Nhà sinh lý học tiếng tăm lừng lẫy
Claude Bernard đã quả quyết tuyên bố rằng: “Tình trạng cơ thể là chính
yếu, vi trùng không có gì đáng kể".
Thật vậy, nếu mọi tế bào tạng phủ trong
người đều lành mạnh thì chẳng có một loại vi trùng nào có thể quấy phá
hoặc tác hại được. Và muốn cho mọi cơ năng tạng phủ đều được lành mạnh
thì trước hết các chất bổ dưỡng đưa vào máu để phân phối nuôi cơ thể
phải tinh khiết, đầy đủ và đúng quy luật cân bằng.
Đã biết qua thuyết OHSAWA, chúng ta ai
cũng biết rằng bệnh tật sở dĩ sinh ra là vì mất cân bằng Âm Dương, do đó
vi trùng hoặc ngoại tà mới có dịp xâm nhập phát tác và gây tổn hại cho
cơ thể.
Sự khám phá ra vi trùng của Pasteur đã
lái ngành y khoa hiện đại về chiều hướng giải phẫu và sưu tầm các thuốc
trụ sinh càng ngày càng hiệu lực, đồng thời cũng đã đem lại nhiều tai
hại cho loài người. Phương thức chữa bệnh của các y sĩ đáng lẽ là nghiên
cứu cách tiết độ để bảo tồn sinh lực cho cơ thể có khuynh hướng đạo đức
và chiêm nghiệm vì đâu, do nguyên nhân nào mà cơ thể mất quân bình,
nhưng vì quá chú trọng đến vi trùng, người ta cứ để con người là làm sao
tìm cách giết cho được vi trùng và xem chúng như là nguyên nhân chính
yếu của bệnh tật, do đó nếp sống con người đã bị đảo lộn về vật chất
cũng như tâm linh.
Muốn phục hồi sức khỏe đang bị một loại
vi trùng nào đó làm tổn hại thì công việc cho bệnh nhân uống một thứ trụ
sinh nào đó chưa đủ mà phải chữa trị tận nguồn gốc và phục hồi toàn
diện sinh lực cho cơ thể. Để hoàn thành công việc ấy, chúng ta cần:
• Loại trừ nguyên nhân sâu xa của căn bệnh,• Lập lại quân bình Âm Dương cho cơ thể,
• Cải tạo sức khỏe cho thể chất và tâm linh,
Phương sách trị liệu hữu hiệu nhất vẫn là phép nhịn ăn hợp cách.
Nhịn ăn dù thời gian hoặc dài hay ngắn
là một thời cơ tốt đẹp cho tạng phủ được nghỉ ngơi, giúp điều kiện cho
tế bào bài tiết các chất độc, cơ thể phân phối các thức ăn dự trữ, các
khoáng chất, sinh tố… để lập lại cân bằng Âm Dương tốt đẹp cho cơ thể.
Điều người ta thường lo ngại hơn cả là
nhịn ăn làm sụt cân quá nhiều nhưng sở dĩ người ta lo ngại như vậy bởi
vì người ta không hiểu sự ích lợi, sự mầu nhiệm của phép nhịn ăn. Mối lo
ngại đó là vô căn cứ, là hoàn toàn hư ảo.
Thật vậy, sau thời gian nhịn ăn phải
phép và khi sự giải độc được hoàn thành cho cơ thể, người nhịn ăn tuy
gầy hơn trước nhưng nhờ các tế bào trở nên trong sạch và non trẻ hơn
trước nên một khi ăn uống trở lại là lên cân đúng mức quân bình và sức
khỏe thêm dồi dào miễn rằng đừng ăn uống bừa bãi để sa vào chỗ mất quân
bình Âm Dương đã gây ra bệnh tật trước kia.
Người hành phép nhịn ăn chỉ cần nghỉ
ngơi hoặc hoạt động vừa phải trong đó phép đi bộ được xem là tốt hơn cả.
Mọi cử động đột ngột đều nên tránh, ví dụ đang nằm mà vùng đứng dậy có
thể sinh ra xây xẩm mặt mày trong chốc lát.
