Đây là một trào lưu không ngăn
chận được và sẽ không bao giờ dừng
lại, cho dù có nhiều quan ngại nó sẽ ảnh
hưởng đến sự trong sáng của tiếng
Việt.
Người thích viết tắt cho
rằng chat hoặc nhắn tin là sự trao đổi
riêng tư giữa hai người, không công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng, nên cũng
không cần theo những quy định về câu chữ;
do vậy nó không làm mất đi sự trong sáng của
tiếng Việt.
Để hỗ trợ cho những ai
thích viết tắt, bài này xin trình bày 2 loại viết
tắt chữ Việt:
- Viết tắt tự tạo.
- Viết tắt theo quy luật
chung.
Ai kết hợp được hai
loại viết tắt này sẽ tiết kiệm
được thì giờ và tiền bạc khi chat
hoặc nhắn tin.
I. VIẾT TẮT TỰ
TẠO
Viết tắt tự tạo rất
phổ biến ở các phòng chat hoặc ở
điện thoại di động. Cách viết tắt
không theo một quy luật chung nào. Thỉnh thoảng, nó
có theo một quy luật nào đó thì cũng chỉ áp
dụng cho một số từ thường dùng.
• Vài ví dụ viết tắt
tự tạo:
Ta dễ dàng tìm thấy nhiều ví
dụ khi gõ hàng chữ như “viet tat trong ngon ngu chat
va tin nhan” vào Google Search trên internet. Sau đây là một
số ví dụ viết tắt tự tạo trích từ
các mạng:
- “M co dj choi o? If dj, lay cho N cun gtrinh. O
ranh thi thoi.” (Em có
đi chơi không? Nếu đi, lấy cho anh cuốn giáo
trình. Không rảnh thì thôi).
- “Mog rag e se hiu! A wen, e bun ngu ch? Bi h hon
12h rui do.” (Mong
rằng em sẽ hiểu! Anh quên, em buồn ngủ
chưa? Bây giờ hơn 12 giờ rồi đó).
- “Bít rui, minh doi U o ntro” (Biết rồi, mình
đợi bạn ở nhà trọ).
- “Chi ui! Chu e wa do ru tui min di uog
nc lun thui! Se zui lem do!” (Chị ơi! Chờ em qua
đó rồi tụi mình đi uống nước luôn
thôi! sẽ vui lắm đó!).
- “Trui ui, lam j ma cac chi iu qui jan ju the? Bi h
e moi roi khoi juog. Nhug chu e mut chut thui ma, e din day!”. (Trời ơi, làm gì mà các
chị yêu quí giận dữ thế? Bây giờ em mới
rời khỏi giường. Nhưng chờ em một
chút thôi mà, em đến đây!).
Xem các ví dụ trên, ta thấy ngôn
ngữ chat là sự “biến hóa” tùy tiện của
tiếng Việt. Ví dụ:
- “đi” thành “dj”.
- “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”, “kg”,
...
- “bây giờ” thành “bi h”.
- “biết rồi” thành “bit rui”.
- Chữ “qu” thành “w”.
- Chữ ““gì” thành “j”.
- Chữ “ơ” thành “u”.
- Chữ “ô” thành “u”.
- Chữ “ă” thành “e”.
- Chữ “ng” ở cuối thì
chỉ còn chữ “g”.
- M = E = em.
- N = A = anh
- Chèn tiếng Anh vào như: if =
nếu, U = you = bạn, …
Nói chung, các bạn trẻ thích cách dùng
các chữ trên vì nó ngộ ngộ, lạ và rất “xì-tin”
(style). Hơn nữa, khi dùng những chữ kiểu này
trong điện thoại sẽ hạn chế số
lần nhấn vào bàn phím cũng như tiết kiệm ký
tự. Ví dụ, khi muốn nhắn chữ “Đi” trong
điện thoại, phải nhấn số 3, rồi 3
lần số 4 thì bây giờ chỉ cần nhấn
số 3 và số 5 là có được chữ “Dj” nhanh
chóng mà người nhận vẫn hiểu
được ta đang nói gì.
• Chèn tiếng
nước ngoài:
Để thể hiện “đẳng cấp nhắn tin”, bên cạnh việc nhắn nhanh, ít ký tự, những người nhắn tin còn thông qua hình thức chèn tiếng nước ngoài vào tin nhắn. Ngôn ngữ được lựa chọn hàng đầu chính là tiếng Anh vì so với các ngôn ngữ khác, tiếng Anh được xem là thứ ngôn ngữ “hot” nhất đối với giới trẻ hiện nay.
Để thể hiện “đẳng cấp nhắn tin”, bên cạnh việc nhắn nhanh, ít ký tự, những người nhắn tin còn thông qua hình thức chèn tiếng nước ngoài vào tin nhắn. Ngôn ngữ được lựa chọn hàng đầu chính là tiếng Anh vì so với các ngôn ngữ khác, tiếng Anh được xem là thứ ngôn ngữ “hot” nhất đối với giới trẻ hiện nay.
Chỉ cần gõ “viet tat tieng anh trong
sms chat email” vào Google Search, hoặc vào mạng http://abbreviations.com
, là tìm thấy các bảng liệt kê hàng ngàn cách
viết tắt các từ tiếng Anh thường dùng
trong tin nhắn SMS, chat, email, Twitter, v.v….
