Thở bằng mũi hay bằng miệng ?
Bình thường ai cũng thở bằng mũi là phương pháp tự nhiên khi không
có bệnh, nên ít có ai thắc mắc là thở bằng mũi hay bằng miệng, cách nào đúng
cách nào sai, giống như tự nhiên chúng ta đặt câu hỏi ăn cơm hay ăn cháo ?
Nhưng đến khi chúng ta bị bệnh mới nhận thấy cách thở nào là cần thiết để chữa
bệnh cho có hiệu qủa nhất mà không cần dùng đến thuốc.
Theo khí công có 4 cách thở chính áp dụng để chữa bệnh tùy theo những
chứng bệnh khác nhau để chọn cách thở cho thích nghi và đạt được kết qủa chữa bệnh
nhanh nhất :
A-Cách thứ nhất : Hít vào thở
ra bằng mũi. Chia làm 5 loại :
Loại 1 : Hít thở tự nhiên
bình thường, ngậm miệng, không cần phải để ý đến cách thở khi mình đang làm việc.
Loại này không dùng để chữa bệnh. Thở thường
xuyên 24/24
Loại 2 : Hít vào chậm và nhiều,
thở ra nhẹ và ít hơn thở vào (dương nhiều âm ít): Mục đích làm tăng dương, có công dụng chữa bệnh áp huyết thấp, chóng mặt, chán đời,
thở dài, tim đập chậm. Chỉ áp dụng khi tập luyện, mỗi lần tập chừng
15-30 phút, rồi trở lại hơi thở bình thường.
Loại 3 : Hít thở 3 thì :
Cuốn lưỡi ngậm miệng. Thì hít vào 5 giây, ngưng thở 5 giây, thở ra 5 giây : Thở
vào thở ra 5 giây bằng nhau,( tăng cả âm cả dương bằng nhau) nhưng ngưng 5 giây
để giữ khí trong cơ thể lưu chuyển khắp châu thân, sẽ giúp
cơ thể tăng nhiệt, tăng them khí và huyết, chữa bệnh rét lạnh, thiếu máu, mất sức,
suy nhược.
Loại 4 : Hít vào ít thở ra
nhiều : Cuốn lưỡi ngậm miệng thở bằng mũi. Dùng để thải
khí độc trong cơ thể, chữa khí bế tắc khó thở, ngộp thở, cảm sổ mũi, nghẹt mũi,
ho cảm, lạnh bụng, chậm tiêu hóa, đầy bụng, trán lạnh, chóng mặt, sốt nóng lạnh,
bàn tay lạnh.
Loại 5 : Loại đặc biệt của khí công, đặt ý trụ vào Đan Điền Thần,
Đan Điền Tinh, Thiên Môn, Mệnh Môn, Ấn Đường.
B-Cách thứ hai : Hít vào bằng
mũi, thở ra bằng miệng : Chia 3 loại :
Loại 1 : Hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, chậm đều, thời gian
khí vào khí ra bằng nhau, để điều chỉnh dương âm quân bình, giúp ổn định nhịp
tim đập bình thường trở lại, khi bị ngộp thở loạn nhịp tim do đi, chạy nhanh, hay
do suyễn.
Loại 2 : Hit vào ít thở ra nhiều. Hít vào bằng mũi chậm, nhẹ bình thường
tự nhiên, (ít), nhưng thổi hơi ra miệng như thổi bếp nhóm lửa hay thổi vào một
chóng chóng bằng giấy cho thật mạnh và dài hơi để cho chóng chóng quay, tập
10-20 phút hay tập cho đến khi mồ hôi trán xuất ra thì ngưng, rồi trở lại hơi
thở bình thường, mục đích làm hạ sốt, chữa trán nóng, áp huyết tăng cao mặc dù
đã uống thuốc giảm áp mà không xuống gây nguy hiểm đến tính mạng.
Loại 3 : Loại đặc biệt của khí công, trong động công gọi là Thu
công, trong Tĩnh công thở thiền, gọi là Xả trược, và Xả thiền.
C-Cách thứ ba : Hít thở bằng
miệng . Có 3 loại :
Loại 1 : Loại thông thường chỉ có một cách duy nhất phải hít thở bằng
miệng khi bị tắc nghẹt lỗ mũi do cảm, viêm xoang mũi, polip mũi.
Loại thứ 2 : Loại thở như cá, chỉ chú trọng thì thở ra bằng cách thổi
hơi ra mạnh, dài, chậm, lâu để lấy hết khí trong người ra. Còn không chú ý thì hít vào, cần há miệng như con cá chỉ
chờ khí xâm nhập vào cơ thể đầy đủ một cách tự nhiên, lại tiếp tục thổi đẩy hết
khí trong người ra khỏi miệng. Công dụng để loại độc khí, vi trùng, virus, nhiệt
độ cao đang bị sốt, áp huyết đang cao, nhức đầu, đầy bụng, miệng hôi, nấc cục, ợ
chua, bao tử nhiệt, ăn không tiêu, suyễn, bị ngộp thở, bệnh dị ứng da…
Loại 3 : Chỉ thổi hơi ra bằng miệng nhẹ, chậm, đều, khi vừa đi lên cầu
thang vừa thổi hơi ra đều, chậm, nhẹ, hay khi vừa chạy vừa thổi hơi ra, hay khi
làm việc mệt hay bị thở dốc đối với những người có bệnh tim mạch và áp huyết
cao, tập thường xuyên để phòng ngừa đứt mạch máu não hay đột qụy, th ổI ra nhiều
và đều cũng để làm giảm đau, an thần, chữa bệnh căng thẳng thần kinh, bệnh chán
đời thở dài mất ý thức kiểm soát hơi thở…
D-Cách thứ tư : Những phương
pháp thở đặc biệt của Khí Công Y Đạo .
Mục đích để tăng cường hệ miễn
nhiễm, khai mở các đại huyệt, thong tiểu chu thiên, đại chu thiên, sinh khí,
sinh tinh, sinh tủy, tập sinh hóa, chuyển hóa, thở thai tức, luyện đơn như luyện
tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư. hoàn tinh bổ não, phát
triển tâm linh để thu phát sóng năng lượng….sẽ được hướng dẫn tuần tự trên
forum Khí Công Y Đạo Việt Nam.
Tầm quan trọng của việc hít thở
I. Thay đổi kiểu hít thở: tập
hít thở chậm, dài và sâu
Dưỡng khí tối cần thiết
cho cơ thể con người. Không ăn uống, con người có thể sống được vài tuần, nhưng
nếu thiếu dưỡng khí trong vòng 5 phút, con người sẽ chết, hay may ra có được cứu
sống, thì não bộ sẽ bị hư hại nặng nề, sẽ tê bại và tàn tật suốt đời.
Dưỡng khi cần thiết cho
cuộc sống con người đến thế, nhưng chúng ta thường ít ý thức được điều đó, và
cũng không biết hít thở đúng cách để có được số lượng dưỡng khí đầy đủ giúp cơ
thể lành mạnh.
Rất thường khi chúng ta
hít vào bằng mũi và thở ra cũng bằng mũi, hơi thở lại rất ngắn, vì dưỡng khí
chưa xuống hết cuống phổi. Đây là lý do giải thích nguyên nhân của nhiều thứ bệnh,
bởi vì lượng dưỡng khí cần thiết cho não bộ, phổi, và các cơ phận khác qúa ít.
Tình trạng thiếu dưỡng khi lâu ngày khiến cho các cơ phận suy yếu, hoạt động
không bình thường và dễ lâm bệnh. Thiếu dưỡng khí là một trong những nguyên
nhân gây ra nhiều tật bệnh trong đó có bệnh nhức đầu và mệt mỏi. Chính vì thế
nguyên tắc đầu tiên trong thuật dưỡng sinh: đó là ý thức trở lại sự cần thiết của
dưỡng khí đối với sức khỏe của mọi cơ phận trong thân thể con người và tập hít
thở đúng đắn.
1. Điều đầu tiên cần làm đó là, nếu ở nhà lầu,
mỗi ngày nên lên xuống cầu thang nhiều lần để cho máu huyết lưu thông, nhịp
tim đập mạnh và nhanh hơn, bắt buộc chúng ta hít vào nhiều dưỡng khí hơn và thải
ra nhiều thán khí hơn. Vì thế mỗi ngày nên tìm cách đi bộ bước nhanh, hay bơi lội,
tốt nhất khoảng 30 phút trở lên, hoặc làm một số cử động thể dục, thể thao, làm
vườn, quét dọn nhà cửa vv… lại càng tốt hơn nữa.
2. Nhưng quan trọng hơn cả là tập thở: hít
vào bằng mũi, thở ra bằng miệng
Để hít dưỡng khí phải
ngậm miệng lại, đó là điều ai cũng biết. Nhưng để thở thán khí ra ngoài, thường
khi chúng ta làm sai. Nghĩa là thay vì thở ra bằng miệng, chúng ta lại cũng thở
ra bằng mũi. Nhưng như thế là không đúng với tác động được diễn tả bàng hai từ
“hít” và “thở” theo luật luân chuyển của mọi cơ phận trong thân thể con người
là “tiểu vũ trụ” cũng như của “đại càn khôn” là toàn vũ trụ. Thế rồi kiểu hít
thở bằng mũi vừa sai lại vừa ngắn, chưa đủ để cho dưỡng khí vào tới mọi tế bào
trong buồng phổi và các bộ phận khác của thân thể. Nếu đếm nhịp, kiểu hít thở
này của chúng ta mới chỉ được tới ba, ít khi tới bốn. Trong khi nhịp hít vào bằng
mũi ít nhất phải là 7, và nhip thở ra bằng miệng phải là 10 hay 14.
Do đó, bài học đầu tiên
của Thuật Dưỡng Sinh và cũng là điều nòng cốt để có được thiên khí năng là phải
tập thở:
1) Hít vào bằng mũi.
2) Thở ra bằng miệng.
3) Chậm, dài và sâu,
nhẹ nhàng như nước chảy.
4) Mà không phải cố gắng,
cũng không dẫn khí, không nén khí.
5) Khi hít vào bằng
mũi nhẩm đếm tới 4 hay 7.
6) Khi thở ra bằng miệng
nhẩm đếm tới 10 hay 14.
7) Đầu óc hoàn toàn trống
rỗng, không nghĩ ngợi gì cả.
Càng tập lâu, hơi thở
càng dài, bạn càng hít vào nhiều dưỡng khí cho cơ thể, thì càng thải ra nhiều
thán khí. Chính nhịp thở chậm, dài và sâu, đầu óc trống rỗng thanh thản đó khiến
cho các cơ phận được mạnh khỏe, vì nhận được dưỡng khí bồi bổ dồi dào và thải hết
thán khí là cặn bã ra ngoài.
3. Cách thế nằm hay ngồi thở
Để thở như trên bạn có
thể ngồi trên ghế hay nằm trên giường hoặc bất cứ đâu, miễn là trong tư thế hết
sức giãn xả, tự nhiên, thoải mái, không gò bó, co quắp.
Tư thế ngồi thở:
1) Tốt nhất là ngồi
trên ghế đẩu (để không dựa lưng vào đâu cả).
2) Lưng thẳng.
3) Đầu, mắt nhắm hay
nhìn thẳng về phía trước.
4) Khoảng cách giữa
hai chân bằng khoảng cách hai vai.
5) Hai bàn tay để ngửa
trên đầu gối.
6) Toàn thân trong
tư thế hoàn toàn giãn xả.
7) Hít, thở theo
cách thức trình bầy ở trên.
Tư thế ngồi thở này là
một trong các cách thức nghỉ ngơi và lấy lại sức lực rất công hiệu, có thể áp dụng
tại khắp mọi nơi và trong mọi lúc. Chỉ cần vài phút là bạn tái tạo sinh lực cho
tâm trí và cơ thể của bạn. Toàn thân trong tư thế hoàn toàn giãn xả và đầu
không nghĩ ngợi gì là hai yếu tố rất quan trọng. Để không nghĩ ngợi gì, bạn nhẩm
đếm nhịp thở của mình: khi hít vào đếm từ 1 cho đến 4 hay 5 hoặc 6, cho tới khi
nào còn hít được dưỡng khí, mà không cần phải cố gắng. Hễ thấy đầy rồi, thì thở
ra và khi thở ra bằng miệng, thì đếm gấp đôi, hay hơn một chút. Cần nhất là thở
chậm và sâu trong tư thế hoàn toàn thanh thản, nghỉ ngơi. Càng thở quen, hơi thở
của bạn càng dài, lượng dưỡng khí hít vào và lượng thán khí thả ra càng nhiều.
Lấy dưỡng khí vào cơ thể và thả thán khí khỏi cơ thể khiến cho bạn khỏe mạnh.
Nếu nằm trên giường hay
ở đâu đó thì
1) Duỗi thẳng chân
tay.
2) Khoảng cách giữa hai chân bằng khoảng
cách hai vai.
3) Cánh tay song
song với thân mình.
4) Lòng bàn tay ngửa
lên trời.
5) Mắt nhắm.
6) Toàn thân trong
tư thế hoàn toàn giãn xả.
7) Hít, thở theo
cách thức trình bày ở trên.
Đây là một kiểu tịnh
thiền hết sức đơn sơ và dễ dàng, mà ai cũng có thể làm được. Điều quan trọng nhất
là tạo chân không trong chính mình, tức là đầu óc hoàn toàn trống rỗng, nghỉ
ngơi, không nghĩ ngợi gì cả. Hai bàn tay ngửa lên trời trong thế giãn xả thoải
mái diễn tả thái độ sống quảng đại, sẵn sàng nhận lãnh và sẵn sàng cho đi,
không giữ lại gì hết.
4. Công hiệu
Kiểu tịnh thiền hít thở
chậm, dài và sâu này tác dụng rất hữu hiệu trên toàn tâm trí và cơ thể con người.
Vì cung cấp dồi dào dưỡng khí cho cơ thể đồng thời thải hết thán khí và căng thẳng,
nên nó giúp:
1) phục hồi sức lực
tâm sinh vật thể lý,
2) tái lập thế quân
bình cho bộ máy hô hấp và tuần hoàn,
3) trấn an tâm thần,
giúp bình tĩnh, thanh thản,
4) chữa bệnh tim,
nóng nảy, âu lo, áp huyết cao, khó thở, mất ngủ, nhức đầu, khó tiêu, mệt mỏi…
Bình thường kiểu tịnh
thiền và hít thở chậm, dài và sâu này công hiệu nhất vào ban sáng và ban tối.