Về thời gian nhịn ăn, lý tưởng và công
hiệu hơn cả là nhịn ăn cho đến khi nào sự thèm ăn tự nhiên trở lại,
nhưng trong thời buổi mà nhịp sống trở nên sôi động và cuồng loạn như
ngày nay, mà thì giờ được xem là vàng bạc thì kể ra cũng ít người đủ
điều kiện để có đủ thì giờ thong thả thuận tiện để đeo đuổi đến cùng một
kỳ nhịn ăn dài hạn.
Tùy khả năng, thuận tiện ta có thể nhịn ăn hoặc 7, 14, 21 hay 28 ngày hoặc hơn thế nữa …
Những kỳ nhịn ăn dài hạn dĩ nhiên kết
quả tốt đẹp hơn, nhanh chóng hơn những kỳ nhịn ăn ngắn hạn thường để
dành cho những bệnh nhân không đủ điều kiện để nghỉ dài ngày. Những cuộc
nhịn ăn ngắn hạn lại có cái lợi là có thể thực hành lúc nào cũng được
mà không cần ngưng công việc sinh hoạt hàng ngày.
Nhịn ăn ngắn hạn có thể là mỗi tuần 1
ngày, mỗi tháng 2-3 kỳ, mỗi kỳ 3 ngày; hay mỗi tháng 1-2 kỳ, mỗi kỳ 5
ngày tùy bệnh trạng, tùy sở thích, tùy suy luận hay kinh nghiệm của từng
người.
Nhịn ăn nhằm gột rửa các chất độc ra
khỏi cơ thể, cải thiện sự tuần hoàn và hô hấp. Sinh lực đáng lẽ phải dồn
vào trong công việc tiêu hóa thức ăn nay được dành chữa, bù đắp các
tạng phủ, cơ quan bị suy tổn. Thần kinh hệ được giải khai, bắp thịt
thoải mái nghỉ ngơi, các nội tạng làm việc ít lại, sinh lực con người
được cải tạo, nhờ đó mà ảnh hưởng tốt đẹp lan rộng đến địa hạt trí tuệ
và đạo đức con người.
Đối với quảng đại quần chúng, người ta
thường cho rằng bệnh tật chỉ là một sự cấp phát, một hiểm họa do vi
trùng bên ngoài đưa vào chứ không phải do sự vi phạm các định luật thiên
nhiên liên tiếp có khi ngay từ thuở sơ sinh.
Quá tin vào thuyết vi trùng, người ta đã
lẫn lộn lấy quả làm nhân do vậy phát sinh lòng nghi ngại băn khoăn tự
hỏi làm sao sự nhịn ăn có thể chữa lành được những bệnh nhiễm trùng
truyền nhiễm, và cho rằng nhịn ăn bất quá chỉ có thể chữa lành một số
nhỏ bệnh thần kinh, mất ngủ, nhức đầu hay các bệnh do sự hỗn loạn bất
điều của các cơ năng hay tạng phủ mà thôi.
Nhưng trên thực tế lại khác, có thể nhờ
phép nhịn ăn lập lại được quân bình Âm Dương tức là tạo sự bất lợi, phá
sự thích nghi cho đời sống và sự sinh sản của vi trùng thì tuy không
dùng độc dược mà vi trùng tự tàn diệt điêu vong dần. Hơn thế nữa, một
khi cơ thể đã lập được quân bình Âm Dương, thì tính thực bào tức khả
năng tiêu diệt vi trùng được cương thịnh và khả năng xuất tiết kháng thể
để trung hòa độc tố thêm sung túc thì thử hỏi vi trùng còn đâu là đất
dung thân, há lại phải cầu cạnh đến các độc dược, trụ sinh mới chữa lành
bệnh được hay sao?
