LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Wednesday, November 9, 2016

Hệ Thần Kinh Tự Quản



Thầy Thích Thông Triệt
MỞ ĐẦU
Thế giới đã và đang thay đổi trong nhiều lãnh vực: (1) những phương tiện truyền thông, (2) những cải thiện về tâm lý học, (3) những phát minh mới của khoa học về các lãnh vực không gian, não học, y học, dược học, miễn nhiễm học, sinh học, hóa học, vật lý học, xã hội học, v.v... Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, chúng tôi thấy rằng Thiền cũng cần thích nghi hóa theo sự tiến hóa của thời đại. Đó là chúng tôi mượn Khoa học để đối chiếu và chứng minh giá trị thiết thực của Thiền đối với đời sống con người trên các mặt thân, tâm, và trên trí tuệ tâm linh thuộc những lãnh vực, hoàn cảnh và môi trường sống khác nhau. Chỉ vì Thiền phục vụ con người tích cực hơn. Đó là nó không chủ trương đưa con người vào vòng tranh chấp lẫn nhau, sát hại lẫn nhau, và thù hận lẫn nhau; trái lại, nó chủ trương phục vụ con người trên mọi phạm vi tín ngưỡng, giai cấp, kiến thức, thành phần, và chủng tộc. Nó tạo ra sự cân bằng nội tâm con người, chuyển hướng cách nhìn của con người về hiện tượng thế gian bằng những cách thực tập với trọng tâm là điều chỉnh những chức năng các định khu vỏ não, hệ thống viền não, cuống não, và hệ thống tuyến nội tiết. Qua đó, trực tiếp hay gián tiếp, nó giúp nội tạng con người sẽ được hài hòa, thân tâm cân bằng, và trí tuệ tâm linh phát sáng.
Dựa vào sự kiện trên, chúng tôi xếp Thiền là một bộ môn khoa học như những bộ môn khoa học khác trên thế gian. Chúng tôi gọi là "Khoa học tâm linh thực nghiệm." Vì qua những cách thực tập đúng pháp, tức chủ đề, phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình, người thực hành sẽ kinh nghiệm:
  1. Nhân cách, đạo đức, nhận thức của mình sẽ từ xấu trở nên tốt và từ tốt sẽ trở nên tốt hơn. Ta hài hòa được vơi mọi người chung quanh. Ta không còn bệnh khen minh, chê người như trước nữa. Ta sống biết đủ, rộng lượng và bao dung người khác.
  2. Thân ta sẽ ngày càng khỏe mạnh hơn: ta có khả năng tự điều chỉnh bệnh tật trong nội tạng, như tim mạch, bao tử, đường ruột, tiểu đường, gan, thận..., và bệnh tật trong não bộ, như trầm cảm, mất ký ức, tâm thần phân liệt, liệt rung.
  3. Năng suất làm việc của ta sẽ ngày càng cao thêm.
  4. Tính sáng tạo hay những sáng kiến mới của ta sẽ ngày càng phát huy cao hơn.
Chính 4 nền tảng này là nhu cầu cần thiết và căn bản cho các lãnh vực an ninh, trật tự, và thân ái trong toàn bộ sinh hoạt của con người trong các từng lớp xã hội khác nhau.
Đây là lý do bài Hệ Thần Kinh Tự Quản (HTKTQ) được soạn ra với chủ đích trợ duyên cho những vị thích thực hành thiền mà có tinh thần khoa học và có tinh thần phục vụ người khác qua chính kinh nghiệm của mình. Ngày nay, thực hành thiền, chúng ta cần có đầu óc thực tiễn: không mơ mộng viễn vông, không vẽ ra một chân trời lý tưởng cao siêu mà mãi mãi chúng ta không làm sao đạt tới. Ở lớp Căn bản, chúng ta chỉ cần xây dựng nền mống kiến thức và hiểu biết về vấn đề chúng ta đang tiến hành cho vững chắc. Đó là chúng ta nắm vững chức năng và tác dụng của hệ Thần kinh Tự quản đối với việc thực hành thiền. Đây là để chúng ta nhận ra rõ ràng vì sao có người thực hành thiền họ đạt được kết quả tốt cho thân-tâm và nhận thức, vì sao có người thực hành thiền lâu năm mà nhận thức họ không chuyển đổi, tâm chẳng chuyển hóa, thân chẳng trừ được bệnh tâm thể; trái lại, còn tăng cao thêm nữa, như huyết áp, máu mỡ, tai biến mạch máu não, động mạch vành tim, ruột, gan, thận không hài hòa, mất ngủ, trầm cảm, tiểu đường, mất ký ức, vân vân. Từ đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh sự dụng công sai lầm bằng những kỹ thuật thực hành hợp lý. Với những kỹ thuật này, chúng ta có khả năng kiểm soát huyết áp, kiểm soát đường trong máu, ngăn ngừa tai biến mạch máu não, và ngăn ngừa bệnh nội tạng có thể xảy ra. Hoặc nếu có mang bệnh tâm thể, chúng ta cũng có khả năng tự điều chỉnh, hoặc làm dịu bớt những thứ bệnh khác nhau do sự mất cân bằng của hệ Thần kinh Tự quản tạo nên. Thí dụ như bệnh về đường tiêu hóa, bệnh nhức đầu kinh niên, bệnh tim mạch...
Sau cùng, chúng ta có khả năng áp dụng các kỹ thuật thực hành trong Thiền để khai thác những chức năng đặc biệt của Thần kinh Tự quản, làm cho nó cân bằng. Khi nó cân bằng, cơ thể sẽ khỏe mạnh, thân-tâm sẽ thực sự hài hòa với nhau. Qua đó, đường Thiền mà chúng ta đang đi, chúng ta có khả năng kinh nghiệm được từng phần về mục tiêu mà chúng ta nhắm tới lúc ban đầu, như thân khỏe mạnh, tâm thanh thản, và trí tuệ sáng suốt. Còn thực hành thiền mà thân cứ đau, tâm cứ dính mắc, óc sáng tạo không phát huy, chúng ta cần xét lại chiêu thức hay kỹ thuật mà chúng ta đương sử dụng. Nếu nhận ra sai lầm từ chỗ nào, chúng ta cần can đảm sửa chữa ngay tức khắc. Đời quá ngắn. Chúng ta không đùa giỡn với việc dụng công sai lầm. Chúng ta cần sửa sai để không làm uổng phí đời thực tập của chúng ta.
An lạc và thanh thản trong cuộc sống bình thường của con người, phần lớn được xây dựng trên sự chuyển đổi nhận thức và hài hòa hay cân bằng thân-tâm của cá nhân. Nhận thức của cá nhân mà không chuyển đổi, thân và tâm sẽ không bao giờ hài hòa/cân bằng với nhau. Từ đó phiền não và đau khổ vẫn sẽ gắn liền trong cuộc sống hằng ngày của ta. Ta cũng sẽ không bao giờ tìm thấy niềm vui thật sự trong gia đình, trong sở làm, và trong bè bạn.
Bằng những Pháp thực hành đúng kỹ thuật trong Thiền, ta sẽ kinh nghiệm được an lạc, hạnh phúc chân thật và lâu bền, an ninh và trật tự xã hội được bảo đảm. Đây là mục tiêu lý tưởng mà người thực hành ở cấp căn bản cần có kinh nghiệm.
Pháp của Phật và lời dạy của chư Tổ đều đúng, chỉ có ta áp dụng sai kỹ thuật hay không biết kết hợp với kỹ thuật, mới đưa đến thân-tâm không hài hòa với nhau, nhận thức không chuyển đổi, đạo đức sa đọa.
Để giúp quí vị sơ cơ đi vào Thiền biết rõ tác dụng chức năng của hệ Thần kinh Tự quản trong việc dụng công theo Thiền, Bài Đọc Thêm này được soạn ra. Quí vị cần biết những liên kết giữa hệ Thần kinh Tự quản và các kỹ thuật dụng công để tránh trường hợp dụng công đưa đến gây hại cho tâm trí và nội tạng mà ta không biết.