Càng tập được lâu bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Nhưng thật ra, càng năng thực
tập phương pháp hít thở dưỡng sinh theo kiểu chỉ dẫn trên đây bao nhiêu, bạn
càng khỏe mạnh bấy nhiêu, bởi vì tâm trí và thân xác của bạn thường xuyên được
nghỉ ngơi bồi dưỡng, dù chỉ trong năm ba phút.
Đặc biệt nếu bạn hít thở
và thiền được như thế, khoảng 15-30 phút mỗi sáng và mỗi tối, dần dần bạn sẽ thấy
cơ thể khoẻ mạnh, và trong người rất an bình, thanh thản.
Kiểu hít thở này rất cần
thiết để có được thiên khí năng, như sẽ được trình bày trong chương VII “Cách
khởi động các chakra”.
Tập thở đúng cách để khỏe hơn
Cách thở đúng là sử dụng toàn bộ cơ hoành thay vì phần ngực để giúp
đưa không khí trong lành đến toàn bộ phổi.
Thở không đúng cách có thể ảnh hưởng rõ rệt đến tinh thần và mức độ
năng lượng của bạn suốt một ngày dài. Nhiều người được yêu cầu thở sâu thì lại
hít một hơi thật sâu bằng ngực, tuy nhiên điều này không đúng.
Từ lúc mới sinh ra, tất cả chúng ta đều thở bằng bụng, sử dụng cơ
hoành tức là dùng toàn bộ chức năng của phổi. Thở bằng bụng giúp hơi thở sâu
hơn, giúp cải thiện khả năng chịu đựng của bạn và có thể cung cấp nhiều năng lượng
hơn. Tuy nhiên, khi lớn lên, chúng ta lại sử dụng cách kém hiệu quả hơn là thở
bằng ngực.
Dưới đây là 2 bài tập thở đúng cách:
Bài tập 1:
Nằm thẳng lưng trên sàn, đầu kê gối mỏng. Đặt một cuốn sách mỏng lên
vùng bụng. Đặt tay phải bên dưới thắt lưng, để những ngón tay chạm vào phần
lưng. Đặt tay trái lên cổ, nơi kết nối cổ và phần trên của ngực. Hít thở sâu bằng
cơ hoành. Hãy cố gắng thổi phồng dạ dày khi hít vào trong làm cuốn sách dịch
chuyển lên xuống theo nhịp thở nhưng giữ cho ngực không chuyển dịch. Hãy tưởng
tượng bạn bơm căng một quả bóng ở vị trí giữa rốn và xương sống rồi từ từ đẩy
nó ra khỏi bụng mình bằng cách thót bụng hết cỡ khi thở ra. Thực hiện động tác
thở này trong 5 phút một vài lần trong ngày.
Bài tập 2:
Tập luyện thông hơi thở khi bạn cần thêm năng lượng. Ngồi trên ghế tựa,
thẳng cột sống. Hít vào và thở ra với một tốc độ nhanh chóng nhưng ổn định,
không mở miệng. Bạn sẽ thấy lồng ngực và bụng trở nên mạnh mẽ. Để ngăn chặn
tình trạng hơi thở quá gấp gáp thì chỉ nên thực hành bài tập này trong 10 giây
một lần. Dần dần bạn có thể tăng thời gian thở gấp lên 15 hoặc 20 giây, tùy cơ
thể cảm nhận và điều chỉnh.
Kiên trì luyện tập thở đúng một vài phút mỗi ngày cũng sẽ có tác dụng
rất lớn giúp chống stress và giảm huyết áp.
Phần lớn chúng ta không biết thở
Thở là lẽ tự nhiên bình thường từ khi hình thành kiếp người. Nhưng
có thể những gì bạn sắp đọc trong bài viết
này sẽ khiến bạn phải ngỡ ngàng: “Hóa ra mình chưa biết thở”.
Thở bằng bụng không phải bằng
ngực
Mọi người cứ nghĩ thở là đơn giản hít vào thở ra nhưng thực tế, cách
thở thông thường của chúng ta không thuận theo cách tự nhiên mà bị chi phối bởi
hành động, tâm lý, cảm xúc, sức khỏe…
Theo một quy luật tự nhiên, mọi đứa trẻ sinh ra đều thở bằng bụng tức
là dùng cơ hoành vận khí. Cách thở này phát huy toàn bộ chức năng của phổi,
nâng cao lượng ôxy cho cơ thể, và massage ngũ tạng giúp các cơ quan này thêm khỏe
mạnh. Nhưng đa phần người lớn lại có thói quen thở bằng ngực do bị chi phối bởi
tâm lý, lao động, sức khỏe… dẫn đến lượng không khí trong lành đến đáy phổi sẽ
ít hơn làm giảm hiệu quả vận chuyển ôxy. Đồng thời thở ngực khiến cho phần đáy
phổi xẹp dần dễ đến lượng khí ở vùng này “tù túng” không được thoát ra hết, chất
chứa khí độc và vi khuẩn gây bệnh.
Vì vậy để thực hành thở bụng trong đời sống thường nhật, bạn nên cố
gắng thổi phồng dạ dày khi hít vào và giữ cho ngực không chuyển dịch. Những người
bình thường khi thở sẽ phập phùng trên ngực, nhưng người đã luyện tập thở bụng
một thời gian thì sẽ dần có phản xạ thở bụng. Vì vậy, mỗi ngày bạn luyện tập đều đặn phương pháp thở bụng
này sẽ hình thành phản xạ thở đúng.
Dùng mũi không dùng miệng
Ai cũng biết mũi sinh ra để thở nhưng nhiều người có thể vì thói
quen, có thể vì bất đắc dĩ (nghẹt mũi, viêm mũi, viêm xoang…) mà vẫn phải thở bằng
miệng. Số khác lại do lao động mệt, không kìm chế được nên thở bằng miệng để
“giải quyết tức thì” nhu cầu ôxy của cơ thể. Sự thật thở bằng miệng có thể khiến
bạn bị nhiễm khuẩn, cơ quan ngũ tạng nhiễm lạnh.
“Khi hơi thở ‘lạc lối’ thì tâm trí cũng không ổn
định. Nhưng khi hơi thở bình tĩnh thì tâm trí cũng sẽ tĩnh tại, và cuộc sống sẽ
kéo dài. Vì thế điều đầu tiên là nên học cách kiểm soát hơi thở”. - Svatmarama
Nếu thở bằng miệng, khí hít vào không được lọc sạch nên mang nhiều mầm
bệnh. Còn cấu tạo của mũi có màng nhầy lọc khí ngăn ngừa vi khuẩn và dị nguyên
nên bảo vệ cơ thể. Hơn nữa, thở bằng mũi thì không khí được đi qua một quãng đường
dài hơn, được sưởi ấm bằng thân nhiệt nên không làm cho các cơ quan nội tạng bị
“choáng” và lạnh.
Thở bằng miệng kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến hình dáng miệng, ngực và
cơ quan hô hấp trên. Hệ lụy là khứu giác giảm, răng hở, hàm vâu, tăng kích thước
amidan… Để thở bằng mũi thì mỗi người nên tự hình thành thói quen ngậm miệng,
hít hơi từ mũi; khi có bệnh về hô hấp nên điều trị ngay, không lạm dụng dùng miệng
để thở.
Làm việc cũng cần thở sâu
Thông thường, chúng ta nghĩ rằng thở sâu chỉ thực hiện được khi thư
giãn, tỉnh táo, còn khi làm việc thì luôn thở ngắn, thở gấp. Không ít người vì
làm việc quá tập trung nên quên thở, thở ít. Điều đó dẫn tới hiện tượng mệt mỏi,
stress, ngáp và hơi thở dốc, làm việc không hiệu quả. Hiện tượng nhịn thở để
làm việc tưởng chừng tiết kiệm thời gian nhưng thực chất càng làm hiệu quả công
việc giảm sút vì não bộ đã bị hạn chế ôxy, khí độc trong cơ thể không được tống
hết ra ngoài.
Khi thấy dấu hiệu ngáp nhiều, bạn nên dừng lại công việc, hít hơi thật
sâu và thở ra từ từ. Để tiết kiệm thời gian lại nâng cao hiệu quả thở thì bạn
nên ra ngoài ban công, kết hợp với động tác chân tay, ưỡn ngực ra trước.
Chỉ tập thở khi tâm thanh thản
Tập thở đang ngày càng trở nên thu hút, từ người già tới thanh niên
nhằm tạo ra phản xạ thở đúng và giữ gìn sức khỏe, phòng chống bệnh tật.
Không phải cứ thở sâu là tốt, nếu thở sâu khi tâm không thanh thản sẽ
làm loạn khí huyết, sinh bệnh tật, thậm chí gây tẩu hỏa nhập ma (thân, tâm
không nhất trí với nhau).
Vì vậy, bạn chỉ được thực hành bài tập thở khi đã thư giãn, ở nơi
không khí thoáng đãng và trong lành. Một số người chưa biết kỹ thuật, cố thở
sâu thì phế nang căng đầy nhưng vẫn đuối hơi, cơ thể không cảm thấy sảng khoái
và không khỏe mạnh. Thực hiện không đúng kỹ thuật có thể dẫn tới ngộp thở, nhức
đầu, buồn ngủ…
Bài tập thở về cơ bản được giữ nguyên nhưng thời lượng và tư thế tập
cần được điều chỉnh phù hợp với thể trạng, tuổi, bệnh lý để tránh gây tác dụng ngược. Ví như đối
với người mắc bệnh cao huyết áp, bệnh tim mạch nặng khi tập động tác này không
nên cúi xuống hoặc nín hơi nhiều, chỉ cần đứng thẳng người và thở vào thở ra nhẹ
nhàng. Vì vậy, mỗi người không nên tự ý tập thở mà cần tham khảo chuyên gia để có
hướng dẫn cho từng đối tượng.
Hướng dẫn cách thở
Trọng tâm của phương pháp là luyện thần kinh, để chủ động hai quá
trình ức chế và hưng phấn nhằm an thần, đồng thời tạo hơi thở càng ngày càng mạnh
lên giúp khí huyết lưu thông tốt, không bị ứ trệ:
Tư thế tập: Nằm ngửa thẳng, kê một gối ở mông, cao khoảng 5-8cm, tay
trái đặt trên bụng, tay phải đặt trên ngực, nhắm mắt chú ý vào việc tập thở.
<Thì 1> Hít vào đều,
sâu, tối đa, ngực nở, bụng phình và cứng, hít vào cho bụng nở ngực căng nhằm
cho không khí đến tận cùng phế nang, máu về tim phổi dễ dàng. Yêu cầu bụng
phình song phải cứng nghĩa là các cơ bụng, cơ hông, cơ đáy chậu phản ứng trở lại
cơ hoành để kìm phủ tạng không bung ra.
<Thì 2> Giữ hơi, cơ
hoành và các cơ lồng ngực đều co thắt tối đa, thanh quản mở, giơ chân dao động
rồi để chân xuống. Để tập động tác này, sau thì 1, bạn hãy cố hít thêm tối đa.
<Thì 3> Thở ra thoải
mái, tự nhiên, không kìm, không thúc. Tất cả các cơ hoàn toàn buông xuôi.
Thở ra tự nhiên, thoải mái, nhờ sức nặng và tính đàn hồi của ngực bụng làm cho
nó xẹp xuống; chỉ thở ra ở mức gần triệt để (không ép bụng, ép ngực để thở ra
triệt để). Cơ thể sẽ cảm thấy dễ chịu, khỏe khoắn.
<Thì 4> Thư giãn hoàn
toàn, có cảm giác nặng và ấm.
Trong kỹ thuật thở này, thời gian của 4 thì khoảng 4-6 giây. Nhịp thở
ban đầu khoảng 15 lần/phút, về sau giảm xuống còn 12 lần, 10 lần, 8 lần… Bài tập
sẽ hiệu quả cao hơn khi được thực hiện đều đặn 2 lần/ ngày, mỗi lần 10-15 phút.
Dấu hiệu bạn đang thở sai cách
Thở bằng miệng là cách thở không đúng, có hại cho sức khỏe vì sẽ gây
ra các vấn đề răng lợi cùng rối loạn giấc ngủ.
Thở không dễ như bạn từng nghĩ. Kể cả những người thuộc nhóm máu A nổi
tiếng là cẩn thận, kỹ tính vẫn có thể thở sai cách mà không biết. Dưới đây là 4
lỗi khi thở bạn nên sửa do trang MSN đưa ra.
Hít vào quá sâu
Ở trong lớp tập yoga, nhiều người có thói quen cố gắng hít vào thật
sâu để tĩnh tâm theo lời người hướng dẫn. Đây thực chất là điều không nên làm.
Theo Patrick McKeown, tác giả cuốn The Oxygen Advantage, hơi thở sâu là hơi
thở căng thẳng. "Chúng ta nghĩ rằng đưa càng nhiều không khí vào cơ thể
càng tốt, thế nhưng khối lượng thở sẽ bị thay đổi, nồng độ CO2 tăng lên quá nhiều
có thể khiến oxy bị cạn kiệt", ông giải thích. Tốt nhất, bạn nên thở nhẹ
nhàng, ổn định và sử dụng cơ hoành.
Thở bằng ngực
Khi thở, hãy để ý xem ngực hay bụng chuyển động. Nếu là ngực, bạn đã
thở sai cách. Để chắc chắn hơn, bạn có thể kiểm tra bằng cách đứng dậy và đặt
tay lên bụng như Michael Roizen, đồng tác giả cuốn You: Staying Young gợi ý. Bụng
hóp lại khi hít vào là bằng chứng cho thấy bạn đang dùng ngực vì khi thở đúng
và cơ hoành được sử dụng, bụng của bạn sẽ căng lên. "Nếu thở bằng ngực, bạn
không hề cử động phần ba phía dưới của phổi", Roizen cho biết. "Không
khí chỉ đi đến phần trên của phổi khiến phần dưới có nguy cơ bị nhiễm trùng".
Tập thở trong khi nằm là điều cần thiết nhằm điều chỉnh cách thở. Bạn
nằm ngửa, đặt bàn tay hoặc một đồ vật nhẹ như vỏ chai rỗng lên bụng, hít thở
sao cho bụng nâng chiếc vỏ chai lên xuống. Nếu món đồ bị rơi, hãy nhặt lên và
tiếp tục thực hiện. Dần dần, bạn hãy thực hành cả khi ngồi để xây dựng thói
quen mới.
Thở bằng miệng
Thở bằng miệng gây khô miệng, viêm lợi. Trẻ em có thói quen này rất
dễ phát triển hàm răng khấp khểnh. Thở bằng miệng có thể dẫn đến tình trạng
ngưng thở khi ngủ hoặc cơ thể mất nước, gián đoạn giấc ngủ khiến bạn mệt mỏi
khi thức dậy. Ngoài ra, chúng ta sẽ không thể hấp thụ oxit nitric có tác dụng
liên kết tế bào, hạ huyết áp, tăng cường chất lượng giấc ngủ và bảo vệ sức khỏe.
