LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Saturday, April 1, 2017

VỀ VẤN ĐỀ ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH



- Những vấn đề tranh luận xung quanh các khái niệm “âm dương”, “ngũ hành”, “bát quái” mà các cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam đã khơi lên là gì?
- Có thể thấy lộ ra ba vấn đề: Nguồn gốc chúng từ đâu? Chúng thuộc sở hữu của ai? Và chúng có phải là mê tín dị đoan không?
Nguồn gốc chúng từ đâu? Khác với các giá trị của văn hóa phương Nam là vấn đề đã có đủ cơ sở để kết luận, đây là vấn đề còn đang ở dạng giả thuyết. Phần đông xưa nay thường theo Khổng An Quốc và Lưu Hâm đời Hán mà quy công sáng tạo cho Phục Hy. Một số khác thì cho rằng tác giả của âm dương ngũ hành là Châu Diễn và phái âm dương gia. Quy công cho Phục Hy là phi khoa học, đơn giản là vì đó là một ông vua truyền thuyết hoang đường không có thực. Quy công cho phái âm dương gia cũng vô lý không kém, đơn giản là vì phái âm dương gia mãi đến thế kỷ III trước công nguyên mới xuất hiện, tức là sau Khổng Tử đến hai thế kỷ, mà vào thời Khổng Tử đã có Kinh Dịch, có âm dương bát quái rồi; phái âm dương gia chẳng qua chỉ vận dụng âm dương để giải thích địa lý - lịch sử và vận dụng ngũ hành để tạo ra “Ngũ đế đức” mà thôi.
Về phần mình, trước hết chúng tôi nhận thấy rằng ngũ hành và bát quái là sản phẩm của hai dân tộc khác nhau. Bằng chứng thứ nhất là trong quan niệm về quá trình hình thành vũ trụ của người Trung Hoa “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bái quái, Bái quái biến hóa vô cùng” không có chỗ đứng cho ngũ hành. Thứ hai là ta gặp trong Ngũ hành và Bát quái cùng một số hiện tượng xuất phát (đất, nước, lửa), nhưng với tên gọi hoàn toàn khác nhau và ứng với những phương vị khác nhau. Thứ ba là việc phân tích đặc điểm của ngũ hành và bát quái cho thấy chúng là sản phẩm của hai kiểu tư duy khác nhau (xem §7.4 sách này). Chính nhà triết học Trung Quốc Phùng Hữu Lan trong “Đại cương triết học sử Trung Quốc” (SG, 1968, tr. 140-151) cũng lưu ý đến sự kiện là trong khi Kinh Thư chỉ đề cập đến Ngũ hành thì ở Kinh Dịch lại chỉ nói đến Bát quái, và ông nhận xét: “Hình như hai luồng tư tưởng ấy đã tiến triển độc lập, không liên quan gì với nhau”.
Chúng là sản phẩm của hai dân tộc. Vậy cái nào là sản phẩm của ai? Việc phân tích cho thấy: a) Ngũ hành là sản phẩm của cách tư duy tổng hợp và trọng quan hệ (đặc thù cho phương Nam hơn), còn bát quái là sản phẩm của tư duy phân tích hơn và trọng yếu tố hơn (đặc thù cho phương Bắc hơn); Ngũ hành sử dụng phổ biến ở phương Nam hơn, bát quái sử dụng phổ biến ở phương Bắc hơn (xem §7.4 sách này). Từ đó có thể kết luận: ngũ hành là sản phẩm của phương Nam, còn bát quái là sản phẩm của phương Bắc. Cả hai tiến triển độc lập nhưng cùng xuất phát từ một gốc chung là triết lý âm dương.
Về triết lý âm dương thì hàng loạt bằng chứng liên ngành có thể quy về 7 điểm cho thấy rằng triết lý âm dương được hình thành trong khu vực văn hóa phương Nam (xem các trang 86-91 sách Cơ sở văn hóa Việt Nam bản in năm 1995 hoặc §5.5 sách này). Nếu âm dương không phải sản phẩm của phương Nam (mà là của vùng sông Hoàng Hà) thì tại sao trong khi người Việt có vật tổ cặp đôi (Rồng-Tiên) mà người Hán lại không có? Tại sao người Hán chỉ có một ông Tơ Hồng mà vào đến Việt Nam thì phát triển thành cặp đôi “Ông Tơ - Bà Nguyệt”? Tại sao mộ cổ Đông Sơn chôn theo nguyên lý âm dương? Tại sao trên trống đồng Đông Sơn có các hình vuông tròn lồng vào nhau? Tại sao tư duy dân gian Việt Nam phát triển theo lối âm dương một cách rõ rệt (Trong rủi có may, trong dở có hay, trong họa có phúc; Sướng lắm khổ nhiều; Trèo cao ngã đau; Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời…)? Dễ thấy rằng từ yangyang (= trời, giàng) của các tiếng Đông Nam Á, còn yin (âm) thì có thể thấy là được phiên âm từ yana, ina (= mẹ) của các ngôn ngữ phương Nam; sở dĩ “mẹ-trời” không thuộc cùng một cặp đối lập như có người thắc mắc là bởi vì truyền thống tư duy tổng hợp ­ ghép “mẹ” với “trời” để tổng hợp được cả hai cặp “mẹ-cha” và “đất-trời” là hai quá trình sinh sản quan trọng nhất: sản sinh ra con người và sản sinh ra mùa màng. Tại sao người Việt vẫn xưng hô “ông-con”, “cô-con”, vẫn nói “xem hát”, v.v.? Chẳng qua là để tổng hợp được cả hai quan hệ ông-cháu và cha-con, cô-cháu và mẹ-con, xem-diễn và nghe-hát vậy!
Tìm hiểu nguồn gốc không phải là để “tranh chấp” quyền sở hữu. Một hiện tượng văn hóa, dù xuất phát từ đâu, qua con đường giao lưu đã thâm nhập vào các dân tộc khác, được họ tiếp nhận và phát triển thì chúng sẽ thuộc quyền sở hữu của tất cả các nền văn hóa này. Nho giáo bắt nguồn từ Trung Hoa đến nay đã trở thành sở hữu chung của các dân tộc Đông Á và Việt Nam. Cũng vậy, dù triết lý âm dương có bắt nguồn từ cư dân Nam-Á hay Hán tộc thì đến nay nó cũng đã trở thành sở hữu của nhiều dân tộc phương Đông. Việc xác định nguồn gốc của một hiện tượng chẳng qua là nhằm giúp làm sáng tỏ và giải thích thỏa đáng nhiều vấn đề có tính quy luật của hiện tại.
Âm dương ngũ hành có phải là mê tín dị đoan không? Có người cho rằng việc chúng tôi nói đến “sự quan trọng của số lẻ”, đến âm dương ngũ hành, đến cách đổi ngày tháng năm dương lịch ra ngày tháng năm theo hệ can chi vô tình có thể làm cho người đọc bị chi phối bởi tư tưởng siêu hình, bởi óc mê tín dị đoan…” (tạp chí Văn Tp. Hồ Chí Minh tháng 5-1996). Cần lưu ý rằng chúng tôi không hề “nhấn mạnh đến sự quan trọng của số lẻ” mà chỉ nhận xét khách quan rằng “người Việt rất coi trọng các số lẻ (3, 5, 7, 9) và những bội số của chúng (18, 27, 36)” và giải thích do đâu mà có hiện tượng ấy. Âm dương ngũ hành và lịch can chi là những tri thức văn hóa cổ có ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống con người (ăn uống, chữa bệnh, nông nghiệp,…); việc các tri thức này bị một số người lợi dụng vào lĩnh vực mê tín dị đoan chỉ là một khía cạnh của vấn đề. Không nên vì chê rượu dở mà đập vỡ bình. Không cần đến lịch can chi và cách đổi ngày tháng năm theo hệ can chi ra dương lịch, chẳng lẽ lại có người Việt Nam nào có thể ăn tết Nguyên Đán và cúng giỗ gia tiên theo dương lịch hay sao?
- Phải chăng tác giả Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam đã dùng thuyết âm dương ngũ hành làm cơ sở triết học cho việc lý giải sự hình thành những quy luật của văn hóa Việt Nam?
- Cơ sở lý luận cho việc lý giải sự hình thành những quy luật của văn hóa Việt Nam được chúng tôi trình bày rất rõ trong chương I của hai cuốn sách, đặc biệt là sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam ­ đó là phương pháp hệ thống - loại hình với việc phân biệt hai loại hình văn hóa, việc định vị văn hóa Việt Nam trên một hệ tọa độ 3 chiều căn cứ vào các điều kiện tự nhiên và xã hội của nó. Lối tư duy âm dương cũng như mọi thứ khác được nói đến trong năm chương sau chỉ là những đặc điểm của văn hóa Việt Nam ­ hệ quả của các cơ sở đã nêu.
- Về vấn đề ÂM DƯƠNG, có ý kiến cho rằng một vật “phải được đặt vào ít nhất là một quan hệ với một sự vật, hiện tượng khác cùng hệ thống thì một sự vật, hiện tượng mới có thể được coi là âm hay dương, chứ tự thân nó chẳng âm cũng chẳng dương gì cả”? (báo Văn nghệ số 37-1996).
- Đây là một cách nhìn sai cả trên thực tế lẫn trên phương diện phương pháp luận khoa học.
Trên thực tế, mọi học sinh phổ thông đều biết rằng một thanh nam châm dù có bẻ ra làm bao nhiêu mảnh thì trong mỗi mảnh vụn ấy vẫn luôn luôn có một đầu dương, một đầu âm bất kể nó có “được đặt vào quan hệ với một sự vật” nào khác hay không. Mọi khái niệm thời gian tự nó đều có trước có sau; mọi vật thể không gian tự nó đều có trên dưới, trái phải, trong ngoài…; mà đã có trên dưới, trái phải, trong ngoài… thì rõ ràng là đã có âm dương rồi đó. Trong vũ trụ không có sự vật (hiện tượng) nào là không chứa cả bản chất âm lẫn dương, âm với dương tuy hai mà một, người xưa gọi đó là tình trạng “lưỡng nhất”. Chính bởi vì vật nào cũng chứa cả âm lẫn dương cho nên nếu muốn xác định xem một vật thiên về âm hay dương thì mới phải đặt nó trong quan hệ so sánh!