ĐẠI CƯƠNG
Hệ thần kinh Tự quản (HTKTQ) là một phần của hệ thần kinh ngoại biên. Nó là phương tiện để cơ thể biểu lộ những trạng thái xúc cảm (emotional states) và sự nhận biết (awareness) của chính mình. Nó gồm Giao cảm thần kinhĐối giao cảm thần kinh. Khi Giao cảm thần kinh bị hoạt hóa (activated) trong việc đáp ứng (response) thích hợp về những sự thay đổi môi trường chung quanh, nó tiết ra chất sinh hóa học (biochemical substances) để cơ thể thích ứng trước tình thế theo sự phản ứng tâm lý xúc cảm tạo ra. Trong lúc đó Đối giao cảm hoạt động liên tục để điều hợp nhiều cơ quan trong cơ thể, tạo ra sự điều hòa trạng thái sinh lý của nội tạng như tiêu hóa, bài tiết, và tim mạch.
Cả hai hoạt động để duy trì sự cân bằng bên trong cơ thể làm cho chúng ta được khỏe mạnh, nhưng nếu vì lý do nào đó, tâm chúng ta căng thẳng, quá căng thẳng, như sợ hãi, giận dữ, lo âu, xúc động, sự cân bằng không còn bình thường nữa. Lúc bấy giờ những chất sinh hóa học liên hệ đến trạng thái tâm căng thẳng sẽ tiết ra làm cho cơ thể mất cân bằng. Bệnh bên trong nội tạng (inner organs) sẽ có cơ hội phát sinh. Bằng sự thực hành Thiền đúng kỹ thuật, ta sẽ biết cách điều chỉnh những rối loạn chức năng bên trong cơ thể, đưa đến thân khỏe mạnh và tạo ra sự hài hòa thân tâm và môi trường chung quanh.
Ý NGHĨA
"Autonomic" ("tự quản") xuất nguyên từ tiếng Hy Lạp là "autonomia," có nghĩa "độc lập." Do đó, "tự quản" có nghĩa "tự quản lý hay tự điều hành theo qui luật riêng mà không có tri thức tham dự." Vì thông thường chúng ta không thể kiểm soát những hoạt động của tim, phổi, huyết áp, mạch máu, hay các tuyến (glands) và sự vận động thức ăn qua đường tiêu hóa. Có nghĩa những bộ phận nội tạng tự hoạt động mà ta không biết những tiến trình hoạt động của chúng như thế nào. Mặt khác, nó cũng được hiểu là hệ thần kinh "không ý chí." Vì thế, hoạt động tự quản thường được xếp vào loại hoạt động không do ý chí điều khiển. Ta không thể ra lệnh những bộ phận nội tạng theo lệnh của ta. Nó hoạt động ít hay nhiều do sự tự động bên trong cơ thể qua những sự tương tác lẫn nhau (interactions) của các bộ phận bên trong cơ thể. Chúng ta cũng không biết hoạt động của nó như thế nào vì nó được cấu tạo bên trong cuống não, phần dưới của não bộ. Đây là nơi những hoạt động chủ yếu là ngoài tri thức hay ngoài ý thức biết.
ẢNH HƯỞNG
Ngày nay nhờ sự khám phá của các nhà khoa học thần kinh, chúng ta biết thêm rằng ngoài sự tự quản lý, tự hoạt động của nó, mặt khác hệ Thần Kinh Tự Quảng cũng chịu sự tác động hay bị ảnh hưởng bởi 4 cơ chế ý căn, trí năng, ý thức, và cơ chế tánh giác qua trung gian của khu Dưới Đồi (Hypothalamus). Ở mặt này TKTQ không đóng được vai trò độc lập như từ xưa nó đã được qui định trong nghĩa "tự quản trị" ("self-governing"); trái lại, phần lớn nó chịu ảnh hưởng sự tác động trực tiếp của Dưới Đồi (Hypothalamus). Dưới Đồi được xem như là "tuyến chủ" (the "Master gland") của hệ thống tuyến nội tiết, vì nó tác động đến vỏ não, đến hệ thần kinh tự quản, và đến hệ thống tuyến nội tiết mà bắt đầu từ tuyến Yên. Bên trong khu Dưới Đồi có chứa nhiều nhóm hạt nhân. Mỗi nhóm chứa những thần kinh dẫn truyền riêng biệt. Ngoài ra, nó đóng vai trò điều hợp các chất nước hóa học trong tuyến nội tiết và kiểm soát TKTQ. Rồi đến lượt nó, Dưới Đồi, lại nhận những tín hiệu niệm từ 4 cơ chế:
  1. Ý căn (suy nghĩ, tính toán; lý luận, xét đoán; biện luận),
  2. Trí năng (suy luận, vẽ vời, tưởng tượng),
  3. Ý thức (phân biệt, so sánh, hai bên) để tạo ra các loại tâm xúc cảm/xúc động như sân hận, lo âu, nghi ngờ, sợ hãi, và suy luận, suy đoán, vẽ vời, đặt điều, tưởng tượng khác nhau mà chủ thể là "cái ta dính mắc triền miên."
  4. Hoặc nó nhận những tín hiệu niệm từ cơ chế trí năng tỉnh ngộ, hay cơ chế tánh giác (chân tâm), chủ thể là "Ông Chủ" hay "Chân Ngã" để tạo ra những quá trình thanh thản, vắng lặng nội tâm, tỉnh giác, thầm nhận biết, tỉnh thức biết, nhận thức không lời. Nói chung, nó biểu lộ những sắc thái vọng tâm và chân tâm do "cái Ta"--khi đóng vai phàm, khi đóng vai thánh--tác động! Phần lớn sức khỏe con người--mà chính yếu là nội tạng--đều dựa trên những chức năng tác động của nó.
KHẢ NĂNG CỦA THIỀN
Hiện nay bằng phương pháp "thực hành y khoa tâm thể" (psychosomatic medical practice), người ta có thể điều chỉnh nhịp tim. Riêng thông qua Thiền (Quán, Chỉ, Định, hay Tuệ/Huệ), người thực hành có khả năng tạo ra sự hài hòa hay cân bằng được 2 hoạt động của Giao cảm thần kinh và Đối Giao cảm thần kinh. Khi 2 hệ này cân bằng, con người sẽ kinh nghiệm thân khỏe mạnh, tâm an lạc, trí tuệ sáng suốt trong nhiều lãnh vực. Chỉ vì cả 2 hệ thần kinh này đều chịu sự tác động của Dưới Đồi.
Hồi đáp sinh học trong Thiền được tạo ra dựa trên cơ sở này. Đó là ta dùng một trong những phương tiện của Thiền như Quán, Chỉ, Định hay Huệ/Tuệ để áp dụng các chủ đề liên hệ đến phương tiện dụng công qua 1 trong 5 giác quan. Lập tức 1 trong 5 giác quan đó liền tác động vào hệ thần kinh Tự quản, làm cho Giao cảm hoặc Đối giao cảm bị tác động...
Trên thực tế, phần lớn sức khỏe con người dựa trên nền tảng cân bằng hay không cân bằng của 5 hệ thống bên trong cơ thể:
  1. Một là hệ thống cấu trúc cơ thể và những chức năng của chúng, như xương, thịt, da, gân, dây thần kinh, mạch máu.
  2. Hai là những tiến trình sinh hóa học (biochemical processes) bên trong cơ thể do các chất hóa học trong các thức ăn, uống, hút xách, hít thở thấm nhập vào cơ thể qua các đường hô hấp và tiêu hóa.
  3. Ba là những thứ bệnh do truyền nhiễm và do môi trường ô nhiễm chung quanh gây tác động vào cơ thể.
  4. Bốn là những rối loạn chức năng của tế bào thần kinh do chúng bị nhiễm độc tố thức ăn/uống và do cá nhân vận dụng sai lệch chức năng của chúng để dụng công tu Thiền như tưởng tượng hay tập trung tư tưởng quá mức vào đề mục dụng công.
  5. Năm là những tiến trình xúc cảm của tâm phàm tục và những khuynh hướng tâm linh tạo nên.
Với xúc cảm của tâm phàm tục như chiến đấu, tranh tài, tranh giành, ganh đua, bực bội, bực tức, đố kỵ, ghen ghét, nghi kỵ, sợ hãi, lo âu, sầu khổ, oán hận, giận tức, hậu quả đưa đến là cơ thể không thể tránh được bệnh tật.
Với hoạt động của tâm linh, cơ thể sẽ tự nó chữa được bệnh và bảo vệ sức khỏe trọn vẹn cho nó. Ngoài ra, với hoạt động tâm linh, ta còn mang lại sự hài hòa xã hội, nơi mà ta đang sống trong đó. Sự hài hòa xã hội này chính là những mối hài hòa giữa cá nhân và gia đình, giữa cá nhân và bạn bè, giữa cá nhân và cộng đồng. Sự hoạt động tâm linh này chính là những cách thực hành các loại Thiền đúng pháp, đúng kỹ thuật. Qua đó người thực hành chẳng những có khả năng điều chỉnh bệnh tật của mình mà còn có khả năng phục hồi năng lượng sinh học (biological energy) bên trong cơ thể của chính mình.
Tóm lại, bằng 1 trong 4 phương tiện như Quán, Chỉ, Định, Huệ, và kỹ thuật thực hành của Thiền, ta có khả năng tạo ra sự hài hòa hay cân bằng bên trong cơ thể và phát huy trí tuệ tâm linh.
Sự bảo vệ sức khỏe của ta sẽ tốt hơn, nếu ta biết rõ hoạt động của Hệ thần kinh Tự quản để ứng dụng trong Thiền.
THÀNH PHẦN
Hệ Thần kinh Tự quản gồm những sợi thần kinh điều hòa hoạt động cơ trơn, cơ tim và các tuyến. Đường ly tâm của TKTQ chia ra đường giao cảm và đối giao cảm.
Đường giao cảm gồm những đường đi ra từ phần giữa tủy sống, nó đáp ứng sợ hãi, tình dục, "chiến đấu hay tháo chạy-fight or flight".
Đường đối giao cảm đi ra từ não bộ hay phần dưới của tủy sống và điều hợp những hoạt động bình thường của thân (xin xem hình dưới). Vì vậy đường đối giao cảm được gọi là "bộ phận nghỉ ngơi và hồi phục."
Đường hướng tâm của Thần kinh Tự Quảng tùy thuộc vào đường cảm giác nội tạng, nó mang thông tin hồi đáp đến trung tâm hợp nhất tự quản trong hệ Thần kinh Trung ương.
CHỨC NĂNG
Chức năng hệ thần kinh Tự quản như sau:
  1. Kiểm soát hoặc kích thích cơ nội tạng của cơ thể gồm mạch máu, tim, ruột, bao tử, bài tiết, và các tuyến nội tiết.
  2. Can thiệp vào cơ trơn và cơ bản là điều hòa cơ chế tiêu hóa, thở, tuần hoàn máu. Những tiến trình này không dưới sự kiểm soát bình thường của ý chí.
  3. Phần lớn, hệ Giao cảm tiết ra norepinephrine (viết tắt NE, cũng gọi là noradrenaline, viết tắt NA). Chất này theo máu đi vào ruột thượng thận làm tiết ra thêm norepinephrineepinephrine (viết tắt EN, cũng gọi là adrenaline). Cả hai chất này làm máu tăng áp suất, nhịp tim đập nhanh. Đặc biệt với sự tác động của epinephrine nó làm cho gan không giữ đường được và thoát ra, làm cho máu có đường. Tuy nhờ đó năng lực con người được tăng thêm, nhưng nhiều quá làm hại cơ thể. Cả hai chất NE và EN tạo ra chất béo trong máu, nếu tiết ra quá nhiều, làm cho cơ thể béo phì.
  4. Hệ Đối Giao cảm tiết ra acetylcholine (viết tắt: ACh) để làm dịu norepinephrine do hệ Giao cảm tiết ra và epinephrine từ ruột thượng thận tiết ra. ACh có tác dụng làm hạ đường trong máu và chất béo trong máu. Càng nhiều ACh, huyết áp càng hạ, máu mỡ hạ, người không bị bệnh béo phì, cơ thể linh hoạt, trí tuệ sáng suốt, phục hồi ký ức.
 