Để ép bản thân thở bằng mũi, bạn hãy ngậm nhẹ một tờ giấy khi đi ngủ.
Duy trì đều đặn trong vài tháng, sau đó giảm dần số ngày ngậm giấy cho đến khi
bạn thấy mình có thể chủ động thở đúng cách.
Thở quá ít
Trung bình một người lớn hít vào 8-12 lần mỗi phút. Nếu bạn thở ít
hơn con số này, não có thể bị thiếu oxy khiến bạn ngáp nhiều mà không rõ nguyên
nhân. Trong trường hợp này, hãy ngáp thật lớn để cơ thể sẽ được thư giãn và tiếp
nhận nhiều không khí hơn.
Tóm lại, cách thở đúng là thở nhẹ nhàng từ tốn, sử dụng mũi cùng cơ
hoành thay cho miệng và ngực. Thêm vào đó, bạn nên nằm nghiêng khi ngủ vì sẽ tốt
hơn cho hệ hô hấp.
Vị trí, công dụng,
cách tập thở các loại Đan Điền
Cách thứ nhất : Quân bình âm dương (hay cách thở 2 Đan Điền)
a-Điều thân :
Bàn tay duơng đặt trên Đan Điền Thần dưới mỏm xương ức, bàn tay âm đặt
dưới rốn 5cm nơi huyệt Khí Hải, Đan Điền Tinh.
Tay dương của Nam là tay trái, nữ là tay phải. Tay âm của nam là tay
phải, nữ là tay trái. Đan Điền Thần là địện dương nối với tay dương. Đan Điền
Tinh là điện âm nối với tay âm, đó là cách nối mạch truyền khí và tích lũy khí
vào tạng phủ để điều hòa âm dương theo nguyên tắc bảo toàn năng lượng .
b-Điều ý :
Cuốn lưỡi, ngậm miệng, nhắm mắt, thở bằng mũi bình thường. Nằm nghe,
theo dõi bụng phồng lên và xẹp xuống tự nhiên theo hơi thở ra-vào, gọi là Quán
Tức (theo dõi hơi thở)
c-Điều tức :
Để ý mỗi lần thở vào, tưởng tượng khí từ ngoài vũ trụ vào từ đỉnh đầu
(Thiên Môn) chạy đến tụ ở Đan Điền Thần, và khi hơi thở ra, tưởng tượng đưa khí
từ Đan Điền Thần xuống tụ lại ở Đan Điền Tinh. Cứ mỗi hơi thở vào-ra như thế,
trong đầu đếm nhẩn là 1 lần, rồi 2 lần….cho đến 10 lần, rồi trở lại đếm từ 1 đến
10 lần, gọi là 20, từ 1 đến 10 nữa gọi là 30, gọi là Sổ Tức (đếm hơi thở)….càng
theo dõi hơi thở vào-ra càng lâu, càng nhiều đến mấy trăm lần càng tốt….
d-Lợi ích :
Có nhiều công dụng. Nếu thở thiền như vậy mà bị hôn trầm rơi vào giấc
ngủ sâu, không theo dõi là đã đếm được bao nhiêu lần, thì đó là cách chữa bệnh
mất ngủ hiệu qủa nhất, vì bệnh mất ngủ do suy nghĩ lung tung, nay cột tâm lại
không cho tâm viên ý mã, chỉ đếm hơi thở mà ngủ được, do đó tây phương chữa bệnh
mất ngủ bằng cách đếm cừu 1 con, 2 con, 3 con…. lên đến ngàn con là ngủ được,
nhưng đó chỉ là Sổ (đếm) chứ không phải thiền Sổ Tức (đếm hơi thở).
Ngược lại, nếu không bị hôn trầm, còn tỉnh táo, có thể đếm được đến
mấy ngàn lần, gọi là thiền tỉnh thức, tần số sóng não xuống thật thấp (3 Hertz)
hơn là tần số ngủ (5 Hertz), như vậy cơ thể vẫn được ngủ, nhưng trí nhớ được
tăng cường, minh mẫn, phát triển tế bào não, tăng cường hệ miễn nhiễm giúp cơ
thể khỏe mạnh không bệnh tật, trẻ hóa tế bào, làm chậm sự lão hóa, phát triển
tâm linh, tăng thêm hồng cầu, tăng oxy trong máu, bụng nóng ấm, mềm, tiêu hóa
nhanh, hấp thụ và chuyển hóa nhanh, loại bỏ độc tố nhanh tống ra ngoài cơ thể.
Giai đoạn này là đang tập ở giai đoạn Lửa Cung Ly đốt vàng cung khảm.
Cách thứ hai : Tập thở Đan Điền Thần :
a-Điều thân :
Hai tay để vào Đan Điền Thần để hoàn toàn tăng dương tăng Sinh Hóa,
chữa bệnh âm, ăn không tiêu, tiêu chảy, thiếu máu, áp huyết thấp, người lạnh, sốt
rét….Tay trái nam để dưới xương ức, nơi Đan Điền Thần, tay phải chồng lên trên,
nữ đặt tay ngược lại.
b-Điều ý:
Cuốn lưỡi, ngậm miệng, nhắm mắt, thở bằng mũi bình thường. Nằm nghe,
theo dõi bụng phồng lên và xẹp xuống tự nhiên theo hơi thở ra-vào, gọi là Quán
Tức (theo dõi hơi thở)
c- Điều tức :
Sổ Tức, tưởng tượng khi hơi thở vào, khí từ ngoài vũ trụ vào từ
Thiên Môn (đỉnh đầu) đến tụ lại ở Đan Điền Thần, mình cảm thấy dưới bàn tay
nóng ấm. Khi hơi thở ra, tưởng tuợng khí nóng ấm ở bàn tay tỏa ra hâm nóng Đan
Điền Thần. Cứ mỗi lần hơi thở vào-ra hâm nóng Đan Điền Thần như vậy, mình đếm
1, rồi lần thứ hai đếm 2…. đến 10, là hết vòng thứ nhất, thì quay trở lại đếm
vòng thứ hai 1,2,3,4,5,6,7,8,9,20, vòng thứ ba 1,2,3,4,5,6,7,8,9,30, vòng thứ
tư 1,2,3,4,5,6,7,8,9,40…
Nếu để nhiệt kế dưới bàn tay, chúng ta nhận thấy trước khi tập, nhiệt
kế chỉ 30 độ, sau khi tập 30 phút, nhiệt kết chỉ trên 37 độ là tập đúng. Người
ngoài theo dõi nhiệt độ càng lúc càng tăng là người tập vẫn còn tỉnh thức, nếu
nhiệt độ đứng lại không tăng là người tập đã đi vào hôn trầm (ngủ say) hay nhiệt
độ tụt xuống dần là người tập đã tâm viên ý mã, suy nghĩ theo tư tưởng đi chỗ
khác, mà ý không còn ở Đan Điền Thần nữa.
d-Lợi ích :
Nếu thở thiền ở Đan Điền Thần bị hôn trầm đi vào giấc ngủ sâu là đã
chữa được bệnh mất ngủ do áp huyết thấp, người lạnh, thiếu máu não, cơ thể suy
nhược,suy tim, tâm thần suy nhược, ăn không tiêu, hay bị tiêu chảy, đau nhức. Nếu
còn tỉnh thức, cơ thể vẫn được ở trong trạng thái ngủ, chỉ có bộ não đang làm
việc chỉnh sửa hệ thống thần kinh giác quan hoàn hảo hơn như mắt nhìn rõ, tai
nghe thính, mũi thính, vị giác phân biệt rõ ràng, ăn uống ngon hơn, và tâm linh
được phát triển đến trình độ cao hơn.
Tập càng nhiều ở giai đoạn này sẽ đạt đến trình độ : Vân thông khí
công soi cốt tiết.
Cách thứ ba : Tập thở Đan Điền Tinh :
a-Điều thân :
Hai tay để vào Đan điền Tinh để tăng âm, tăng Chuyển Hóa, chữa bệnh
dương, táo bón, người nóng, khát uống nước nhiều, áp huyết cao, sốt nóng…
Nam đặt bàn tay phải dưới rốn 5cm nơi huyệt Khí Hải Đan Điền Tinh,
tay trái đặt chồng lên trên. Nữ đặt tay ngược lại.
b-Điều ý:
Quán Tức theo dõi bụng phồng lên và xẹp xuống tự nhiên theo hơi thở
ra-vào.
Tưởng tượng khi hơi thở vào từ đỉnh đầu Thiên Môn (cửa thông ra
ngoài trời) vào thẳng đến Đan Điền Tinh tụ lại ở đó, khi hơi thở ra, tưởng tượng
khí ở bàn tay lăn tỏa vào bụng dưới làm ấm Đan Điền Tinh. Khi đã có được cảm
giác mỗi lần hơi thở ra làm âm Đan Điền Tinh, bắt đầu Sổ Tức đếm hơi thở, mỗi
vòng đếm từ 1 đến 10, vòng thứ hai đếm từ 1 đến 20, rồi 1 đến 30… đến hàng trăn
lần, ngàn lần.
c-Lợi ích :
Khi tỉnh thức tập thở là đang ở thời kỳ Sinh Hóa trong chu kỳ chuyển
hóa, khi đi vào giấc ngủ sâu, tất cả biến thành chuyển hóa, chuyển chất bổ để
biến thành máu chuyển thành tinh khí, sinh tinh hóa tủy mạnh thận, nuôi xương cốt.
Tập một thời gian liên tục thì lại chuyển tinh hóa khí giai đoạn hai
diệt dục để hoàn tinh bổ não biến khí hóa thần, tập bài này suốt đời không có hại
để chuyển thần hoàn hư có nghiã là thay đổi tế bào não, cải lão hoàn đồng, tăng
cường trí nhớ trí thông minh.
Cách thứ tư : Tập Thở Mệnh Môn.
(sau lưng, điểm giữa cột sống ngang lưng quần, đối xứng với rốn, hay
tạm gọi là rốn sau)
a-Điều thân :
Cuốn lưỡi, ngậm miệng, nhắm mắt, thở bằng mũi tự nhiên. Có ba cách
điều thân, tùy theo mục đích :
Chuyển hỏa khí sang Mệnh Môn, hai tay đặt tại Đan Điền Thần.
Chuyển thủy khí sang Mệnh Môn, hai tay đặt tại Đan Điền Tinh.
Chuyển tinh hóa khí, tay dương tại Đan Điền Thần và khí hóa thần,
tay âm đặt tại Đan Điền Tinh.
b-Điều ý :
Cũng có 3 cách điều ý theo mục đích :
Chuyển hỏa khí sang Mệnh Môn : Tưởng tượng hơi thở vào từ Thiên Môn
tụ ở Đan Điền Thần, hơi thở ra, chuyển hỏa khí từ Đan Điền Thần vào Mệnh Môn.
Chuyển thủy khí sang Mệnh Môn : Tưởng tượng hơi thở vào từ Thiên Môn
tụ ở Đan Điền Tinh, hơi thở ra, chuyển thủy khí vào Mệnh Môn.
Chuyển tinh hóa khí, tưởng tượng hơi thở vào từ Thiên Môn tụ ở Đan
Điền Thần, để chuyển hóa tinh chất của thức ăn biến thành hỏa khí, ngưng thở 1
giây dùng ý chuyển dẫn hỏa khí tụ ở Đan Điền Tinh, để chuyển hóa hỏa khí thành
tinh khí một lần nữa. Hơi thở ra, chuyển tinh khí từ Đan Điền Tinh vào Mệnh Môn
để khí hóa thần.
Mỗi lần xong một hơi thở, áp dụng Sổ Tức từ 1 đến 10 nhiều lần lên đến
ngàn lần.
c-Lợi ích :
Khi Sổ Tức bị hôn trần sẽ rơi vào giấc ngủ ngon.
Khi Sổ Tức còn tỉnh thức, cách thứ nhất làm tăng Mệnh môn hỏa, làm
tăng thận dương, chữa được bệnh thận dương hư, chữa bệnh tiểu đêm, tiểu nhiều,
mất trí nhớ, áp huyết thấp, người lạnh, sốt rét, chữa bệnh thận khỏi phải lọc
thận.
Cách thứ hai làm tăng thủy cho Mệnh Môn làm mạnh thận âm, nuôi duỡng
thận, tăng thận thủy, chữa áp huyết cao, tinh khí thiếu, yếu xương cốt, sinh
tinh tủy, hoàn tinh bổ não, chữa thận nhiệt đi tiểu nóng rát, tiểu rắt.
Cách thứ ba, chuyển tinh hóa khí, khí hóa thần, nuôi bộ não phát triển,
thay tế bào não, làm chậm lão hóa, tăng cường trí nhớ trí thông minh, phát triển
tâm linh. Đây là giai đoạn luyện Tinh bền khí đủ dưỡng nguyên thần.
Tại sao gọi là Đan Điền Thần
?
Vị trí của Đan điền thần được định nghĩa là một lỗ rỗng gọi là Hư Vô
Huyệt Lý, ngang dọc 1 thốn 2 phân sờ và nhìn không thấy, nhưng là nơi chuyển
hoá âm dương, cách tim 3 thốn 6, cách thận 3 thốn 6, đo khoảng cách từ tim (hỏa)
xuống thận (thủy) là 8 thốn 4 .Tiểu vũ trụ của con người liên quan đồng nhất thể
với đaị vũ trụ của trời đất nên khoảng cách từ mặt trời (hỏa) xuống mặt nước biển
(thủy) là tám mươi bốn muôn ngàn dặm (84 x 10000 (muôn)x1000x dặm 1,609km) đúng
như khoa học đã xác định .
Điện khí hỏa của trời là dương, điện khí thủy của trái đất là âm, giữa
lưng trời là điểm chuyển hóa âm dương khi đụng nhau tạo ra sét và tiếng nổ ở
đó. Ở đó là nơi nào không xác định được chính xác nên ở trong thân người được gọi
là Hư Vô Huyệt Lý .
