thuốc chính để trị phát sốt, lạnh thì
thêm Thiên môn đông, Bách bộ, Tỳ bà diệp, có thể trị được cả chứng ho do
âm hư, phế nhiệt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
14.11. Câu kỷ tử, hái những quả chín đỏ hằng ngày, tẩm giấm, rượu,rồi
lấy giấy sáp phong niêm kín lại đừng làm cho bay hơi đủ hai tháng đổ
vào chậu khuấy nhừ nát lọc lấy nước rồi ngâm với rượu. Sau đó cho vào
nồi bạc nấu lửa liu riu nhỏ, đồng thời quấy luôn để khỏi dính và đều cho
tới khi thành cao như Mạch nha, cuối cùng bỏ vào bình sạch đậy kỹ, mỗi
buổi sáng uống mỗi lần 2 muỗng canh lớn, trước khi đi ngủ, liên tục
trong 100 ngày mới thấy mạnh khỏe (Kim Tủy Tiễn - Kinh Nghiệm Phương).
14.12. Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh
thể dục: Cúc hoa 8g, Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g,
sắc nước uống (Cúc Thanh Thang - Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
14.13. Trị nam giới sinh dục suy yếu (vô sinh): Mỗi tối nhai 15g Câu
kỷ tử, liên tục 1 tháng, thường sau khi tinh dịch trở lại bình thường,
uống thêm 1 tháng. Trong thời gian uống thuốc, kiêng phòng dục. Đã trị
42 ca, sau 1 liệu trình: hồi phục bình thường 23 ca, sau 2 tháng bình
thường 10 ca, có 6 ca không có kết quả vì không có tinh trùng, 3 ca
không kết quả, theo dõi sau 2 năm, tinh dịch trở lại bình thường, 3 ca
đã có con (Đông Đức Vệ và cộng sự, ‘Kỷ Tử Trị Vô Sinh Nam Giới’, Tân
Trung Tạp Chí 1987, 2: 92).
14.14. Trị dạ dầy viêm teo mạn tính: Dùng Kỷ tử rửa sạch, sao khô,
giă nát, đóng gói. Mỗi ngày uống 20g, chia làm 2 lần lúc bụng đói và
nhai uống, 2 tháng là một liệu trình. Trong thời gian uống thuốc, ngưng
tất cả các loại thuốc khác. Đã trị 20 ca, theo dõi 2- 4 tháng, có kết
quả tốt 15 ca, có kết quả 5 ca (Trần Thiệu Dung và cộng sự, ‘Báo Cáo 20
Ca Dạ Dầy Viêm Teo Mạn Tính Điều Trị Bằng Câu Kỷ Tử,’ Trung Y Tạp Chí
1987, 2: 92).
14.15. Trị thận hư, tinh thiếu, lưng đau, vùng thắt lưng đau mỏi:
Câu kỷ tử, Hoàng tinh, 2 vị bằng nhau, tán bột, luyện mật làm viên, mỗi
lần 12g, ngày uống 2 lần với nước nóng (Câu Kỷ Hoàn - Lâm Sàng Thường
Dụng Trung Dược Thủ Sách).
14.16. Trị Can hư sinh ra bệnh ở mắt, ra gió chảy nước mắt: Câu kỷ tử, dùng rượu ngâm sau 3-7 ngày, mỗi lần uống 1-2 muỗng canh, ngày 2 lần (Câu Kỷ Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
14.16. Trị Can hư sinh ra bệnh ở mắt, ra gió chảy nước mắt: Câu kỷ tử, dùng rượu ngâm sau 3-7 ngày, mỗi lần uống 1-2 muỗng canh, ngày 2 lần (Câu Kỷ Tửu - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Kiêng kỵ: Tỳ vị hư yếu, đại tiện sống phân hoặc phân lỏng không nên dùng.
Ghi chú: Vỏ rễ của cây Khủ khởi được gọi là Địa cốt bì dùng chữa sốt, ho khan, ho ra máu, đi tiểu ra máu...
Tác dụng dược lý:
Theo Y học cổ truyền:
_ Dưỡng can, minh mục, bổ thận, ích tinh, nhuận phế.
_ Chủ trị: Chủ trị các chứng can thận âm hư, âm huyết hư tổn, chứng tiêu khát, hư lao khái thấu
7.2. Theo nghiên cứu dược lý hiện đại:
- Tăng cường miễn dịch: Nước sắc Câu kỷ tử làm tăng cường khả năng thực bào của đại thực bào, tăng số lượng và hiệu giá kháng thể.
- Hạ cholesterol huyết, đường huyết, bảo vệ gan: Dạng chiết nước từ câu kỳ tử có tác dụng làm giảm cholesterol và có tác dụng bảo vệ gan, hạ đường huyết, tăng khả năng dung nạp đường.