 ĐẶC TÍNH
Hệ thần kinh Tự quản luôn luôn hoạt động, mặc dù bất cứ lúc nào phần này có thể hoạt động trội hơn phần kia. Mỗi phần hoạt động đều do những sự xúc cảm/xúc độngthái độ yên lặng nội tâm. Nói theo tâm lý Phật giáo, nó bị ảnh hưởng bởi những thái độ tâm lý của cá nhân, như tâm phàm phu, tâm bậc thánh, tâm Phật, hoặc vọng tâm hay chân tâm. Thí dụ, lo âu, sợ hãi, sân hận, buồn chán, giận tức, thù hận, tập trung tư tưởng vào chủ đề hay đối tượng quá mức thì Giao cảm hoạt động. Thư giãn, thanh thản, bình thản, thư thái, an vui, hòa thuận, chánh niệm tỉnh giác, tĩnh lặng thuộc hoạt động của hệ Đối giao cảm.
Nó chuyển hướng máu đến những vùng cần hơn, làm chậm hay tăng nhịp tim, nhịp thở, điều chỉnh áp suất máu và thân nhiệt, và tăng hay hạ dịch vị bao tử. Hầu hết sự điều chỉnh này xảy ra chúng ta không ý thức biết hay chú ý đến được. Thí dụ, ít người cảm nhận khi con ngươi giãn ra hay động mạch co thắt như thế nào.
Cả hai hệ thần kinh đều ảnh hưởng đến các cơ quan bên trong cơ thể, nhưng cả hai đều hoạt động trái ngược nhau. Thí dụ, Giao cảm làm cho gia tốc nhịp tim trong khi Đối giao cảm làm hạ thấp nhịp tim. Tỉnh táo, dao động tâm quá mức, tỉnh thức ý thức là kích thích Giao cảm. Khi Giao cảm bị kích thích làm cho gan thoát ra chất đường máu là glucose. Khi Đối giao cảm bị kích thích làm cho gan tổng hợp hợp chất glycogen và giữ đường lại trong gan.
Giao cảm làm căng hoạt động thần kinh. Thí dụ như hoạt hóa cơ bắp bằng những sự tranh tài hay chiến đấu chống lại đối thủ hoặc trốn thoát kẻ địch hay bơi lội, chạy bộ, đi xe đạp đường xa, trượt tuyết, trượt băng, tắm hơi. Nói chung, khi cơ bắp quá căng thẳng, Giao cảm thần kinh hoạt động. Các môn thể thao làm căng cơ bắp như chơi quần vợt, đá bóng, bóng rổ, bóng chuyền, đấu võ, đánh kiếm, và các cuộc tranh tài trong Thế vận hội.
Những môn bơi lội, chạy bộ, chèo thuyền, đi thuyền buồm, trượt nước, nếu mỗi ngày đều tập, đều đưa đến căng thẳng thần kinh. Ngược lại, nếu chúng ta tập mỗi tuần hai hoặc ba lần thì không tạo ra căng thẳng thần kinh.
Trên phạm vi Thiền, hệ Giao cảm thuộc hoạt động của vọng tâm, do ý căn, trí năng, và ý thức khởi động; còn Đối Giao cảm thuộc phạm vi hoạt động của chân tâm, tánh giác, hay trí năng tỉnh ngộ, hoặc đơn niệm biết, chỉ biết, thầm nhận biết, tỉnh thức biết hay nhận thức biết không lời, hoặc Ộtự ngã thanh tịnh.Ợ Do đó, ta có thể nói, chức năng của hệ Đối Giao cảm ở mức bình thường là liên hệ đến kinh nghiệm tôn giáo, ở mức sâu sắc hơn, liên hệ đến kinh nghiệm tâm linh.
Thí dụ, khi ta tụng kinh, tụng chú, gõ mõ với nhịp điệu đều đều; tai nghe, chỉ biết nghe; mắt thấy; chỉ biết thấy; không thêm ý nghĩa gì trong lúc đó về nghe hay thấy, tức thì Đối giao cảm liền bị tác động.
Thành phần của hai Hệ Giao Cảm và Đối Giao Cảm
I. Hệ Giao Cảm gồm hai chuỗi dây thần kinh đi từ cột sống ra cơ thể đến các cơ quan khác nhau, cùng giống như hệ Đối giao cảm là con ngươi, tuyến nước bọt, và những cấu trúc khác mà chúng kiểm soát được như tim, động mạch vành tim, phổi, gan bao tử, mật, ruột non, ruột già, bọng đái, tuyến tụy, tuyến thượng thận, da, mạch máu ngoại biên. Chuỗi dây thần kinh này nằm trên 2 vùng của cột sống:
  1. Đốt sống ngực: gồm 12 đốt, nằm giữa đốt sống thắt lưng và đốt sống cổ; liên hệ đến: mắt (con ngươi giãn nở/mở rộng); nước bọt (khô); nước mắt (khô); phổi (thở bình thường); tim (làm tăng nhịp tim); gan (làm thoat ra đường (glucose) từ trong gan; bao tử (ngăn chận tiêu hóa); ruột non (làm cho bón); tuyến tụy (tiết ra glucagons); ruột tuyến thượng thận (tiết ra epinephrine và norepinephrine).