Trên phương diện phương pháp luận khoa học, cách hiểu như vậy đã rơi vào cái gọi là “cấu trúc luận thuần tuý”, chỉ biết có các quan hệ mà phủ nhận vai trò của bản thân sự vật ­ đó là một thứ chủ nghĩa cực đoan đã bị giới khoa học bác bỏ từ lâu.
- Tác giả bài viết trong báo Văn nghệ vừa nhắc còn nhận xét rằng “với những dương biến thành âm, âm biến thành dương [= quy luật âm dương chuyển hóa] kia thì văn hóa sử [= việc vận dụng nó] chỉ còn là một vòng tròn không lối thoát chứ đừng nói tới việc bước qua kỷ nguyên tin học”!
- Điều này một lần nữa cho thấy tác giả hiểu rất sai về triết lý âm dương. Đúng là khi nhìn vào biểu tượng âm dương (xem hình 5.1 trong sách), nhiều người có cảm tưởng như đó là một “vòng tròn luẩn quẩn không lối thoát”. Nhưng cần nhớ rằng đó là biểu tượng, là sơ đồ không đầy đủ của triết lý âm dương, chứ không phải là bản thân triết lý âm dương. Thực tế, triết lý âm dương là sự khái quát hóa vận động có quy luật của vạn vật, một sự vận động liên tục, không ngừng nghỉ, không bao giờ lặp lại hoàn toàn: Nóng chuyển thành lạnh, lạnh chuyển thành nóng, nhưng cái nóng năm nay khác hẳn cái nóng năm qua. Từ nền dân chủ bộ lạc đến dân chủ hiện đại là một sự trở lại, nhưng ở một trình độ phát triển cao hơn (vòng tròn xoáy trôn ốc) chứ đâu phải là vòng tròn khép kín không lối thoát? Người Việt xưa đã nhận xét rất đúng rằng Có dại mới nên khôn để rồi lại Hết khôn dồn đến dại; quanh đi quẩn lại chỉ có “dại” với ‘khôn” thôi nhưng đó đâu phải là một vòng tròn khép kín không lối thoát? Bởi lẽ ông cha ta biết rõ rằng Không cái dại nào giống cái dại nào! Những người làm tin học ai mà không biết rằng kỷ nguyên tin học làm sao có được nếu không có cặp khái niệm khởi đầu 0-1 (âm-dương) và các phép biến hóa từ chúng? Biểu tượng âm dương chỉ nói lên được tính quy luật của sự vận động âm dương chuyển hóa (cái tương đồng) mà không phản ánh được sự dị biệt của nó. Nếu triết lý âm dương chỉ là sơ đồ diễn tả một vòng tròn không lối thoát thì nó làm gì có sức sống để tồn tại và được vận dụng đến ngày nay?
- Nói các từ ghép tiếng Việt chỉ các cặp âm dương cơ bản, thiết yếu tuân theo trật tự “âm trước dương sau”, vậy tại sao tổ tiên ta lại nói đực cái, trống mái, cha mẹ…?
- Âm dương là cặp khái niệm mang tính triết lý phản ánh nhận thức khách quan của người xưa về thế giới, còn truyền thống trọng nữ, thiên về âm tính (mà một trong những biểu hiện của nó là trật tự “âm trước dương sau” kiểu âm dương, vợ chồng, chẵn lẻ, vuông tròn…) là một thói quen mang tính chủ quan của một vùng dân tộc, một nền văn hóa, do hoàn cảnh sống, loại hình kinh tế… quy định. Mà đã là thói quen mang tính chủ quan thì ta chỉ có thể tìm thấy quy luật qua những sự kiện mang tính xác suất - thống kê. Hơn nữa, các sự kiện thực tế luôn là sản phẩm chồng chéo của nhiều quy luật, nhiều sự tác động khác nhau. Do vậy, sẽ là vô lý nếu cứ khăng khăng đòi hỏi trật tự “âm trước dương sau” phải đúng một cách tuyệt đối với MỌI sự kiện để rồi mà “thật không sao hiểu nổi” tại sao tổ tiên ta lại nói đực cái, trống mái, cha mẹ…!
Thực ra, thành tựu của ngôn ngữ học lịch sử Việt Nam ở giai đoạn hiện nay chưa cho phép xác định được rằng những từ ghép đó xuất hiện từ bao giờ. Cho nên, sẽ là sai lầm khi khẳng định rằng đó là những cách nói của “tổ tiên ta” từ xa xưa. Chỉ cần nhìn vào những ngôn ngữ cùng họ hàng của các dân tộc ít người anh em mà trong lịch sử hầu như chưa bị ảnh hưởng của văn hóa trọng dương thì ta sẽ thấy một bức tranh khác hẳn. Tiếng K’ho (Lâm Đồng) có các từ: me bap (= mẹ cha), mộ pàng (= bà ông), oh mih (= chị anh), ur klau (= gái trai), mê kuăng (= cái đực, mái trống); tiếng H’rê (Quảng Ngãi) có các từ: mi fa (= mẹ cha), za vok (= bà ông), mai ong (= vợ chồng), rụ klo (= gái trai); tiếng Tày nói mẻ tập (= cái đực), phú pỏ (= mái trống) ­ tất cả đều là trật tự “âm trước dương sau” cả. Rõ ràng là cách tiếp cận hệ thống với hàng loạt chứng cứ từ ngôn ngữ học và các lĩnh vực khoa học khác cho ta một bức tranh toàn cảnh với kết luận không thể chối cãi về truyền thống trọng nữ, thiên về âm tính của Việt Nam nói riêng và toàn vùng Đông Nam Á cổ đại nói chung.
- Ở §26.2.3 sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam có viết: “Người Việt Nam, phụ nữ thiên về Phật, đàn ông thiên về Nho. Phật âm tính hơn và Nho dương tính hơn”. Đây là một nhầm lẫn đáng tiếc! Theo giáo sư Michio Kushi trong cuốn Your Face Never Lies[1][1][2]: “hoạt động viết của con người là âm, hoạt động nói là dương. Khổng Tử viết rất nhiều nên âm, còn Chúa Jesus và Phật Thích Ca không viết một chữ nào nên rất dương” (Xưa & nay, số 75B, tr. 37).
- Giáo sư Michio Kushi nói đúng. Tôi cũng không sai. Chỉ có người dùng câu của Michio Kushi để soi vào câu của tôi rồi từ đó cho rằng tôi “nhầm lẫn” mới sai thôi! Sai đơn giản là vì chưa hiểu hết triết lý âm dương.
Điều quan trọng nhất của triết lý âm dương mà nhiều người thường quên là vạn vật đều vừa âm vừa dương. Âm về mặt này mà dương về mặt khác. Âm trong sự so sánh với đối tượng này mà dương trong sự so sánh với đối tượng khác. Nước so sánh với đất vừa âm hơn (vì mềm hơn, thấp hơn...), lại vừa dương hơn (vì động hơn)!
Đúng là viết âm hơn nói vì viết tĩnh (bút sa gà chết), còn nói động (lời nói gió bay), về mặt này thì Khổng Tử âm hơn Thích Ca. Nhưng đây chỉ là sự so sánh hai giáo chủ trên phương diện hoạt động truyền bá, còn nếu so sánh hai giáo lý, giáo luật, v.v. thì bức tranh thu được sẽ hoàn toàn khác: Phật giáo thiên về xuất thế, chủ trương sống từ bi nên âm tính hơn; Nho giáo thiên về nhập thế, chủ trương tham gia chính sự nên dương tính hơn.
- Có ý kiến phê bình tác giả Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam “giảng giải ngũ hành sinh khắc theo kiểu trực quan giống hệt các sách tử vi nhập môn, mà chưa hiểu được sự tinh tế của cổ nhân”?
- Trước hết cần nhắc rằng mục đích cuốn sách của chúng tôi không phải là bàn về ngũ hành - bát quái, càng không phải là bàn về kinh Dịch; chúng tôi chỉ đặt ra nhiệm vụ giới thiệu rất sơ lược về những điều cơ bản trong chừng mực chúng có liên quan tới văn hóa Việt Nam mà thôi. Tuy nhiên, về sự tinh tế của các khái niệm này, ở trang 96 sách Cơ sở văn hóa Việt Nam bản in năm 1995 (và §6.2 sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam), chúng tôi đã nói rõ: “ngũ hành không phải là 5 yếu tố mà là 5 loại vận động, quan hệ với tính khái quát rất cao: Thủy, hỏa… không chỉ và không nhất thiết là “nước”, “lửa” mà còn là rất nhiều thứ khác”. Do tính trừu tượng và khái quát cao ấy, muốn giải thích các quan hệ ngũ hành sinh khắc cho dễ hiểu thì xưa nay, từ các sách tử vi nhập môn cho đến các từ điển triết học đều vẫn phải dùng các ví dụ trực quan kiểu “nước dập tắt lửa” cả; tuy nhiên chúng tôi đã luôn nói rõ rằng đó chỉ là ví dụ mà thôi, bởi lẽ thủy, hỏa… không chỉ và không nhất thiết là “nước”, “lửa” mà còn là rất nhiều thứ khác.
- Phải chăng “sơ đồ ngũ hành tương sinh không ghi nhận được một cách đồng thời các quan hệ tương khắc, tình hình này không ăn khớp với quy luật trong khắc có sinh, trong sinh có khắc” và “các sơ đồ ấy không phản ảnh được đầy đủ thực tế”?