- Tác dụng đối với hệ thống máu: Nước sắc Câu kỷ tử làm tăng lượng bạch cầu)
Một số ứng dụng:
- Rượu kỷ tử: Kỷ tử 600g, rượu (35-40°) 2 lít. Giã nhỏ kỷ tử. Cho rượu vào ngâm trong 2 tuần lễ trở lên. Lọc lấy rượu mà uống. Ngày uống 1-2 cốc con làm thuốc bổ.
- Đơn thuốc bổ chữa di tinh: Kỷ tử 6g, Sinh khương 2g, Nhục thung dung 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày.
- Hữu quy hoàn: Thục địa 32g, Sơn dược sao 16g, Sơn thù 12g, Câu kỷ tử 16g, Đỗ trọng (tẩm gừng sao) 16g, Thỏ ty tử 16g, Thục Phụ tử 8 - 14g, Nhục quế 8 - 16g, Đương quy 12g, Lộc giác giao 16g. Cách dùng: Theo tỷ lệ trên tất cả tán bột mịn luyện mật làm hoàn, mỗi lần uống 4 - 8g, có thể làm thuốc thang sắc uống. Tác dụng: Ôn thận tráng dương, bổ tinh huyết. Chủ trị: Các chứng thận dương bất túc, mệnh môn hỏa suy, lão suy. Lâm sàng biểu hiện các triệu chứng: sợ lạnh, chân lạnh, hoạt tinh, liệt dương, chân đau, gối mỏi.
- Cúc Thanh Thang (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). Trị hoa mắt, thị lực giảm sút, cườm mắt tuổi gìa, thủy tinh thể đục: Cúc hoa 8g, Kỷ tử 20g, Nhục thung dung 12g, Ba kích thiên 8g, sắc nước uống.
- Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn (Cảnh Nhạc Toàn Thư): trị can thận âm hư, sốt về chiều, ra mồ hôi trộm, mắt mờ, hoa mắt: Câu kỷ tử, Cúc hoa mỗi thứ 12g, Thục địa 16g, Sơn dược mỗi thứ 8g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả mỗi thứ 6g. Tán bột trộn làm viên. Mỗi lần uống 12g ngày 2 lần, với nước muối nhạt.
Chú ý:
Ngoài quả khởi tử ra, cây khởi tử còn cho các vị thuốc sau đây:
- Lá khởi tử (rau củ khởi) nấu canh với thịt để chữa cho ho, sốt.
- Vỏ cây khởi tử tức địa cốt bì-Cortex Lycii sinensis là vỏ rễ phơi hay sấy khô.
- Đào rễ vào mùa xuân và mùa thu (từ tháng 10 đến tháng 3-4) rửa sạch đất cát, bóc lấy vỏ phơi hay sấy khô. Muốn cho đẹp, làm như sau: Rễ đào về rửa sạch cắt thành từng đoạn 6-10cm, dùng dao rạch cho đến gỗ, cho vào đồ, vỏ sẽ long ra khỏi gỗ, lấy ra bóc phơi hay sấy khô.
- Thành phần hóa học: Theo Bộ dược học viện nghiên cứu y học Bắc kinh 1958, trong địa cốt bì có 0,08% ancalioid, 1,7% saponin không có phản ứng anthraglucosid và tanin. Công dụng và liều dùng: Lá và vỏ rễ khởi tử có tác dụng chữa ho, sốt và sốt do ho.
- Liều dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc.
- Theo tài liệu cổ, địa cốt bì có vị ngọt, tính hàn, vào 4 kinh phế, can, thận và tam tiêu. Có tác dụng lương huyết tả hỏa, thanh phế nhiệt, trừ cốt chưng. Dùng chữa ho ra máu, phiền nhiệt tiêu khát, lao nhiệt ra mồ hôi, nhức xương. Người dinh phận không có nhiệt, tỳ vị hư hàn không dùng được.
Đơn thuốc có vị địa cốt bì trong dân gian
- Chữa thổ huyết: Sắc 12g địa cốt bì với 200ml nước mà uống trong ngày.
- Tiểu tiện ra huyết: Địa cốt bì tươi, rửa sạch giã lấy nước uống. Mỗi lần 25-30g địa cốt bì tươi. Nếu không có tươi, dùng khô sắc cũng được.
- Âm hộ lở loét: Sao nước địa cốt bì mà rửa.
Tiên dược Câu kỷ: Uống ba trăm ngày đi lại như ngựa
Trong Phục nhị pháp,
câu kỷ là thượng phẩm diên niên ích thọ, có thể sử dụng cả thân rễ,
cành, lá, hoa, quả. “Thái bình thánh huệ phương” có chép chuyện có vị sứ
giả đến Tây Hà thì thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang cầm roi đánh một ông
già, bèn hỏi nguyên do, cô gái nói: “Đây là cháu gọi tôi bằng cố (cụ).