  2. Đốt sống thắt lưng: gồm 5 đốt, nằm ở giữa đốt sống ngực và xương cùng; liên hệ đến: ruột già, bàng quan (bọng đái = túi chứa nưóc tiểu).

    Bên trong sợi thần kinh tận cùng của giao cảm tiết ra thần kinh dẫn truyền (Xin coi phần Chú Thích số [1], ở trang 5) norepinephrine [2] (cũng gọi là noradrenaline). Chất này đi thẳng vào máu tạo ra sự kích thích hoạt động hăng say, đôi khi mù quáng, thiếu bình tĩnh, tay chân run rẩy. Khi bị hoạt hóa nó cũng kích thích tuyến thượng thận để làm thoát ra epinephrine [3] (cũng gọi là adrenaline). Ngoài ra, trong vài trường hợp ngoại lệ, tác động tuyến nước bọt và mạch máu ở cổ, mặt, và cơ xương, tế bào giao cảm cũng dùng acetylcholine như thần kinh dẫn truyền.

    Điểm quan trọng mà ta cần chú ý là đầu dây thần kinh tận cùng của hệ Giao cảm liên kết với tuyến thượng thận. Tuyến này nằm trên đỉnh của mỗi quả thận. Nó đóng vai trò quan trọng trong sự hoạt động của hệ Giao cảm đối với sức khỏe con người. Do đó, tuyến thượng thận cũng được xem là một phần của Giao cảm thần kinh vì bên trong ruột tuyến thượng thận tiết ra epinephrine.

    Khi tâm chúng ta bị những điều kiện bên ngoài kích thích đưa đến sự nổi sân, bực tức, sợ hãi quá mức, hay đương đầu với tình trạng khẩn cấp, hoặc đối phó những nguy cơ mà thiếu bình tĩnh, đó là lúc hệ Giao cảm hoạt động. Hai chất nước hóa học epinephrine và norepinephrine được dịp tiết ra để thích nghi hóa với tình trạng tâm lý xúc cảm hay xúc động của ta vào thời điểm đó.

    Nói chung, bất kỳ lúc nào, tâm trong trạng thái rối loạn, căng thẳng, bao gồm những sắc thái lo âu, sân hận, sợ hãi, kinh hoàng, gây hấn; chứng kiến những cảnh rùng rợn, thảm khốc, Giao cảm thần kinh hoạt động. Nhịp tim sẽ đập nhanh, huyết áp tang, đường trong máu tăng.

    Trong khi tập thể dục, bơi lội đường dài hay chạy bộ đường dài (marathon), hoặc những hoạt động cơ thể mãnh liệt trong các cuộc tranh tài trong Thế vận hội, bộ phận Giao cảm cũng làm tăng một số điều chỉnh khác. Mạch máu nội tạng co thắt, mạch máu tim và mạch máu cơ xương giãn ra. Điều này gây ra ngăn chặn máu cơ xương và đưa đến hoạt động mãnh liệt của tim. Cuống phổi giãn ra để tăng thông khí (ventilation). Đó là khí quản mở thông, dưỡng khí vào ra cuống phổi dễ dàng, và làm cho dưỡng khí chuyển đến tế bào cơ thể, đưa đến gan thoát ra đường vào máu để cung cấp cho sự tăng cường năng lượng cần thiết của tế bào cơ thể. Cùng lúc đó, những hoạt động không cơ bản, như đường dạ dày, ruột và đường di động nước tiểu tạm thời bị hãm lại, không chảy ra.