Bác sĩ Roger và Josue đã làm thí nghiệm
sau đây để chứng minh lợi ích của sự nhịn ăn: Hai ông chia một bầy thỏ
làm đôi, một nứa số cho ăn uống như thường còn một nửa thì bắt nhịn ăn
hoàn toàn từ 5 đến 7 ngày rồi cho ăn bình thường trở lại từ 2 đến 11
ngày. Hai ông nhận thấy rằng những con thỏ nhịn ăn đã tự tạo một sức
miễn dịch phi thường, đã chịu đựng được một cách dễ dàng mà vô hại một
lượng vi trùng tiêm vào mình chúng đủ sức giết một cách nhanh chóng
những con thỏ khác trong một nửa bầy không được nhịn ăn.
Bác sỹ Dewey đã chữa cho con trai ông
mới 3 tuổi bị chứng bạch hầu (diphterie). Ông cho đứa bé nhịn đói tuyệt
đối chỉ uống nước rất ít và nhận thấy rằng bệnh còn chóng lành hơn là
chữa trị bằng thuốc men.
Bác sỹ Dewey còn áp dụng rất hiệu quả
phương pháp nhịn ăn tuyệt đối và dài hạn trong những trường hợp các bệnh
gây sốt như cúm, sưng phổi, đầu lào, sốt rét, các bệnh gây độc do vi
trùng streptocoque, staphylocoque. Ông ta luôn luôn nhận thấy rằng những
người bệnh ấy bao giờ cũng được chóng bình phục và nhất là phân xuất tử
vong những trường hợp trọng bệnh hết sức thấp so với cách chữa bệnh
thông thường mà cứ cho người bệnh ăn của các bác sỹ đồng nghiệp…
Bác sỹ Oswald nói: “một bệnh do vi trùng
gây ra lực độc giang mai, từ xưa xem như một bệnh dai dẳng với cách
chữa bằng những phương pháp hòa hoãn, tạm bợ (ví dụ với thủy ngân, thạch
tín…) đã được trị tận gốc với phép nhịn ăn trong những bệnh xá Ả-rập ở
Ai cập trong thời gian Pháp chiếm đóng. Avicene đã ám chỉ đến sự công
hiệu của phương pháp này mà hình như ông ta đã áp dụng một cách thần
hiệu để chữa bệnh đậu mùa. Và bác sỹ Robert Barthlow là một y sĩ trung
kiên trong việc bênh vực thuốc men cũng phải thừa nhận rằng: “Nhịn ăn
chắc chắn là một phương tiện xuất sắc để bài tiết vi trùng ra khỏi cơ
thể bằng một quá trình liên tục tuần tự hủy diệt phân tử và để tái tạo
các cơ cấu trong cơ thể”.
“Đó là phương pháp nhịn ăn dùng để chữa
lành bệnh giang mai, một phương pháp Đông phương dùng để chữa bệnh ấy và
những kết quả rất mỹ mãn đã được thu hoạch bằng phương pháp này”.
Bác sỹ Von Seeland nói: “Trên nhận xét
bản thân cũng như trên nghiên cứu thực nghiệm, tôi càng ngày càng đi đến
tin tưởng vững chắc rằng nhịn ăn chẳng những có một giá trị về phương
diện y khoa mà chắc chắn rằng còn có một giá trị lớn lao hơn nhiều đứng
về phương diện dưỡng sinh và giáo dục. Xã hội của chúng ta nô lệ dưới
ách thuốc lá và rượu nay lại sa đọa vào nạn thuốc phiện, dần dần trở
thành miếng mồi cho sự u sầu, cho niềm chán sống và do đó những vụ tự
vẫn gia tăng…
Rồi từ trong lòng xã hội ấy xuất hiện ra
những triết gia u uất bi quan (trạng thái tinh thần biểu lộ một căn
bệnh thực thụ hay một sự suy nhược tinh thần). Cho nên một xã hội như
vậy muốn được cảnh tỉnh cần phải phát động một phản ứng quyết liệt là
cách thực hành “tiết dục và nhịn ăn”
Lành bệnh có tính cách nhất thời là dễ,
nhưng bảo tồn sức khỏe có tính cách trường kỳ mới là chuyện khó. Nhịn ăn
đem lại sức khỏe có tính cách giai đoạn nhưng sau đó nếu được bảo trì
bằng cách ăn uống cho đúng quân bình Âm Dương của giáo sư Ohsawa thì
phép dưỡng sinh mới có thể toàn hảo vậy.