Nếu muốn thường xuyên âm dương được chuyển hóa để giúp con người khỏe
mạnh sống lâu con người mới tìm cách luyện đơn như Thái Thượng Lão Quân, lập một
cái lò bát quái ở Đan điền Thần này gọi là lập Lư Đảnh .Chất liệu để luyện đơn
là hai chất độc không bao giờ có thể hòa hợp được với nhau đó là chất dương thủy
ngân ( hống) và chất âm chì (diên) nung nấu trong lò ở một nhiệt độ thích hợp (
gọi là luyện công phu để hống diên giao đầu) độ lửa của lò bát quái lúc đó vừa
nóng bên trong vừa nóng bên ngoài gây ra một tiếng nổ cả hai thứ tan thành chất
bột đỏ tươi gọi là thần sa thường dùng để bao áo các viên thuốc tầu chữa bệnh
tim, thần kinh, an thần , thần sa uống nhiều thì ngộ độc tẩu hỏa nhập ma, loại
chế biến ít độc có thể uống được là chu sa, trong các triều đại Tầu dùng Chu sa
bón cho con Thạch sùng ăn rồi lấy máu của Thạch sùng bôi vào cổ tay người con
gái để xác nhận còn là xử nữ hay không rồi mới tiến cung, nên có điển tích của
câu thơ Lấy bột chu sa bón thạch sùng.Ngày nay các nhà hàng tàu có món phở áp
chảo là để lửa phừng cháy lên trên vào chảo rồi lấy ra, ăn có mùi thơm ngon đặc
biệt hơn là chỉ xào bằng lửa dưới, giống như kiểu luyện tiên đơn lửa bên ngoài
đủ nóng đến độ làm phừng lửa cháy bên trong lò bát quái mới thành thuốc tiên.
Khi chúng ta chọn chỗ đặt tay vào Đan Điền là chúng ta đang ở thời kỳ
Lập Lư Đảnh .Khi thở nghe bụng nóng là nóng trong, nghe bàn tay nóng chảy mồ hôi
là lửa ngoài nóng, cái nóng được tăng cường theo chu kỳ khép kín để bảo toàn
năng lượng, đến độ nóng nào thích hợp thì tâm hoả và thận thủy chuyển hóa gây
ra một tiếng nổ đinh tai nhức óc như sét đánh, khiến mình bàng hoàng ngơ ngác,
tưởng bom ở đâu nổ, chỉ có trong đầu mình nghe được mà người ngoài không nghe
được lúc đó thành tiên rồi, khó mà đạt được, nhưng để chuyển tinh hoá khí, khí
hóa thần giúp sống lâu khỏe mạnh không bệnh tật thì dễ hơn mọi người đều tập được.
Các tiên gia gọi vị trí đan điền thần là Cung Huỳnh Đình, Đình là
sân, Huỳnh là vàng, tức là sân rồng nơi các bá quan văn võ cùng vua họp bàn
chánh sự, các nơi báo cáo tình hình trong nước và là đầu não chỉ huy điều hành
việc nước. Cho nên ý tập trung tại Đan Điền Thần, ý là vua, các quan là những
thần kinh chức năng cơ quan tạng phủ tụ tập ở đây để điều hòa các chức năng của
cơ thể. Ngược lại nếu thiền theo các môn phái khác, ý tập trung tại bộ đầu, thì
theo lý thuyết của khí công ý ở đâu khí ở đó, khí huyết sẽ dồn hết lên bộ đầu
sinh tẩu hỏa nhập ma, bộ đầu gọi là Nê Hoàn Cung như phòng ngủ của vua. Nếu quốc
gia nào mà ông vua cứ ở phòng ngủ nơi hậu cung vui chơi với tam cung lục viện
thì sẽ mất nước, cho nên muốn nước giầu dân mạnh vua lúc nào cũng phải ra ngoài
Huỳnh Đình Cung kiểm soát công việc làm của các bá quan văn võ (âm dương, huyết
khí) của các bộ (tạng phủ) thì cơ thể luôn luôn khỏe mạnh không bệnh tật.
Mọi người nên tập bài tĩnh công đến suốt đời cũng không có biến chứng
tẩu hỏa nhập ma, vì càng tập là càng luyện đơn để tiến hóa, luyện đơn chắc chắn
thể xác khỏe mạnh không bệnh tật, nhưng về tinh thần, trí não được phát triển,
kết qủa đầu tiên cảm nhận được là : Vân thông khí công soi cốt tiết. Tinh bền
khí đủ dưỡng nguyên thần. Tiếp tục tập sẽ có trạng thái : Xuất thần lên cảnh thần
tiên. Học thêm tâm pháp bí truyền cao siêu. Tập đến khi thần hoàn hư : Đến bực
này thì chứng kim tiên. Không không không hậu không tiền,. Không lo không nghĩ
không phiền lòng ai . Đến lúc đó tôi sẽ từ giã qúy vị biệt tích giang hồ.
***
Khí Hải còn gọi là Đan Điền Tinh, dưới huyệt Khí Hải có huyệt Quan
Nguyên, nhà đạo gọi là Chơn Khí Huyệt, Âm Giao không phải là Đan Điền. Khí công
thiền có 3 đan điền, Đan Điền Khí từ xương ức lên đỉnh đầu, khi thở thiền chú ý
hơi thở ở Thiên Môn (chỗ lõm trên đỉnh đầu do thiền mà có, không hoàn toàn đúng
vào huyệt Bách Hội) hay chú ý vào Ấn Đường, hai nơi này gọi là Đan Điền Khí.
Đan Điền Thần là nơi âm dương gặp nhau để biến hóa, gọi lả Hư Vô Huyệt Lý, sờ
và nhìn không thấy, rộng vuông vức 1 thốn 2, cách tim 3 thốn 6, cách thận 3 thốn
6 .Tổng cộng tâm hỏa cách thận thủy 8 thốn 4, tương đương với khoảng cách từ mặt
trời xuống biển là 84 muôn ngàn dặm (84x10000x1000x1,609km) điểm giữa trời với
đất giao tiếp điện âm dương tạo ra tiếng sấm sét ở thiên nhiên, thì Hư Vô Huyệt
Lý cũng tạo ra chấn động âm dưong, nên gọi là Đan Điền Thần, khi thở tập trung
ý tại đan điền thần dưới xương ức gần huyệt Cưu Vĩ, nó nằm sâu bên trong, vô
hình, Thái Thượng Lão Quân gọi cách thở này là Lập Lư Đảnh để nấu thuốc luyện
tiên đơn (lửa cung ly đốt vàng cung khảm), cung ly là tâm hỏa, cung khảm là thận
thủy, khí công gọi là cách thở thai tức (bào thai trong bụng mẹ không cần thở bằng
mũi để lấy oxy bên ngoài, chỉ cần theo dõi nhịp mạch đập ở Đan Điền Thần, thấy
nó vẫn đập, mặc dù mình không thở mà vẫn sống ), cuốn lưỡi nối vòng Nhâm Đốc để
khí đi xuống 12 đốt cổ họng thì 12 đốt này nhà đạo gọi là Thập Nhị Trùng Lầu,
nhưng luyện đến khi chuyển tinh hoá khí, chuyển khí hóa thần, thì khí đi lên
sau lưng vòng phía sau 12 đốt cổ lên đầu vào Cung Nê Hoàn thì 12 đốt này có tên
gọi khác là Thập Nhị Trùng Thiên…..
1-Thốn là đơn vị đo lường chiều dài của 1 đốt lóng tay của mỗi người
mập ốm khác nhau theo tỷ lệ với thân hình của người ấy, nhưng theo 1 quy luật
chung như khoảng cách giữa 2 núm vú là 8 thốn, khoảng cách lằn chỉ nhượng tay đến
lằn chỉ cổ tay dài 12 thốn, thí dụ nói huyệt
Nội Quan cách lằn chỉ cổ tay 2 thốn, thì huyệt này trên tay một đứa
nhỏ chỉ dài có 3cm, nhưng trên cổ tay người lớn 7cm… do đó đơn vị đo huyệt gọi
là đồng thân thốn, lấy đốt tay người nào đo lên thân người ấy, chứ không đo
trên người khác được. Thời nay giải quyết dễ dàng hơn, xem thốn là 1 đoạn, vậy
huyệt Nội Quan là 2/12 (trên tổng số 12 đoạn của chiều dài cánh tay ngoài)… Từ
rốn xuống xương mu dài 5 thốn, huyệt Khí Hải tính từ rốn xuống là 1 thốn rưỡi,
tức là 1.5/5.
2-Nê Hoàn Cung ví như phòng ngủ của vua, nằm trong đầu nhưng vô hình
không có vị trí nhất định, không phải ai cũng có, chỉ có những vị tu thiền đạt
mức thượng trí (kiến thức ngoài thế gian không có). Còn Đan Điền Thần, nhà đạo
gọi là Huỳnh Đình Cung (sân rồng) nơi văn võ bá quan cùng vua họp bàn việc nước,
điều khỉển lục bộ như ngoại giao, giáo dục, công chánh, kinh tế, nội vụ,y tế….Vì
thế khi thở ý tập trung ở đây (ý là vua) theo dõi, kiểm soát, điều chỉnh sự hoạt
động của lục phủ ngũ tạng lúc nào cũng được tốt thì cơ thể luôn luôn khỏe mạnh.
Nếu vua (ý) ở Nê Hoàn Cung mê say với cung tần mỹ nữ thì quốc gia sẽ loạn, ví
như ý tập trung ở đầu, cơ thể sẽ bị bệnh, tẩu hỏa nhập ma, áp huyết cao, mất ngủ,
điên loạn… Cho nên khí công chữa bệnh chỉ nên tập trung ý theo dõi hơi thở ở
Đan Điền Thần để chuyển hóa âm dương, giúp lục phủ ngũ tạng luôn hoạt động tốt
để cơ thể khỏe mạnh không bệnh tật. Đây cũng là một phương pháp thiền để tăng
cường sức khỏe, không xuất hồn lên bộ đầu sẽ làm tăng áp huyết, không tập trung
nhiều ở Chơn Khí Huyệt (dưới Đan Điền Tinh) sẽ thành qủy dâm dục…
3-Khoảng cách từ tim xuống điểm nối 2 qủa thận dài 8 thốn 4, Hư Vô
Huyệt Lý chiếm 1 thốn 2, ở trung tâm lư đảnh ở đoạn giữa tâm-thận
4-Thận là nói chung, nhưng chức năng chứa lọc nước gọi là thận thủy
để đối đãi với tim cho sức nóng ấm cho cơ thể goi là tâm hỏa, dùng danh từ hỏa
thủy là có ý nghĩa về sự biến hóa của trời đất, mặt trờ nóng giao hòa với quả đất
bằng cách đưa sức nóng xuống mặt biển, lúc nhiều lúc ít để nước nóng bốc hơi
thành mây, nước biển cạn gọi là thủy triều xuống, mây tụ lại thành mưa trả nước
về cho biển gọi là thủy triều lên, đó gọi là sự biến hóa hỏa-thủy của thiên
nhiên vũ trụ, trong con người cũng do tâm hỏa và thận thủy chuyển hóa gọi là sự
khí hóa làm lục phủ ngũ tạng hoạt động điều hòa.
***
Những kết qủa kỳ diệu của phương pháp tập thở khí công để chữa những bệnh nan y
Đỗ Đức Ngọc
Hiện nay trên thế giới, mọi người đều xếp loại bệnh ung thư vào mục
bệnh nan y khó chữa, vì chưa tìm ra nguyên nhân, chỉ tìm ra hậu quả là bướu,
nên chữa vào ngọn, tiêu diệt hậu quả mà không tiêu diệt nguyên nhân, nên chữa
xong bướu này, nguyên nhân phát sinh bệnh vẫn còn lây lan sang nơi khác Tây Y gọi
là di căn.
Cách chữa ung thư duy nhất theo Tây Y là hóa học trị liệu từ trước đến
nay theo phương pháp của Trường ĐạI Học Johns Hopkins, đã được xem là cách duy
nhất để thử nghiệm và loại bỏ ung thư. Nhưng ngày nay phương pháp này đã có một
cách nhìn khác dần dần đi đúng lý thuyết tinh-khí-thần trong Đông Y.
Chúng ta xem bài viết *Cập nhật
về căn bệnh ung thư từ Trường Đại Học Johns Hopkins: * như sau :
1. Ai cũng có tế bào ung thư trong cơ thể. Những tế bào này không thể
bị phát hiện trong những cuộc kiểm tra tiêu chuẩn, trừ khi chúng nhân ra thành
vài tỷ tế bào. Khi bác sĩ thông báo với bệnh nhân ung thư rằng sau khi trị liệu,
cơ thể họ không sản sinh thêm tế bào ung thư nào khác, điều này có nghĩa là cuộc
kiểm tra không phát hiện ra các tế bào ung thư do chúng chưa phát triển tới mức
độ có thể nhận biết.
2. Tế bào ung thư xuất hiện từ 6 tới 10 lần trong cuộc đời con người.
3. Khi hệ thống miễn dịch của cơ thể mạnh, hệ thống này tiêu diệt
các tế bào ung thư đồng thời ngăn chặn chúng sinh sản và hình thành khối u.
4. Khi một người mắc bệnh ung thư có nghĩa là người đó suy dinh dưỡng
đa cấp… Điều này có thể do các nhân tố về di truyền, môi trường, thức ăn và lối
sống..
5. Để tránh suy dinh dưỡng đa cấp, thay đổi thói quen ăn uống và bổ
sung thực phẩm sẽ giúp tăng cường khả năng miễn dịch.
6. Hóa học trị liệu bao gồm việc làm nhiễm độc các tế bào ung thư
phát triển nhanh, đồng thời cũng tiêu diệt các tế bào khỏe mạnh trong tủy xương
và vùng dạ dày – ruột, và có thể gây tổn thương các cơ quan như gan, thận, tim,
phổi…vv..
7. Các tia phóng xạ trong quá trình tiêu diệt tế bào ung thư có thể
gây thương tổn tới các tế bào khỏe mạnh, các mô tế bào và các cơ quan trong cơ
thể..
8. Trị liệu ban đầu bằng hóa học trị liệu và phóng xạ thường làm giảm
kích cỡ khối u… Song sử dụng các biện pháp này lâu dài không tiêu diệt được khối
u hoàn toàn.
9. Khi cơ thể nhiễm độc do hóa học trị liệu và tia phóng xạ, hệ thống
miễn dịch của cơ thể sẽ trở nên yếu ớt và bị tổn thương, do vậy cơ thể thường
không chỗng đỡ nổi với bệnh tật và các biến chứng.
10. Hóa học trị liệu và phóng xạ có thể khiến các tế bào ung thư biến
chứng và khó tiêu diệt hơn. Phẫu thuật có thể khiến các tế bào ung thư di căn tới
vùng khác trên cơ thể..
11. Một cách hữu hiệu để đối phó với các tế bào ung thư là “bỏ đói”
chúng, không cung cấp dưỡng chất khiến chúng có thể sản sinh.