- Nói vậy là thiếu am hiểu về phương pháp luận khoa học: Mọi sơ đồ, mô hình bao giờ cũng phản ánh thực tế một cách sơ lược, không đầy đủ; có như thế thì mới phải gọi là sơ đồ, mô hình, chứ nếu đầy đủ, chính xác thì chúng đã là bản thân thực tế rồi! Từ sơ đồ đến thực tế còn phải bổ sung thêm các sơ đồ khác, thêm chất liệu, thêm sự vận dụng… Giữa sơ đồ mang tính nguyên lý “thủy khắc hỏa” với thực tế “nước gáo lửa xe” (trường hợp nước ít, lửa nhiều, nước không dập tắt được lửa) là vấn đề vận dụng, là hậu quả sự tác động của quy luật chuyển hóa giữa lượng và chất.
- Có ý kiến khẳng định một cách tin tưởng rằng do hạn chế của ngũ hành mà người xưa đã tạo ra bát quái?
- Đây là cách hiểu khá phổ biến đã trở thành định kiến lâu nay. Trong các sách của mình, chúng tôi đã nêu ra các bằng cứ chứng minh rằng ngũ hành và bát quái là sản phẩm của hai dân tộc khác nhau (xem các trang 91, 114-117 sách Cơ sở văn hóa Việt Nam bản in năm 1995 hoặc §§5.6, 7.4 sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam) và đã nhắc lại ở trên, khi trả lời câu hỏi đầu tiên.
- Có người cho rằng ngũ hành và bát quái là những thứ không thể so sánh được vì lẽ, thứ nhất, ngũ hành là “các yếu tố tự nhiên, được khái quát hóa thành hệ thống khái niệm”, trong khi bát quái là “các khái niệm nhân tạo, được vận dụng để nhận thức về các quá trình của thế giới”...
- Nhưng đó chỉ là một sự ngộ nhận. Trên thực tế, không có một khái niệm nhân tạo nào lại không có nguồn gốc từ những quan sát tự nhiên. Các lý luận gia về khoa học đã biết từ lâu rằng dù đi bằng con đường phân tích hay tổng hợp, quy nạp hay diễn dịch, nhà khoa học suy cho cùng bao giờ cũng phải xuất phát từ thực tế trực quan. Ai đã từng nghiên cứu triết học Mác-xít mà lại không biết đến luận điểm nổi tiếng của V.I. Lênin về con đường biện chứng của nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”?
- ... Thứ hai, ngũ hành “mô tả thế giới năm thành phần”, còn Bát quái thì “coi thế giới là nhất nguyên nhất thể (thái cực)”...
- Thực ra, việc coi vũ trụ là một thể thống nhất, một thái cực, không phải là đặc điểm riêng của bát quái, mà là đặc điểm chung của nhận thức Đông phương. Nếu xét về nguồn gốc thì ngũ hành (với những cặp đối lập thủy-hỏa, mộc-kim) cũng xuất phát từ âm dương, mà âm dương là khái niệm giải thích bản thể của vũ trụ và vạn vật. Như thế, xét về nguồn gốc thì thực chất cả ngũ hành lẫn bát quái đều “coi thế giới là nhất nguyên nhất thể”, còn xét về hiện trạng thì cả hai đều “mô tả một thế giới” đã biến hóa, đã phức tạp hóa ­ bên năm, bên tám thành tố.
- ... Thứ ba, ngũ hành phản ánh thế giới trong không gian, còn bát quái thì “đã giản lược yếu tố không gian, nên chỉ còn phải phản ánh thế giới trong sự vận động của nó trên trục thời gian”.
- Nghiên cứu bát quái, ai mà không biết rằng trong tri thức về bát quái có vấn đề phương vị? Thiệu Tử nói về bát quái tiên thiên: “Đây là phương vị bát quái của vua Phục Hy: kiền ở Nam, khôn ở Bắc, ly ở Đông, khảm ở Tây, đoài ở Đông-Nam, chấn ở Đông-Bắc, tốn ở Tây-Nam, cấn ở Tây-Bắc”. Hồ Cư Nhân nói về bát quái hậu thiên: “ly ở Nam, khảm ở Bắc: đó là nơi giao tiếp trung chính của trời đất. Chấn ở Đông, đoài ở Tây: đó là nơi tuần tự ra vào của thời lệnh. Cấn ở Đông-Bắc, tốn ở Đông-Nam: phụ chấn để sinh xuất. Khôn ở Tây-Nam, kiền ở Tây-Bắc: phụ đoài để thu nhập. Đấng thánh nhân bố trí phương vị bát quái tinh vi như vậy đó, thế mà nhiều kẻ còn không hiểu, thực chỉ là tại họ chưa khảo cứu sâu xa đó thôi” [Nguyễn Hữu Lương 1971: 212-542]. Đó là cái gì nếu không phải là không gian? Chính tác giả bài viết trong báo Văn nghệ số 37-1996 cũng tự mâu thuẫn với mình: khi muốn chứng minh rằng bát quái không thể so sánh được với ngũ hành thì tư biện rằng “bát quái chỉ còn phải phản ảnh thế giới <…> trên trục thời gian”, trong lúc trước đó mới chỉ 12 dòng thôi đã viết: “phương vị (!) của bát quái trong không gian (!) cũng tương tự như ngũ hành (!), đều là các quy ước mang tính biểu trưng”.
- Phản bác nhận xét của Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam về việc “giữa các quẻ trong bát quái không có quan hệ gì với nhau” (trang 115 sách Cơ sở văn hóa Việt Nam bản in năm 1995 hoặc §7.4.2 sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam), tác giả bài viết trong báo Văn nghệ số 37-1996 nói rằng “các quẻ trong bát quái liên hệ với nhau rất chặt chẽ <…>, mỗi quẻ đều có thể biến thành bảy quẻ kia nếu thay đổi các hào dương thành hào âm và ngược lại”?
- Trước hết, nên nhớ rằng “quan hệ” và “liên hệ” là hai khái niệm rất khác nhau; thứ hai, cái liên hệ được nói đến ở đây (“mỗi quẻ đều có thể biến thành bảy quẻ kia”) là liên hệ biến hóa, nó mang tính giả định và tư biện (do vậy mà không thể diễn đạt nếu thiếu các từ “có thể… nếu…”), khác hẳn với quan hệ tương tác mang tính tự nhiên của ngũ hành. Thử so sánh, chẳng hạn, giữa một bên là quan hệ giữa hũ vàng (kim) chôn dưới gốc khiến cho cái cây (mộc) ngày càng héo úa, với bên kia là việc tưởng tượng rằng con thú có thể biến thành con chim nếu thay hai chi trước bằng hai cánh! So sánh ngũ hành với bát quái theo kiểu như thế chẳng khác gì việc so sánh giữa “bị thương ở chân” với “bị thương ở Trường Sơn”!
- Phản bác nhận xét của Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam về việc ngũ hành có trung tâm, còn bát quái bỏ trống trung tâm, tác giả bài viết trong báo Văn nghệ vừa nhắc ở trên cho rằng “trung ương của Bát quái chính là cái không gian biểu kiến tức phần thể là đồ hình Thái cực Lưỡng nghi Tứ tượng, chứ Bát quái chỉ là phần dụng của cái thể Thái cực ấy mà thôi”.
- Chỉ trong một câu nói này thôi đã chứa đựng bốn điều phi lôgic: Thứ nhất, nếu tác giả đã cho rằng bát quái “chỉ <…> phản ảnh thế giới <…> trên trục thời gian” thì trung tâm của bát quái (= THỜI GIAN) không thể đồng thời là KHÔNG GIAN được! Thứ hai, trung tâm của bát quái (= một KHÁI NIỆM) không thể là một đồ hình (= cách BIỂU DIỄN trực quan)! Thứ ba, trung tâm của bát quái (= một bộ phận của nó, ở TRONG NÓ) không thể là cái sinh ra nó (= thái cực) vốn nằm NGOÀI NÓ! Thứ tư, cái “ngoài nó” được nhét vào trung tâm ấy lại không phải ít ỏi gì cho cam, mà là một đống tất cả những “Thái cực Lưỡng nghi Tứ tượng”: ngay cả tư duy dân gian khi làm bùa trừ tà ma cũng chỉ dám vẽ thêm một đồ hình âm dương vào chỗ trống giữa hình bát quái mà thôi!



Khám phá mới về Dịch lý & Ngũ hành

Có thể nói, suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm phát triển khoa học của nhân loại, không có một lý thuyết nào mang nhiều tính sai lầm, lại ảnh hưởng đến vô số người, và nhất là kéo dài trong một thời gian quá lâu cho bằng thuyết "Ngũhành"!. Lấythí dụ theo luật "Sinh Khắc" của Ngũ hành, thì "Thổ" khắc "Thủy" nghĩa là "Ðất" khắc "Nước". Chẳng cần phải là nhàthôngthái, chỉ với trình độ của người nông phu cũng biết ngay là cógì không ỗn rồi. Nếu hiểu đúng theo nghĩa Khắc là triệt hạ, như "Thủy" Khắc "Hỏa" là "Nước" sẽ dập tắt "Lửa", sẽ đưađến cảnh mộtcòn mộtmất chứ khôngthể ởchung được, thì làmgì cóđược cái nềnvănminh nôngnghiệp nuôisống nhânloại cả mấy ngàn năm! Ðất, dù thuộc bấtcứ loại gì, cũng khôngbaogiờ "Khắc" nước. Ðất với Nước tuy không "Sinh" ra nhau, nhưng coinhưlà "hỗtrợ" lẫnnhau, đất cần nước để làmcho thêm màu mỡ, và nước cần đất để giữcho khỏi bị thấtthoát. Nếukhông, thì làmsao cóthể nói "Ðất Nước" để ámchỉ quêhương xứsở, và nếukhông hợptính vớinhau thì làmsao cóđược cái cảnh "sơnthủy hữutình"!