Cách ăn uống sau thời kỳ nhịn ăn phải
được chăm sóc kỹ lưỡng không kém gì sự chăm sóc trong lúc nhịn ăn. Sự
tái tạo các tế bào quan trọng không kém gì sự gột rửa các tế bào và
chính trong thời gian sau khi nhịn ăn mà người ta phạm những điều khinh
xuất. Nhiều người nghĩ rằng nhịn ăn là điều quan trọng, bệnh lành là
xong chuyện còn sau đó thì chẳng có gì đáng kể.
Có những người bệnh nhờ áp dụng phép
nhịn ăn mà lành bệnh, nhưng ngay sau đó họ lại sa vào vết xe cũ của thói
quen xưa. Họ trở lại ăn uống quá độ, ăn hấp tấp không nhai kỹ, ăn uống
bừa bãi không biết chọn món ăn quân bình, tưởng rằng cứ ăn uống thỏa
thích như vậy thì chóng phục hồi sinh lực, mau lên cân nhưng có biết đâu
rằng chính vì sự cẩu thả trên chẳng những đã làm tổn hại thành quả tốt
đẹp thu hoạch được trong thời gian nhịn ăn mà còn làm suy nhược các cơ
quan tạng phủ, chuẩn bị cho những tai hại mới, cho những bệnh tật mới,
những đau khổ mới.
Nhịn ăn như vậy thì khác nào công cuộc
dã tràng xe cát biển Đông. Vì vậy tôi đã ghép liên phép nhịn ăn với cách
ăn theo nguyên lý Âm Dương của giáo sư Ohsawa với dụng ý giới thiệu
cùng các độc giả phương pháp bảo tồn sức khỏe và chữa bệnh thần diệu vô
tiền khoáng hậu của giáo sư Ohsawa, một ân nhân của nhân loại đã đem
thân thể cuộc đời hy sinh cho lý tưởng cao cả vị tha …
“Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa” (Đạo đức
kinh), vì không hiểu Đạo để sống thuận theo dịch lý Âm Dương của vũ trụ
mới bày ra thuốc men và bệnh viện, rồi thuốc thang càng sung túc thì
bệnh tật càng nhiều, đạo đức càng suy.
Vi trùng đâu có gì đáng sợ, đáng sợ
chăng là sự vô minh vì không thấu hiểu nguyên lý của vũ trụ để dưỡng
sinh, để tu thân. Thân không tu thì nhân loại suy vong vì nhân loại nào
có ai khác hơn là bạn và tôi cùng bao nhiêu người khách đang sống trên
cõi đời này…
(Theo Thái Khắc Lễ).
Nhịn ăn đối với con người
Nơi con người, người ta nhịn ăn với
nhiều mục đích, vì nhiều trường hợp: nhịn ăn về tôn giáo, nhịn ăn để ước
nguyện, nhịn ăn vì giới luật, nhịn ăn để làm reo, nhịn ăn để biểu diễn
lấy tiền, nhịn ăn để thí nghiệm, nhịn ăn vì không ăn được, vì tàu chìm,
vì hầm mỏ sụp v.v….
Theo giáo sư Agostino Levannzin, con người có thể mất 60% sức nặng trung bình cơ thể mà không có gì nguy hiểm đến tính mạng hay suy giảm sức khỏe. Theo ông thì một phần lớn sức nặng của cơ thể bình thường cũng là những thức ăn dự trữ.
Nhịn ăn trong trường hợp không ăn được, ví dụ bị ung thư dạ dày, dạ dày bị hủy hoại vì axit v.v…
Ngày nay nhiều người cho rằng ốm đau thì
phải ăn để bảo vệ sức khỏe và nếu không ăn thì sức đề kháng sẽ giảm đi
và người ta sẽ bị mất sức, như thế có nghĩa là nếu như người bệnh không
ăn thì có thể chết được. Trên thực tế thì trái lại hễ càng ăn thì càng
dễ chết.