Bài này chủ ý về viết tắt
chữ Việt nên không bàn nhiều viết tắt
tiếng nước ngoài. Chỉ xin nêu một suy nghĩ
là dù có nhiều chỉ trích việc chèn tiếng
nước ngoài sẽ ảnh hưởng đến
sự trong sáng của tiếng Việt, nhưng chắc
chắc việc này vẫn khó mà ngăn chận
được vì ít nhiều nó cũng rút ngắn thời
gian viết cho các bạn biết tiếng Anh.
Ví dụ các tin nhắn ngắn gọn
chèn tiếng Anh khá thông dụng như sau:
- “2day U co ranh o?” (Hôm nay bạn có rảnh không?).
- “I nho. Thanks U da nhac!” (Tôi nhớ. Cảm ơn
bạn đã nhắc!).
- “g9” = “goodnight” = chúc ngủ ngon.
- “2day” = “today” = hôm nay.
- “2nite” = “tonight” = tối nay.
- v.v.…
• Tiếng Việt
thời @:
Để minh
họa thêm cách viết tắt tự tạo, xin trích
lại bài “Tiếng Việt thời @” của Joseph
Ruelle (Joe), sinh năm 1978, người Canada. Anh Joe nổi
tiếng vì viết blog bằng tiếng Việt rất có
duyên và hóm hỉnh.
“Sáng nay mình ngủ dậy và quyết
định học kiểu chat trên Internet của thanh niên
Việt Nam.
Thứ nhất, mình quyết
định thay chữ “ô” bằng chữ “u” - nhưng
chỉ trong mụt số trường hợp đặc
biệt thui! Trong mụt số trường hợp khác,
mình sẽ bỏ chữ “ô” hẳn ra. Nếu viết quá
chuẩn thì văn của mình sẽ nặng nề,
khiến cho người đọc thấy chán. Tức là
phải sửa lun - mình không mún làm người khác bùn
đâu!
Không phải riêng nguyên âm thui đâu mà
cũng có nhiều phụ âm nên bỏ ra. Chữ “n” là
mụt trong nhữg “nghi phạm” nổi bật nhất.
Vâg, chữ ấy đôi khi rất phí - nhưg cũg
có nhiều chữ phí khác nữa, chưa xog đâu!
Chữ “h” ở cuối mụt số
từ nhìn rất khó chịu! Không phải mỗi mìn
đâu mà còn rất nhiều bạn của mìn nữa
cũg nói vậy - khó chịu mụt cách kin khủg!
(Chữ “k” ở đầu mụt số từ khác
lại còn khó chịu hơn nữa, mìn hôg chịu
nổi).
Có ai đồg ý với mìn rằg 2 chữ
“q” và “u” xấu lắm hôg? Chữ “w” đẹp hơn
nhiều chứ! Nếu chat yahoo và có người viết
2 chữ ấy thì mìn sẽ nói lun: “Trùi ui, cái gì mà wê
thế!” - để họ sẽ wen với wan
điểm wần chúg của giới trẻ trog wốc.
Việc thay 2 chữ xấu bằg
mụt chữ đẹp cũg rất lô-gíc đấy!
Ví dụ, 2 chữ “ch” ở cúi mụt số từ nhìn
rất rườm rà. Sút ngày “ch”, “ch”, “ch”, trùi ui, lík kík
lắm, lại còn cũ rík nữa, thui thay bằg chữ
“k” đi, để lối viết của mìn sẽ kík
thík hơn!
Tiếg Việt cũg hay dùg chữ
“gì”. Cái gì? Món gì? Phố gì? Chúa ui, chán wá đi mất! Hai
chữ “g” và “i” đứg cạnh nhau nhìn rất “béo”!
Trái lại, chữ “j” đứg ở mụt mìn nhìn
rất “gầy”, rất “người mẫu”!
Các bạn gái ơi, hãy thay 2 chữ “ye”
xấu xí bằg mỗi chữ “i” xin xắn đi!
Viết “em iu anh” thì đỡ rủi ro hơn nhiều
(hoặc cứ viết “iu an wá trời lun!” cho máu).
Way lại với chuyện nguyên âm, mìn
hôg hiểu tại sao mụt số người vẫn
cứ cho rằg chữ “ă” đẹp hơn chữ
“e”!?? Kệ nhữg người đó chứ, họ kiêu
lém, cổ hủ lém!
Nhưg hôg fải chữ “ê” lúc nào
cũg đẹp. Câu “em không biết” chả có j hay cả.
Trái lại, câu “em hôg bít j đâu” nghe dễ thươg
lém! Các bạn hỉu hôg? Mìn fải cố gắg
để nói nhẹ chứ, đặc bịt là với
fái íu. Nói cứg wá với mụt cô mìn thík thì - chít!
Nè! Ai bảo 2 chữ “a” và “y” lúc nào
cũg wan trọg? Ai bảo 2 chữ “ph” lúc nào cũg lúi
cún? (Hôg fải mìn!) Fí thế! Ái bảo chữ “c” lúc nào
cũg hay hơn chữ “k”? Có rất nhìu trườg
hợp khác nữa mà fải thay chữ xấu bằg
chữ đẹp, rất tiếk mìn hôg có đủ
thời jan để jải thík hít!
Kác nguyên và fụ âm ở trên
được jải wyít xog, mìn sẽ bắt
đầu tập trug vào việc viết tắt (vt). Bh
cg~ n` ng noi’ rg vt wá n` k tốt lém. Nhưg thui – vđề k
fai la vt co’ tốt h k, vđề la fai vt ntn!!!
Rùi có lẽ mìn nin cho mụt chút ja
vị SG vô! Cg~ n` ng HN, đặc bịt là ng trẻ, cho
rg ng SG sốg 1 kách rất dzui dzẻ. Vậy chuyện
thanh nin HN bắt chước thanh nin SG hôg dzô dzuyên tí j!