Ðiều đángnói là khôngphải khôngcó ai thấy, mà tráilại, đãcó rấtnhiều người thấy rõ vấnđề sailầm trong quátrình pháttriển của thuyết Ngũhành. Nhưng "Hámiệng thì mắcquai", vì thựctế chothấy vào thời cực thịnh, lýthuyết của nó đã ănsâu, bámchặt rễ vào nềnvănhóa của Trunghoa và các nước liênhệ, đếnđộ coinhưlà vậtbấtlythân. Từ Thiênvăn, Ðịalý, cho đến Yhọc, Võthuật, hay Quânsự, Vănchương, Chínhtrị v.v, đều dùng luật Ngũhành nhưlà kimchỉnam, cơsở chính để giảiquyết mọi vấnđề, dựavào hai luật "Sinh" và "Khắc". Một hay vài cánhân làmsao cóthể thuyếtphục, laychuyển được quanniệm của cả khối người đang tintưởng vào thuyết Ngũhành nhưlà một tínđiều của tôngiáo. Thêmvàođó, vì yếutố quyềnlợi, các Ðạosĩ và Chiêmtinhgia đã cốtình thầnthánhhóa thuyết Ngũhành, biến nó thành bấtkhảxâmphạm, nhằm bảovệ địavị xãhội, nghềnghiệp tươnglai cho mình và concháu nốinghiệp hànhnghề vềsau(1).
Từ các lýdo nêu trên, học giả hậu sinh về sau nếu muốn nói ra những sai lầm thì lại không dám, vì sợ bị hiểu nhầm là xúcphạm đến thánh thần, nên chỉ còn có cách là gián tiếp, thêm vào một số lý thuyết mới để bổ túc. Chẳng hạn trong khoa Lịch số và Tửvi, mỗi hành lại cóthêm sáu (6) hành khác, như hànhThủy gồm có: Ðại Hải Thủy, Giản Hạ Thủy, Tuyền Trung Thủy, Trường Lưu Thủy, Thiên Hà Thủy, và Ðại Khê thủy. Theo cách làm như trên, có lợi điểm là dễ được nhiều người chấp nhận, và cũng đỡ bị bế tắc trong vài trường hợp. Nhưng hậuquả thì vô cùng tai hại. Thay vì dứt khoát trở về nguồn gốc căn bản là Dịch lý để giải quyết vấn đề, thì các họcgiả đời sau cứ dùng lối chấp vá tạm thời cho tránh khỏi bị đụng chạm. Kết quả, mầm mống của sailầm lại càngđược che dấu, chồngchất tích lũy theo thời gian như cái khối ungthư, và cho đếnl úc trở thành "vôphương cứuchữa"!
Sau một thời gian nghiêncứu về Dịch lý, người viết đã khámphá ra nhiều sai lầm về cănbản của Thuyết Ngũhành, ảnhhưởng khôngnhững tới đời sống của vô số người, mà còn đưa nền văn minh khoa học rạng rỡ, đang lên tộ đỉnh của Trung hoa cách đây khoảng hơn một ngàn năm đếnchỗ thoáihóa, và đivào ngõcụt. Nguyênnhân chính của những sailầm, vôtình hay cốý, cóthể quyvề hai lýdo. Thứnhất, vôtình là vì kiếnthức về khoahọc còn quá sơkhai nôngcạn, hay chưa biếtgì . Thứhai, giữbímật khôngmuốn truyền cho người lạ, vì muốn bảovệ quyềnlợi cho dònghọ hay mônphái.
Những gì trong bàiviết này sẽ được trình bày rất là đơn giản và dễ hiểu, nhằm mục đích là giới thiệu bộ môn khoa học tối cổ của nền văn minh nhân loại đến những đọcgiả chỉ biết sơ về Dịch lý. Do đó chắc sẽ còn nhiều thiếu sót, và cót hể không làm hài lòng hết mọi người. Tuy nhiên, người viết sẽ hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp phê bình hầu giúp làmcho sáng tỏ thêm vấn đề. Ðể quý đọc giả tiện theo dõi nội dung, bài viết sẽ lần lượt được trình bày theo các đề mục sauđây:
I - Thuyết Ngũ hành.
a - Nguồn gốc
b - Lýthuyết
II - Dịch lý cơ bản.
III - Khám phá mới về Dịch lý.
a - Ý nghĩa và đặc tính lý hóa của Bát Quáib
b - Phươngvị của BátQuái
c - Vòng Sinh Khắc của Bát Quái
d - Những hệ luận của vòng sinh khắc
e - Dự đoán khoa học: Siêu Ánh sáng
IV - Kết Luận

I - Thuyết Ngũ hành

a - Nguồngốc
Khác với Kinh Dịch, nguồngốc hay xuất xứ của Ngũ hành vẫn còn rất mơ hồ, nhất là người sáng tạo ra nó. Theo sách vở ghi lại thì trong KinhThi, thiên Hồng-Phạm Cửu-Trù có mở đầu bằng (1): Sơ Nhất viết Ngũhành..... Cũng một thiên khác là Tiểu-Mân viết dưới thời Chu-U-Vương(722 BC) lại nói về Ngũ-sự trong Hồng-Phạm, và theo giảthuyết tươngtruyền thì cho Hồng-Phạm Cửu-Trù là do Vua Vũ nhà Hạ (2205-2197 BC), nhờ côngviệc trịthủyï nên bắtđược LạcThư, trong có luậnbànvề Cưủ-Hạc Chi-Sự hay 9 việc nên làm, ámchỉ về Cữu Trù. Tuy có tàiliệu nóitrên, nhưng khôngai lạgì chuyện đã xảyra ở Trunghoa suốt hơn hai ngàn năm qua, vôsố sáchvở ngụytạo được viếtra do những bậc hậusinh có dụngý riêngtư, và cóthể không đángtin lắm (1). Dođo,ù dựavào điểmmốc thờigian chắcchắn để đoán thì thuyết Ngũhành xuấthiện trongkhoảng từ thời của ChuDịch (1150 BC) và KinhThi thời Khổng Tử (khoảng 500 BC), vì bằngchứng rõ rệt nhấtlà Chu Dịch không hề nói đến luật Sinh Khắc của thuyết Ngũ hành.
Nhiều người vẫnthường nhầm lẫn nếu khôngchịu tìmhiểu, dobởi quánhiều sáchvở "NgụyThư " mêhoặc, khi chorằng thuyết Ngũhành có cơsở từ Dịchlý màra, qua trunggian là Hà Ðồ và LạcThư, còn gọilà TiênThiên và HậuThiên BátQuái! Thậtsự, các bậc hậusinh đã quá tinhkhôn để lồng nó vào trong Dịchlý, và qua các phương tiện dùng Thần Thánh để thuyếtphục, biến nó thành mộtphầntử thiếtyếu của Dịchhọc . Bằngchứng cụthể như đã nóitrên, TiênThiên và HậuThiên BátQuái chỉlà sảnphẩm của các vị họcgiả hậu sinh, ápđặt lên Dịchlý của thuyết Ngũhành, qua hìnhảnh do rùa thần và ngựa thần để tăngthêm tínhthuyếtphục. Ðúnghơn, thuyết Ngũhành đã đóngvaitrò nhưlà một loại cây "Tầmgởi", mớiđầu đâmrễ sốngbám vào cây Dịchlý, rồi từtừ pháttriển mạnh để baophủ, ápđảo và làmlumờ vaitrò của cây chủnhà!
Dù xuất hiện vào thời điểm nào thì thuyết Ngũ hành, theo ý kiến chung của các học giả về triết Ðông, là công trình nghiên cứu độclập riêng biệt của nhà thông thái nào đó, và khôngphải sản phẩm trựctiếp có được từ Kinh Dịch mà ra (1). Bằngchứng là thuyết Ngũ hành không hề nói về nguồn gốc, hay giải thích Ngũ Hành bắt đầu từ đâu, và do cái gì sinh ra!?. Còn như nếu chịu ảnh hưởng của lý thuyết Dịch, thì chắcphải là 4 hay 8, chớ không phải 5. có thể tin được rằng, khởi thủy các nhà thông thái chỉ muốn làm côngviệc duy nhất là nghiên cứu các nguyênliệu chính trong thiên nhiên gồm 5 thành phần, đồng thời cũng đưa ra những quy tắc khi kết hợp 2 nguyên liệu lại với nhau. Vào thời cựcthịnh bắtđầu đi lên của Trung hoa lúc bấy giờ, kỹ thuật luyện kim để đúc vũ khí, dụng cụ canh nông để trồng luá gạo, và nhất là xây dựng nhà ở đãc ó rồi, nên chắc phải có nhucầu tìmhiểu, nghiêncứu về đặctính của các vậtliệu cóthể dùngđược trong thiênnhiên.