Khi thú vật đau thì chúng nhịn ăn và chỉ khi nào đã bình phục nó mới chịu ăn lại.
Khi thú vật đau thì chúng nhịn ăn và chỉ khi nào đã bình phục nó mới chịu ăn lại.
Người ta phải nhịn ăn, vì chiến tranh,
vì hạn hán, vì sâu bọ phá hoại mùa màng, vì bão lụt, vì động đất, vì giá
băng v.v… đã gây sự đói kém cho dân chúng cả một vùng, một xứ. Có
trường hợp họ còn thực phẩm, nhưng cũng có trường hợp họ không có mảy
may. Trong những trường hợp này chính khả năng nhịn ăn là phương tiện
hữu hiệu để bảo tồn sinh mạng.
Sự buồn rầu, lo lắng, hờn giận, xáo trộn
tinh thần và những giao động tình cảm khác cũng có tác dụng tai hại
trên sự tiêu hóa không kém sự đau đớn, cơn sốt hoặc các viêm chứng trầm
trọng.
Những người điên cũng thường ghét các
món ăn, thế mà người ta lại thường cố ép bắt họ ăn đôi khi với những
cách rất tàn nhẫn. Sự ghét món ăn là một hành động của bản năng rất
thích hợp.
Bác sĩ Page kể chuyện một người bị bệnh
tinh thần phục hồi tình trạng bình thường sau 41 ngày nhịn ăn sau khi đã
đủ cách chữa chạy với các phương pháp khác.
Nhịn ăn theo bản năng là chuyện rất
thường: người bệnh có thể vẫn làm lụng công việc những vẫn thấy không
thèm ăn vì bản năng cơ thể biết rằng ăn như thường ngày sẽ tăng bệnh.
Nhưng người ta thường nghĩ rằng ăn không biết ngon là một tai biến và
tìm mọi cách ăn cho nhiều, tưởng rằng làm như vậy thì chóng bình phục:
người ta thay đổi món ăn, uống rượu khai vị, uống thuốc kích thích dạ
dày, v…v…
Người ta có thành kiến lầm lạc sợ chết
đói vì nhịn ăn, có biết đâu rằng một đứa bé có thể nhịn ăn đến 70 ngày,
nhiều người chẳng những có thể nhịn ăn được 76 ngày mà còn thu được
nhiều lợi ích cho sinh lực.
Muni Shri Misrilji, một tín đồ của đạo Jain đã nhịn ăn 132 ngày để thuyết phục kêu gọi các đồng môn đoàn kết thống nhất.
Năm 1923, các báo y học ở Balee đăng tin một thiếu nữ mắc bệnh thương hàn đã nhịn ăn 110 ngày.
Bác sĩ Dewey thuật chuyện 2 đứa bé vì
uống nước bồ tạt hư hoại dạ dày, một đứa vẫn sống 75 ngày và một đứa
sống hơn 3 tháng không ăn uống gì cả nhưng tinh thần vẫn sáng suốt đến
giờ phút lâm chung.
Bác sĩ Hazzard kể chuyện một thiếu phụ
mắc bệnh phì mập và sưng thận kinh niên đã nhịn ăn trong 60 ngày. Bà này
nhờ vậy lành mạnh trở lại và sanh đứa con đầu tiên sau 20 năm hôn lễ.
Bác sĩ còn kể chuyện một người bệnh kinh
niên trong khoảng 140 ngày đã nhịn ăn 118 ngày và nhờ vậy sau đó sức
khỏe được phục hồi.
Bác sĩ Shelton nói rằng vụ nhịn ăn lâu nhất dưới sự săn sóc đích thân của ông là 68 ngày.
Tháng 1/1931, bà A.G. Walker, một nữ
danh tiếng xứ Rhodesie đã nhịn ăn 101 ngày, mỗi ngày chỉ uống vài lít
nước nóng và lạnh để cho người gầy bớt.
