LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Friday, November 18, 2016

Hai mươi tư tiết khí trong năm



Nhà nông , việc làm ăn phải dựa theo thời tiết, để các bạn có cách tra cứu các tiết khí trong năm xin được đăng tải bảng dưới đây liệt kê hai mươi tư tiết khí trong lịch các nước phương Đông:(tính theo dương lịch).

 Kinh độ Mặt Trời  Tiếng Việt  Tiếng Hoa  Ý nghĩa  Ngày dương lịch
315° 330°
345°

15°
30°
45°
60°
75°
90°
105°
120°
135°
150°
165°
180°
195°
210°
225°
240°
255°
270°
285°
300°
Lập xuân Vũ thủy
Kinh trập
Xuân phân
Thanh minh
Cốc vũ
Lập hạ
Tiểu mãn
Mang chủng
Hạ chí
Tiểu thử
Đại thử
Lập thu
Xử thử
Bạch lộ
Thu phân
Hàn lộ
Sương giáng
Lập đông
Tiểu tuyết
Đại tuyết
Đông chí
Tiểu hàn
Đại hàn
立 春 雨 水
驚 蟄 (惊 蛰)
春 分
清 明
穀 雨 (谷 雨)
立 夏
小 滿 (小 满)
芒 種 (芒 种)
夏 至
小 暑
大 暑
立 秋
處暑(处暑)
白露
秋分
寒露
霜降
立冬
小雪
大雪
冬至
小寒
大寒
Bắt đầu mùa xuân Mưa ẩm
Sâu nở
Giữa xuân
Trời trong sáng
Mưa rào
Bắt đầu mùa hè
Lũ nhỏ, duối vàng
Chòm sao tua rua mọc
Giữa hè
Nóng nhẹ
Nóng oi
Bắt đầu mùa thu
Mưa ngâu
Nắng nhạt
Giữa thu
Mát mẻ
Sương mù xuất hiện
Bắt đầu mùa đông
Tuyết xuất hiện
Tuyết dầy
Giữa đông
Rét nhẹ
Rét đậm
4 tháng 2 19 tháng 2
5 tháng 3
21 tháng 3
5 tháng 4
20 tháng 4
6 tháng 5
21 tháng 5
6 tháng 6
21 tháng 6
7 tháng 7
23 tháng 7
7 tháng 8
23 tháng 8
8 tháng 9
23 tháng 9
8 tháng 10
23 tháng 10
7 tháng 11
22 tháng 11
7 tháng 12
22 tháng 12
6 tháng 1
21 tháng 1
Ghi chú:
  1. Trong ngoặc là tiếng Hoa giản thể nếu cách viết khác với tiếng Hoa phồn thể (truyền thống).
  2. Ý nghĩa của các tiết về cơ bản là giống nhau trong các nước, tuy nhiên có một vài điểm khác nhau rõ rệt.
  3. Ngày bắt đầu của tiết khí có thể dao động trong phạm vi ±1 ngày.
Trong khoảng thời gian giữa các tiết khí như Đại tuyết, Tiểu tuyết trên thực tế ở miền bắc Việt Nam không có tuyết rơi. (Trừ một số đỉnh núi cao như Phan Xi Păng, Mẫu Sơn có thể có, tuy vậy tần số xuất hiện rất thấp và lại rơi vào khoảng thời gian của Tiểu hàn-Đại hàn).
Các điểm diễn ra hay bắt đầu các tiết xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí trùng với các điểm vernal equinox (điểm xuân phân), summer solstice (điểm hạ chí), autumnal equinox (điểm thu phân), winter solstice (điểm đông chí) trong tiếng Anh đối với Bắc bán cầu.

Ý nghĩa
Phân tích các tiết khí theo bảng trên đây, có thể nhận thấy chúng có liên quan đến các yếu tố khí hậu và thời tiết rất đặc trưng cho vùng đồng bằng sông Hoàng Hà của Trung Quốc. Trong quá khứ nó đã từng được áp dụng để tính toán các thời điểm gieo trồng ngũ cốc sao cho phù hợp với các điều kiện thời tiết và khả năng sinh trưởng của chúng. Tuy vậy nó cũng có thể áp dụng được cho các vùng lân cận như khu vực phía bắc Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v.v. Chính vì thế lịch Trung Quốc xưa còn có tên gọi là nông lịch tức lịch nông nghiệp.