TẾ BÀO UNG THƯ CẦN NHỮNG DƯỠNG CHẤT GÌ?
a. “Đường “ là một trong những dưỡng chất cho tế bào ung thư. Cắt bỏ
đường là cắt bỏ nguồn dưỡng chất quan trọng cho tế bào ung thư. Các sản phẩm
thay thế đường như NutraSweet, Equal,Spoonful. .. làm từ Aspartame và không gây
hại.
Sản phẩm thay thế từ thiên nhiên là mật ong Manuka và mật đường
nhưng với một lượng rất nhỏ. Muối bột cũng có chất hóa học tẩy trắng màu muối.
Lựa chọn tốt hơn là amino Bragg và muối biển.
b. “Sữa “ khiến cơ thể tiết ra niêm dịch, đặc biệt là ở vùng dạ dày
và ruột. Chất niêm dịch là dưỡng chất cho tế bào ung thư. Bằng cách cắt bỏ sữa
trong khẩu phần và thay thế bằng sữa đậu nành không đường, tế bào ung thư sẽ bị
“bỏ đói”.
c. Tế bào ung thư sống sót trong môi trường acide. Khẩu phần ăn chứa
nhiều thịt cung cấp nhiều acide. Sẽ tốt hơn nhiều nếu bạn ăn cá và thịt gà thay
cho thịt lợn và thịt bò. Thịt gia súc cũng chứa kháng sinh, hormon tăng trưởng
và ký sinh không tốt cho cơ thể, nhất là với bệnh nhân ung thư.
d. Khẩu phần ăn có 80% rau xanh và nước ép, ngũ cốc, hạt và chút
trái cây sẽ giúp cơ thể sản sinh nhiều kiềm. Khoảng 20% có thể là thực phẩm nấu
chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau chứa các enzyme sống, dễ dàng hấp thu và ngấm
vào các tế bào trong vòng 15 phút, giúp sản sinh các tế bào khỏe mạnh. Để tạo
ra các enzyme sống nhằm sản sinh ra các tế bào khỏe mạnh, hãy thử uống nước ép
rau (có giá đỗ) và ăn rau sống 2 tới 3 lần/ ngày. Các enzyme sẽ bị tiêu diệt ở
nhiệt độ 104 độ F (40 độ C)
e. Tránh các chất caffeine như cà phê, trà và sô cô la. Trà xanh chứa
chất chống ung thư và là một lựa chọn tốt. Hãy uống nước lọc hoặc nước tinh khiết
để tránh chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Tránh uống nước cất vì nước
này chứa axit.
12. Protein trong thịt khó tiêu hóa và cần tới nhiều enzyme tiêu
hóa. Thịt không tiêu hóa nằm nguyên trong ruột, gây thối và tạo ra chất độc cho
cơ thể.
13. Các tế bào ung thư được bao phủ bằng một lớp protein. Bằng cách
hạn chế thịt trong khẩu phần ăn, các enzyme sẽ hoạt động dễ dàng hơn trong việc
tấn công lớp protein bao phủ tế bào ung thư và giúp các tế bào hủy diệt tự
nhiên của cơ thể tiêu diệt tế bào ung thư.
14. Một số các chất tăng cường hệ miễn dịch (IP6, Flor-ssence,
Essiac, anti-oxidants, vitamins, khoáng chất, EFAs….) giúp các tế bào hủy diệt
tự nhiên tiêu diệt tế bào ung thư. Một số chất khác như vitamin E tạo ra cơ chế
tiêu diệt tế bào, một cách thông thường của cơ thể nhằm đào thải các tế bào gây
hại hoặc không cần thiết.
15. Ung thư là căn bệnh của thể xác và tinh thần. Một tinh thần lạc
quan và sảng khoái sẽ giúp các bệnh nhân ung thư giành giật được sự sống. Giận
dữ, căm thù và cay đắng khiến cơ thể bị căng thẳng và tạo ra acide. Hãy học
cách sống vị tha và đầy yêu thương. Học cách thư giãn và hưởng thụ cuộc sống.(Thiền).
16. Các tế bào ung thư sẽ không tồn tại được trong môi trường đầy
oxy. Tập thể dục đều đặn, hít thở sâu sẽ giúp các tế bào được nạp đầy đủ oxy.
Liệu pháp oxy cũng là cách tiêu diệt các tế bào ung thư (Khí Công)
Như vậy, cách nhìn của y khoa ngày nay cũng chú trọng đến TINH là
cách ăn uống, chất nào tạo duyên xấu làm tăng trưởng tế bào ung thư phải nên
tránh, chất nào là duyên tốt vừa tăng cường cho tế bào tốt, làm mạnh hệ miễn
nhiễm, vừa tiêu diệt tế bào ung thư cần phải bổ sung.
Về KHÍ thì Tây Y công nhận
môi trường tạo nhiều oxy sẽ làm cho tế bào ung thư không tồn tại được,
nhưng chưa tìm ra đúng phương pháp, chỉ có phương pháp tập thở Khí Công mới thu
nạp và giữ được oxy lâu trong cơ thể, khác với tập thể dục thể thao, có oxy vào
rồi lại ra mất, bác sĩ Ngô Gia Hy đã kiểm chứng qua xét nghiệm máu về kết quả
tăng hồng cầu sau thời gian tập Khí Công, nhưng có nhiều loại Khí Công, loại
Khí Công chúng ta thường gặp và tập luyện nhất là Tài Chi, nhưng khi thử nghiệm
máu không thấy tăng hồng cầu, do đó nhiều người còn nghi ngờ khả năng chữa ung
thư bằng Khí Công không đáng tin cậy vì không biết loại nào đúng và có hiệu quả
nhanh khi thử nghiệm máu. Vì thế mà môn học Khí Công Y Đạo ra đời để chuyên chữa
những bệnh nan y bổ sung cho ngành y khoa hiện đại. Các bài tập thể dục Khí
Công y đạo, cách tập thở thiền, được phân loại có kết quả tương đương như thuốc
ngoại dược để chữa bệnh.
Về THẦN, Tây Y công nhận tâm
tính cũng có những duyên tốt làm cho bệnh mau lành, tế bào ung thư sẽ không thể
phát triển, còn duyên xấu sẽ làm tăng trưởng tế bào ung thư làm bệnh nặng
thêm, và khuyên bệnh nhân không nên giận dữ, căm thù, bi quan, cay đắng mà phải
sống lạc quan yêu đời, biết sống thư giãn, không gì hơn là phương pháp thiền
tĩnh tâm buông xả . Nhưng thiền cũng có nhiều cách, có cách dùng để chữa bệnh
mau khỏi là cách thở thiền trên các Đan Điền hay trên đại huyệt của Khí Công Y
Đạo mới có kết quả hơn cách thiền chỉ để thư giãn kém kết quả hơn nếu muốn dùng
thiền để chữa bệnh.
Chúng ta thử tìm hiểu cách chữa bệnh nan y theo phương pháp Khí Công
y đạo qua các bệnh sau đây :
1- Bệnh ung thư phổi do hút
nhiều thuốc lá, di căn sang gan và lên não.
2- Bệnh ung thư phổi kèm theo
bệnh suyễn cấp tính có dấu hiệu nhồi máu cơ tim
3- Bệnh ung thư phổi thời kỳ
chót do sống trong môi trường khí ammoniac
4- Bệnh ung thư lưỡi
5- Bệnh ung thư máu
6- Vết sẹo lao phổi trở thành
ung thư phổi
7- Bệnh chai gan
8- Bệnh ung thư bao tử
9- Bệnh viêm xoang mũi kinh
niên được Tây Y chẩn đoán là Bệnh Mal Formation
10- Bướu não
11- Bệnh Ung Thư Ruột Già
12- Bệnh hư thận, 4 thận không làm việc
1- Bệnh ung thư phổi do hút nhiều thuốc lá, di căn sang gan và lên não.
Một nam bệnh nhân người Rumany là kỹ sư chế tạo những máy móc điện tử
cho ngành y khoa, ông bị bệnh ung thư phổi do hút nhiều thuốc lá, bướu trong phổi
bên phải to 8cm, đã di căn tạo bướu trong gan và bướu não bên phải, đang chữa
hóa trị theo Tây Y. Ông vẫn tiếp tục chữa theo Tây Y nhưng bắt đầu tập thêm
cách thở Khí Công.
Thông thường, sau mỗi lần chữa hóa trị, cơ thể bệnh nhân suy nhược cả
thể xác lẫn tinh thần do phản ứng thuốc qúa mạnh, đa số những triệu chứng xẩy
ra sau khi chữa là đau đớn, khó thở, không ăn uống được, không ngủ được, người
xanh xao, mất máu, mất hồng cầu…
Khi chữa lần đầu, những triệu chứng này kéo dài khoảng 1 tuần, rồi
cơ thể từ từ phục hồi lại sức vào tuần lễ thứ hai, cơ thể chưa thấy gì là suy
nhược. Khi điều trị lần thứ hai, hệ thống miễm nhiễm giảm, chức năng hoạt động
của tạng phủ yếu dần mất sức đề kháng, triệu chứng đau đớn, mệt mỏi, mất ăn, mất
ngủ kéo dài đến 2 tuần, mới vừa phục hồi lại sức, thì đến đợt trị liệu thứ 3,
chức năng khí hóa của cơ thể không đủ sức kịp chuyển hóa tẩy độc để giúp cơ thể
phục hồi sức khỏe, mà trái lại, độc tố lưu giữ trong cơ thể trở thành kẻ nội
thù phá hỏng chức năng nội tạng làm tinh thần suy nhược, mất máu, mất hồng cầu,
rụng tóc, mặt trắng mét, hơi thở gấp, mắt lõm, má hóp, tiêu hóa không thông,
táo bón, ăn uống không được, mất ngủ, người mệt mỏi, chân tay mất sức…
Có nhiều người ở giai đoạn này, bệnh nhân tự cứu mình, đã đến với
Khí Công để học cách tập thở tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Bệnh nhân thường quan niệm sau khi chữa hóa trị, cơ thể mệt mỏi mất
sức, chắc không thể tập thở Khí Công ngay được, đợi nghỉ ngơi vài ngày cho cơ
thể khỏe lại một chút mới đi tập, cho nên tập thở Khí Công được ít ngày rồi nghỉ
theo chu kỳ trong thời gian hóa trị, và rồi đến với Khí Công thưa dần cho đến
khi sức kiệt quệ không đi đứng dễ dàng để đến với Khí Công được nữa, bệnh càng
nặng và trút hơi thở cuối cùng mà chưa hoàn tất xong lịệu trình chữa trị bằng
hóa chất theo Tây Y.
Rút kinh nghiệm trong phương pháp hướng dẫn tập thở Khí Công để tự
chữa bệnh ung thư, tôi thường khuyên bệnh nhân, sau khi ở bệnh viện ra, hãy đến
tôi để tập thở loại độc tố ra khỏi cơ thể ngay, khiến cho phản ứng phụ của thuốc
mất tác dụng nên không bị mất máu, mất hồng cầu không làm mất ảnh hưởng đến đội
quân trong hệ thống miễn nhiễm phòng chống bệnh, và cái đau hay xáo trộn chức
năng tạng phủ chỉ kéo dài 2 ngày là biến mất, lúc đó cơ thể còn nhiều thời gian
để phục hồi lại tinh-khí-thần càng ngày càng khỏe hơn để đợi ngày hóa trị kế tiếp.
Bệnh nhân Rumany kể trên đã áp dụng chiến thuật này, ông nhân thấy,
sau khi hoá trị, cơ thể vẫn bình thường khỏe mạnh, thỉnh thoảng, khi đo áp huyết
tôi thấy xuống thấp, thiếu máu, thiếu hồng cầu, tôi đề nghị ông xin với bác sĩ
truyền máu cho ông. Ông tập thở suốt ngày, khi đi, đứng, hay ngồi, còn khi nằm
ông tập thở ở Đan Điền Thần làm cơ thể ấm, tăng hồng cầu, tăng sức tuần hoàn
máu cho tim mạch, khi tiêu hóa kém không hấp thụ và chuyển hóa, ông tập thở ở
Trung Quản, khi cơ thể nóng hay khó thở, nói chuyện hay bị mệt, ông tập thở ở
Đan Điền Tinh để phục hồi nguyên khí, khi suy nhược thần kinh ông tập thở ở Mệnh
Môn.
Ba tháng sau, ông cho biết, sau khi scan xem tình trạng bướu trong
phổi, ông và bác sĩ nhìn trên màn hình, không còn thấy bướu to 8cm nữa, mà chỉ
thấy một chấm đen mờ khoảng 2mm, gần như không còn bướu, cả ông và bác sĩ ngạc
nhiên vui mừng. Hiện nay ông khỏe hơn như lúc chưa bị bệnh.
Ông thắc mắc hỏi tôi tại sao tập thở Khí Công lại có kết quả kỳ diệu
như vậy.
Đối với Đông Y Khí Công, chỉ quan niệm nguyên nhân gây ra bệnh do 3
yếu tố tinh-khí-thần, và khi cơ thể đã bị bệnh thì do khí huyết thiếu, và cơ thể
bị hàn trong đa số những trường hợp bị bệnh ung thư.
Một thí dụ cụ thể, khi mùa đông tuyết đóng băng dính trên cửa kính
xe hơi do qúa lạnh, cục băng đó ví như một bướu ung thư. Muốn loại bỏ cục băng
này có 3 cách : dùng dụng cụ cào tuyết, dùng hóa chất làm tan, 2 cách này có thể
làm trầy kính hay nứt kính, cách thứ 3, vào trong xe, mở sưởi cho nhiệt độ
trong xe ấm lên, cục băng đóng ngoài kinh xe sẽ tự tan biến mất.
Phương pháp Khí Công ví phổi là kính xe,
bướu là cục tuyết đóng băng lạnh trên kính, phải tập hơi thở cách nào để làm
tăng thân nhiệt, làm ấm phổi, tăng lưu lượng khí huyết tuần hoàn trong phổi để tăng
oxy, tăng hồng cầu để bảo vệ nuôi dưỡng tế bào tốt, loại bỏ tế bào xấu…,
và phương pháp thở này phải được duy trì liên tục thường xuyên có gía trị như
dùng thuốc.