    Nó được xếp vào hệ thống Tỉnh Táo.
II. Hệ Đối Giao Cảm gồm một chuỗi dây thần kinh đi từ trong cuống não, gọi là thần kinh sọ não (Cranial nerve) và đường khác nằm phần dưới cột sống. Các nhà khoa học về thần kinh xếp số thứ tự các chuỗi dây thần kinh đi từ cuống não gồm các dây:
  • III (3) = Dây thần kinh vận nhãn (Oculomotor nerve). Dây thần kinh này liên hệ đến cơ mi, cơ mắt, đồng tử (con ngươi).
  • V (5) = Dây thân kinh tam thoa (Trigeminal nerve). Dây này liên hệ đến dây thị giác, và cơ nhai hàm trên và hàm duới.
  • VII (7) = Dây thần kinh mặt (Facial nerve). Dây này liên hệ đến tuyến nước bọt (hàm trên, hàm dưới), và tuyến nước mắt.
  • IX (9) = Dây thần kinh thiệt hầu (Glossopharyngeal nerve). Dây thần kinh này liên hệ đến lưỡi, họng.
  • X (10) = Dây thần kinh phế vị (Vagus nerve). Đây là dây thần kinh dài nhất. thần kinh này liên hệ đến tim (làm chậm nhịp tim), phổi (thở chậm lại), thanh quản (nở), khí quản (thắt), mạch máu (giãn trong ruột non và hậu môn), bao tử (kích thích tiêu hóa), túi mật (kích thích để tiết ra mật), tuyến tụy (kích thích để tiết ra insulin), ruột non, ruột già (đi tiêu dễ), bọng đái (thắt lại).
Đầu dây thần kinh của Đối Giao cảm thoát ra acetylcholine [4]. Chất này chống lại epinephrinenorepinephrine.
Hệ Đối Giao cảm đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa hệ thống tim mạch.
VAI TRÒ CỦA HỆ ĐỐI GIAO CẢM
Đối giao cảm hoạt động trong tình trạng không căng thẳng. Đôi khi nó được gọi là hệ thống "nghỉ ngơi và tiêu hóa." Lý do là hoạt động chính của nó là tiêu hóa và bài tiết phân và nước tiểu. (Điều này giải thích vì sao nghỉ ngơi sau bữa ăn là điều tốt nhất.) Hoạt động của nó được minh họa tốt nhất trong một người nghỉ ngơi sau bữa ăn chính và xem báo. Vì thế nó được xếp vào hệ thống Trầm Lặng. Khi "tâm ba thời" (gồm quá khứ, hiện tại và tương lai) không khởi, chỉ có "tâm ở đây và bây giờ" thì nó có mặt.
Nó làm chậm nhịp tim và giảm sức co thắt tim; nhịp tim và nhịp thở được điều hòa ở mức độ bình thường. Áp suất máu giảm, đi đến bình thường; máu đưa nhiều vào đường dạ dày ruột non làm hoạt hóa tiêu hóa thức ăn; hoạt hóa tuyến nước bọt; máu bơm lên não nhiều; da ấm; con ngươi co thắt lại; bảo vệ hệ thống miễn nhiễm.
Đối giao cảm phụ trách trạng thái yên lặng và thư giãn của tâm. Nói theo ngôn ngữ Thiền, nó chịu ảnh hưởng trí năng tỉnh ngộ, biết không lời, thầm nhận biết, tỉnh thức biết, tuệ trí không lời, nhận thức không lời, chân tâm, tánh giác hay "Ông chủ." Đối với kinh nghiệm tâm linh, nó đóng vai trò chính. Thí dụ, bằng những phương thức Thiền Định hay Thiền Huệ, ta có khả năng làm cho tâm trở nên yên lặng trong trạng thái Chỉ (Samatha) hay tâm định vững chắc, trong trạng thái Định (Samādhi).
Ngoài ra, trên phương diện kinh nghiệm tôn giáo, bằng sự tụng kinh, gõ mõ, trì chú, cầu nguyện, lần tràng hạt, niệm danh hiệu Phật, từ một người đến nhiều người cùng tụng trong một lúc, Đối giao cảm cũng bị tác động. Kết quả của sự tác động này giúp cân bằng chức năng thần kinh Tự quản. Chỉ vì trong lúc đó nội tâm người thực hành hoàn toàn không bị căng thẳng mà an tịnh. Trong trường hợp này tuy có niệm được phát ra, nhưng niệm đó không tác động trí năng méo mó, ý thức phân biệt, hoặc suy nghĩ tính toán. Trái lại, nó chỉ là một loại niệm với nhịp điệu đều đặn mà không mang ý nghĩa khêu gợi nội dung xung đột. Do đó, nó không tạo ra sự kích thích Giao cảm thần kinh mà kích thích Đối giao cảm.
Khi Đối giao cảm hoạt động, đưa đến đầu dây thần kinh tiết ra acetylcholine. Tác dụng của chất nước hóa học này làm cho áp suất máu, nhịp tim, và nhịp thở được điều hòa dưới mức độ bình thường; đường dạ dày ruột non hoạt hóa tiêu hóa thức ăn và da ấm; mắt khép lại, con ngươi co thắt lại, nước bọt chảy ra; trí nhớ phục hồi, trí năng linh hoạt, cơ thể nhẹ nhàng.
VAI TRÒ CỦA GIAO CẢM
Hệ Giao Cảm thường chỉ cho hệ thống chiến đấu hay tháo chạy ("fight-or-flight"), hoảng sợ (fright) và tình dục. Nó chịu ảnh hưởng của ý căn, trí năng, và ý thức. Trên nguyên tắc, hệ Giao cảm chịu trách nhiệm điều hòa nhiệt độ, thiết lập thái độ đối xử và gây hấn, giãn con ngươi, làm lông tóc dựng đứng và kiểm soát sự phân phối máu khắp cơ thể bằng cách giãn hay căng mạch máu. Khi một người hoạt động, nó phân phối máu để cơ thể và tứ chi nhận nhiều chất dinh dưỡng. Khi cơ thể hoạt động, hệ Giao cảm tác động tuyến mồ hôi làm tiết ra mồ hôi.
Nó cũng đóng vai trò biểu lộ tâm lý xúc cảm ngấm ngầm, ray rứt ("tùy miên"), những nỗi thống khổ, lo âu, sợ hãi, kinh hoàng, và căng thẳng thần kinh như xem phim ma, phim khủng bố, hội ngộ người yêu, sau nhiều năm xa cách, những trạng thái tỉnh táo quá mức, vui quá mức và đáp ứng những tình trạng khẩn cấp. Đặc biệt, khi một người thường xuyên lo âu và sợ hãi về điều gì, tuyến ức sẽ bị teo lại, đưa đến hệ miễn nhiễm bị hư.
Khi thường xuyên tập trung sự chú ý quá mức vào đối tượng, khi nổi cơn giận, bực tức, hoặc cáu kỉnh, phẫn uất, hay gây sự với người khác, mức độ norepinephrine tiết ra nhiều. Trong lúc đó sợ hãi, kinh hoàng, lo âu, xúc động thì epinephrine tiết ra. Năng lực của nó là chuẩn bị cho cơ thể hành động hay đối phó với vấn đề nghiêm trọng nào đó. Nó liên kết với não và tuyến thượng thận. Nhưng nó nhận tín hiệu từ Dưới Đồi. Dưới Đồi nhận tín hiệu từ ý căn, trí năng, hay ý thức. Nó hoạt động khi chúng ta bị kích thích hay đương đầu với tình trạng khẩn cấp hoặc nguy cơ. Tim đập nhanh; thở gấp hơn, sâu; huyết áp tăng; căng cơ bắp; da lạnh, đổ mồ hôi; và con ngươi giãn ra đó là dấu hiệu vận động của hệ giao cảm. Dấu hiệu này nếu thường trực kéo dài, đưa đến sự mất quân bình cơ thể, tạo ra nhiều chứng bệnh cho cơ thể như mất ngủ, cao máu, mệt mỏi, tim mạch, táo bón, và đặc biệt là tăng độ đường nhiều trong máu, cuối cùng đưa đến bệnh tiểu đường, bệnh suy nhược thần kinh, bệnh tim mạch, bệnh đường ruột.
TÓM KẾT
  1. Tự quản có nghĩa tự quản trị. Nó được hiểu là hệ thần kinh "độc lập." Hệ thần kinh Tự quản cung cấp liên tục và tự động kiểm soát những hoạt động nội tạng, điều hợp những chức năng bình thường của hệ thống tim mạch, tiêu hóa, bài tiết và tái sản xuất mà không cần sự cố gắng của ý thức.
  2. Được gọi là "tự quản" vì phần lớn những chức năng của hệ thần kinh này ngoài sự kiểm soát có ý thức của con người. Trong khi chúng ta có thể bằng ý muốn để kiểm soát cơ xương, trái lại, bằng ý chí để kiểm soát cơ bao tử và cơ tim thì không đạt được điều này. Phần này do thần kinh tự quản phụ trách.
  3. Tuy nhiên, hệ Thần kinh Tự quản luôn luôn bị tác động bởi Dưới Đồi (Hypothalamus). Và Dưới Đồi bị ảnh hưởng bởi 1 trong 3 Sắc Thái Biết: (1) Biết của Thức, (2) Biết của Ý, và Biết của Giác. Đây là điều chúng ta cần lưu ý. Do đó, bằng những phương pháp trong Thiền và kết hợp với kỹ thật thực hành, ta có khả năng kiểm soát đuợc hoạt động của hệ Giao Cảm Thần Kinh, làm cho hệ Đối Giao Cảm hoạt động tốt hơn. Qua dó, ta sẽ ra giá trị của Thiền đối với đời sống con người.
  4. Hệ Thần Kinh Tự Quản gồm tất cả tế bào thần kinh mang thông tin giữa hệ thần kinh trung ương và tất cả cơ quan bên trong cơ thể (các tuyến và cơ trơn như tim, và hệ thống tiêu hóa).

