LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Wednesday, November 2, 2016

Huyệt Mệnh Môn


Huyệt Mệnh Môn
     
  HÌNH ẢNH


TÊN HUYỆT
Thận khí là gốc của cơ thể. Huyệt nằm giữa 2 huyệt Thận Du, là cửa trọng yếu của sinh mệnh, vì vậy gọi là Mệnh Môn (Trung Y Cương Mục).

TÊN KHÁC
Mạng Môn, Thuộc Lũy, Tiểu Tâm, Tinh Cung, Tinh Thất, Trúc Trượng.

XUẤT XỨ
Giáp Ất Kinh.

VỊ TRÍ
Ở chỗ lõm dưới đầu mỏm gai đốt sống thắt lưng 2.

ĐẶC TÍNH
Huyệt thứ 4 của mạch Đốc.

TÁC DỤNG
Bồi nguyên, bổ Thận, cố tinh, chỉ trệ, thư cân, hòa huyết, sơ kinh, điều khí, thông lợi vùng lưng và cột sống.

CHỦ TRỊ
Trị vùng thắt lưng đau, yếu, cứng, đầu đau, lưng đau, lạnh từ ống chân trở xuống (chân dương (hỏa) hư), di mộng tinh, liệt dương, đái hạ, sốt không ra mồ hôi, tiểu đục, trẻ nhỏ lên cơn co giật, phong đòn gánh.

CHÂM CỨU
Châm kim chếch lên, luồn dưới mỏm gai, hướng vào khoảng gian đốt sống thắt lưng 2 – 3, sâu 0,3 – 1,5 thốn. Cứu 5 – 10 phút.

GIẢI PHẪU
• Dưới da là cân ngực – thắt lưng của cơ lưng to, chỗ bám của cơ răng bé sau – dưới, cơ gian gai, cơ ngang gai, dây chằng gian gai, dây chằng trên gai, dây chằng vàng, ống sống.
• Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh sống. Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D.11.

PHỐI HỢP HUYỆT
1.Phối Thận Du (Bq.23) trị tiểu nhiều, tiểu không tự chủ (Ngọc Long Ca).
2.Phối Thận Du (Bq.23) + Khí Hải (Nh 6) + Nhiên Cốc (Th 2) trị liệt dương (Loại Kinh Đồ Dực).
3.Phối Thận Du (Bq.23) trị người lớn tuổi lưng bị đau (Châm Cứu Tập Thành).
4.Phối Khí Hải (Nh 6) + Quan Nguyên (Nh 4) + Thiên Xu (Vi.25) trị Thận tả (Thần Cứu Kinh Luân).
5.Phối cứu Quan Nguyên (Nh 4) trị tiêu chảy do Tỳ, Thận bất túc (Thần Cứu Kinh Luân).
6.Phối Thần Khuyết (Nh 8) + Trung Cực (Nh 3) đều cứu 7 tráng trị bạch đới (La Di Biên).
7.Phối cứu Bá Hội (Đc.20) + Quan Nguyên (Nh 4) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Liêu (Bq.33) trị di tinh, tiểu dầm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
8.Phối Bàng Quang Du (Th 28) + Thận Du (Bq.23) + Thủy Đạo (Vi.28) trị Thận viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
9.Phối Cách Du (Bq.17) + Đại Chùy (Đc.14) + Khúc Trì (Đtr.11) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị thiếu máu do thiếu chất sắt (Châm Cứu Học Thượng Hải).

THAM KHẢO

• Thiên Thích Cấm Luận viết: “Châm vào giữa cột sống, trúng nhầm tủy sẽ bị còng lưng” (Tố Vấn 52, 23). “Thận bại, thắt lưng yếu tiểu gắt, ban đêm tiểu luôn khổ nhọc thần, Mệnh Môn nếu được kim vàng giúp, Thận Du cứu ngải khỏi truân chuyên” (Ngọc Long Ca). “Mệnh Môn, di tinh không tự chủ, cứu 5 tráng khỏi bệnh ngay” (Loại Kinh Đồ Dực). “Chứng tiêu ra máu, đã dùng nhiều phương pháp trị mà không có kết quả, chọn huyệt ở giữa cột sống, ngang với rốn, đè vào chỗ xương nhô cao lên có cảm giác đau, đó là huyệt (huyệt Mệnh môn), cứu 7 tráng là khỏi. Nếu tái phát, cứu thêm 7 tráng nữa, có thể khỏi hẳn... Tục truyền rằng, khi cơ thể lạnh, cứu ấm huyệt này cũng có kết quả tốt” (Loại Kinh Đồ Dực). “Sách Loại Kinh Đồ Dực viết rằng: “Châm vào quá sâu, trúng nhằm tủy sẽ làm tổn thương tinh khí ở trong cột sống lưng, vì vậy làm cho người ta bị co rút lại, không thể duỗi ra được”. Điều này cho thấy rằng châm sâu vào giữa Du huyệt ở giữa cột sống gây nên tác dụng phụ. Dựa vào thực tế lâm sàng, khi châm vào Du huyệt giữa cột sống có cảm giác như điện giật thì rút kim ra hoặc không được châm sâu thêm nữa” (Châm Cứu Học Từ Điển). “Chứng liệt dương nơi người lớn tuổi, dùng huyệt Mệnh môn rất hay nhưng nơi thanh niên hoặc trẻ nhỏ thì phải cẩn thận khi dùng, vì có thể làm cho hỏa bốc lên” (Trung Quốc Châm Cứu Học).