Mún trở thành chatter VN thiệt thì lúi
vít kủa mìn nên dc bày biện bởi nhiù kon số! Thay vì
“chào” bạn, mìn sẽ “2” bạn thui! Thay vì chúc bạn
ngủ ngon, mìn sẽ “g9” bạn thui!
Dù sao ngun ngữ kũg hôg fản ánh
đc kảm xúc kủa con ng bằg hìn ảnh, và hôg có hìn
ảnh nào fản ánh kảm xúc kủa kon ng như mụt
gươg mặt! hihi! Sao? Bạn hôg tin hà?
Bạn k tin Mr. Joe tội nghiệp hả? Bùn kừi
wá nhỉ! Mìn hôg nói dzối đâu nhá!
kÁc bẠn cÓ bÍt FíM sHiFt hÔg? MiN sẼ
dZùNg kÁi Fím Áy đỂ tRaG tRí vĂn KủA MìN mỤt
ChÚt. FảI LuN LuN Cố gẮg Để cHữ
kỦa MìN đẸp HơN ChỮ KủA nG` kHáC
cHứ! gỌi Là Sĩ dZiỆn ĐiẸn tỬ
đẤy!! Hihi!!!!
bẬc cÚi CùG Là
tHêM mÀu SắC DzÔ! cHữ
hÔg mÀu nHư Xe kHô dẦu (hihi!!!) vÀ Ai cG~
BíT xE kHô dẦu hÔg cÓ jÁ tRị j đÂu!! Huhu!!! nHìN
mỤt đOạN n` mÀu SắC NtN tHì hOa HíT cẢ
MắT!!! ĐẹP
dzà mAn LuN!
XoG! Bh MìN đà BíT cHáT
ChÍt NhƯ 1 Ng Vịt cHíNh GúC rÙi! DzUi wÁ, tHíK LéM! NhƯg
MìN VẫN hƠi Lo, hÔg BíT tƯơNg lAi kỦa nGuN
nGữ TiẾg VịT tHâN iU kỦa MìN sẼ Là nTn? ThUi
kỆ! bh Là TK21 rÙi, Lo j mÀ vỚ VỉN tHế!
Kekekekekekekekekekekeke!!!!!”
(Bài “Tiếng Việt thời @”
trích từ blog của Joseph Ruelle)
• Ưu điểm và
hạn chế của viết tắt tự tạo:
Ưu điểm của
viết tắt tự tạo là khi quen dùng thì cũng thành một quy
luật nào đó cho một số từ thường dùng
và ta viết được rất
ngắn một số chữ thường dùng, như ví
dụ “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”, “kg”. Giữa tôi và bạn A, ký hiệu 0, ko, k, kh
hoặc kg sẽ mang ý nghĩa là "không", nhưng có
thể giữa tôi và bạn B và C thì k lại có nghĩa là
“Ok”, kk có nghĩa là "very good, …”.
Hạn chế của viết tắt tự tạo là:
- Chỉ viết tắt
được một ít chữ thường dùng, chứ không áp dụng
được cho tất cả các từ khác có vần
tương tự.
- Ký hiệu riêng thường
không thống nhất giữa các nhóm nên chỉ những người
trong nhóm mới hiểu được nhau, người
ngoài nhóm muốn hiểu cũng hơi khó và có thể
hiểu lầm.
Ưu điểm của
viết tắt theo quy luật chung là viết tắt
được rất nhiều chữ. Ví dụ, nếu
thuộc lòng 2 qui ước chung là “K thay cho KH” và “bỏ
bớt N ở phụ âm cuối chữ NG”, ta có
thể đọc ngay các chữ “kôg ká ki mag trog lòg
nhữg …” là “không khá khi mang trong lòng những …”.
Hạn chế của viết tắt theo qui luật chung là có một số từ thông dụng viết không ngắn bằng cách viết tắt tự tạo. Ví dụ, với viết tắt tự tạo thì “0, ko, k, kh, kg,…” đều mang ý nghĩa là “không” trong khi viết tắt theo quy luật chung thì phải viết là “kôg” mới mang ý nghĩa là “không”.
Cách viết tắt sau đây
thích hợp cho những ai thích tạo một “xì tin”
mới trong chat hoặc nhắn tin.
Xin đọc các cách viết tắt
từ trên xuống dưới vì chúng có quan hệ nối
tiếp. Hiểu xong phần trên, mới hiểu
được chính xác phần dưới.
1. Dấu sắc ở
vần ngược (một
qui ước):
Vần
ngược là vần chỉ có dấu sắc hoặc
dấu nặng, chúng có phụ âm cuối là: c, ch,
p, t (Vd:
ưc, ach, up, ot, …).
Khi đọc vần ngược không dấu,
ta nghe giống như có dấu sắc, ví dụ:
ưc-ức, ach–ách, up-úp, ot-ót, ….
Do
đó, qui ước đầu tiên là:
• Bỏ
bớt dấu sắc ở vần ngược …… Vd: bực tưc = bực tức, nup = núp, trot lọt = trót lọt.
2. Y và Uy (ba qui ước):
• I thay Y …… Vd: i tá = y
tá, lí trí = lý trí.
• Ngoại trừ: Vần AY, ÂY vẫn là AY, ÂY …… Vd: mây
bay = mây bay.
• Y thay UY …… Vd: thý =
thúy, byt = buýt, ỷ =
ủy.
3. Phụ âm đầu chữ (chín
qui ước):
• F thay PH …… Vd: fải =
phải.