    Nó gồm 2 nhánh: Giao cảm và Đối giao cảm. Cả 2 phần này hoạt động hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng cả hai tham dự trực tiếp vào việc kiểm soát, điều hòa, và hợp nhất hoạt động cơ trơn, cơ tim và các tuyến trong cơ thể. Nó cần thiết cho những chức năng như thở và bảo đảm sự tuần hoàn máu. Nhưng nó cũng quan trọng trong kinh nghiệm khác nhau của các sắc thái xúc cảm.
    Sơ đồ Hệ Thần Kinh Tự Quản 
    Acetylcholine (ACh) là thần kinh dẫn truyền chính trong Đối giao cảm thần kinh. Trong lúc đó Norepinephrine (NE) là thần kinh dẫn truyền chính của Giao cảm thần kinh. Cả hai đối nghịch nhau.

  5. Giao Cảm bận rộn, hoạt hóa cơ thể khi bạn chiến đấu hay nổi sân, lo âu hay sợ hãi, xúc cảm mãnh liệt hay uất cảm (stress). Tác dụng của nó là làm tiêu hao năng lượng. Trong kinh nghiệm tranh chấp với đời, tranh chấp với đạo, nó đóng vai trò chính. Trong nỗ lực tối đa hay cố gắng tối đa để làm việc gì, hoặc xem thân này như chết rồi để dồn hết nỗ lực vào việc dụng công hành thiền, thì nó cũng đóng vai trò chính. Đó là nó tiết ra chất nước hoá học norepinephrine để kích thích ruột tuyến thượng thận. Càng kích thích, ruột tuyến thượng thận càng tiết ra 2 chất nước hóa học NE và EN. Cuối cùng đưa đến áp suất máu tăng, nhịp tim đập nhanh; hệ thống tuần hoàn máu đi lệch hướng từ bộ phận tiêu hóa đến não và cơ bắp; chất máu mỡ tăng, gan không giữ đường được; đưa đến lượng đường trong máu tăng và cuối cùng ta bị tiểu đường bị bệnh uất cảm (Stress), và những thứ bệnh tâm thể khác như cao máu, tiểu đường, liệt rung, mất ký ức, trầm cảm, vân vân.

    Giao cảm mang tín hiệu nói cho cơ thể biết là phải chuẩn bị để đối phó với tình trạng nguy cơ sắp xảy ra, để sẵn sàng hành động nhanh chóng hay để tích cực chống trả lại điều gì hoặc phản ứng lại những điều do ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) thu vào. Trong sự đáp ứng các thông tin từ giao cảm thần kinh, tim đập nhanh, thở nhanh, con ngươi mở rộng, và bao tử không làm việc (ngưng tiêu hóa, ăn không tiêu). Giao cảm cũng nói cho hệ nội tiết bắt đầu bơm chất nước hóa học vào dòng máu để tăng cường sức mạnh phản ứng của các sắc thái tâm hành hay tâm sở dưới dạng khẩn trương.

    Trong phần lớn những tiến trình sinh lý cơ thể đều do hệ giao cảm thần kinh đóng vai trò phân phối và tham dự khắp cơ thể. Lý do là sợi thần kinh Giao cảm liên kết với từng cơ quan nội tạng như tim, cuống phổi, bao tử, thận, tuyến thượng thận, ruột...Nó cũng liên kết với tuyến mồ hôi, mạch máu ở phần ngoại biên cơ thể. Chính vì thế nó cũng chịu phần nào trách nhiệm gây ra bệnh tật cho nội tạng, thí dụ như loét bao tử, cao máu, ung thư. Nhưng ngược lại, chính nó có khả năng điều chỉnh bệnh nội tạng tức thời và lâu dài, như hạ huyết áp, chữa tiêu chảy, giảm loét bao tử, trừ hen suyễn, cảm cúm... nếu ta biết cách sử dụng nó trong việc Thở chữa bệnh theo Khí công.
  6. Đối Giao Cảm cũng liên lạc cùng cơ quan như Giao Cảm, nhưng nó gây ra hiệu ứng trái ngược, thay vì gây hại, nó làm lợi cho nội tạng; thay vì tiêu hao, nó bảo tồn năng lượng. Nó làm cho cơ thể nghỉ ngơi sau khi căng thẳng thần kinh. Nó phục hồi sức khỏe cho cơ thể. Trong kinh nghiệm tôn giáo qua trạng thái tụng kinh, trì chú, niệm Phật, cầu nguyện, với nhịp điệu đều đặn và kinh nghiệm tâm linh, nó đóng vai trò chính. Nó làm cho nhịp tim đập bình thường, cơ bao tử thư giãn, tiêu hóa bình thường, thở chậm xuống. Khi nó hoạt động, con ngươi thu nhỏ lại, mắt tự động khép-mở, nước bọt chảy nhiều và loãng. Nó tiết ra ACh để chống lại NE và EN. Nó bảo tồn năng lượng và nhiên liệu cho cơ thể. Nhờ thế, máu mỡ và đường trong máu được hạ thấp xuống.
  7. Tuy đối nghịch với nhau: một tĩnh, một động; hễ hệ này tăng thì hệ kia giảm, nhưng cả hai hệ giao cảm và đối giao cảm đều tương tác với nhau trong hoạt động đều đặn hằng ngày của con người. Trái lại, nếu không ý thức đúng vai trò của riêng hai hệ Giao cảm và Đối Giao cảm, ta có thể tham dự vào những hoạt động làm tăng cường sự hoạt động thường trực của hệ GC trong trạng thái tỉnh táo quá mức. Kết quả ta sẽ bị bệnh tâm thể hay bệnh uất cảm do chất nước hoá học được tiết ra từ Giao cảm thần kinh. Thí dụ, khiêu vũ, chạy bộ đường dài, bơi lội đường xa, cử tạ, làm việc bằng trí óc hay tay chân quá sức. Đặc biệt trong khi thực hành thiền, nếu ta cố gắng quá mức vào chủ đề dụng công như đì thân qua cách điều thân, đì tâm qua cách tập trung tư tưởng vào đề mục đến độ căng thẳng thần kinh (như mèo rình chuột) cũng đưa đến bị bệnh tâm thể, vì ta đã vô tình kích thích hệ Giao cảm thần kinh.