MỆNH MÔN - NIỀM TÂM ĐẮC CỦA HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG


Trong đông y học còn có các khái niệm: khí Tiên thiên, khí Hậu thiên. Khí Thiên tiên có năng lượng vượt xa các năng lượng khí hậu tiên là khí do thức ăn sản sinh ra. Hiện nay, trong vật lí hiện đại đã xuất hiện những cấu trúc có năng lượng rất cao. Mật độ cao nhất của vật chất đã biết là 10 luỹ thừa 14 gam trên một xăng - ti - mét khối. Đó là mật độ hạt nhân. Nhưng với cái vacuum (chân không vật lí) bí ẩn, thì các tính toán cho rằng mật độ của nó phải là 10 luỹ thừa 94 gam trên một xăng - ti - mét khối, nghĩa là bằng mật độ hạt nhân, nhân với một con số 1 kèm theo 80 con số 0... Và con 10 luỹ thừa 93 được xem là giới hạn nào đó trong vật lí học, tại đó sẽ có bao nhiêu sự thay đổi về vũ trụ quan...

Gần đây, viện sĩ Mackốp cho rằng mỗi electron (điện tử) cũng là một vũ trụ. Còn nhà vật lí lỗi lạc Uylơ cho rằng tất cả các điện tử chỉ là một điện tử. Ngoài ra, các tính toán của nhà vật lí học xuất sắc Okun cho thấy rằng để tạo ra một hạt tương tự như điện tử nhưng lại mang tính từ, thay cho tính điện - thường gọi là đơn cực từ - thì phải làm xáo động cả vũ trụ... Như vậy là vật lí học hiện đại đang giã từ không gian, thời gian bốn chiều đến các không gian khác có nhiều chiều hơn, như 10 chiều hay 11 chiều... Vật lí đang lái mình sang phương Đông.

Từ những kiến thức mới của vật lí học hiện đại, quan niệm về hai loại khí trong đông y học không phải là hoang đường! Dân tộc ta có một đại danh y, Cụ Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác. Cụ là người có tầm tư tưởng lớn của thời đại, chưa nói đó là khuôn mặt lớn về lương tâm người thầy thuốc. Cụ hiểu con người là một tiểu vũ trụ một cách rất sâu sắc. Cụ đã nghiên cứu một khái niệm hết sức khó hiểu, để lại một dấu hỏi lớn trong Nội Kinh là khái niệm Mệnh Môn. Theo cụ, với tư tưởng cơ bản trên về con người, cụ khẳng định rằng "Mệnh Môn là thiên tiên Thái cực trong thân người"... Nó nằm giữa hai quả thận và điều khiển mọi tiềm năng năng lượng và nhiệt năng của con người.




Mệnh là sinh mệnh chứ không phải là số mệnh hoặc định mệnh đã có thời từng làm cho người ta sợ... không dám nói đến niềm tâm đắc của Cụ. Niềm tâm đắc này đã cho phép Cụ sáng tạo ra bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, gồm 28 tập, 66 quyển. Những nghiên cứu về ngoại cảm sau này, không thể đặt ra ngoài thuyết Mệnh Môn của Hải Thượng Lãn Ông. Đến một lúc nào đó, chúng ta phải đưa một tài năng như thế, một tâm hồn như thế, một khuôn mặt y học lớn như thế lên địa bàn xứng đáng của khoa học thế giới.

Cụ đã nhắc khái niệm Mệnh Môn ở nhiều nơi trong các tác phẩm của Cụ: Đại Lưu Dư Vận, Y Hải Cầu Nguyên, Y Gia Quan Miên, Huyền Tẩn Phát Vi.