Đối chứng trị liệu là dùng những phương pháp thở tùy tình trạng bệnh
như thiếu máu lên đầu nuôi não, dùng bài tập Khí Công Cúi Ngửa 4 Nhịp, đau nhức
mỏi tay chân dùng bài Vỗ Tay 4 Nhịp, người lạnh tập thở Đan Điền Thần, người
nóng tập thở Đan Điền Tinh, áp huyết cao tập thở Mệnh Môn, ăn không tiêu tập
bài Kéo Ép Gốt Thở Ra làm Mềm Bụng, tăng hồng cầu và bạch cầu để chữa bệnh tập
bài Đứng Ngũ Hành Tấn 10 phút ép độc tố xuất ra bằng đường mồ hôi, thận suy nằm
úp tập thở Mệnh Môn…Những bài tập của Khí Công, mỗi bài có giá trị riêng giống
như một loại thuốc đặc trị để giúp cơ thể tự điều chỉnh chức năng khí hóa của lục
phủ ngũ tạng vẫn theo quy luật âm dương ngũ hành trong cách chữa bệnh của Đông
Y, nên cần phải theo dõi những biến đổi ngũ hành do phản ứng thuốc Tây Y mỗi
lúc mỗi khác để lúc nào cũng giữ được sự quân bình khí hóa âm dương ngũ hành của
tinh-khí-thần hoà hợp sẽ tránh được bệnh trở nặng hơn hay bị tái phát.
clip_image001
2- Bệnh ung thư phổi kèm theo bệnh suyễn cấp tính có dấu hiệu nhồi máu cơ tim
Một nam bệnh nhân khoảng 45 tuổi, do hút nhiều thuốc, thừa lúc thời
tiết lạnh bị nhiễm cảm ho kéo dài trong hai tháng, bệnh ho không khỏi trở thành
suyễn cấp tính làm ngộp thở. Thông thường ở xứ nhiệt đới, bệnh ho kéi dài, sẽ
có đàm, thân nhiệt tăng, sốt về chiều, tình tạng bệnh sẽ trở thành bệnh lao phổi.
Ngược lại, ở xứ lạnh, ho do hàn, cơ thể không bị sốt, đàm bị kết khối làm giảm
dung tích phổi càng ngày càng tăng gây ra khó thở, và làm hại đến chức năng co
bóp của tim mạch, bệnh không biến thành lao phổi mà biến thành bướu trong phổi,
Tây Y gọi là ung thư phổi và sẽ phải điều trị theo phương pháp hóa trị, tuy
nhiên tình trạng sức khỏe bệnh nhân rất tồi tệ, ngộp thở, sốt, trán nóng, hai
bàn tay nóng, chân lạnh, mặt đỏ bầm, tiếng nói đứt đoạn vì thiếu hụt hơi, áp
huyết 2 tay cao, bên phải đo được 165/101mmHg mạch 114, bên trái đo được 178/105mmHg
mạch 113, hơi thở 40 hơi /1 phút.
Theo kinh nghiệm của Đông Y-Khí Công, bệnh nguy hiểm cấp thời không
phải là bệnh ung thư, mà có dấu hiệu cận nhồi máu cơ tim, sắp vỡ mạch nếu hơi
thở càng ngày càng dồn dập tạo ra một gia tốc gây cộng hưởng cho tim nhồi bóp bất
bình thường cho đến khi vỡ tim. Bệnh nhân này may mắn gặp tôi khi anh ta kêu mệt
quá, mệt quá, đau ngực, khó thở qúa, lúc đó hơi thở dồn dập, dồn dập, môi tím
tái, mắt lạc tròng, muốn ngất xỉu….
Tôi hướng dẫn bệnh nhân nằm, khuyên bệnh nhân bình tĩnh, buông lỏng,
đừng hít vào, đừng sợ hãi, thả lỏng người, lỏng ngực bụng, đừng nghĩ đến hơi thở,
tập nằm ngủ như trẻ em khi ngủ, chỉ chú ý khi hơi thở ra ngắn đứt đoạn , thì
dùng miệng thổi hơi ra từ từ như người ta thổi một chén cháo nóng, rồi buông lỏng
cho hơi tự nhiên vào mà không được nâng ngực hít vào. Tôi đề nghị thổi hơi ra
theo tiếng đếm của tôi. Bắt đầu, thổi hơi ra 1, buông lỏng cho khí vào tự
nhiên, thổi hơi ra 2, buông lỏng cho khí vào tự nhiên, thổi hơi ra 3 lần, 4 lần
, 5 lần, 6 ,7 ,8 ,9, 10 lần rồi lại thổi hơi ra 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10 lần….chỉ
chú ý thì thổi ra chậm nhẹ, mục đích giảm gia tốc của nhịp tim đập. Từ từ bệnh
nhân thở được dài hơi, số hơi thở trong một phút giảm xuống còn 18 hơi như người
bình thường. Tiếp tục tập thổi hơi ra nhẹ, từ từ, chậm, dài hơn một chút, bệnh
nhân có hơi thể đều 12 hơi trong một phút.
Các bệnh trong cơ thể muốn được chữa khỏi phải tập thở bằng cả hai
cách :
Cách thứ nhất :
Luyện hơi thở theo Khí Công theo 6 yếu tố : chậm, nhẹ, sâu, lâu, đều,
bình thường. Yếu tố lâu là thời gian tập càng lâu vẫn như người bình thường
không bị mệt, không cần nghỉ để thở bù lại vì bị hụt hơi… tập làm sao hơi thở
phải thở được bình thường tự nhiên không ngộp thở, không cố sức mà đi đứng nằm
ngồi suốt ngày, trừ khi đi ngủ, vẫn thở được từ 6-12 hơi, giỏi hơn nữa là 2 hơi
trong một phút, làm tăng lưu lượng máu, tăng hồng cầu và bạch cầu, tăng sức đề
kháng chống bệnh tật, và loại bỏ độc tố thoát ra bằng đường mồ hôi, và bằng đường
đại tiểu tiện.
Cách thứ hai :
Sau khi đã tập đúng đưa hơi thở xuống 12 hơi hay 6 hơi trong 1 phút,
lúc đó mới dùng hơi thở tác động trên huyệt theo quy luật âm dương ngũ hành tạng
phủ, dùng Ý tập trung vào các đại huyệt như Bách Hội, Chiên Trung, Trung Quản,
Khí Hải, Mệnh Môn, Dũng Tuyền, để điều chỉnh sự khí hóa ngũ hành tổng thể tùy
tình trạng bệnh, mỗi lúc mỗi khác. Lúc
đó Ý sẽ dẫn khí đi vào huyệt đạo kinh mạch điều chỉnh sự khí hóa ngũ hành tạng
phủ trở lại bình thường thì mọi bệnh tật được tiêu trừ, Đông Y Khí Công không
chú trọng đến vi trùng, virus, hay bướu, vì đó là hậu quả tất yếu đã xảy ra rồi
do các nguyên nhân khí huyết và tinh-khí-thần tạo ra. Việc chính là phòng bệnh
ngăn ngừa không phát sinh duyên xấu làm cho bệnh phát triển nặng thêm, tạo
duyên tốt phục hồi chức năng tạng phủ để tống độc ra ngoài. Công việc này phải
làm suốt đời để cơ thể được hồng hào khỏe mạnh, còn hơn là phải dùng thuốc suốt
đời đem độc tố vào cơ thể để chữa được bệnh này chưa xong lại sinh ra bệnh
khác.
Đúng ra, muốn chữa thân bệnh cần phải chữa tâm bệnh trước, tự mình
có ý chí chữa cho mình, không ỷ lại vào thầy vào thuốc. Chúng ta hãy xem một
trường hợp áp dụng phương pháp thở tự chữa bệnh cho mình của cố bác sĩ Nguyễn
Khắc Viện trong bài viết trích đoạn dưới đây :
Sống thêm 50 năm chỉ nhờ… bài
thở
Bị lao phổi, sau 7 lần mổ, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện chỉ còn một góc
phổi bên trái, mất 8 xương sườn. Bệnh viện bảo ông chỉ còn sống được hai năm.
Thế nhưng ông đã sống đến tuổi 85 chỉ nhờ một bài thở cổ xưa.
Ông sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Ðại học Y khoa Hà Nội rồi sang
Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941.. Năm 1942, ông bị lao
phổi nặng, điều trị ở Bệnh viện Saint Hilaire du Touvet, Grenoble.
Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa. Từ năm 1943 đến 1948, ông phải
chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và một
phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống được hai năm
nữa.
Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp thở để tự chữa
bệnh cho mình. Và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa là sống
thêm được 50 năm nữa.
Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà báo, nhà hoạt động xã hội
rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn tâm lý – xã hội học, tại Trung tâm Ðào
tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TP HCM, (nay là Ðại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch).
Trong lúc nhiều người giảng bài, nói chuyện, hội họp, làm việc… thấy
uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai phần ba lá phổi, chỉ còn gần một nửa
“dung tích sống” như ông lại vẫn ung dung, thư thái.
Những buổi hội họp dông dài, vô bổ, ông chỉ ngồi… thở, nhờ vậy mà
ông không bị stress, không bị mệt. Ông bảo sau này khi ông mất đi, điều quan trọng
ông để lại không phải là những tác phẩm văn học, triết học này nọ, mà chính là
bài vè dạy thở chỉ với 12 câu.
Bác sĩ Ðỗ Hồng Ngọc, bạn đồng nghiệp với bác sĩ Viện, kể lại: “Trước
kia, tôi cũng chỉ nghe để mà nghe chớ chẳng thực hành. Rồi một lần tôi bị tai
biến nặng, phải nằm viện dài ngày, lúc đó tôi mới thử đem ra áp dụng. Quả có điều
kỳ diệu!”
Phương pháp này giúp ông thảnh thơi hơn, ít nhọc mệt hơn và sức khỏe
tốt hơn. Trong thời gian dưỡng bệnh, các bạn đồng nghiệp cho rất nhiều thuốc,
nhưng ông chỉ chọn một vài món thực sự cần thiết, còn thì chỉ dùng phương pháp
thở để tự chữa bệnh cho mình.
Phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thực ra không phải là điều
hoàn toàn mới. Nó chỉ là một sự tổng hợp của Khí Công, thiền, yoga, dưỡng sinh…
của Ðông phương từ ngàn xưa, được nhìn bằng sinh lý học hô hấp hiện đại của một
người thầy thuốc.
Dưới đây là bài vè 12 câu dạy thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện:
Thót bụng thở ra - Phình bụng thở vào - Hai
vai bất động - Chân tay thả lỏng - Êm chậm sâu đều - Tập trung theo dõi - Luồng
ra luồng vào - Bình thường qua mũi - Khi gấp qua mồm - Ðứng ngồi hay nằm - Ở
đâu cũng được - Lúc nào cũng được!
Trên đây là phương pháp thở mà bác sĩ Viện đã áp dụng, chỉ là một
trong hàng trăm phương pháp của Khí Công tự chữa bệnh. Thành công hay thất bại
do bệnh nhân tự chọn, Khí Công Y Đạo chỉ hướng dẫn con đường tự tập luyện để tự
mình cứu mạng cho mình, vì thế có người tập có kết quả, có người không có kết
quả, chỉ khác nhau ở khẩu quyết, 3 chữ đầu giống nhau : chậm, nhẹ, sâu, nhưng
khác nhau ở 3 chữ sau lâu, đều, bình thường.
Bệnh nhân kể trên sau khi tập thở đã hết suyễn, hết ngộp thở, hơi thở
trở lại đều với nhịp 12 hơi trong một phút, áp huyết xuống còn 133/87mmHg mạch
tim đập 89, dấu hiệu nhồi máu cơ tim không còn nữa.
3- Bệnh ung thư phổi thời kỳ chót do sống trong môi trường khí ammoniac
Chuyện xảy ra cách nay 14 năm, một nam bệnh nhân người Québecois 70
tuổi, quản lý một tiệm giặt, trong môi trường hít thở không khí ammoniac dùng để
hấp tẩy quần áo, trông ông còn rất khỏe mạnh, em trai của ông là hiệu trưởng một
trường trung học dẫn ông anh tìm đến tôi, nói nhỏ cho tôi biết anh của ông bị
ung thư phổi nặng thời kỳ 3, bác sĩ cho biết bệnh nhân chỉ còn sống được 2 tuần
nên ngưng không chữa hóa trị nữa, cả nhà dấu không cho bệnh nhân biết tin này,
nên bệnh nhân vẫn lạc quan không làm cho tinh thần hoảng loạn suy nhược.
Ông em nói tôi có cần xem phim và hình scan để biết vị trí và tình
trạng bệnh không. Tôi trả lời không cần, vì sau khi bệnh nhân được hướng dẫn tập
Khí Công, nơi khí huyết bị tổn thương do tắc nghẽn làm thành bướu sẽ hiện ra.
Tôi hướng dẫn ông đứng Ngũ Hành Tấn, giả bộ đố ông làm sao đứng được
lâu nhất, cuốn lưỡi ngậm miệng thở bằng mũi bình thường tự nhiên. Ông còn khỏe
lắm, đứng lâu dược đến phút thứ 7, ông ở trần mặc quần đùi, trên da bắt đầu hồng
hào, trán, gáy và lưng xuất mồ hôi, người em hỏi đứng bao lâu nữa, tôi bảo đứng
đến khi nào dấu vết nơi bướu ung thư hiện ra trên da, lúc đó khí huyết bị ép ra
ngoài da làm da thịt càng đỏ lên, nhưng ngược lại sau hạ sườn phải phía lưng gần
cùi chỏ bên tay phải tụ lại vết bầm từ rộng gom hẹp nhỏ lại bằng một nắm tay mầu
xanh đen, cả trên da nổi mồ hôi hột. Tôi bảo ông em dùng ngón tay chấm vào mồ
hôi chỗ da đỏ ngửi xem có mùi khác với mùi của mồ hôi nơi bướu ung thư bị ép chất
độc ra ngoài không, ông cho biết, mồ hôi nơi ung thư thối như mùi phân, còn chỗ
không bị bệnh mồ hôi không mùi. Anh của ông tiếp tục đứng đến phút thứ 10, tôi
bảo ông em dùng giấy lau chùi mồ hôi độc riêng ra không cho chảy lây lan ra chỗ
khác, rồi lau tất cả các nơi ra mồ hôi để tránh mồ hôi độc lại xâm nhập vào
máu, cuối cùng vết xanh đen thu nhỏ dần còn bằng một đồng xu và màu nhạt dần,
ông đứng lâu được 12 phút, là người từ trước đến nay đứng được lâu như vậy.
Ông em hỏi khi về nhà thì chữa thế nào, tôi nói cứ tiếp tục tập 3 lần
mỗi ngày, mỗi lần từ 10-15 phút, mồ hôi ra đến đâu phải lau liền, khi nghỉ ngơi
nên uống nước bù vào sự mất nước của cơ thể và đến tôi mỗi ngày kiểm tra xem bướu
biến mất hẳn chưa, rồi tôi sẽ hướng dẫn tiếp những bài thở tĩnh công thiền giúp
cơ thể điều chỉnh lại sự khí hóa ngũ hành tạng phủ trở lại bình thường..