    Có nhiều mức độ kiểm soát và hợp nhất bên trong cột sống và cuống não. Phản ứng nội tạng trong cột sống và phía dưới cuống não cung cấp đáp ứng tự động để kích thích riêng biệt có thể ngăn chận hay làm dịu, hoặc làm cho dễ dàng là do những trung tâm cao cấp bên trong giữa não, đặc biệt là Dưới Đồi, tức Hypothalamus. Trong đó vai trò chính là Tự ngã/Ta/Tôi/Chúng ta. Ta là Nhạc trưởng và cũng chính ta là người thưởng thức những khúc nhạc do ta điều khiển 6 tay chơi nhạc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
  8. Trong những người mà Giao Cảm thường hoạt động thì miệng khô, bàn tay ướt (palms moist), tim đập nhanh cho dù trong lúc nghỉ ngơi. Còn người mà Đối Giao Cảm thường hoạt động tim đập chậm, hệ thống tiêu hóa hoạt động tốt.
Để quí vị có khái niệm tổng quát về hoạt động của Đối Giao Cảm Thần Kinh và Giao Cảm Thần Kinh, chúng tôi lập sơ đồ dưới đây:
Đại cương tác dụng Đối Giao Cảm và Giao Cảm thần kinh vào nội tạng
CHÚ THÍCH
  1. Thần kinh dẫn truyền (Neurotransmitters) = Nhóm chất nước hóa học của tế bào thần kinh dùng để truyền đạt thông tin hay mang tín hiệu từ tế bào thần kinh này đến tế bào thần kinh khác trong não. Nó hoạt hóa hầu hết tế bào não (neurons). Khả năng cảm thấy, cảm nhận, suy nghĩ, di động, hành động, và phản ứng đều tùy thuộc vào sự cân bằng hay mất cân bằng của thần kinh dẫn truyền trong hệ thống thần kinh.

    Tùy theo cấu trúc chất nước hóa học căn bản bên trong tế bào thần kinh, các nhà não học xếp nhiều loại thần kinh dẫn truyền: Norepinephrine, Epinephrine, Acetylcholine, Dopamine, Serotonin, và Histamine.

    Nhưng phần lớn những cơ quan của cơ thể nhận hai chất acetylcholine và norepinephrine. Đó là thông qua sự biểu lộ 1 trong 2 sắc thái vọng tâm và chân tâm, duới sự có mặt của "tự ngã thanh tịnh" hay "tự ngã dao động."

  2. Norepinephrine: Chất nước hóa học được tiết ra từ tận cùng dây Giao cảm thần kinh và cũng được mang từ thùy trước tuyến yên, nơi đây nó làm thoát ra chất nước hóa học tên "ACTH" 
    (Adrenocorticotrophic hormones). Chất này là một loại hormone (nội tiết tố) có chức năng kéo dài đáp ứng uất cảm (stress). Khi tiết ra, nó theo máu, truyền đến ruột thượng thận (Adrenal medulla). Nơi đây, ruột thượng thận tiết ra thêm norepinephrine và epinephrine. Cả hai chất này làm tim đập nhanh, máu tăng áp suất. Ở cuống não, nhân lục (locus coeruleus) cũng có sản xuất nhiều norepinephrine. (Xem hình phải)

    Nó cũng có từ trong ruột tuyến thượng thận. Khi tiết ra, nó theo máu, truyền đến trung khu thần kinh, tạo ra sự rối loạn tâm, đặc biệt là bệnh buồn chán cực độ, gọi là bệnh "trầm cảm." Khi sân hận, cáu kỉnh, bực tức, tỉnh táo, tỉnh thức ý thức, từ đầu dây thần kinh tận cùng của Giao cảm thần kinh, norepinephrine được tiết ra.

    Chức năng của norepinephrine (NE):
    • Làm tăng chất béo trong máu;
    • Gây ra rối loạn tâm;
    • Nếu quá nhiều NE, có khả năng đưa đến bệnh trầm cảm (depression) và bệnh mất khả năng xét đoán: khi vui, khi buồn quá mức, đôi khi có những ảo giác phô trương về cá nhân mình có những tài năng đặc biệt nào đó, gọi là loạn tâm thần hưng cảm (manic-depressive psychosis).
    • Ngoài ra, nó không những làm cho huyết áp nâng cao mà còn làm cho tĩnh mạch co thắt. Nhưng nếu tiết ra ít, nó sẽ giúp ích cho việc học được phát triển và ký ức hoạt động tốt.

  3. Epinephrine: Chất nước hóa học được tiết ra từ bên trong ruột tuyến thượng thận (chất khác là norepineprine) trong việc đáp ứng tín hiệu từ Giao cảm thần kinh của hệ thần kinh tự quản. (Ruột tuyến thượng thận tiết ra khoảng 75-80% là epinephrine, số còn lại là norepinephrine).
    Nguyên nhân Epinephrine tiết ra do:
    • Đáp ứng Uất cảm (Stress) như căng thẳng thần kinh về công việc gì;
    • Do tập luyện quá sức chịu đựng của cơ thể;
    • Do xúc cảm sợ hãi và lo âu;
    • Do đáp ứng trước tình huống nguy kịch làm căng thẳng Giao cảm thần kinh.
    Nhiệm vụ:
    • Epinephrine tác động cơ tim (cardiac muscle). Làm cho nhịp tim tăng: đập nhanh hay hồi họp. Nếu quá nhiều epinephrine tiết ra, nó có khả năng gây trụy tim (cardiogenic shock). Đây là trạng thái máu từ tĩnh mạch trở về tim bị giảm đột ngột. Vì vậy, khi sợ hãi xuất hiện, epinephrine liền tiết ra nhiều và làm cho tim đập nhanh hơn, mặt xanh, có cảm giác tay chân lạnh.
    • Khi sân hận cả hai chất epinephrine và norepinephrine đều tiết ra. Cả hai chất này đều là chất béo (lipid), tạo ra máu mỡ. Khi sợ hãi và lo âu, hoặc có trạng thái tâm lý như chạy trốn điều gì, cơ thể con người bị tiêu hao năng lượng.
    • Epinephrine từ ruột thượng thận hoạt hóa số lượng cần thiết cho sự điều chỉnh bên trong trạng thái tâm lý xúc cảm gây nên. Nó đưa đến thân nhiệt tăng, đường trong máu xuống thấp mức bình thường, thở ngắn.
    • Nếu người lo âu hay hoảng sợ cảm thấy cần được giúp đỡ để điều chỉnh hoàn cảnh đang lâm vào tình trạng nguy kịch, thần kinh họ vẫn còn căng thẳng, nhưng nếu họ được giúp đỡ hay giải quyết được tình trạng khốn khó, thần kinh bắt đầu được cân bằng. Bằng phương pháp Thở Hai Thì, ta có thể tạo ra sự cân bằng thần kinh ngay tức khắc. Qua đó, huyết áp sẽ hạ, máu mỡ hạ, đường trong máu hạ, và cuối cùng đường trong máu, máu cao, và máu mỡ sẽ trở lại bình thường.
      Tiêu hóa dừng lại; đường vào trong máu; máu có thể trở thành cục nghẽn (clot)