Vì trong nhà có thuốc trường sinh bất lão mà không uống, để cho trở nên
già nua thế này nên phải trị tội”. Sứ giả hỏi tên thuốc, cô gái nói:
“Thuốc này có 5 tên, mùa xuân gọi là thiên tinh, mùa hạ gọi là câu kỷ,
mùa thu gọi là địa cốt, mùa đông là tiên nhân trượng, cũng gọi là Tây
Vương Mẫu trượng. Nếu theo 4 mùa mà hái dùng thì có thể thọ cùng thiên
địa… Uống hai trăm ngày thân thể phát sáng, da mịn như sữa đông; uống ba
trăm ngày đi lại như ngựa, già uống trẻ lại, uống lâu sống mãi, trở
thành chân nhân”.
Theo kinh nghiệm lâm
sàng của Trung y, câu kỷ tử (quả) có công hiệu tư thận, bổ gan, nhuận
phế, sáng mắt; dùng trị can thận âm hư, hông gối tê bại, váng đầu hoa
mắt, hư lao di tinh. Lá câu kỷ có thể bổ ích tinh khí, thanh nhiệt dứt
khát, khử phong sáng mắt; dùng trị các chứng hư lao phát nhiệt, mắt
quáng gà, băng lậu đới hạ, nhiệt độc sưng đau.
Trong “Thiên kim yếu
phương” của đạo sĩ – danh y Tôn Tư Mạo có bài “Khước lão phương” như
sau: Vào ngày mùng 9 tháng 9 (âm lịch) hái khoảng 1kg quả câu kỷ tươi,
đem nấu với 3 lít rượu tốt trong khoảng 2 giờ, sau đó lọc lấy xác câu kỷ
phơi khô, nghiền bột. Còn nước thuốc thì tiếp tục sắc cho đến khi vừa
đủ để trộn với bột trên, vo thành viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20g.
Thuốc này chuyên bổ hư nhược, giúp nhẹ người, tăng thọ, tráng tinh, lâu
già. Hoặc lấy câu kỷ 100g, thục địa hoàng 50g, đem ngâm với 1 lít rượu
gạo, sau 7 ngày là dùng được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, có tác
dụng ích thận bổ gan. Trị chứng đau lưng mỏi gối, váng đầu hoa mắt, mau
mệt.
BÀI THUỐC CHỮA ĐÁI THÁO ĐƯỜNG, UỐNG NHIỀU, ĐI TIỂU NHIỀU:
Địa cốt bì, rễ Qua lâu, Lô căn,
mỗi vị 45g, Mạch môn đông 80g, táo 7 quả. Mỗi lần 9g sắc nước, uống lúc
nóng (1000CT và ĐVLT).
Một số bài thuốc đơn giản khác:
– Rượu Khởi tử: Khởi tử 600g, rượu 35 –
40 độ 2 lít. Giã nhỏ Khởi tử, cho rượu vào ngâm trong 2 tuần lễ trở lên,
lọc lấy rượu mà uống, ngày uống 1 – 2 cốc làm thuốc bổ.
– Đơn thuốc bổ chữa di tinh: Khởi tử 6g, Ngũ vị tử 2g, Nhục thung dung 2g, Sinh khương 2g, Cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
– Lá Khởi tử ( Rau củ Khởi): nấu canh với thịt để chữa ho, sốt.
– Địa cốt bì ( vỏ rể cây Khởi tử) trị xuất huyết:Bài thuốc chữa thổ huyết: sắc 12g Địa cốt bì với 200ml nước, uống trong ngày.
– Bài thuốc chữa tiểu tiện ra huyết: Địa cốt bì tươi, rửa sạch, giã lấy nước uống, mỗi lần 25 – 30g.
– Bài thuốc trị âm hộ lở lóet: sắc nước Địa cốt bì rửa.
– Đơn thuốc bổ chữa di tinh: Khởi tử 6g, Ngũ vị tử 2g, Nhục thung dung 2g, Sinh khương 2g, Cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
– Lá Khởi tử ( Rau củ Khởi): nấu canh với thịt để chữa ho, sốt.
– Địa cốt bì ( vỏ rể cây Khởi tử) trị xuất huyết:Bài thuốc chữa thổ huyết: sắc 12g Địa cốt bì với 200ml nước, uống trong ngày.
– Bài thuốc chữa tiểu tiện ra huyết: Địa cốt bì tươi, rửa sạch, giã lấy nước uống, mỗi lần 25 – 30g.
– Bài thuốc trị âm hộ lở lóet: sắc nước Địa cốt bì rửa.
LƯU Ý KHÔNG NÊN UỐNG KỶ TỬ KHI:
- Đang sốt hoặc cảm lạnh.
- Đang bị tiêu chảy, trướng bụng.
- Phụ nữ mang thai.
- Người huyết áp thấp.
- Người cao huyết áp đang điều trị bằng thuốc, vì có thể làm huyết áp xuống thấp.
- Người có bệnh tiểu đường đang điều trị bằng thuốc.
No comments:
Post a Comment