• C thay K …… Vd: cín =
kín, cể = kể, cẻ =
kẻ.
• K thay KH …… Vd: ki kó kăn =
khi khó khăn.
• Z thay D …… Vd: zì = dì, zo zự = do dự.
• D thay Đ …… Vd: di dâu dó =
đi đâu đó.
• J thay GI …… Vd: já jì =
giá gì, jữ jìn = giữ gìn, zù
jì = dù gì.
• G thay GH …… Vd: gì =
ghì, gế = ghế, ge =
ghe.
• W thay NG, NGH …… Vd: wa = nga, wĩ = nghĩ, wề =
nghề, we = nghe.
• Q thay QU …… Vd: qay =
quay, qân = quân, qôc = quốc,
qy = quy, qi =
qui.
4. Phụ âm cuối chữ (ba
qui ước):
•
G thay NG …… Vd: xoog = xoong, trôg
mog = trông mong.
•
H thay
NH …… Vd: hoàh = hoành, huêh
= huênh, qah = quanh.
•
K thay
CH …… Vd: hoạk =
hoạch, wuệk = nguệch, tak bạk = tách bạch.
5. Vần “Nguyên âm ghép + chữ cái” (17
qui ước và một
ngoại lệ):
Đây
là phần cuối cùng nhưng quan trọng nhất vì nó
trình bày cách ghi gọn có hệ thống cho 52 vần,
vốn có 3 hoặc 4 chữ cái, xuống còn chỉ 2
chữ cái mỗi vần.
Tiếng
Việt hiện có tất cả 57 vần “Nguyên âm ghép +
chữ cái”.
Trong
đó, 5 vần: oong, oanh, uênh, oach, uêch đã
được ghi gọn là: oog,
oah, uêh, oak, uêk như
vừa trình bày ở trên (xem ví dụ phần A.4 Phụ âm
cuối chữ).
Còn lại 52 vần:
- IÊ: … iêt, iêp, iêc, iên, iêm, iêng, iêu.
- YÊ: … yêt, yên, yêm, yêng, yêu.
- UYÊ: … uyêt, uyên.
- UÔ: … uôt, uôc, uôn, uôm, uông, uôi.
- ƯƠ: … ươt, ươp,
ươc, ươn, ươm, ương, ươi,
ươu.
- UƠ: … uơt, uơn.
- UÂ: … uât, uân, uâng, uây.
- OĂ: … oăt, oăc, oăn, oăm,
oăng.
- OE: … oet, oen, oem, oeo.
- OA: … oat, oap, oac, oan, oam, oang, oai, oay,
oao.
52 vần này là sự kết hợp
giữa: Các nguyên âm ghép và Các chữ cái cuối.
- Các nguyên âm ghép là: iê hay yê, uyê, uô,
ươ, uơ, uâ, oă, oe, oa
- Các chữ cái cuối là: t, p, c, n, m,
ng, i hay y, o hay u.
52 vần nầy được ghi
gọn còn 2 chữ cái cho mỗi vần, bằng cách:
- Rút gọn nguyên âm ghép còn một nguyên âm.
- Đồng thời, thay chữ cái
cuối bằng một chữ cái khác.
Rút gọn
nguyên âm ghép còn một nguyên
âm. Có
9 qui ước và 1 ngoại lệ:
•
I thay IÊ hay YÊ
• Y thay UYÊ
•
U thay UÔ
• Ư thay
ƯƠ
•
Ơ thay UƠ
•
 thay
UÂ
•
Ă thay
OĂ
•
E thay
OE
•
O thay OA …… (Ngoại lệ: A
thay OA, cho
vần “oay”)
Thay chữ cái cuối bằng một
chữ cái khác. Có 8 qui
ước:
• D thay T
• F thay P
• S thay C
•
L thay
N
•
V thay
M
•
Z thay NG
• J thay I, Y
•
W thay
O, U
Ráp
9 nguyên âm rút gọn vào 8 chữ cái cuối khác, ta ghi gọn
được 52 vần trên mỗi vần chỉ còn 2
chữ cái.
Do
đó, chỉ cần nhớ 18 qui ước trên, ta
sẽ hiểu được cách ghi gọn 52 vần trên
như sau:
- id, if, is, il, iv, iz, iw = iêt, iêp, iêc,
iên, iêm, iêng, iêu.
- id, il, iv, iz, iw = yêt, yên, yêm, yêng,
yêu. (khi i ở đầu từ)
Ví dụ: kid = khiết, zịd
= diệt, id = yết.
kif = khiếp, wịf = nghiệp.
tis vịs =
tiếc việc.
fil = phiên, íl = yến.
fív = phiếm, wiv = nghiêm,
ỉv = yểm.
jíz = giếng, wiz = nghiêng, iz
= yêng
fíw = phiếu, dìw = điều, iw
= yêu (12)
- yd, yl = uyêt, uyên.
Ví dụ: kyd = khuyết,
qyd = quyết, tỵd = tuyệt.
kyl = khuyên, qỳl
= quyền, wỹl = nguyễn. (2+12=14)
- ud, us, ul, uv, uz, uj = uôt, uôc,
uôn, uôm, uông, uôi.
Ví dụ: nud = nuốt, rụd = ruột.
cus = cuốc.
kul = khuôn, lul =
luôn.
lụv thụv = luộm thuộm.
úz = uống.
cúj = cuối. (6+14=20)
Ví dụ: lưd =
lướt.
cưf = cướp.
dựs = được, zựs = dược, fưs = phước.
lựl = lượn.
bưv bứv = bươm bướm.
fưz = phương, gưz = gương.
tưj cừj = tươi cười.
rựw = rượu. (8+20=28)
- ơd, ơl = uơt, uơn.