Nói cho côngbằng, ưuđiểm độcđáo trong thuyết Ngũhành nếucó, chínhlà đưara kháiniệm về luật Sinh-Khắc, cơsở chính cho các bộmôn khoahọc kỹthuật của nềnvănminh A¨châu trong hơn hai mươi thếkỷ. Vềsau, trong thời XuânThu và tiếptheo là NhàHán, các họcgiả nhờ amhiểu rõ sựhổtương giữa hai thuyết Dịchlý và Ngũhành, nên ghépvàonhau đểcho thêm nhiều ứngdụng. Ðólà một nhucầu cầnthiết rất hợplý giữa lýthuyết và thựchành. Theo ngônngữ ngàynay là Khoahọc và Kỹthuật. Nhưng, chính vì phải cốgắng chấpnối, phatrộn giữa hai lýthuyết, nên kếtquả đã chora mộtvài sơhở thiếusót khôngthể tránhđược, dobởi kiếnthức khoahọc còn rất hạnhẹp vào thờibấygiờ. Thídụ như khi các nhàthôngthái cốtình dùng NgũHành cho BátQuái, đã đưađến một kếtquả hếtsức nhầmlẫn, mà ngườiviết sẽ phântích rõ trong các trang sau.
b - Lý thuyết
Nóiđến Ngũhành thì hầunhư đasố đều biết ngay đến 5 loại đặctính của vậtliệu nguyênthuỷ cósẵn trong thiênnhiên: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, và Thổ. Mộtvài họcgiả vềsau này dựavào hiểu biết cósẵn từ Dịch, chorằng NgũHành trên không cónghĩalà 5 nguyêntố thiênnhiên đã kểra. Nhậnđịnh trên chỉ đúng có mộtphần, và có ýnghiã tươngtự như BátQuái trong Dịch. (Nênnhớ là các vị vềsau đã vănminh tiếnbộ rấtnhiều, đồngthời cũng bị ảnhhưởng từ Dịch màra, nên khôngchắc là phảnảnh được ýđịnh banđầu của nhàthôngthái, trongviệc nghiêncứu tìmra thuyết Ngũhành).
Lýthuyết chính của Ngũ hành gồm 2 luật về Sinh và Khắc, biểu diễn bằng 2 hìnhvẽ sau:
Hìnhvẽ Số 1
SINH: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.
KHẮC: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
Một luật phụthuộc cũng quantrọng khôngkém, tuy khôngcó têngọi chínhthức, nhưng được hiểungầm và tuyệtđối tôntrọng là luật "Bảotồn". Mỗi Hành A đều phải sinhra một Hành B, và đồngthời cũngđược sinhra bởi một hành C khác. Tươngtự cho luật khắc, Hành A trên phải khắc một Hành D, và "bị" khắc lại bởi một Hành E. Như vậy, bấtcứ một Hành nào trong NgũHành đềucó liênhệ chặtchẻ như tróibuộc với 4 Hành cònlại. Ðây chínhlà lýdo rõrệtnhất để giảithích, tạisao người phátminh ra thuyết Ngũhành đãphải dùng đến số "Hành" tốithiểu là 5. Các họcgiả từxưa đã biết "Thổ khắc Thủy" là sai, nhưng khôngthểnào sửalại hay điềuchỉnh được, vì giốngnhư hìnhảnh của thuyết con cờ "Domino", nếu một cái ngã thì sẽ kéotheo toànbộ, và kếtquả là cả thuyết Ngũhành sẽ khôngcòn có giátrị gìnữa! Riêng các họcgiả Tâyphương khá nổitiếng amhiểu về Dịch như C. K. Jung, Blofeld (3), v.v, khi nghiêncứu về Dịchlý, cũng chỉ chútrọng đến "BátQuái" và 64 quẻ Dịch, mà khôngmuốn nhắcđến thuyết Ngũhành, kểcả bànvề TiênThiên và HậuThiên BátQuái.
Cũng nhân đây xin đưara một chứngminh cụthể sailầm về lýluận trong HậuThiên BátQuái. Các nhàthôngthái chorằng sởdĩ Thiên và Trạch thuộc hành Kim ở hướngTây, vì hướngTây (của Trunghoa ) có nhiều núi nên cho rấtnhiều quặngmỏ kimloại; trongkhiđó ngượclại hướngÐông là biển, nơi các consông đều chảyvề (Chúng Thuỷ Triều Ðông) làmtốt cho câycỏ thảovật, nên thuộc hai quái Lôi và Phong hành Mộc. Giảithích trên nếucóđược là vì các nhàthôngthái thờibấygiờ coi Trunghoa là Trungtâmđiểm của tráiđất. Chúngta cóthể thấyngay lậpluận trên không hợplý chútnào, vì nếu như sống ở những vùng như California, thì núi lại nằm ở hướngÐông và biển thì lại ở hướngTây!
Thôngthường trong đasố các bộmôn về khoahọc, nếu muốn tìmhiểu cho rõ nguyênnhân nào, và tạisao đưađến sự sailầm thựctế trong ứngdụng, thì không gì chắcchắn hơn là trởlại nghiêncứu từ cănbản nguồngốc của lýthuyết. Vìvậy, trướckhi đisâu thêmvào chitiết sailầm đáng kể khác của thuyết Ngũhành, tưởng cũng nên trởlại mộtchút với lýthuyết cănbản về Dịchlý.

II. Dịch lý cơ bản

Trước khi bắt đầu đi vào phần lý thuyết cơ bản, người viết có một trắc nghiệm nhỏ sauđây: Trong 6 hình vẽ biểu tượng cho Âm Dương (hay Lưỡng Nghi) trong khoa DịchLy, thì hình nào đúng nhất, và lýdo tạisao?
Sở dĩ có câuhỏi nêutrên vì theo nhậnxét của ngườiviết, hầunhư các sách đã xuấtbản về Dịch hay các bộmôn "Khoahọc Huyền Bí", đều cho in hình nóitrên mộtcách tùytiện theo quanniệm sởthích cánhân, hơn là dựavào sựhiểubiết rõ về Dịch. Câutrảlời giảithích lýdo sẽ được viết trong những trang sau, khi bànvề luật SinhKhắc của BátQuái.
Theo đồhình tómlược sauđây, thì Dịchlý chorằng khởithủy vũtrụ là một "Thể" duynhất gọilà Tháicực (hay Ðạo). Tháicực, do một Nguyênnhânkhởi nàođó (Hãy cholà Thượngđế ?) bị "Ðộng"hay "Dịch", nghĩalà do bị chuyểnđộng (theo ngônngữ khoahọc ngàynay, cóthể cho đólà "Big Bang", hay vụ nổ đầutiên khaisáng ra vũtrụ), sinhra "LưỡngNghi" là hai trạngthái đốinghịch nhau, còn gọilà "ÂmDương". Tiếptục nhưvậy để sinhra 4, gọilà "Tứ Tượng", rồi sinhra 8 gọilà "BátQuái". Trên mặtlýthuyết các diễnbiến trên sẽ tiếptục cho đến vôhạn. Nhưng trên thựctế thì các họcgiả hay nhàthôngthái nào phátminh ra Dịch, với kiếnthức cáchđây gần 5000 năm, cholà không cầnthiết và tạmđủ để làmthành những biểutượng cho vũtrụ vạnvật rồi!
Hìnhvẽ số 2
Như đồhình trên cho thấy, với kiếnthức khoahọc còn phôithai của thờibấygiờ, các nhàthôngthái chỉ tìmthấy có NgũHành lại đem ápđặt vào cho BátQuái, nên buộcphải dùng 3 chỗcó 2 quái cùngchung một hành. cóthể nói đâylà một viphạm trầmtrọng tính "Bìnhđẳng" trong thiênnhiên, vì mỗi quái trong BátQuái đềucó những đặctính riêngrẻ và độclập vớinhau. Ngoài kháiniệm về nguồngốc của vũtrụ và sựthànhhình BátQuái, Dịchlý còn đưara giớithiệu những đặctính cơbản về vậtlý của ÂmDương, mà vềsau các nhànghiêncứu ứngdụng quá quenthuộc để gọilà "ÂmDương Học" thay cho từ "Dịchhọc". Những đặctính vậtlý cơbản của ÂmDương đượchiểu nhưlà "Quyước" do sựđồngý của những người phátminh ra KinhDịch và các nhànghiêncứu vềsau, dựa hoàntoàn vào 8 đặctính thuầntúy của BátQuái. Xin nhắclại ởđây, các nhàÂmDươnghọc vềsau đã thêmvào những đặctính phụ để thỏamãn cho nhucầu ápdụng Dịchlý trong các lãnhvực khác, như Dương là Nam, là Thiện, còn Âm là Nữ, là A¨c, v.v (9, 10).
Tám dặctính vậtlý cơbản là:
Dương : Sáng Nhẹ Nóng Nhanh
Âm : Tối Nặng Lạnh Chậm
Nếu sắplại theo hàngngang như hìnhvẽ số 2, mỗi đặctính trên cũng làm biểutượng lýtính của BátQuái nhưsau:
Nhóm Dương Nhóm Âm .
Thiên Trạch Hỏa Lôi Phong Thủy Sơn Ðịa
Sáng Nhẹ Nóng Nhanh Chậm Lạnh Nặng Tối
Ðiều nhậnxét đáng chúý ở BátQuái trên là tínhđốixứng của các quái về hìnhthức lẫn nộidung. Về nộidung baogồm cả lýtính thì có Thiên với Ðịa, Sơn với Trạch, Hỏa với Thủy, và Phong với Lôi. Còn về hìnhthức thì cả hai nhóm đốixứng vớinhau qua trụcchính nằm giữa hai quái Lôi và Phong, cũnglàvùng chuyểntiếp giữa hữuhình và vôhình. Nếu bênnày là vạch (hay Hào) Dương, thì vạch bênkia sẽ là Âm, hay ngượclại.
Những gì vừa trìnhbày ở trên là lýthuyết cơbản nguyênthủy và đúngnhất của Dịchlý. Cònlại, tấtcả những ápdụng khác của Dịch do các đời họcgiả vềsau "phátminh" thêmra, như TiênThiên và HậuThiên BátQuái, BátQuái Ðồhình dùngcho việc bóitoán (2, 4), đềulà do hậuquả của sựkếthợp và suydiễn từ Ngũhành màra, và vìvậy khôngthể tránhkhỏi những sailầm trong nhiều trườnghợp.

III - Khám phá mới về Dịch lý.

a - Ýnghĩa và đặc tính lý hóa của Bát Quái.