Ông tập Khí Công trong 2 tháng, người rất khỏe mạnh như không còn bệnh
tật, ăn uống, ngủ nghỉ, tiêu hóa, không có gì trở ngại. Ông muốn đi tái khám
bác sĩ xem kết quả ra sao. Tôi nói chưa cần thiết, ông tiếp tục tập thêm 1-2
tháng nữa rồi mới đi tái khám cũng không muộn.
Khi ông đi tái khám, 2 bác sĩ của ông ngạc nhiên thấy ông chưa chết,
sau khi khám, 2 bác sĩ xác nhận bệnh thuyên giảm, bướu nhỏ đi nhiều lắm, gần
như biến mất. Bác sĩ hỏi ông vẫn uống thuốc đều đặn của bác sĩ cho chứ. Ông
không uống vì càng uống thấy càng bệnh nặng, nhưng ông vẫn nói dối. Bác sĩ vui
mừng, hẹn ông sau 15 ngày đề nghị ông nhập viện để theo dõi biến chuyển của bệnh
trong 1 tháng xem có phải nhờ ông uống thuốc mà khỏi bệnh hay không, nếu phải,
thì đó là một thành công mới nhất trong ngành y dược của Tây Y về ca chữa ung
thư phổi này, các bác sĩ sẽ đem trường hợp của ông để tổ chức một buổi công bố
kết quả với báo chí.
Trong thời gian nằm viện, bệnh nhân bị vào thuốc liên tục, lấy máu,
thử máu xét nghiệm, chụp hình, đến ngày thứ 15, em của ông chạy lại tôi cho biết
không xong rồi, anh của ông mệt, bị ngộp thở, gầy ốm hốc hác, đang ngủ mê man
không còn biết gì nữa, chắc không qua khỏi…
Kinh nghiệm của Đông Y Khí Công có nhận
xét, bệnh nhân không chết vì ung thư mà đa số chết vì ngộp thở, tim mạch xáo trộn,
áp huyết cao, và đau đớn rất nhiều, nên Tây Y cần phải chích morphine mỗi
ngày để giảm đau, làm bệnh nhân ngủ mê man cho đến khi hơi thở thoi thóp lịm dần,
trái với cách chữa của Đông Y, phải làm cho thần bệnh nhân tỉnh táo không đau đớn,
khí phải đầy đủ, mới có thể kiểm soát mọi chức năng khí hóa ngũ hành của tạng
phủ trở lại bình thường để đẩy lui bệnh tật. Do đó môn Khí Công tự chữa bệnh mới
ra đời để hướng dẫn những người bệnh một phương pháp tự tập để cứu mạng mình mà
không ỷ lại vào thuốc, giống như trường hợp của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện.
4- Bệnh ung thư lưỡi
Một nữ bệnh nhân khoảng 45 tuổi ở Mỹ, bị ung thư lưỡi, bác sĩ cho
hay, chỉ còn sống được 2 tháng. Cô sang Canada thăm bà con lần cuối, được người
nhà giới thiệu đến với Khí Công y đạo để học cách thở xem bệnh tình có thuyên
giảm phần nào không.
Tôi xem lưỡi có mầu đỏ bầm, miệng khô, cổ họng không có nước bọt, mặt
lưỡi khô bị phồng dộp như bánh tráng nướng, gân lưỡi bị co rút, nói nhỏ thì được
nhưng không ăn không nuốt được, chỉ húp cháo hay chất lỏng.
Theo Đông Y, vị trí của lưỡi cũng có ngũ hành liên quan đến chức
năng tạng phủ, như đầu lưỡi thuộc tim, da mặt lưỡi thuộc phổi, giữa lưỡi thuộc
tỳ, hai cạnh lưỡi thuộc gan, cuống lưỡi thuộc thận. Nếu quan sát lưỡi của cô
theo Đông Y, có đủ 5 hành bị bệnh, nhưng bệnh chính do thận nhiệt.
Tôi hướng dẫn cô ấy nằm thở thiền theo phương pháp động trong tĩnh.
Tĩnh là thế nằm, ý tập trung tại Đan Điền Tinh nơi huyệt Khí Hải, theo dõi 2
bàn tay đặt trên Đan Điền Tinh có cảm giác từ lạnh sang nóng ấm rịn mồ hôi
trong lòng bàn tay, đó là tĩnh thuộc thiền quán (thiền quan sát vào một điểm),
sau khi quán sự thay đổi của khí làm bụng phồng lên khi thở vào, xẹp xuống khi
thở ra một cách tự nhiên không cố ý hít vào thở ra, sau đó khó hơn một bậc là
thiền sổ tức (thiền đếm hơi thở), tiến bộ hơn nữa áp dụng cả hai phương pháp vừa
quán tức vừa sổ tức, mỗi hơi thở vào ra làm bụng phồng lên xẹp xuống, đếm là 1
lần, tiếp tục vào ra, phồng lên xẹp xuống đếm 2 lần….dần dần đếm đến 10 lần, rồi
quay trở lại đếm 1, 2, 3….Còn thêm động trong tĩnh, thay vì cuốn lưỡi ngậm miệng
thở ra vào bằng mũi, thì đổi cách thở bằng cách hát one, two, three…bằng mũi,
vì lưỡi vẫn cuốn lên sâu vào trong hàm trên, hát như vậy nhịp thở vẫn đều nhưng
tạo tần số rung ở cuống lưỡi sẽ kích thích hạch nước miếng chảy ra làm ướt lưỡi,
hạch nước miếng thuộc chức năng của tỳ được kích thích thì chức năng tỳ sẽ được
phục hồi làm nhiệm vụ dẫn khí, huyết, và dịch chất của hệ thống tuyến nội tiết
sản xuất ra thuốc trong cơ thể để tự chữa bệnh, Đông Y gọi là nội dược. Nếu cuốn
lưỡi đúng trong khi hát ư ư one, two, three.. bằng mũi, sau khi hát xong 4 câu,
nước miếng sẽ trào ra họng thì nuốt vào một lần, trong một ngày có thể nuốt được
từ 1000 lần đến 3000 lần, đạo Phật gọi là nước cam lồ.
Cô áp dụng phương pháp tạo nước miếng này, sau một ngày, cô trở lại
tái khám, cô khoe rằng lưỡi của cô đã khỏi, cô há họng đưa lưỡi dài ra, lưỡi cử
động dễ dàng, mặt lưỡi không bị phồng dộp mà bằng phẳng, lưỡi ướt, tươi nhuận,
cạnh lưỡi hết bị gai hình răng cưa, chứng tỏ chức năng tâm thận (hỏa-thủy), và
can tỳ (mộc-thổ) đã hòa hợp không còn xung khắc, đúng với câu khẩu quyết của
Khí Công :
Mộc thái càn giao hoà tứ tượng,
Âm dương thượng hạ hiệp chung minh,
Phong xuân phấn lý sanh ư biến,
Toàn chất tinh ba tịnh thủy bình
Tâm thuộc quẻ Ly (hỏa), Thận thuộc quẻ Khảm (thủy). Tập Khí Công
cũng nhờ bài này lấy thủy từ thận lên để khống chế tâm hỏa bớt nóng, cổ họng tạo
ra nước miếng, nên không cần uống nhiều nước mà cơ thể vẫn chuyển hóa nước từ
thận lên họng gọi là phương pháp chiết Khảm điền Ly để trở về quẻ Địa Thiên
Thái (địa là đất, thiên là trời được thông không còn bế tắc). Cô chỉ cần tập
bài này suốt đời bệnh sẽ khỏi. Cô tập thêm một ngày nữa và cho biết, trong người
không bị nóng khô khó chịu, bớt uống nước, lưỡi mềm, ăn thử cơm, nuốt dễ dàng
như người bình thường. Cô mừng vì cô đã khỏi bệnh dộp cứng lưỡi không ăn uống
được, tưởng không sống nổi. Cô chia tay với người thân để trở về Mỹ, sau hai
ngày học thở Khí Công thiền.
Một tuần sau, cô gọi điện thoại gửi lời cảm ơn khi được bác sĩ cho
biết khỏi bệnh.
Sáu năm sau, tôi gặp lại người thân của cô cho biết, lưỡi của cô được
chữa khỏi, cô nghỉ ngơi không còn làm việc, tha hồ ăn chơi hưởng thụ sung sướng,
ăn nhiều lên cân, cô tưởng bệnh đã khỏi không cần tập Khí Công thiền nữa, cô đã
sống sung sướng được 6 năm và cô đã chết bất đắc kỳ tử vì bệnh tim mạch vì
Tinh-Khí-Thần không hòa hợp.
5- Bệnh ung thư máu
Nói đến ung thư máu ai cũng sợ hãi, nhưng cũng may bệnh này rất hiếm
so với những bệnh ung thư khác. Tôi sẽ viết đề tài này trong một bài khác chi
tiết hơn.
Dưới đây, chúng ta so sánh kết quả thử nghiệm máu có thay đổi rõ rệt
trong một tuần lễ tập hít thở Khí Công và vuốt huyệt theo hơi thở Khí Công của
một cháu gái bị bệnh ung thư máu đã chữa khỏi song song với hóa trị liệu, cách
đây 6 năm.
Kết quả thử máu ngày 14 tháng 2 năm 2003 có 4 yếu tố bất thường, sau
1 tuần tập thở và vuốt huyệt theo hơi thở rồi tái xét nghìệm máu ngày 21 tháng
2 năm 2003, có thay đổi, 2 yếu tố trở lại bình thường là DVE và Neutrophilles,
2 yếu tố khác là leucocytes từ 2,43 đã lên được 3,34 , lymphocytes từ 0,7 đã
lên được 1,1
Mẹ của bé tự chữa cho bé bằng phương pháp Khí Công, và theo dõi kết
quả xét nghiệm máu mỗi tuần cho đến khi khỏi bệnh không cần phải hóa trị liệu nữa.
Để duy trì được tình trạng tốt như vậy, vẫn cần phải tập thường xuyên để làm mạnh
hệ miễn nhiễm của cơ thể.
Video cách chữa bệnh cho Bé Kim Anh:
http://video.yahoo.com/watch/4160464/11201666
Đã có lần tôi email cho Cô Hoàng Mộng Thu, cô đang kêu gọi hiến tủy
trên Đài Truyền Hình Calitoday để cứu con gái của cô là cháu Michelle cũng đang
bị ung thư máu, tôi đề nghị cho cháu tập Khí Công, nhưng rất tiếc cô không hưởng
ứng vì chưa có duyên lành đến với phương pháp Khí Công y đạo.
Đa số người đông phương tin phương pháp Tây Y, ngược lại, những người
tây phương lại tin vào phương pháp Đông Y, nên không có gì làm lạ, đó là quy luật
của Âm-Dương, cho nên phòng mạch của tôi 90% là những người tây phương đến tập
Khí Công để tự chữa những bệnh nan y mà Tây Y đã bó tay, họ tập Khí Công nhưng
vẫn xét nghiệm máu và cho tôi biết kết quả để điều chỉnh những bất thường kịp
thời kịp lúc theo nguyên tắc Tinh-Khí-Thần hòa hợp.
6- Vết sẹo lao phổi trở thành ung thư phổi
Bố vợ của anh tôi là dược sĩ bị lao phổi ở tuổi 40 đã chữa khỏi từ
năm 1950, ông rất khỏe, tập đi bộ, đi xe đạp mỗi buổi sáng sớm và ăn uống, nghỉ
ngơi, thể dục thể thao đều đặn, người hồng hào khỏe mạnh. Khi anh tôi đi diện
H.O. ông được đi theo, khi khám sức khỏe, ông có vết sẹo lao cũ nên phải uống
thuốc lao, liều mạnh, hại tim gan thận làm mờ mắt, mất sức, sau 6 tháng vết sẹo
còn nhưng phát triển to ra do độc tố, bị nghi ngờ ung thư, và phải theo hóa trị
được 1 tháng khiến ông gầy ốm, ngộp thở và từ giã cõi đời ở tuổi 80. Anh tôi là
bác sĩ cho rằng Tây Y dùng phương pháp qúa mạnh tay cho những người có đủ sức
khỏe mới chịu nổi cách điều trị theo kiểu này.
Khi đến lượt tôi khám sức khỏe, cũng có vết xơ trong phổi (fibro) do
luyện tập Judo, nên cũng bị uống thuốc lao 6 tháng, vết xơ vẫn còn, nhưng thể lực
mạnh khỏe nhờ tập Khí Công, bác sĩ nghi ngờ ung thư phổi, nhưng dặn đem hồ sơ đến
nước định cư điều trị ung thư tiếp. Tôi đã bỏ qua vì thấy không cần thiết, đôi
khi Tây Y cũng có những sai lầm trong điều trị. Nhưng có một điều chắc chắn vẫn
cần phải duy trì chức năng tinh-khí-thần hòa hợp thì chúng ta sẽ không bao giờ
bị bệnh tật.
7- Bệnh chai gan
Khi thử men gan tăng cao trên 400 là gan đã có bệnh, triệu chứng gan
sưng cứng, người phù nề. Những bệnh nhân này được hướng dẫn tập Khí Công bài :
Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, mỗi ngày 3-4 lần, mỗi lần 200 cái theo băng DVD
hướng dẫn. Tập trong một tháng, gan đã mềm, bụng nhỏ lại, mặt hồng hào, ăn uống
tiêu hóa được không còn căng cứng bụng, khi thử máu men gan xuống từ từ, xuống
300, xuống 200, xuống đến tiêu chuẩn bình thường. Có những bệnh nhân mặc dù thử
máu tốt, men gan xuống bình thường, nhưng Tây Y vẫn không tin, cứ đề nghị mổ
thay gan.
Tôi đề nghị bệnh nhân đặt câu hỏi với bác sĩ trong hai trường hợp. Nếu
không thay gan, hậu quả sẽ ra sao, và nếu thay gan thì hậu quả sẽ ra sao. Bà được
trả lờ : Nếu không thay gan sẽ chết sớm. Còn nếu thay gan, thời gian thay mất 4
tiếng đồng hồ, có những bệnh nhân yếu sức không chịu nổi chết trên bàn mổ.
Cả hai câu trả lời này làm bệnh nhân hoang mang, nên tiếp tục đến với
Khí Công để phục hồi chức năng gan không cần mổ, tình trạng sức khỏe càng ngày
càng hồng hào khỏe mạnh.
8- Bệnh ung thư bao tử
Một bệnh nhân là kỹ sư trung tâm năng lượng Liên Xô bị bệnh ung thư
bao tử, Tây Y bó tay, không ăn uống được. Cô con gái du học ở Canada là bệnh
nhân của tôi, cô đề nghị tôi giúp, và ông sang Canada 1 tháng để học phương
pháp thể dục Khí Công và tập thở thiền, nhất là bài Nạp Khí Trung Tiêu, và bài
Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng.