Một kỹ nghệ gia người Anh 53 tuổi ở tại
Leeds (London) nhịn ăn dưới sự chăm sóc của John W.Armstrong. Ông ta cân
nặng 86.5kg lúc khởi sự nhịn ăn, còn lại 59.8kg sau 50 ngày nhịn ăn và
rốt cuộc cân nặng 46.2kg sau 101 ngày nhịn ăn, như vậy là hao mất
40.3kg. Trước ngày nhịn ăn, ông ta bị mù, mũi không biết mùi, động mạch
cứng, tim rối loạn. Trước kia ông ta đã từng chữa với i-ốt, aspirine,
atropine và nhiều thuốc khác.
Trước ngày nhịn ăn, ông ta không phân
biệt được cả ngày đêm. Sau 56 ngày nhịn ăn, thủy tinh thể trong mắt bớt
đục và ông ta đã thấy mờ mờ. Sau đó thị giác phục hồi dần dần đến khi
sáng hẳn như trước. Khứu giác cũng trở lại bình thường tình trạng của
tim và động mạnh khả quan.
Các phóng viên báo chí phỏng vấn, ông
trả lời: “Tôi đã tuyệt vọng. chữa đủ cách mà chẳng ăn thua gì, cuối cùng
tôi đành liều theo phép nhịn ăn. Tôi làm bất cứ cách nào với hy vọng
lấy lại sức khỏe. Tôi bắt đầu phải nhịn ăn thử 10 ngày, thấy hơi đỡ, thế
là tôi cứ tiếp tục mãi. Đến 101 ngày thì tôi dừng lại: nhưng có lẽ tôi
có thể tiếp tục thêm mươi ngày nữa nếu tôi muốn”.
Ông ta nói: “Nhịn ăn dễ ợt sau 15 ngày đầu, nhưng trong giai đoạn đầu ấy phải có một ý chí để chống lại sức cám dỗ của thức ăn”.
Ông ta vẫn có thể dạo chơi thong thả
hàng ngày trong thời kỳ nhịn ăn vài trả lời lưu loát các phóng viên
trong 2 giờ đồng hồ liên tiếp vào ngày thứ 101.
Ông A.J. Carlson, giáo sư sinh lý học
đại học Chicago chủ trương rằng một người khỏe mạnh ăn uống đầy đủ có
thể sống từ 50 đến 75 ngày không cần thực phẩm với điều kiện đừng bắt
người ấy chịu lạnh quá đáng, tránh việc lao lực và giữ tinh thần cho
bình tỉnh. Thời hạn 75 ngày cũng chỉ là thời hạn trung bình mà lắm người
vượt khỏi.
Trong tác phẩm The natural cure, bác sĩ
Page viết: “Người ta thường cho những người nhịn ăn là những kẻ phi
thường nhưng thật ra họ chỉ phi thường nơi điểm họ biết khả năng cơ thể
chịu đựng được sự nhịn ăn và họ có gan thực hành sự hiểu biết ấy”.
Người ta thường phản đối sự nhịn ăn nơi con người lấy cớ rằng con người không phải giống vật Đông miên.
Tuy rằng con người không có những dự trữ
thức ăn đặc biệt như giống gấu ở Nga, giống hải cẩu ở Bắc cực nhưng con
người lại có thức ăn dự trữ khắp trong các tế bào giống mọi thú vật như
chó, mèo, heo, ngựa, trâu, voi cũng chẳng phải là những thú vật Đông
miên nhưng chúng vẫn theo bản năng nhịn ăn mỗi khi đau ốm hoặc bị
thương.
Nếu không có những thức ăn dự trữ trong
tế bào cơ thể thì trong những trường hợp như vậy hoặc đói kém chúng làm
sao có thể sống còn được.