Như đã nóitrên, vì kiếnthức về khoahọc còn rất nôngcạn của các nhàthôngthái cáchđây cả mấy ngàn năm, nên trongviệc đặttên và diễndịch Y¨nghĩa BátQuái đã bị ảnhhưởng rấtnhiều, nhấtlà dobởi thuyết Ngũhành. Tuy tôntrọng têngọi nguyênthủy của BátQuái, nhưng ngườiviết xin dùng những từ thuộc 8 "Hành Mới" (tính lý hóa) để bổtúc cho mộtsố quái, theo cách xếpđặt nhưsau:
BátQuái: Thiên Trạch Hỏa Lôi Phong Thủy Sơn Ðịa
8 Hành : Sóng Khí Nhiệt Âm Mộc Thủy Kim Thổ
Hìnhvẽ số 3
Ngoài những Quái có "Hành" quenthuộc, còn mộtsố các "Hành Mới" khác sẽ được giảithích sau:
Sơn thuộc hành Kim: Kim theo nghĩahẹp là kimloại do từ các quặngmỏ ở trên vùngnúi hay caonguyên. Nghĩarộng là cho các vậtliệu có chung đặctính cứngrắn, bởivì cấutạo của núiđồi đasố cũnglàdo đất đá cứng nên mới vươncao được. Nóitheo hìnhtượnghọc cho dễhiểu, thì ngàynay các caoốc chọctrời cóthể ví nhưlà núi (hay Sơn theo khoa PhongThủy), vì phải dùng đặctính cứngrắn của bêtông cốtsắt mới chịuđược. Ðây cũng chothấy sailầm của của những nhàthôngthái khi muốn "épduyên" BátQuái cho Ngũhành. Chẳng là vì Thổ, Thủy, Mộc và Hỏa chiếm hết 6 quái rồi, nên phải dùng hành Kim thuộcvề nhóm hữuhình, cho cả Thiên và Trạch thuộc nhóm vôhình.
Lôi theo nghĩahẹp là sấmsét, nhưng nghĩarộng là chấnđộng hay cụthể hơn là âmthanh. cóthể là do các nhàthôngthái dùng hìnhtượnghọc, mượn hìnhảnh của "sấmsét" cho dễ hiễu. Diễndịch sailầm nếucó của lớp hậusinh vềsau là khôngchịu tìmhiểu, hoặcgiả có hiểu thì cũnglàmột thiểusố rất ít. Ngay Ðức Khổng Tử gần cuối đời cũng phải thúnhận là còn hiểu sailầm về Dịch (5). Ðiều chắcchắn là thờiđó, kháiniệm khoahọc về "Aâmthanh" còn rấtlà trừutượng và mơhồ.
Hỏa nghĩahẹp là lửa, nghĩarộng là A¨nhsáng hay nhiệtnăng, theo cáchgiảithích tươngtự nhưtrên.
Trạch là Quái hoàntoàn bị hiểunhầm nhiềunhất vì đasố các sách về Dịch cholà tượng của "aohồ". Cáisai thấy rõ vì Trạch thuộc nhóm Dương vôhình, mà aohồ lại là vật thấyđược thuộc nhóm hữuhình. Hơn nữa, điềuvôlý là khi nóiđến aohồ thì phảicó nước hay liênhệ đến hành "Thủy" trongđó. Mộtsố sách sau này dùng tượng "hơinước" (4) cólý hơn mộtchút, nhưng vẫn chưađạt ý. Ðúngra, Trạch ámchỉ tổngquát các loại chất "Khí" có trong thiênnhiên, mà lúcbấygiờ các nhàthôngthái chưa biếtgì cả, ngoạitrừ khôngkhí để thở và các loại "Hơi" chora mùi cóthể ngửi được. Nên nhớ, khi gọilà Trạch với nghĩa tổngquát ámchỉ cái "cửakhẩu" hay chỗ "bị lỏmxuống", thì các nhàthôngthái cũng đãcó kháiniệm mơhồ về một khoảngtrống có chứa vậtthể vôhình vôsắc nàođó.
Thiên ýnghĩa là "Trời", biểutượng cho cáigì siêunhiên vôhình vượt qua mọi sựhiểubiết của conngười vào thờibấygiờ, tuy các nhàthôngthái thỉnhthoảng vẫn cảmnhậnđược "Có cáigì đó"ù ảnhhưởng khôngít tới thểxác của họ. "Sóng" là hành của "Thiên", baogồm tấtcả mọi loại sóng từtrường có trong khônggian, các tiaphóngxạ, tiatửngoại, hay các loại "Siêu A¨nhsáng" có vậntốc nhanh hơn A¨nhsáng bìnhthường (sẽ được chứngminh bằng lýthuyết ở cuối bàiviết) mà trìnhđộ khoahọc của conngười cho đếnnay vẫn chưa tìmra được.
Nhìnvào đặctính lýhóa của TứQuái thuộc nhóm dương, rõràng là Phục Hy hay nhàthôngthái nàođó khi phátminh ra BátQuái, đã vôtình đưara những kháiniệm rất cơbản về sựtraođổi giữa Vậtchất và nănglượng trong khoa Vậtlýhọc hiệnđại! Chỉ tiếcrằng các họcgiả Trunghoa vềsau vì khônghiểu hay vì muốn giữbímật làmcủa riêng, nên hậuquả là cáihọc chânchính về Dịch đã bị thấttruyền. Trình Dy (2), một họcgiả nổitiếng đời NhàTống đã nói như vậy, cáchđây gần cả ngàn năm. Theo sách thamkhảo (4), hai bộ "LiênSơn" và "QuyTàng" nói về Dịch đã bị mấtluôn khôngbiết nộidung như thếnào, chỉcòn bộ "Chu Dịch" chuyên về 64 quẻ thuộc khoa Bốcphệ hay Bóitoán!
b - Phương vị của Bát Quái
Như đã nói trong phần trước, ưuđiểm độcđáo của thuyết Ngũhành là đưara kháiniệm về luật SinhKhắc, mà ứngdụng khởithủy chínhlà dùng phươnghướng để định vịtrí tiêuchuẩn. Như trong hìnhvẽ số 1 trên, chúngta đã thấy thuyết Ngũhành có vấnnạn, vì chỉ có 5 thànhphần cho 4 hướng chínhlà ÐôngTâyNamBắc, nên đãphải nhờđến BátQuái để rồi từđó lại chora hai "phósản" là TiênThiên và HậuThiên BátQuái, dẫn dắt hậusinh vào chỗ bế tắc!
Hìnhvẽ Số 4 Hãy tạm quên Ngũ hành, TiênThiên và Hậu Thiên, để trở về với lý thuyết cơ bản của Dịchlý. Muốn định vịtrí tiêuchuẩn phươnghướng cho BátQuái, thì cách haynhất là truy nguyên từ nguồngốc sinhra nó tức là "Tứ Tượng" gồm Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, và Thái Âm. Ơûđây ngườiviết muốn nhấn mạnh đến sự trùnghợp rõ rệt giữa "Tứ Tượng" cho "Bốn Phương" chính, và "BátQuái" cho "Tám Hướng" kểcả 4 hướng phụ.
Bắtđầu bằng 4 hướng chính dùng "Tứ Tượng" như hìnhvẽ số 4 trên, chothấyngay tên gọilà Tháidương biểutượng cho mặttrời hay A¨nhsáng thuộcvề banngày, phải nằm ở hướngÐông là hướng mặttrời mọc. Ngượclại cho Thái Âm, tượng cho mặt Trăng hay ban đêm, phải ở hướngTây là lúc mặttrời lặn. Cònlại suyra Thiếu Dương, hay Dương ít nghĩalà Âm phải nhiều, ámchỉ cáilạnh nhiềuhơn nên đóng ở phươngBắc, và dođó ngượclại Thiếu Âm chỉ cái nóng nhiềuhơn, nên phải ở về vịtrí phươngNam, hướng về đườngxíchđạo.
Bốnphương chính đã được định vịtrí tiêuchuẩn đúng rồi, thì trong tiếntrình chora BátQuái, 4 hướng chính đó sẽ trởthành "Thiên" dành cho hướngÐông, "Ðịa" hướngTây, "Thủy" hướngBắc, và "Hỏa" ở hướngNam. Sau khi bốnphương chính được địnhvị cho bốn quái rồi, các quái cònlại theo thứtự suyra cho bốn hưống phụ.
c - Vòng sinh khắc của Bát Quái
Vòng tương sinh của Bát Quái khởi đầu bằng hệluận tầmthường sauđây của Lão-Tử giảithích về nguồngốc của vũtrụ, mà khoahọc ngàynay cũng đưara giảthuyết gần giốngnhư vậy! Ðó là: "Ðạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinhra Vạnvật". Ðâylà Lão-Tử muốn nói, Tháicực sinhra LưỡngNghi hay cả vũtrụ nên gọilà Thiên (Trời, số Một theo thứtự của thuyết Tamtài). Thiên sinhra Ðịa (số 2) ámchỉ các tinhtú hay tráiđất. Ðất sinhra vạnvật baogồm Nhân, thứtự số 3, hay nghĩarộng hơn là hào thứ ba sinhra BátQuái, baogồm cả vạnvật trên tráiđất. Vậy thì "Ðịa" hay tráiđất sinhra vạnvật theođúng diễntiến thứtự của luật BátQuái tươngsinh (mũi tên trong hìnhvẽ số 3), và khoahọc hiệnđại đã chứngminh mộtcách tươngtự rõràng những diễntiến nhưsau:
Thiên Sinh Ðịa Ðầu tiên, trời hay vũtrụ sinhra các hànhtinh kểcả tráiđất là chuyện đươngnhiên, khôngcógì khó hiểu.
Ðịa Sinh Sơn (hành Kim) Như đã giảithích ở trên, Sơn thuộc hành Kim: Tráiđất lúc mới vừa thànhhình là một khối cầulửa rất nóng, khi bắtđầu nguội dần thì mặt đất bị corút lại và tạothành lồilõm. Chỗlồi là núi, lõm là thunglũng hay đồngbằng. Vậy Sơn do từ Ðịa mà sinhra là điều hợp lý, khôngcòn gì phải thắcmắc.