Cụ viết (Y Gia Quan Miên): "Thận giữ chức năng tác cường, tàng tinh và chí. Thận chủ xương, dẫn khí thông vào cốt tuỷ, nó là các bể chứa khí huyết, là nơi nương tựa của tinh thần, và là căn bản của sinh mệnh. Có hai quả cật nằm song song với nhau áp sát ở hai bên xương sống, ở giữa là Mệnh Môn, tức là Thiên tiên Thái cực trong thân người. Mệnh Môn có thể sánh ngang với Tâm, đều là quân chủ, không có hình thể để nhìn thấy, nó gọi là Hoàng Đình, là nơi tàng tinh của nam giới, và là chỗ liên hệ bào cung của nữ giới. Các nhà Đạo dẫn thì gìn giữ để tu luyện, người thường thì thuận theo sự phát dục để đẻ sinh ra người".

Cụ lại viết (Huyền Tẩn Phát Vi): "Chính ở chỗ bên đốt sống số 8, có một quả tiểu tâm, bên tả là một quả Thận thuộc Âm Thuỷ, bên hữu là một quả thận thuộc Dương Thuỷ, đều cách ra ngang một thốn 5 phân, khoảng giữa là cung Mệnh Môn... Nguyên Dương, Long Hoả, Chân Dương, đều là tên riêng của Mệnh Môn."

Cụ còn viết (Y hải cầu Nguyên): "Trong nhân thể, trái tim sánh với quẻ lysinh ra huyết, là trong dương có âm, tức là Chân Âm. Quả Thận sánh với Quẻ Khảmsinh khí, là trong Âm có Dương, tức là Chân Dương (Mệnh Môn Hoả)...

Như thế, Cụ đã nghiên cứu rất sâu sắc khái niệm Mệnh Môn một cách rất độc đáo. Và tính độc đáo của Cụ còn nằm ở chỗ đã đặt được Mệnh Môn vào một cấu trúc quan trọng nhất của nhân thể là Thận và đã sử dụng được hai Quẻ Ly, Khảm làm biểu tượng cho Tâm, Thận. Và còn nhiều hơn thế nữa...


Mệnh môn có các nghĩa sau đây:
Mệnh môn là quả thận bên phải. Theo Nạn Kinh Tập Chú: "Tả giả vi thận, hữu giả vi mệnh môn. Mệnh môn giả, chư thần tinh chi sở xá, nguyên khí chi sở hệ." (Bên trái là thận, bên phải là mệnh môn. Mệnh môn là nhà của tinh là các thần, là chỗ ràng buộc nguyên khí).

Mệnh môn là trung điểm giữa thận trái và thận phải. Huỳnh Đình Kinh Bí Nghĩa của Lãnh Khiêm giảng: "Tả hữu tương đối, trung hư nhất khiếu vi mệnh môn, tức sinh môn." (Thận trái và thận phải đối xứng nhau, khoảng trống ở giữa là một cái khiếu tên mệnh môn, cũng gọi là sinh môn). Sinh môn thì Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh xác định vị trí: Tự tề hậu tam thốn (sau rốn 3 thốn).

Mệnh môn là hai mắt. Hoàng Đế Tố Vấn Linh Khu Kinh giải: "Thái Dương căn vu Chí Âm kết vu mệnh môn. Mệnh môn giả mục dã." (Thái Dương gốc ở Chí Âm và liên kết ở mệnh môn. Mệnh môn là hai mắt vậy).

Theo kinh điển Đạo giáo, cụ thể là Huỳnh Đình Kinh, mệnh môn (hoặc sinh môn) được đề cập trong Nội Cảnh với ý nghĩa là rốn.

Theo phép xem tướng mặt, mệnh môn là hai lỗ tai.