Ví dụ: hợd = huợt.
hỡl = huỡn. (2+28=30)
- âd, âl, âz, âj = uât, uân,
uâng, uây.
Ví dụ: kâd = khuất, lậd
= luật.
kâl = khuân, tầl = tuần.
bâg kâz = bâng khuâng.
kâj kỏa = khuây
khỏa. (4+30=34)
hặs = hoặc, wăs = ngoắc.
xăl = xoăn.
kăv = khoăm.
hẵz = hoẵng, kắz = khoắng. (5+34=39)
Ví dụ: ked = khoét, lòe
lẹd = lòe loẹt.
hel = hoen.
wev wév = ngoem ngoém.
wẻw = ngoẻo.
(4+39=43)
- od, of, os, ol, ov, oz, oj, aj (ngoại
lệ cho vần “oay”), ow =
oat, oap, oac, oan, oam, oang, oai, oay, oao.
Ví dụ: kod = khoát, lọd = loạt.
wof = ngoáp.
kos = khoác, tọs
= toạc.
hòl tòl = hoàn toàn.
wọv = ngoạm.
hòz = hoàng, kỏz
= khoảng.
kój = khoái, wòj =
ngoài.
Ngoại
lệ: aj = oay …… Vd: laj haj = loay hoay.
wow = ngoao. (9+43=52)
Một
khi nhớ được toàn bộ qui ước ghi
gọn (33 qui ước và 1 ngoại lệ) và hiểu các
ví dụ ở trên, ta dễ dàng hiểu hai đoạn
thơ viết bằng chữ viết tắt sau đây.
• Bài thơ “Ông đồ” của Vũ
Đình Liên viết bằng chữ viết tắt:
Mỗi năm hoa dào nở
Mỗi năm hoa dào nở
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ôg dồ jà
Lại thấy ôg dồ jà
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, jấy dỏ
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên fố dôg wừj qa
Bên phố đông người qua
Bên phố đông người qua
Bao nhiw wừj thuê vid
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tăc wợi ken tài
Tấm tăc wợi ken tài
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo nhữg net
“Hoa tay thảo nhữg net
“Hoa tay thảo những nét
Như fựz múa rồg bay”
Như fựz múa rồg bay”
Như phượng múa rồng bay”
Nhưg mỗi năm, mỗi vắg
Nhưng
mỗi năm, mỗi vắng
Wừj thuê vid nay dâu
Wừj thuê vid nay dâu
Người
thuê viết nay đâu
Jấy dỏ bùl kôg thấm
Jấy dỏ bùl kôg thấm
Giấy
đỏ buồn không thắm
Mực dọg trog wil sầu
Mực dọg trog wil sầu
Mực
đọng trong nghiên sầu
Ôg dồ vẫn wồi dấy
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Ôg dồ vẫn wồi dấy
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qa dừz kôg ai hay
Qua đường không ai hay
Qua đường không ai hay
Lá vàg rơi trên jấy
Lá vàng rơi trên giấy
Lá vàng rơi trên giấy
Wòj trời mưa bụi bay
Ngoài
trời mưa bụi bay
Năm nay dào lại nở
Năm nay đào lại nở
Năm nay dào lại nở
Năm nay đào lại nở
Kôg thấy ôg dồ xưa
Không
thấy ông đồ xưa
Nhữg wừj mul năm cũ
Nhữg wừj mul năm cũ
Những
người muôn năm cũ
Hồn ở dâu bây jờ
Hồn ở dâu bây jờ
Hồn
ở đâu bây giờ?
• Đoạn đầu “Truyện
Kiều” của thi hào Nguyễn Du viết bằng chữ
viết tắt:
Trăm năm trog cõi wừj
ta
Trăm năm trong cõi người
ta
Chữ tài chữ mệh kéo
là get nhau
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét
nhau
Trải qa một cụs
bể zâu
Trải qua một cuộc bể
dâu
Nhữg dìw trôg thấy mà dau
dớn lòg
Những điều trông thấy mà
đau đớn lòng
Lạ jì bỉ săc tư
fog
Lạ gì bỉ sắc tư
phong
Trời xah qen thói má hồg
dáh gen
Trời xanh quen thói má hồng đánh
ghen
Cảo thơm lần jở
trưs
dèn
Cảo thơm lần giở
trước
đèn
Fog tìh cổ lục còn
trỳl sử
xah
Phong tình cổ lục còn truyền
sử xanh
Rằg năm Ja Tĩh trìw
Mih
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn fưz fẳg lặg
hai cih vữg vàg
Bốn phương phẳng lặng
hai kinh vững vàng
Có nhà vil wọj họ Vưz
Có nhà viên ngoại họ Vương
Ja tư wĩ cũg thừz
thừz bậc trug
Gia tư nghĩ cũng thường
thường bậc trung
Một trai con thứ rôt lòg
Một trai con thứ rốt lòng
Vưz Qan là chữ, nối
jòg nho ja
Vương Quan là chữ, nối giòng
nho gia
Dầu lòg hai ả tố nga
Đầu lòng hai ả tố nga
Thý Cìw là chị, em là Thý Vân
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai côt cak, tyd tih thần
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Một wừj một
vẻ, mừj fân vẹn mừj
Một người một vẻ,
mười phân vẹn mười
III. LỜI CUỐI
Ngôn ngữ viết tắt đã và
sẽ được tiếp tục sáng tạo nhiều
kiểu mới lạ để thích nghi với thời
đại thông tin internet. Hy vọng bài này góp một
phần nhỏ trong việc sáng tạo ngôn ngữ
viết tắt.