Sơn (hành Kim) Sinh Thủy: Sơn là núi trên caonguyên lạnh nên là nơi tíchlũy băngtuyết. Tuyết tan thành nước chảyxuống đồngbằng thành sông, và cuốicùng là ra biển. Dù những vùng khôngcó nhiều tuyết thì nước mưa trên cao cũng chảyxuống thấp làmthành sông hay suối. Luật khoahọc thiênnhiên đã được chứng minh, tấtcả các consông đềucó nguồn phátxuất từ các vùng caonguyên. Luật này còn nhấn mạnh đến lýtính của Chất Lỏng là luôn luôn chảy từ cao xuống thấp. Có sách theo thuyết Ngũhành đã giảithích vì "Kim Khí" lạnh nên hơi đọnglại mà sinhra nước. Giảithích nhưvậy rấtlà gượngép và thiếusót, vì hơinước cũng đọnglại trên câycỏ đểchora nước! Nguyênnhân cóthể là do bị các "NgụyThư" đánhlừa, hoặc các hậusinh Nhohọc thời XuânThu muốn giấunghề "Trị Thủy" của Vua Vũ(?)
Thủy Sinh Phong (hành Mộc): Nước nuôi dưỡng sinhra cây cỏ, nhưng đồngthời cũng chora hơinước tạothành gio.ù Gió chỉ chothấy hiệuquả khi gặp vậtcản để sinhra chuyểnđộng. Và ngượclại, nếu vật chuyểnđộng thì lại chora gió! Dođo,ù Quái Phong ởđây ámchỉ cả hai nghĩa thựctế và trừutượng. Vừa thuộc hành Mộc là câycỏ thuộcvề quái cuốicùng ở biêngiới của nhóm Âm hữuhình, nhưng đồngthời cũng chora gió, đóngvaitrò trunggian chuyểntiếp đến quái "Lôi" thuộc nhóm Dương vôhình. Ðây mới thấy cái ẩný của các nhàthôngthái, đã không gọi quái "Phong" là quái "Mộc".
Phong Sinh Lôi (Aâmthanh) Chínhlà biêngiới của sự chuyểntiếp từ hữuhình qua vôhình. Gió gặp vậtcản tạora chấnđộng hay rungđộng, rồi từ sựrungđộng lại phátsinhra âmthanh. Dựavào nguyêntắc trên mà các nhàthôngthái thờicổđại bên Trunghoa đã phátminh ra câysáo, một loại nhạckhí cổxưanhất trên thế giới vẫncòn dùngcho tới ngàynay. Nhắclại ởđây, nhàthôngthái đãphải dùng đến hìnhtượng cụthể là "sấmsét" (hay Lôi) cho dễhiểu vì ai cũng thấyđược. Nên hiểurằng "Lôi" ởđây không chỉ cónghĩa là sấmsét, mà còn cónghĩa tổngquát hơn là chấnđộng. Ðiều chắcchắn là Nếukhôngcó hơinước tạora gió thì khôngcó mây hay mưa, và nếu khôngcó mây bão thì cũng khôngcó sấmsét!
Lôi Sinh Hỏa Chấnđộng mạnh thì dể sinhra sựcọsát và chora Nhiệt. Nhiệt tíchlũy nhiều thì phátHỏa, và đólà nguyêntắc để tạora lửa không thayđổi từxưa đếnnay. Nhân tớiđây, cũng nên nhắclại thuyết Ngũhành nói "Mộc sinh Hỏa", với lời giảithích gỗ cháy chora lửa, là không hoàntoàn đúng! Gỗ không tựnhiên mà cháy nếu khôngcó trước mồilửa, nghĩalà tựnó không sinhra lửa. Thídụ như trong thiênnhiên, những vụ cháy rừng là do sétđánh, đúngnghĩa của "Lôi" màra, và các hỏadiệmsơn do chuyểnđộng xungsát của các tầng nhamthạch, baogiờ cũng bắtđầu phunlửa bằng các cơn địachấn đitrước. Còn về mặt nhântạo thì ngay cả dùng cáibậtlửa, cũng cần phảicó tácđộng banđầu do sựđánhdiêm hay cọsát mạnh vào viênđálửa. Ngoàira, do hai quái trên hoàntoàn nằm trong vùng vôhình thuộc phạmvi tinhthần, nên còn đượchiểu theo nghĩabóng. Thídụ như âmnhạc cóthể làmcho conngười cảmthấy kíchđộng mạnh lên, phấnkhởi nhảymúa tưngbừng. Hoặclà, khi hai quyềnlợi tranh dành đụngchạm mạnh, thì tấtnhiên phải xảyra cảnh chiếntranh máulửa!.
Hỏa Sinh Trạch Lửa thiêuđốt vật chora khói hay các chất "Khí" theonhư phảnứng hóahọc. Lậpluận của Ngũhành cho Hỏa Sinh Thổ là sailầm, bởi khôngphải lúcnào lửacháy cũng chora trothan, thídụ như dầulửa hay khíđốt. Về phươngdiện tinhthần, khi tâm cuồngnhiệt hay nóngsốt đammê về chuyệngì, thì các chất kíchthíchtố (Hormone) ở nãobộ tất sẽ pháttiết ra, và làmcho conngười dễ chìu theo dụcvọng hay sởthích cánhân. Vìvậy, quái "Trạch" còn cónghĩa là làmcho hàilòng, hay vuilòng và chìuchuộng theo đốitượng v.v. Nên nhớ là hành "Khí" ở quái "Trạch" này còn baogồm luôncả ý¨nghĩa "ThầnKhí" hay "Khícông" của yhọc và võthuật. KhoaTâmsinhlý đã chứngminh rõ là tấtcả đều do phảnứng hóa của các chất kíchthíchtố lên trên hệthầnkinh nãobộ!
Trạch Sinh Thiên Trạch hành "Khí", theo nghĩarộng baogồm tấtcả các hóachất vôhình vôsắc trong vũtrụ, cuốicùng cũng kếthợp và tácđộng lẫnnhau dưới bất kỳ hìnhthức nào, đểchora nănglượng và thường là dưới dạng "Sóng". Chẳnghạn khi conngười suy nghĩ hay tính toán là lúc các sóng não làm việc chora tín hiệu, dobởi phảnứng dây chuyền của các hóachất trong nãobộ. Nhưng quantrọng hơn hết, Quái Thiên cuốicùng còn là biểutượng cho trí khôn hay sự thôngminh caocấpnhất mà loàingười cóthể cóđược trong một tươnglai vôhạn.
Biểuđồ dướiđây chothấy hai vòng BátQuái Sinh và Khắc:
Nhìnvào biểuđồ bêntrái của hình số 5 chothấy diễntiến của vòng BátQuái Tương Sinh, và cũngla øcâutrảlời đúngnhất cho 6 hìnhvẽ biểutượng cho LưỡngNghi hay ÂmDương. Hình đánh số 1 đúng cho khuvực Bắcbáncầu, và số 4 đúng cho ai sống ở miền Nambáncầu.
Trướckhi tiếptục giảithích vòng Tương Khắc, biểuđồ bênphải trong hình số 5, xin nhắclại mộtsố quyluật về SinhKhắc của BátQuái rất phùhợp với khoahọc thựcnghiệm ngàynay. Chẳnghạn theo luậttựnhiên, cùng loài thì "Sinh" ra nhau, khác loài mới "Khắc" nhau. Chỉ các quái thuộc nhóm Âm mới "Sinh" ra quái Âm, và cũng tươngtự cho các quái thuộc nhóm Dương, trừ trườnghợp duynhất phải chuyểntiếp giửa hai quái "Phong" và "Lôi" ngay biêngiới của hai nhóm ÂmDương. Tươngtự cho vòng "Khắc", chỉ có quái thuộc nhóm Âm mới khắc quái ở nhóm Dương, hay ngượclại. (Xin nhắcthêm ởđâylà trong khoaTửvi đã ápdụng rấtđúng nguyêntắc trên. Mệnh Dương đóng ở cung Dương tốt hơn ở cung Âm, hay ngượclại)
d) Vòng Khắc của BátQuái
Theo hìnhvẽ bên tay Phải của biểuđồ số 5 :
Thiên Khắc Phong Ðây muốn nói các loại sóngphóngxạ, các tiatửngoại hay tia "X" đềulà khắctinh của câycỏ sinhvật, kểcả conngười (thểxác và hìnhdạng conngười nói chung được coi như hành Mộc, ý chính và là nghĩa phụthuộcvề phần hữuhình của quái Phong). Về Y¨nghĩa thuộc dạng chuyểntiếp qua phần vôhình là "Gió" hay giông bão, thì chỉ có các loại sóng nhiệtnăng làm thayđổi nhiệt độ nóng hay lạnh của vùng có gió điqua, và kếtquả sẽ làm tanbiến đi luồnggió. Một ứngdụng thựctế vôtình trùnghợp, là hiệnnay các nhà khoahọc đang thử dùng các tia "Laser" cựcmạnh để bắn vào tâm các trậncuồngphong, nhằm hóagiải sứcmạnh hay cóthể phátan luôn trungtâmbão mới thànhhình.
Phong Khắc Trạch Có hai nghĩa được giảithích nhưsau: Bấtkỳ các loại "Khí" nào cũng sẽ bị "Gió " thổi làm tanloãng đi. Thídụ khí chứa trong các bìnhkín bị mở nắp thônghơi, hay các nhà hầmkín được mở cửa cho gió vào làm thoángkhí. Nghĩa thứhai, các loại rễcây khi pháttriển sẽ chiếmdần các khoảngtrống (Y¨nghĩa của quái "Trạch" đã nóitrên) trong đất, và dĩ nhiên là đẩy chất khí đi rangoài.