Phân định mùa
Theo tiết khí trong lịch Trung Quốc, các mùa bắt đầu bằng tiết khí có chữ “lập” trước tên mùa. Ví dụ: mùa xuân bắt đầu bằng tiết khí lập xuân.
Tuy nhiên phân định này chỉ đúng cho thời tiết các nước ở bắc bán cầu Trái Đất xung quanh vùng Trung Hoa cổ đại. Tại các nước phương Tây, các mùa được phân định bằng các thời điểm như điểm xuân phân, điểm hạ chí, điểm thu phân và điểm đông chí. Trong thiên văn học, mùa trên các hành tinh nói chung cũng phân theo kiểu phương Tây. Ví dụ, mùa xuân trên sao Hỏa bắt đầu vào điểm xuân phân (kinh độ Mặt Trời bằng 0) và kết thúc vào điểm hạ chí (kinh độ Mặt Trời bằng 90°).

Chiều thu

Mùa
Trên Trái Đất, mùa là sự phân chia của năm, nói chung dựa trên sự thay đổi chung nhất theo chu kỳ của thời tiết.
Trong các khu vực ôn đới và vùng cực nói chung có bốn mùa được công nhận: mùa xuân, mùa hạ (hay mùa hè), mùa thu và mùa đông.
Trong một số khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới thì có thể người ta chỉ chia thành hai mùa là mùa mưa và mùa khô, dựa trên lượng mưa có sự thay đổi đáng kể hơn so với sự thay đổi của nhiệt độ. Trong một số khu vực khác của vùng nhiệt đới thì lại có sự phân chia thành ba mùa: mùa nóng, mùa mưa và mùa lạnh. Người Ai Cập cổ đại còn chia một năm thành ba mùa, Aklet, là mùa ngập lụt, mùa cày cấy và gieo hạt, và Stem là mùa thu hoạch mùa màng.
Một số dân tộc bản xứ ở Lãnh thổ phía bắc của Úc sử dụng sáu mùa, trong khi người Sami (thổ dân) của vùng Scandinavia thừa nhận không ít hơn 8 mùa.
Ở khu vực Melbourne của miền đông nam nước Úc, tiến sĩ Beth Goth từ Monash School of Biological sciences (Trường Sinh học Monash) đã biên soạn các tài liệu của một số các đồng nghiệp, là những người đang quảng cáo cho mô hình 6 mùa đối với khu vực này.
Trên đảo Vancouver ngoài bờ biển phía tây của Canada, John Neville – một nhà nghiên cứu thiên nhiên và một nhà văn nổi tiếng – tin rằng phần phía đông của đảo này có mùa trước mùa xuân trên thực tế (de facto) trong khoảng thời gian giữa mùa đông và mùa xuân. Mùa xuân đang đến dần trong tháng 2 thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi những trận tuyết rơi ngắn ngày làm cho thời kỳ tháng 2-3 có đặc trưng của một mùa lai tạp, nó không phải mùa đông mà cũng chẳng phải mùa xuân.
Trong một số khu vực của thế giới, các “mùa” đặc biệt được định nghĩa một cách khá lỏng lẻo dựa theo các sự kiện tự nhiên như mùa bão, mùa lốc xoáy, hay mùa cháy rừng.
Trên một số hành tinh trong Hệ Mặt Trời, cũng có hiện tượng thời tiết thay đổi tuần hoàn theo chu kỳ quay quanh Mặt Trời, cũng gọi là mùa; cùng nguyên nhân là độ nghiêng trục quay so với mặt phẳng quỹ đạo.

Bảng tính thời điểm chí
Ngày giờ theo UTC của các điểm phân và điểm chí
năm     Xuân phân         Hạ chí            Thu phân         Đông chí
tháng 3           tháng 6           tháng 9           tháng 12
ngày     giờ      ngày     giờ      ngày     giờ      ngày     giờ
2002     20     19:16     21     13:24     23     04:55     22     01:14
2003     21     01:00     21     19:10     23     10:47     22     07:04
2004     20     06:49     21     00:57     22     16:30     21     12:42
2005     20     12:33     21     06:46     22     22:23     21     18:35
2006     20     18:26     21     12:26     23     04:03     22     00:22
2007     21     00:07     21     18:06     23     09:51     22     06:08
2008     20     05:48     20     23:59     22     15:44     21     12:04
2009     20     11:44     21     05:45     22     21:18     21     17:47
2010     20     17:32     21     11:28     23     03:09     21     23:38
2011     20     23:21     21     17:16     23     09:04     22     05:30
2012     20     05:14     20     23:09     22     14:49     21     11:11
2013     20     11:02     21     05:04     22     20:44     21     17:11
2014     20     16:57     21     10:51     23     02:29     21     23:03

Lưu ý: Tên gọi các điểm phân và chí phù hợp cho Bắc bán cầu.
 