Việc người dùng thường
xuyên sử dụng ngôn ngữ viết tắt trong tin
nhắn, chat, IM (Instant Messaging) không gây tác động tiêu
cực đến kỹ năng ngôn ngữ cơ bản
của họ, nghiên cứu mới nhất tại Canada
kết luận.
Trong công trình nghiên cứu
được đăng tải trên tạp chí American Speech , số mùa xuân 2008,
dưới tiêu đề “Linguistic Ruin? LOL! Instant Messaging and Teen
Language” (tạm dịch: Phá hỏng ngôn
ngữ? Ha ha! Nhắn tin nhanh và ngôn ngữ tuổi Teen),
hai chuyên gia Sali Tagliamonte và Derek
Denis, sau khi phân tích hơn 1 triệu từ
thường gặp trong giao tiếp IM, được
sử dụng bởi 72 người trẻ trong
độ tuổi từ 15 đến 20, đã kết
luận:
“…Tin nhắn IM không hề phá
hỏng khả năng ngôn ngữ của thế hệ
trẻ, mà là một mở rộng mới cho sự
phục hưng ngôn ngữ.
Thật ra, công việc nghiên
cứu ngôn ngữ IM này có vẻ đã lạc hậu và
đề cập chỉ một phần rất nhỏ
những gì hiện đang sinh sôi nảy nở. Sự
bùng nổ của thế giới thông tin hiện
đại thì luôn phát triển. Từ khi chúng tôi tiến
hành việc khảo cứu này, các phương thức
mới hơn để giao tiếp trực tuyến
đã được mở rộng, bao gồm các trang
mạng xã hội mọc lên như nấm (vd: MySpace,
Facebook), những game trực tuyến nhiều
người cùng chơi một lúc (vd: World of Warcraft), và
nhiều cách thức thông tin trực tuyến mới
lạ khác chưa được kể đến.
Đồng thời, việc dùng tin nhắn trên
điện thoại di động hiện đã rất
phổ biến ở Bắc Mỹ, cũng tạo ra
một phương thức liên lạc sẽ làm thay
đổi bản chất thông tin …
… Tìm kiếm và nghiên cứu
những trạng thái muôn màu của ngôn ngữ mới
lạ, đang biến động một cách hấp
dẫn, sẽ cho thấy những phát triển này sẽ
là một cổng vào để hiểu được
sự thông tin của nhân loại trong tương lai và
ngay cả có thể là sự thấu hiểu sâu sắc
hơn về tính năng của ngôn ngữ” *.
Vài suy nghĩ về vấn đề viết tắt trên báo chí
Trước
hết, cần phải nói rằng viết tắt là việc làm hết sức cần thiết trong
soạn thảo văn bản phục vụ hoạt động giao tiếp, đặc biệt là ở thời đại
bùng nổ thông tin như hiện nay. Đối với các từ hay cụm từ được sử dụng
lặp lại nhiều lần trong một văn bản, viết tắt không chỉ giúp tiết kiệm
được thời gian và công sức mà còn giúp đáp ứng yêu cầu về trình bày văn
bản do hoàn cảnh thực tiễn đặt ra (chẳng hạn, diện tích hạn chế hoặc cần
đảm bảo sự hài hoà, cân xứng giữa các thành tố ngôn ngữ trong một bối
cảnh giao tiếp nhất định v.v.).
Tuy
nhiên, xung quanh vấn đề viết tắt, nhất là viết tắt trên báo chí -
phương tiện có lượng người sử dụng đông tới mức không xác định được và
do vậy ngôn ngữ ở đó có ảnh hưởng quan trọng tới việc sử dụng ngôn ngữ
của toàn xã hội - vẫn đang tồn tại không ít khía cạnh cần được làm rõ.
1. Kiểu viết tắt phổ biến nhất hiện nay (ở Việt Nam
cũng như trên toàn thế giới) là viết theo các chữ cái đầu tiên của các
âm tiết có trong tên gọi. Ví dụ: xã hội chủ nghĩa -> XHCN; ủy ban
nhân dân -> UBND; Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa -> CNH, HĐH; World
Trade Organization -> WTO (Tổ chức Thương mại thế giới); World Bank
-> WB (Ngân hàng thế giới), v.v.
Ở đây, cần lưu ý:
-
Kiểu viết tắt này chỉ được dùng cho các tên gọi được cấu tạo bởi các từ
thuộc về cùng một thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng Việt và tiếng Anh.
-
Chỉ được sử dụng hình thức viết tắt trên sau khi đã viết dạng đầy đủ có
kèm dạng tắt được đặt trong ngoặc đơn đứng ngay bên cạnh, ví dụ: Đài Truyền hình Việt Nam (ĐTHVN), Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN), v.v.
Thực
tế cho thấy, việc viết tắt không báo trước có thể gây ra những khó khăn
đáng kể đối với việc lĩnh hội thông tin của công chúng. Chẳng hạn, dạng
tắt CN có thể khiến người ta liên hệ tới khá nhiều từ khác nhau như chi nhánh, công nhân, công nghiệp, công nghệ, công nguyên, cử nhân; rồi dạng tắt ĐHKT có thể hiểu là Đại học Kinh tế mà cũng có thể hiểu là Đại học Kiến trúc hay Đại học Kĩ thuật,
v.v. Đặc biệt, dạng tắt của những tên gọi ít gặp trong giao tiếp hàng
ngày như LLCSBVBVN (Lực lượng Cảnh sát bảo vệ biển Việt nam), TCTCĐLCL
(Tổng cục Đo lường chất lượng), VTTTTC (Vụ Thể thao thành tích cao) là
một sự thách đố không nhỏ đối với đông đảo công chúng.