  4. Acetylcholine (ACh). Chất này được tiết ra từ nhiều nơi trong cơ thể. Nó là chất tổng hợp của 2 chất cholineacetylcoenzyme A. Nó có trong tế bào não vùng vận động ở vỏ não và đầu dây tận cùng của Đối Giao cảm thần kinh. Đặc biệt, acetylcholine cũng được tiết ra từ Giao cảm thần kinh để nó kích thích tuyến mồ hôi. Ngoài ra, ở giữa não thuộc Đồi Thị, như Hạt nhân Vách Trong (Medial Septal Nucleus), và Dưới Đồi, như Hạt nhân Nền ("basal nucleus"), và Hạch Phức Hợp ở vòm Cầu Não (Pontomecencephalo-tegmental complex) cũng có chứa ACh.
    (Xem hình phải) Chức năng của acetylcholine:
    • Phục hồi ký ức hay tăng cường ký ức và học hỏi. Bệnh từ lần mất trí nhớ, chức năng trí năng bị giảm, và năng lực nhận thức từ lần kém đi, quen gọi là bệnh "Alzheimer" là do thiếu acetylcholine ở vỏ não; trái lại, quá nhiều cortisol, đưa đến mất ký ức.
    • Trí năng bén nhạy.
    • Cơ thể linh hoạt, cơ xương mạnh khỏe.
    • Tăng cường đường tiểu, tiện.
    • Giảm áp suất ở bệnh mắt (Glaucoma).
    • Chữa được huyết áp cao.
    • Chữa được bệnh co thắt khí quản, gây ra khó thở.

PHỤ CHÚ - ĐẠI CƯƠNG NHỮNG CHỨC NĂNG HỆ THẦN KINH CON NGƯỜI
Hệ thần kinh con người tuy rất phức tạp, song trên căn bản tổ chức, nó rất đơn giản. Nó gồm hai hệ: Hệ thần kinh Trung ương và hệ thần kinh Ngoại biên.
Hệ thần kinh Trung Ương bao gồm não bộ, tế bào não, và cột sống. Hệ thống này gồm tất cả dây thần kinh liên kết với não bộ và tủy sống đến phần còn lại của cơ thể. Nó là trung tâm truyền đạt những tiến trình biểu lộ các sắc thái vọng tâm và chân tâm. Mỗi thái độ, nhân cách hay hành động, tư tưởng, cảm thọ, cảm giác, xúc cảm mà ta biểu lộ hay kinh nghiệm được đều thông qua nó. Trong đó vai trò quan trọng nhất là Não bộ.
Não bộ được xem là nơi mà Tâm, Ý, Thức, và Tánh giác gá nương. Nó bị tổn thương, Tâm, Ý, Thức, và Tánh giác không thể đóng đúng vai trò của nó. Nó hoạt động như là trung tâm điều khiển tất cả loại vọng tâm và chân tâm, nhận thức có lời và nhận thức không lời. Toàn bộ cơ chế Tâm, Ý, Thức, và Tánh giác phải nhờ não bộ mới biểu lộ các sắc thái phiền não, khổ đau, thanh thản, ngộ, đốn ngộ, và chứng ngộ. Không có nó, tiềm năng giác ngộ không có điều kiện phát huy. Đây là lý do vì sao, Đức Phật Thích Ca xem thân người là quí.
Hệ Ngoại biên nằm ngoài hệ thần kinh Trung ương, nó liên kết với hệ thần kinh Trung ương đến phần tận cùng của cơ thể. Nó gồm những tế bào não giác quan mang thông tin đến hệ thần kinh Trung ương từ những thụ thể cảm giác (sensory receptors) của cơ thể và tế bào não vận động mang thông tin từ hệ thần kinh Trung ương đến cơ bắp và các tuyến. Nó gồm hai phần: hệ thần kinh Thân thể (somatic nervous system) và hệ thần kinh Tự quản. Hệ thần kinh thân thể truyền những cảm giác từ ngoại trần vào hệ thần kinh Trung ương. Hệ thần kinh Tự quản thì kiểm soát cơ bắp của các cơ quan nội tạng và các tuyến.
Hệ thần kinh Thân Thể (the Somatic Nervous System) gồm dây thần kinh vận động nó điều khiển hay kiểm soát cơ xương và sợi thần kinh cảm giác. Acetylcholine có trong sợi thần kinh này.
Hệ thần kinh Ngoại Biên gồm những mô thần kinh nằm ở vùng ngoài hệ thần kinh, nên gọi là "ngoại biên".
Sơ đồ Tổ Chức Hệ Thần Kinh
Tác Dụng Đối Giao Cảm và Giao Cảm Thần Kinh Vào Nội Tạng và Các Tuyến
Mục Tiêu Đối Giao Cảm
(Tiết ra Acetylcholine)
Giao Cảm
(Tiết ra Norepineprine)
Tuyến nước mắt Chảy nước mắt Không ảnh hưởng
Cơ mí mắt Nặng, thu nhỏ lại; nhìn gần; khép tự động Không ảnh hưởng
Con ngươi Con ngươi thắt lại Mở
Tuyến nước bọt Chảy nhiều và loãng Khô miệng
Cơ khí quảng và cuống phổi Đường khí quản thắt lại; thu nhỏ lại, thở khẽ, tịnh tức Đường khí quản thư giãn, mở rộng, thở bình thường
Cơ tim Giảm tốc độ, nhịp đập chậm lại Gia tăng tốc độ nhịp tim; rối loạn nhịp
Mạch máu động mạch vành tim Giãn nở Thắt lại
Da Không ảnh hưởng Mạch máu bị thắt lại
Mạch máu Không ảnh hưởng Mạch máu giản nở; tăng huyết áp; trệch hướng máu đến não và tim
Gan Trữ đường (glucose), không ảnh hưởng Epinephrine kích thích gan làm tăng đường vào máu
Ruột Vận động ruột nhanh lên Ruột già và hậu môn: thu lại
Túi mật Co lại, làm cho mật tiết ra
Thận Không ảnh hưởng Làm co mạch máu, giảm đi tiểu
Thượng thận Không ảnh hưởng Kích thích ruột thượng thận, tiết ra Epinephrine và Norepinephrine
Tuyến tụy Kích thích, tiết ra insulin và enzymes Kích thích, tiết ra glucagons
Cơ bọng đái Kích thích thắt lại Thư giãn cơ thành bọng đái
Tuyến mồ hôi Không ảnh hưởng Tăng mồ hôi
Bao tử Tăng sự co bóp và tăng số lượng enzymes tiêu hóa Mạch máu thắt lại, giảm số lượng enzymes tiêu hóa
Hoạt động nội tâm Bình thản, thanh thản, thư thái, yên lặng. Tỉnh táo, lo âu, sợ hãi, sân hận, buồn; tùy miên (những trại thái tâm lý xúc cảm).












No comments:

Post a Comment