Sau 1 tháng ông khỏe mạnh, ăn uống được như bình thường không còn
triệu chứng không dám ăn vì ăn không tiêu gây đau bụng trên như trước nữa, ông
từ giã trở về nước. Con gái ông vẫn liên lạc với tôi và cho biết sức khỏe của
ông rất tốt, đã đi làm trở lại.
Một năm sau ông sang Canada tái khám, nhìn sắc diện ông không có gì
là bệnh tật. Tôi hướng dẫn ông tập Khí Công cao cấp hơn, một tuần sau ông trở về
nước, đến nay đã 8 năm ông vẫn ăn ngon ngủ khỏe, thể lực tốt, làm việc bình thường.
9- Bệnh viêm xoang mũi kinh niên được Tây Y chẩn đoán là Bệnh Mal Formation
Nữ bệnh nhân 62 tuổi có triệu chứng đau cứng cổ gáy, nặng đầu, khi
chụp xương đầu cổ thấy có nước trong tủy nơi xương cổ gáy và lưng. Bà được đề
nghị mổ từ xương cổ đến xương sống lưng.
Tôi đề nghị bà hỏi bác sĩ 2 câu hỏi : Nếu không mổ sẽ có hậu quả gì,
và nếu mổ có khỏi bệnh đau cứng cổ gáy không ?
Bác sĩ trả lời, nếu không mổ sẽ bị tê liệt bán thân bất toại, nếu mổ
thì không sợ tê liệt, còn đau nhức thì không biết.
Khi bà tập Khí Công lần đầu, tôi để ý thấy bà hay lấy tay day mũi giống
như bị ngứa mũi, đó là dấu hiệu đầu tiên của viêm xoang mũi dị ứng, tôi không
chữa mũi, cứ để cho bà hít nước mũi vào tự nhiên theo thói quen bà vẫn làm,
thay vì bảo bà xịt nước mũi ra, mục đích để thử nghiệm xem dự đoán của mình có
đúng không, tôi chỉ chữa ngọn, chữa cho hết đau khi cử động cổ gáy vai tay.
Đến ngày bà đi tái khám chụp xương, bác sĩ cho biết chung quanh tủy
xương có nhiếu nước hơn, Tây Y gọi là dò tủy.
Tôi nói với bà, người lớn tuổi xương khô tủy rỗng, đâu còn tủy mà dò
tủy, đấy chính là nước chứa nhiều virus của bệnh viêm xoang mũi kinh niên chảy
đầy vào xoang trán tràn lên óc xuống đáy não vào tủy sống, nếu bà không tin, đề
nghị bà từ nay xịt hết nước mũi trong mũi và khạc nước trong cổ họng ra xem nó
đã chứa được bao nhiêu nước từ trước đến nay khi tôi kích thích những huyệt chữa
xoang mũi, xoang trán, ( huyệt Ngạch Trung, Thần Đình, Dương Bạch, Toản Trúc, Ấn
Đường, Thừa Khấp), bệnh nhân ở thế nằm, khi day vào huyệt này, nước trong xoang
chảy xuống mũi và xuống cổ họng. Tôi bảo bà ngồi dạy ra lavabo xịt nước mũi và
khạc nước trong họng ra, rồi day lại các huyệt trên, lại xịt nước mũi ra, ngày
càng nhiều, nước loãng trong, số lượng nước chừng được ½ ly. Dặn bà về nhà dùng
2 muổng dấm táo pha 1 ly nước sôi, xông mũi, khi nước mũi chảy ra thì xịt nước
mũi ra ngoài, tiếp tục phương pháp này mỗi ngày 2 lần, liên tiếp trong 2 tuần,
bà đã hết triệu chứng nặng đầu trán, mũi thông, đi tái khám chụp lại xương, bác
sĩ cho hay kết quả nước ở tủy sống lưng không còn, nhưng trên xương cổ còn, vẫn
phải mổ xương cổ gáy. Bà cứ bị hù dọa không mổ sẽ bị tê liệt, và bác sĩ cho
ngày hẹn mổ. Bà trả lời bác sĩ cứ ghi ngày, còn mổ hay không để tôi còn xét lại,
bà hỏi ý kiến tôi. Tôi đề nghị bà yêu cầu bác sĩ 2 điều trước khi chấp thuận mổ
:
1-Xin bác sĩ cho biết tên và địa chỉ những bệnh nhân trước của bác
sĩ mà họ đã từ chối không mổ cách đây 5-10 để bà liên lạc với họ kiểm chứng xem
họ có bị tê liệt hay không, nếu họ bị tê liệt bà sẵn sàng mổ.
2-Nếu bác sĩ không tiện cho tên những bệnh nhân ấy, tôi cũng bằng
lòng mổ với điều kiện nếu bác sĩ quả thật có lòng tốt muốn cứu tôi khỏi bị tê
liệt, sẽ mổ cho tôi hoàn toàn miễn phí được không.
Bà cho tôi biết bác sĩ không trả lời được 2 câu này.
Cho nên mình phải tự cứu mình, bà vẫn tiếp tục áp dụng phương cách
xông dấm táo, xịt nước mũi trong xoang ra, nước mũi bây giờ ra nhiều, từ mầu
vàng đặc đến mầu hơi vàng xanh, đó là virus tạo mủ nhưng chưa ăn mòn vào xương
trán và xương mũi, nhờ vậy đêm ngủ bà không còn bị đau cứng đầu cổ gáy vai nữa.
10- Bướu não
Mời qúy vị xem video bác Quy là bệnh nhân bị bướu não, bác đến với
phương pháp Khí Công tự chữa bệnh đã được hơn 3 năm, nhờ tập Khí Công bài Cúi
Ngửa 4 Nhịp, và 7 bài đầu trong phần động công, bướu não của bác nhỏ dần.
http://video.yahoo.com/watch/5480947
Những người bị bệnh bướu não đa số do những nguyên nhân tắc máu lên
đầu nuôi não hay cơ thể thiếu máu toàn bộ hay chỉ cục bộ vùng đầu, có dấu hiệu
đau nửa đầu kinh niên Đông Y gọi là thiên đầu thống mãn tính. Nếu đo áp huyết 2
bên tay đều thấp dưới 105/70mmHg mạch 60 trở xuống là thiếu máu toàn bộ, nếu một
bên tay bị cao áp huyết thí dụ như 145/90mmHg mạch 90, một bên bị thấp áp huyết thí dụ như
105/75mmHg mạch 100 là thiếu máu cục bộ nửa bên đầu làm thành bệnh migrain
(thiên đầu thống) để lâu không chữa khỏi sẽ tạo bướu hàn Tây Y gọi là bướu não
. Đối với Đông Y Khí Công, chỉ cần bấm huyệt điều chỉnh cho áp huyết bên cao xuống
thấp, và bên thấp tăng cao, cho hai bên bằng nhau, tạm thời chữa ngọn, tập bài
Cúi Ngửa 4 Nhịp để cung cấp máu lên nuôi não, dùng thuốc Đương Quy Tửu
(Tankwe-Gin) để bổ máu, tăng lượng máu trong qúa trình tăng hấp thụ chất bổ từ
thức ăn để tạo thành máu, khoảng 1-2 tháng sau đo áp huyết 2 bên tay trở thành
bình thường khoảng 120-130/75-85mmHg mạch 70-80, lúc đó những triệu chứng do
thiếu máu não sẽ tự khỏi như váng đầu, chóng mặt, đau đầu, rụng tóc, mắt mờ,
kém trí nhớ, đau nhức cổ gáy vai tay…
Mời qúy vị xem thêm bài phóng sự sau đây về trường hợp của Bác Quy :
http://khicongydaotoronto.com/truyen_thong/006.pdf
11- Bệnh Ung Thư Ruột Già
Bệnh ung thư ruột già nếu chưa mổ hay chưa hóa trị thì thời gian chữa
bằng Khí Công sẽ nhanh hơn. Khi tôi hướng dẫn tập Khí Công tự chữa bệnh tại Tu
Viện Tây Tạng ở Longueil, năm 2002, vào những những buổi chiều thứ bẩy hằng tuần,
một cô học viên cho biết chồng cô đang bị bệnh ung thư ruột, thứ hai sẽ phải mổ.
Tôi đề nghị cô gọi điện thoại cho chồng cô đến ngay để tôi hướng dẫn cách tập
Khí Công tự chữa bệnh ung thư ruột. Chồng cô cũng đến tập bài Nạp Khí Trung
Tiêu, Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, mỗi khi tập xong, thấy mệt thì nằm thở
thiền, ý và tay đặt tại Đan Điền Thần cho cơ thể tăng nhiệt, hết tập động công
đến tĩnh công, sau khi tập xong, chồng cô cảm thấy khỏe, ấn đè vào bụng không
còn chỗ nào đau, không thấy những hòn cục nào ở bụng dưới như trước, khi sờ tay
vào thấy ngay và khi dsdè vào cảm thấy đau. Dùng thuốc Phụ Tử Lý Trung Hoàn mục
đích làm ấm đường ruột, giúp cơ ruột co bóp, rút nước và tẩy độc tống ra ngoài
theo đường phân và giúp phân đặc lại có mầu vàng bình thường, không còn bị tiêu
chảy ra nước hoặc bí đại tiện do những bướu chặn nút ở hậu môn.
Chồng cô sau khi tập cảm thấy khỏe, nhưng trong 2 ngày tập không biết
có khỏi bệnh không, vì thứ hai phải đi mổ rồi. Tôi dặn trước khi mổ, nói với
bác sĩ là tôi cảm thấy khỏe, sờ bụng dưới thấy các bướu biến mất, xin cho khám
lại trước khi mổ, thì khỏi bị mổ oan uổng.
Chiều thứ bẩy tuần sau, cô đến học Khí Công, báo cho tôi tin mừng,
chồng cô không phải mổ, sau khi khám lại bác sĩ cho biết không thấy bưới nữa.
Tình trạng hiện nay của chồng cô đã khỏi hẳn do tập luyện Khí Công
thường xuyên, lúc nào cũng giữ 3 yếu tố tinh-khí-thần hòa hợp, tôi thường xuyên
gặp chồng cô trong những buổi sinh hoạt cộng đồng.
12- Bệnh hư thận, 4 thận không làm việc
Ở Chùa Linh Sơn Toronto, có một cô gái trẻ đến quan sát xem cách chữa
bệnh bằng Khí Công, giờ giải lao, cô năn nỉ tôi vào bệnh viện cứu mạng cho anh
rể cô đang bị lọc thận thường trực mỗi ngày nhưng cả hơn một tháng nay, 4 trái
thận đều không làm việc.
Tôi hỏi tại sao lại có 4 thận, cô trả lời 2 thận không làm việc, người
nhà cho 1 thận, sau một thời gian 3 thận yếu, nhà thương ghép thêm một trái thận
nữa, bây giờ cả 4 thận đều yếu. Tôi trả lời trường hợp này tôi không thể vào
nhà thương, nếu bệnh nhân đến đây được tôi sẽ giúp. Cô gọi điện thoại cho chị
đang ở nhà thương chăm sóc anh rể. Khoảng 3 giờ sau chị cô dìu chồng đến.
Chồng cô khoảng 30 tuổi, còn khỏe, nhưng đau lưng và bụng, khó thở,
chân yếu. Khi nằm trên bàn Khí Công, tôi thấy 2 thận sau lưng sưng, hai thận 2
bên háng nổi cao ở vùng bẹn. Tôi hướng dẫn và điều chỉnh cho bệnh nhân thở theo
phương pháp Khí Công, chậm, nhẹ, sâu, lâu, đều, bình thường, khoảng nửa giờ bệnh
nhân cảm thấy khỏe, có sức, thở dễ dàng, bắt đầu tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm
Mền Bụng, và tôi áp dụng bài nằm úp tập thở Mệnh Môn :
Tham khảo thêm trong video :
http://video.yahoo.com/watch/4786103/12777866
http://video.yahoo.com/watch/3896555/10611060
Hai tuần sau, chồng cô xin xuất viện, cả gia đình gồm hai vợ chồng,
hai con nhỏ 2 và 3 tuổi, và cô em gái, lên Montreal ở Motel 1 tuần để tập Khí
Công. Lúc đó cô mới tâm sự rằng : Khi con ở bệnh viện với chồng con, anh ấy
đang mệt, em gái con ở chùa Linh Sơn gọi điện thoại bảo con dẫn chồng con đến.
Con la mắng nó : Mày có điên không, Tây Y đã chữa không được, sắp chết rồi làm
sao mà có thầy nào chữa được… Em con cứ năn nỉ con, nó nói rằng : Chị đem anh ấy
đến liền đi, tới 6 giờ Thầy sắp trở về Montréal rồi, chị không đến đây chứng kiến
tận mắt thì chị không thể nào tin được sự kỳ diệu của phương pháp chữa của Thầy
Ngọc đâu. Nó cứ hối thúc con hoài, con phải xin phép bệnh viện cho ra, không
bác sĩ nào chịu cho ra, phải hỏi đến các bác sĩ có thẩm quyền cao hơn, lấy lý
do tôn giáo linh thiêng, cần phải đi đến chùa ngay chiều nay, cuối cùng bác sĩ
cho đi. Khi chồng con về, sức khỏe khác hẳn, con mừng qúa. Một tháng qua con
đau khổ và chán nản nghĩ rằng nếu chồng con chết, con sẽ đem 2 đứa con của con
nhảy xuống sống tự tử theo.
Đã 5 năm qua, chồng cô khỏe mạnh đi làm trở lại, còn cô em trở thành
học viên Khí Công, đi học phương pháp chữa bệnh bằng Khí Công để về hướng dẫn lại
cho anh rể tập luyện.
Trên đây là 12 loại bệnh tiêu biểu đều thuộc 5 hành kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ, trong cơ thể..
Và phương pháp tự chữa bệnh bằng hơi thở của môn Khí Công Y Đạo cũng
chỉ là điều chỉnh tinh-khí-thần cho hòa hợp bằng cách điều chỉnh hơi thở, cách
ăn uống, và cách tập luyện thể dục Khí Công, để tự phục hồi những chức năng khí
hóa, sinh hoá, chuyển hóa, của lục phủ ngũ tạng để tinh hóa khí, khí hóa thần,
thì mọi bệnh tật được tiêu trừ, hệ miễn nhiễm được tăng cường mỗi ngày do kết
quả tập luyện thường xuyên để phòng chống bệnh tật hữu hiệu hơn.
No comments:
Post a Comment