- Không nên viết tắt theo kiểu trên ở tít (đầu đề) bài.
Vì việc này có thể làm phương hại đến tính rõ ràng, dễ hiểu của
tít-thành tố tạo ấn tượng đầu tiên cho công chúng khi tiếp xúc với tác
phẩm. Trong trường hợp bất khả kháng, chỉ nên viết tắt những từ hay cụm
từ xuất hiện với tần số cao trong giao tiếp mà hầu hết mọi người đều
biết như XHCN, UBND, ASEAN, NATO, v.v.
-
Với văn bản phát thanh và truyền hình cần hạn chế tới mức thấp nhất
việc viết tắt theo lối này. Tuyệt đối không viết tắt nếu điều đó gây khó
khăn cho người trình bày văn bản trên sóng cũng như người tiếp nhận
thông tin. Chỉ nên viết tắt với những từ vừa thông dụng vừa dễ đọc như
ASEAN, UNESCO, v.v. Ngay cả với trường hợp Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO)-một cái tên hết sức quen thuộc hiện nay, cũng chỉ nên viết tắt sau
khi thống nhất được cách đọc (hiện đang có ít nhất 3 cách đọc là vê-kép-tê-ô, vê-đúp-tê-ô, đắp-bliu-ti-âu nhưng theo chúng tôi, nên chọn cách đầu tiên).
-
Từ Trung ương xuất hiện với tần số rất cao trên báo chí, thế nhưng nó
lại được viết tắt theo 3 kiểu khác nhau: TW, TƯ, T.Ư. Sự thiếu thống
nhất trong việc viết tắt từ quan trọng này đang gây băn khoăn cho không
ít người.
Trong
ba chữ tắt nói trên, TW có lẽ xuất hiện sớm hơn cả và hiện vẫn được sử
dụng khá phổ biến trong nhiều loại hình văn bản, nhất là văn bản báo chí
và hành chính-công vụ. Chữ tắt này, theo chúng tôi, bắt nguồn từ quy
tắc điện báo của ngành bưu điện, ở đó, ký hiệu W được dùng sau chữ cái U
để biểu thị chữ Ư (UW = Ư) và sau các chữ cái A, O để biểu thị các chữ A
, Æ trong tiếng Việt (AW = A , OW = Æ ). Chính quy tắc này đã khiến
người ta dùng chữ W (không có dấu phụ) thay cho Ư (có dấu phụ, thao tác
phức tạp hơn) khi viết tắt âm tiết ƯÆ NG trong từ TRUNG ƯÆ NG. Tuy
nhiên, dễ dàng nhận thấy là kiểu viết tắt này không phù hợp với nguyên
tắc chung, bởi lẽ: W không phải là chữ cái đầu của âm tiết ƯÆ NG nên nó
không thể làm đại diện cho âm tiết này khi viết tắt. Có lẽ, vì lý do ấy,
thời gian gần đây, trên báo chí tiếng Việt dạng chữ tắt TW đã ngày càng
ít được dùng hơn.
Kiểu
viết tắt từ TRUNG ƯÆ NG thành TƯ ngày càng khẳng định vị thế của mình
trên báo chí cũng như trong các phạm vi giao tiếp khác. Nguyên do là bởi
kiểu viết này phù hợp với nguyên tắc chung về cấu tạo chữ tắt: viết
theo các chữ cái đứng đầu âm tiết. Và cần nói thêm là chính chữ cái Ư
cũng đã được dùng để đại diện cho âm tiết ƯU trong cụm từ NGHỆ SĨ ƯU TÚ
(NSƯT).
Nếu
viết TƯ là đúng thì tại sao lại còn tồn tại cả dạng viết T.Ư? Sự khác
biệt giữa hai cách viết này, như chúng ta thấy, chỉ là dấu chấm ngăn
cách hai chữ cái. Vậy dấu ngăn cách này có vai trò như thế nào?
Qua
tìm hiểu, chúng tôi được biết là hầu hết các tờ báo (các tờ báo như vậy
không nhiều) hiện dùng chữ tắt T.Ư trước đây đều đã dùng dạng TƯ. Sỡ dĩ
họ chuyển từ TƯ sang T.Ư là vì có ý kiến cho rằng dạng tắt TƯ dễ bị đọc
nhầm thành từ nguyên khối là "tư", từ đó gây ra sự hiểu sai nghiêm trọng.
Theo
chúng tôi, đây không phải là lý do thuyết phục. Một khi đã có nguyên
tắc chung thì không nên tạo ra một ngoại lệ thiếu căn cứ xác đáng về mặt
khoa học. Nếu viết T.Ư thì ít nhất phải viết N.S.Ư.T (Nghệ sĩ Ưu tú),
T.U (Thành uỷ). Hơn nữa, chữ tắt bao giờ cũng chỉ xuất hiện trong bối
cảnh có những dấu hiệu giúp người ta tri nhận nó một cách dễ dàng (chẳng
hạn, được viết in hoa; trước đó được viết đầy đủ; sự quen thuộc về vị
trí xuất hiện; sự tương hợp về ý nghĩa của các thành tố ngôn ngữ đứng
trước và sau chữ tắt với chính nó, v.v.). Và có thể khẳng định rất khó
tìm ra người nào đủ trình độ để đọc hiểu sách báo mà lại đọc sai và hiểu
sai chữ tắt TƯ trong các tổ hợp như BCHTƯ, UBTƯMTTQVN, TƯ Đoàn, Nghị quyết TƯ.