NHỜ TẬP THỞ MỆNH MÔN ĐÃ TỰ CỨU CHỨC NĂNG THẬN PHỤC HỒI TRỞ LẠI BÌNH THƯỜNG KHÔNG CẦN MỔ
Hoa bị bệnh hư thận đã được thay thận, nhưng hai năm qua cô nói thận không ‘’work’’, vì khi thử máu và nước tiểu, protein vẫn cao trên 10, vẫn phải chích và uống thuốc để giúp thận làm việc, vì thế bị phản ứng thuốc khiến cơ thể càng ngày càng mệt mỏi suy nhược. Bác sĩ có đưa ra giải pháp thay lại thận khác, nhưng ông nghĩ, đã được thay thận tốt mà không ‘’work ’’ thì chưa chắc thay thận lại lần nữa sẽ tốt hơn, khiến ông đắn đo cân nhắc, và Hoa phải mất thêm một thời gian chờ đợi .
Sức khỏe của cô càng mệt mỏi suy nhược, không thể ngồi lâu hơn 15 phút, lúc nào cũng phải nằm, tuổi còn trẻ, tương lai trước mắt theo mơ ước không lẽ là ảo ảnh, hạnh phúc gia đình có thể b ịảnh hưởng nếu không thể sinh con được do qủa thận không làm việc thì còn gì là tương lai, mỗi lần nghĩ đến khiến cô lo lắng không vui. Có người thân gìới thiệu cô liên lạc với Hội Khí Công xem có thể giúp đỡ được gì không.
Cô đã liên lạc xin được một cái hẹn và cô sắp xếp đến Montréal một tuần điều trị. Hai vợ chồng cô lái xe, cô phải có một ghế nằm trong suốt đoạn đường dài. Sáng thứ bảy, chồng Hoa đón tôi đến nhà. Tôi hướng dẫn cho chồng cô biết cách giúp cô tập thở khí công để giúp thận dương chuyển hóa. Hoa nằm úp, chồng cô đặt hai bàn tay trên lưng dưới, đối diện với rốn, gọi là vùng huyệt Mệnh môn, cứ mỗi lần cô thở ra, chồng cô đè hai bàn tay ấn xuống theo hơi thở, khi hít vào thả lỏng để thận lại phình lên, cứ theo hơi thở để kích thích thận phình lên xẹp xuống tạo ra một cộng hưởng đều đặn 3000 lần, mới đầu hơi thở ngắn nhanh, từ từ hơi thở sâu, đều, chậm.
Cách thở này khí công gọi là thở bằng thận làm tăng cường chức năng của tuyến thượng thận, giúp thận chuyển hóa, chữa được các bệnh về áp huyết, đau lưng thận, mệt mỏi, tiểu đường, đái đêm, nước tiểu nhiều protein, tăng creatinine-huyết, sạn thận.. Phải đè ấn và nâng trên huyệt đều đặn theo hơi thở cho đồng bộ, đừng trật nhịp. Sau 3000 hơi thở, Hoa cảm thấy khỏe, khi ngồi dậy không cảm thấy mệt mỏi đau lưng như trước.
Hai vợ chồng Hoa mời tôi đi ăn bữa cơm trưa tại tiệm ăn, Hoa ngạc nhiên khi cô ngồi lâu ở tiệm ăn không cảm thấy cơ thể có bệnh. Theo lời mời của tôi hai vợ chồng Hoa đến tham dự lớp khí công buổi chiều để có thêm kiến thức hiểu biết về cách chữa bệnh bằng khí công tự điều chỉnh chức năng hoạt động của nội tạng.
Hoa hỏi tôi xem liệu sức khỏe cô có cho phép cô ngồi lâu trong lớp không?
Tôi nói : Không sao, cứ thử xem để biết kết qủa tập thở khí công vừa qua có thể giữ cho cơ thểđược khỏe bao lâu.
Quả thật, Hoa tham dự lớp học, ngồi trong lớp từ 2 giờ đến 6 giờ chiều mà không thấy mệt mỏi. Thay vì hai vợ chồng Hoa dự định ở lại Montréal một tuần, nhưng chồng Hoa giúp cô tập thở thêm hai lần vào buổi chiều và tối thấy khỏe hẳn, hết mệt mỏi, hai vợ chồng cô lấy làm tự tin ở phương pháp này nên sáng hôm sau quyết định trở về Mỹ.
Mặc dù Hoa cảm thấy khỏe như không còn bệnh, nhưng Hoa vẫn muốn dựa vào kết qủa cuối cùng khi thử máu và nước tiểu mới tin là phương pháp này thành công. Hai tháng sau Hoa viết thư cho tôi báo tin mừng kết qủa thử máu và nước tiểu, protein từ trên 10 xuống còn 3,4.
Hoa khỏe mạnh hơn xưa, sáu tháng sau hai vợ chồng Hoa báo tin cô đã có thai được 4 tháng, vẫn tiếp tục tập thở thận, hy vọng của vợ chồng Hoa bây giờ là chờ sinh được một cháu bé khỏe mạnh thông minh. Cuối cùng cả gia đình vui mừng đón nhận một cháu gái xinh xắn, bụ bẫm, thông minh, Hoa đã sung sướng trở thành một người mẹ như cô hằng mơ ước.













No comments:

Post a Comment