24 tiết khí được tính theo kinh độ mặt trời
315°  lập xuân
330° vũ thủy
345° kinh trập
      xuân phân
15°   thanh minh
30°   cốc vũ
45°   lập hạ
60°   tiểu mãn
75°   mang chủng
90°   hạ chí
105° tiểu thử
120° đại thử
135° lập thu
150° xử thử
165° bạch lộ
180° thu phận
195° hàn lộ
210° sương giáng
225° lập đông
240° tiểu tuyết
255° đại tuyết
270° đông chí
285° tiểu hàn
300   đại hàn




Trong 24 tiết khi hàng năm thì thiết  Xử Thử là tiết khí đẹp nhất, đây là tiết khi thứ 2 của mùa thu sau tiết Lập Thu. Xử Thử có nghĩa là đã hết nắng nóng, và báo hiệu thời gian nhiệt độ giảm, thời tiết chuyển mát mẻ.
Tiết Xử Thử là tiết khí thứ 14 trong năm, bắt đầu từ ngày 23 (hoặc 24) tháng 8 đến ngày 7 (hoặc 8) tháng 9. Đây là thời điểm mà Mặt Trời nằm ở kinh tuyến 150º.

Nếu tiết Lập Thu là tiết khí bắt đầu mua thu, vẫn còn sót lại chút nắng nóng của mùa hạ thì Xử Thử là tiết khí đánh dấu thu sang hoàn toàn, nhiệt độ giảm rõ rệt, cảm giác mát mẻ tràn lan, nắng nóng đã đi qua. Trong tiết này có Rằm tháng 8 – thời gian chính giữa mùa thu, hay còn gọi là Trung Thu.

Nếu quan sát thiên văn, trong tiết Xử Thử, Mặt Trời đang di chuyển đến chòm sao Sư Tử, bên cạnh Hiên Viên Tinh đứng vị trí 14. Ban đêm, trên trời chòm Bắc Đẩu Thất Tinh có dáng cong cong, cán chỉ về hướng Tây Nam.
tiet-xu-thu
  Tiết Xử Thử là thời kì chuyển giao mùa, từ nóng bức ngột ngạt sang tê buốt cóng lạnh, từ hạ sang đông. Đây cũng là thời điểm lúa chín, bắt đầu thu hoạch, thiên địa vạn vật bắt đầu bước vào thời kì chín muồi rồi tới héo tàn. Mưa bắt đầu giảm dần, nông vụ sau thu hoạch lại tất bật chuẩn bị vụ đông.

Mùa thu ngũ hành thuộc Kim, Kim khí mang sát khí nên đây cũng là khoảng thời gian săn bắt chim, gia cầm, trước để tế trời, sau dùng làm thực phẩm. Đây là phong tục cũ, nay hầu như đã không còn.

Xử Thử là tiết khí bắt đầu tiết âm của thiên địa trời đất, Mặt Trời dời về Nam nên nhiệt lượng yếu dần đi, trên nhân gian âm thịnh dương suy. Trong tiết khí này, không khí mát lạnh, khô ráo, có chút hanh, là lúc nắng nhẹ gió thanh, tiết khí đẹp nhất trong năm.
Tuy nhiên, cũng cần chú ý là do thay đổi thời tiết, nóng lạnh thất thường sẽ phát sinh một số bệnh về đường hô hấp, dạ dày, cảm mạo. Vì vậy, nên bổ sung dưỡng chất, dưỡng sinh cơ thể bằng những thực phẩm có tính ấm, tránh ăn thực phẩm có tính hàn quá nhiều hoặc ăn vào buổi tối.

Các hoạt động phổ biến nhất trong tiết Xử Thử là du lịch nghênh thu, đi dã ngoại tận hưởng bầu không khí ngọt ngào, mát mẻ, sảng khoái; thả đèn hoa đăng trong tiết rằm tháng 7 và trông trăng bái Nguyệt Thần trong tiết rằm tháng 8 (tùy theo âm lịch hàng năm).

Đặc biệt, với ngư dân và cư dân vùng sông nước thì tiết Xử Thử còn là thời gian thu hoạch của nghề ngư nghiệp nên phải cử hành lễ khai thuyền, mở đầu cho một mùa đi biển.



24 tiết khí luân phiên tuần hoàn như sự vận động của vũ trụ. Lập xuân, hoa mai trắng hồng tô điểm mái ngói đơn sơ. Hạ đến, ánh mặt trời xuyên qua khóm trúc. Thu sang, hướng dương nở dậy cái nóng mãnh liệt. Đông về, bụi cỏ lau khẽ rùng mình trước gió.
Bộ ảnh mang tên “Thanh giản” được thực hiện trong suốt hai năm trời ròng rã, trên 11 tỉnh thành của Trung Quốc.

đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Lập xuân, ngày 4/2.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Vũ Thủy, ngày mưa ẩm, ngày 19/2.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Kinh Trập, ngày sâu nở, ngày 5/3.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Xuân Phân, ngày 21/3.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Thanh Minh, ngày 5/4.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Cốc Vũ, ngày mưa rào, ngày 20/4.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Lập hạ, ngày 6/5.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Tiểu Mãn, ngày lũ nhỏ, ngày 21/5.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Mang Chủng, ngày chòm sao tua rua mọc, ngày 6/6.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Hạ Chí, ngày 21/6.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Tiểu Thử, ngày nóng nhẹ, 7/7.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Đại Thử, ngày nóng oi, 23/7.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Lập Thu, ngày 7/8.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Xử Thử, ngày mưa ngâu, 23/8.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Bạch Lộ, ngày nắng nhạt, 8/9.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Thu Phân, ngày 23/9.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Hàn Lộ, ngày mát mẻ, 8/10.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Sương Giáng, ngày xuất hiện sương mù, 24/10.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Lập Đông, ngày 7/11.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Tiểu Tuyết, ngày 22/11.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Đại Tuyết, ngày 7/12.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Đông Chí, ngày 22/12.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Tiểu Hàn, ngày rét nhẹ, 6/1.
đồng, xuân, tiết khí, thu, hoa mai, hạ, Bài chọn lọc,
Đại Hàn, ngày rét đậm, 21/1.



Quan hệ giữa 24 khí tiết và can chi

Lịch pháp xưa nay đều không nằm ngoài hai loại: lịch Thái dương (lịch mặt trời) và lịch Thái âm (lịch mặt trăng). Lịch mặt trời là công lịch thông dụng trên thế giới ngày nay (Tiền thân là lịch nho lược, thế kỷ 16 giáo hoàng Kenly Conly thứ 13 đã tiến hành sửa đổi để thành công lịch như ngày nay), lịch mặt trăng là lịch Hồi giáo đạo Musilin thường dùng ở những quốc gia Hồi giáo.
Sự khác biệt chủ yếu của hai loại lịch pháp ở chỗ: Lịch Thái dương Là lấy một chu kỳ trái đất quay quanh mặt trời (tương ứng với trái đất mà nói. tức Là chu kỳ một vòng vận hành của mặt trời quanh trái đất), một vòng là một năm, và chia trung hình thành 12 tháng, còn phân chia to nhỏ bình quân tháng và theo số dư còn lại. 

mattroi

Ưu điểm của lịch Thái dương là bốn mùa rõ ràng, chính xác không sai: lịch Thái âm Lại nghiêm ngặt căn cứ theo chu kỳ mặt trăng, bời không quan tâm đến chu kỳ quay của trái đất, cho nên không thể chia ra chính xác giới hạn bốn mùa trong năm. Nông lịch của Trung Quốc trên thực tế là một loại lịch kết hợp âm dương, một mặt lấy kỳ nguyệt chu kỳ quay của mặt trăng, một mặt lại thiết lập tháng nhuận một cách khéo léo để làm nên và quy về các bước của năm. 
Còn gọi là 24 khí tiết là lấy một chu kỳ trái đất quay quanh một trời tức là 360 độ của một năm được chia làm 24 phần, tức là mặt trời trên đường kinh tuyến hướng về phía Đông dịch chuyển mỗi góc là 16 độ là một “khí”, di chuyển 360 độ tổng cộng có 24 khí, nông lịch đặt tên cho 24 khi tiết này là: Lập xuân, vũ thủy, kinh trập, xuân phân, thanh minh, các vũ, lập hạ, tiếu mãn, mang chùng, hạ chí, tiêu thứ, đại thử, lập xuân, xứ thử, bạch lộ, thu phán, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn. Trong đó 12 khí: lập xuân, kinh trập, thanh minh, lập hạ, mang chủng, tiểu thử, lập thu, bạch lộ, hàn lộ, lập đông, đại tuyết, tiểu hàn là “khí tiết”, còn lại gọi là “khí trung”. Khí tiết thông thường được coi là lịch âm, trên thực tế lại phải được tính toán nghiêm túc theo mỗi năm, thuộc phạm trù của lịch âm.
Trong tứ trụ được đưa ra, những phân chia về ngày tháng năm được dùng cũng là lấy khi tiết làm tiêu chuẩn, chứ không phải là sự phân chia năm thống theo nông lịch hay công lịch thông thường. Trên đây đã đưa ra nguyên tắc cơ bản của tứ trụ, cho thấy tứ trụ được đưa ra không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lịch pháp mà vẫn giữ được tính chính xác của chúng. Điều quan trọng là lấy chu kỳ vận chuyển của một năm làm tiêu chí cho niên ký, phù hợp với quy luật khí tiết của sự biến đổi bốn mùa xuân -hạ – thu – đông, tuân thủ quan hệ nhân quả của vòng luân hồi thiên đạo, mà những điều đó đều là cơ sở lý luận của mệnh lý học.

No comments:

Post a Comment