Sự
tồn tại của ba cách viết tắt đối với từ TRUNG ƯÆ NG đã tạo ra sự thiếu
nhất quán không đáng có về chính tả trên báo chí; và điều này làm giảm
sút giá trị văn hoá-thẩm mỹ của cả tờ báo nói chung cũng như của từng
tác phẩm báo chí nói riêng.
Dựa trên những lý lẽ trên đây, chúng tôi đề nghị: Nên chọn phương án TƯ để viết tắt từ TRUNG ƯÆ NG trong chính tả tiếng Việt.
2. Kiểu viết tắt thứ hai
là lược bớt các yếu tố theo xu hướng giữ lại ít nhất 2 chữ cái trong
mỗi âm tiết của tên gọi (trong đó thường có một chữ cái là ký hiệu ghi
nguyên âm). Ví dụ: HABECO (Công ti Bia Hà Nội), XUNHASABA (Công ti Xuất
nhập khẩu sách báo), VINATABA (Công ti Thuốc lá Việt Nam), LIXEHA (Liên hiệp các xí nghiệp xe đạp Hà Nội), v.v.
Đối
với các tên gọi tiếng Anh, nếu bộ phận chính của tên (tức bộ phận giúp
nhận diện được ngay đặc thù về phạm vi chức năng, lĩnh vực sản xuất kinh
doanh hay loại hình dịch vụ của đối tượng có tên viết tắt) chỉ có một
âm tiết thì trong nhiều trường hợp nó được giữ nguyên, ví dụ: HABUBANK
(Ngân hàng Xây dựng và Phát triển nhà Hà Nội), SILKTEXTCO (Công ti Xuất
khẩu tơ tằm), FAFILM (Công ti Phát hành phim và chiếu bóng Trung ương),
VINAMILK (Công ti Sữa Việt Nam), v.v.
Những
chữ tắt này, do vừa có khuôn vần lại vừa có các thành tố giúp định
hướng về nội dung thông tin nên thường dễ đọc và dễ đoán ý nghĩa hơn so
với những tên gọi viết tắt theo chữ cái đứng đầu âm tiết. Tuy nhiên, do
chúng là sản phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân cho nên người ta buộc phải
thuộc lòng cách viết do cá nhân quy định trong từng trường hợp cụ thể
chứ không thể tự viết trên cơ sở nguyên tắc chung đã có sẵn như kiểu
viết theo chữ cái đứng đầu âm tiết.
So
với kiểu viết tắt theo các chữ cái đứng đầu âm tiết, kiểu viết tắt này
có thể sử dụng rộng rãi hơn trên báo phát thanh và truyền hình. Song vẫn
phải lưu ý là chỉ nên đọc theo dạng tắt những tên gọi hết sức quen
thuộc với nhiều tầng lớp công chúng như VINATABA, VINAMILK, VINAFONE,
v.v.
3. Kiểu viết tắt thứ ba
là kết hợp một âm tiết của từ này với một âm tiết của từ khác để tạo
nên một từ ghép mới rồi gán cho nó ý nghĩa của các từ nguyên gốc, chẳng
hạn: KIỂM NGHIỆM + CHỨNG MINH = KIỂM CHỨNG; QUAN TÂM + LO NGẠI = QUAN NGẠI; QUYỀN NA NG = QUYỀN LỰC + KHẢ NA NG; TƯÆ NG ỨNG + THÍCH HỢP = TƯÆ NG THÍCH, v.v.
Khác
với 2 kiểu viết tắt nói trên, đây không phải là viết tắt tên gọi mà là
viết tắt khái niệm. Và theo chúng tôi, không nên khuyến khích hướng viết
tắt này, nhất là trong địa hạt báo chí. Vì sự mới lạ, chưa từng gặp
trước đó của những chữ tắt như vậy có thể gây cản trở đáng kể đối với
việc tiếp nhận thông tin của công chúng. Thực tế cho thấy, không ít
người đã thực sự ngỡ ngàng khi bắt gặp trong giao tiếp những từ như QUAN
CHIÊM (quan sát + chiêm ngưỡng), ĐIỀU NGHIÊN (điều tra + nghiên cứu); CỤ TỈ (cụ thể + tỉ mỉ).
Riêng với người nước ngoài, kiểu viết tắt này là một sự đánh đố khó có
thể được chấp nhận. Nếu cần thiết, chúng ta chỉ nên dùng những chữ tắt
đã có sẵn, thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại
chúng và ý nghĩa của chúng có thể được tiếp nhận một cách dễ dàng.RELA: Relationship (mối quan hệ)
CFS: Confession (tự thổ lộ)
19: One night (một đêm)
29: Tonight (tối nay)
ASL: Age, sex, location (tuổi, giới tính, nơi ở)
BF: Boy friend (bạn trai)
GF: Girl friend (bạn gái)
INB: Inbox (nhắn tin riêng)
PM: Private message (nói chuyện riêng)
Gato: Ghen ăn tức ở
COCC: Con ông cháu cha
Ôi cái ĐM: Ôi cái định mệnh
ATSM: Ảo tưởng sức mạnh
Đậu xanh rau má: (nói lóng một tiếng chửi thề)
CLGT: Cần lời giải thích (cũng có nghĩa là: Cái l... gì thế)
Oh Shit (tiếng Anh có nghĩa là chất thải, phân, bạn trẻ thường dùng thay tiếng chửi)
OMC: Oh my chuối
CMNR: Con mẹ nó rồi.
No comments:
Post a Comment