Mỗi tế bào, mỗi cơ quan đều có thức ăn
dự trữ của nó, hơn thế nữa, còn có một số lớn glycogene tích tụ trong
gan, một số protein và nhiều chất bổ dưỡng luân lưu trong máu, trong
nước Lamba, nhiều kg mỡ (dù người rất mảnh khảnh cũng có rất nhiều mỡ)
và rất nhiều thức ăn dự trữ trong tủy xương. Trong các nội hạch dự trữ
rất nhiều các loại vitamin.
Đông miên khác sự nhịn ăn thường ở điểm
loài vật Đông miên có những nguồn dự trữ riêng trong thời kỳ đó hơn nữa
suất biến dưỡng thấp thua nhiều trong trường hợp Đông miên vì vậy sự hao
tổn thức ăn rất ít.
Nhịn ăn là một sự hấp dưỡng vật thực đặc
biệt dưới hình thức rất đơn giản của cơ thể nếu ta có thể nói. Chẳng
những các thực phẩm dự trữ có thể nuôi những tế bào cần thiết cho sinh
mạng trong một thời gian nào đó mà không một tế bào nào cần thiết cho
sinh mạng lại bị thương tổn một khi các thức dự trữ đó đang còn. Sợ hãi
sự nhịn ăn thiếu căn cứ vì nó được thành lập trên sự vô minh, trên một
quan niệm sai lầm.
Nhịn ăn là không ăn mà chỉ uống nước cho
đến lúc thức ăn dự trữ không còn nữa. Còn đói ăn là cứ nhịn ăn đến lúc
mà các thức dự trữ đã tiêu thụ hết rồi.
Có thể tận dụng tối đa thức ăn dự trữ:
nó cố dùng những tài nguyên lâu chừng nào tốt chừng ấy. Thật vậy, những
chất tuyệt đối cần thiết cho sinh mạng và cho sự vận chuyển các cơ quan
cần thiết như tim, thần kinh hệ chỉ được đem dùng khi nào những cơ quan
khác không thể cung cấp được. Thứ được dùng trước hết là mỡ và
glycogene, thứ đến là các chất protein.
Nhịn ăn càng lâu, cơ thể càng tiết kiệm
thức ăn bằng cách giảm mọi hoạt động vật chất, sinh lý đến mức tổi
thiểu. Nếu người nhịn ăn nghỉ ngoi thì số dự trữ ít tiêu hao hơn. Sự
hoạt động của cơ thể, cơn sốt, sự lạnh lẽo bên ngoài, nỗi buồn rầu, niềm
xúc động mạnh làm tăng gia sự tiêu hao các thức ăn dự trữ.
Trong sách The natural cure, bác sĩ Page
nói: “Thức ăn dự trữ trong tế bào để tự dưỡng trong lúc nhịn ăn là thực
phẩm tốt nhất, quý báu nhất đối với người lâm bệnh, đặc biệt là trong
các bệnh cấp tính trầm trọng”.
Các mô của cơ thể có thể xem như một bể
chứa thức ăn có thể vận chuyển đến bất cứ nơi nào theo sự cần dùng. Khả
năng của cơ thể về việc nuôi các mô quan hệ đến sinh mạng do các thức ăn
dự trữ và các mô ít cần thiết cho sự sống là một sự quan trọng đối với
người bệnh không thể ăn uống và tiêu hóa thức ăn. Không có khả năng này,
người bệnh trong cơn cấp phát sẽ chết đói ngay.
Người ta thấy rằng những mô cần thiết
cho sinh mạng được nuôi dưỡng trước hết do những thức ăn dự trữ và khi
những thức ăn này đã cạn thì cơ thể tự dùng những mô ít quan trọng cho
sự sống để nuôi dưỡng các mô cần thiết cho sinh mạng. Cho nên một khi
thức ăn dự trữ đang còn thì nhất định không có sự thiệt hại mảy may đến
các mô cần thiết cho sinh mạng.
Người bệnh theo bản năng mà nhịn ăn
nhưng thường các y sĩ, các người nuôi bệnh hay cha me, anh, em bệnh nhân
lại ép uổng người bệnh cố ăn để giữ sức. Thực là một điều lầm lẫn lớn
mà người ta không ngờ đến.
No comments:
Post a Comment