Trạch Khắc Thủy Kháiniệm đầutiên là các bọt khí trong chất lỏng hay hơinước bốc lên sẽ làm khô cạn nước hay chất lỏng đó. Y¨ chínhlà nếu chất lỏng tiếp xúc với một khoảngtrống thì sẽ bị hao tổn vì chảy thoát ra đó. Thídụ như một bình chứa nước bị đục một lổ hổng. Nhânđây cũng nhắclại chuyện các nhàthôngthái khi xưa, do nhìn thấy nước chảy trên mặtđất bị hút mất, nên cholà Thổ Khắc Thủy! Thậtsự như khoahọc chứngminh, nước hay chất lỏng bị mất vào lòng đất là vì chảy thấmvào các khoảngtrống li ti (Trạch) giữa đất cát mà thôi.
Thủy Khắc Hỏa Ðiều này ai cũng biết rồi, và cũng đúng hoàntoàn theo thuyết Ngũhành, xinmiễn nói thêm.
Hỏa Khắc Sơn. Theo nghĩa đen trong thuyết Ngũhành, vì Sơn thuộc hành Thổ, và lại cho Hỏa Sinh Thổ, nên suyra "Lửa Sinhra" hay làmlợi cho rừngnúi là điều nhầmlẫn hoàntoàn! Lửa Thậtsự mới chínhlà khắctinh của núi. Các vụ cháy rừng đã làmthiệthại cho núi nhiềunhất, kểcả lửa phunra từ hoảdiệmsơn. Các kiếntạo về cầu hay caoốc cũng rất ngại bị rỉsét, một hiệntượng oxýt hóa hay còn gọilà "cháy ngầm". Dođó, nghĩabóng thứhai của Sơn thuộcvề hành Kim, chora Hỏa khắc Kim là đúng với thựctế.
Sơn Khắc Lôi Cũng dễhiểu như trong thựctế chothấy, núi hay các bức tườngthành cao (hìnhtượng thaythế cho Sơn), đềucó công dụng chống và cản lại tiếngđộng hay âmthanh. Ngoàira, một ứngdụng khác là các cột thulôi bằng kimkhí (xin nhắclại, Sơn thuộc hành Kim theo BátQuái) trên caoốc hay nócnhà cũng có khảnăng "triệttiêu Thiênlôi" nếucó!
Lôi Khắc Ðịa Chỉcó những chấnđộng mạnh trong thiênnhiên như độngđất, bãolụt, hay nhântạo như bommìn hoặc các má móc có độngcơnổ, mớicó đủ sứcmạnh để làmcho đất sụplở hay bị dờiđi màthôi. Trườnghợp thuyết Ngũhành cho "Phong" hay gió thuộc hành Mộc khắc thổ, với lậpluận gió thổi làmcho đấtcát bayđimất là quá gượngép. Ðúngra, chỉ có các trậnbão lớn hay cuồngphong mới thổi đấtcát bayđi được, và nên nhớ là các trận cuồngphong baogiờ cũng chora những âmthanh chấnđộngmạnh như độngđất.
Ðịa Khắc Thiên Lậpluận cuốicùng này cóthể làmcho khóhiểu mộtchút, bởivì trong vòng Sinh thì Thiên Sinh Ðịa, mà trong vòng Khắc thì ngượclại!. Xinnhấnmạnh, Ðịa ởđây không trựctiếp khắc Thiên mà phải qua trunggian chínhlà Nhân hay loàingười. Do những tiếnbộ mà nềnvănminh khoahọc kỹthuật mangđến, giúp conngười khắcphục thiênnhiên, cưỡngchốnglại "mệnhtrời", hay hủydiệt hesinh thái của vòng khíquyển ozone, đều đượchiểu nhưlà "Khắc Thiên". Vậy thì hai đầ mối cựcđiểm của BátQuái là Thiên và Ðịa, cuốicùng lại phải gia hợp nhau trong cái chukỳ tuầnhoàn "Sinh và Khắc" đó, để duytrì cán ân quânbình của tạohóa. Trongđó, yếutố quantrọng hàngđầu, vẫnlà phảicó phần "Nhân" hay conngười, để chutoàn côngviệc!
d) Những hệluận của vòng BátQuái
Trong biểuđồ của hai vòng Sinh và Khắc (hình số 5), nếu để ý thì thấy vòngSinh có sựquânbằng và điềuhòa cả hai bên vùng ÂmDương. Về hìnhtượnghọc, đườngchuyểntiếp giữa quái Phong qua Lôi giốngnhư dạng của một lànsóng êmdịu, hàihòa và thuậnlợi. Trongkhi vòngKhắc có dạng mũinhọn giaođộng và không đồngđều, giốngnhư biểuđồ của một vụnổ hay cơnđịachấn, sẽ tạora cảmgiác khóchịu vì có tínhsátphạt hay khôngđược vừalòng.
Cũng trong vòng Sinh nóitrên(xem hình số 5), nếu nốiliền trọngtâm của hai nửa báncầu nhỏ, do đường chuyển từ quái Thủy qua Phong trong vùng Âm (Ðen), và quái Lôi qua Hỏa trong vùng Dương(Trắng), sẽ hợpvới trụcthẳng đứng Thủy-Hỏa một góc gần bằng 23° 27(7), chínhlà độnghiêng của tráiđất. Khoahọc đã chứngminh rằng nếu tráiđất không nghiêng một gócđộ nhưvậy thì thờitiết sẽ khôngcó 4 mùa, và cóthể tráiđất đã là một hànhtinh chết, làmgì cóđược sinhvật và conngười như ngàynay. Vậy suy luận mộtcách cụthể hơn, hai quái chuyểntiếp giữa Phong, hành Mộc thuộc vùng Âm hữuhình biểutượng cho thểxác, và Lôi hành Âm, thuộc vùng Dương vôhình hay tinhthần, chora conngười thuộc phần Nhân, giữa Thiên và Ðịa trong BátQuái. Xinnóithêm cho quývị đã biết nhiều về Dịchlý, tạisao các nhàthôngthái đã ghép hai quái lại thành quẻ "Lôi Phong Hằng" ở ngay giữa 64 quẻ, tượng cho nhânduyên hay đạovợchồng (9). Nếukhôngcó sựgiaodu giữa Âm và Dương đó, thì chắclà khôngcó thếgiới loàingười!
Theo chukỳ của vòng "Sinh", từ khởiđiểm là Thiên sinh Ðịa, rồi cuốicùng là trởvềlại Thiên, đã ngầmchứa một kháiniệm "vạnvật đồngnhất thể" của nềntriếthọc Ðôngphương. Phải chăng đó cũnglàmột tiềnđề cho thuyếtLuânhồi của Phậtgiáo saunày(?) Trong vòng "Sinh và Khắc", baogiờ cũngcó một sựliênhệ chặt chẽ nhưsau: Nếu "Thủy" khắc "Hỏa" và "Hỏa" sinhra "Trạch", thì "Trạch" sẽ khắc lại "Thủy". Tươngtự cho tất cả, "Lôi" khắc "Ðịa", thì "Ðịa" sinhra "Sơn", để "Sơn" khắc lại "Lôi",v.v. Ðây cóthể coinhưlà hiện tượng "Trả thù" theo tâmlý conngười, hay "Bảotồn" của thiênnhiên, hay nóitheo triếtlý NhàPhật là luật "Nhânquả" .
e) Dự đoán khoahọc: Siêu Ánh sáng.
Dựavào mô hình BátQuái, ngườiviết muốn đưara một dựđoán khoahọc trongviệc tìmra loại siêuánhsáng có vậntốc lớn hơn ánhsáng hiệnnay (v = 300.000 km/giây). Tuynhiên, trướckhi nói chuyện tươnglai, thì cũng nên ônlại chút qua khứ để coi như một kinhnghiệm thựctế. Chỉ mới cáchđây hơn nửa thếkỷ trởvềtrước, mọingười đều thấy vậntốc của Aâmthanh là nhanhnhất, mà tấtcả các máymóc nhântạo hay trong thiênnhiên khônggì bằngđược (trừ A¨nhsáng). Nên mới có câu "Một lời nóira, thì bốn ngựa đuổitheo cũng khôngkịp".
Trong tiếntrình sinhtrưởng của BátQuái, "Lôi" tượng cho âmthanh, và kếđến là "Hỏa". Dĩnhiên, ởđây quái "Hỏa" khôngnhững ámchỉ ánhsáng, mà còn tượnghình cho nguyêntắc về hỏatiển hay máyphảnlực. Hai vạch Dương ở ngoài cứng giốngnhư lớp vỏ baobọc bênngoài, và vạchâm ở giữa nhưlà khoảngtrống để nhiênliệu cháy phunra ngoài. Kếtquả cho thấy, chỉcó các độngcơ phảnlực mớicó đủsức đưa vậtthể dichuyển nhanh hơn vậntốc âmthanh.
Ánhsáng thiênnhiên theo giảithích của khoa Vậtlýhọc hiệnđại, được tạothành bởi những hạt quangtử (Photon) dichuyển theo dạng hìnhsóng có chukỳ (oabc) như trong hìnhvẽ số 6, và có vậntốc theo trụcđườngthẳng là 300.000 km/giây trong chânkhông. Bây giờ, nếu xétvề mặt lýthuyết hìnhhọc, giảsử các hạtsóng quangtử nhờ bị thuhút một nănglượng cựcmạnh nàođó, dichuyển theo đườngtắt ngắnhơn (oa-bc), thì chắcchắn vậntốc theo trục đường thẳng phải nhanh hơn bìnhthường, nghĩalà nhanh hơn vậntốc A¨nhsáng thiênnhiên!
Sởdĩ ngườiviết dựđoán điều nóitrên là nhờ dựavào hìnhtượng của BátQuái. Quái "Hỏa" tượng cho A¨nhsáng, gồm hai vạch Dương đốixứng cân bằng qua vạch Âm ở giữa, chothấy giốngnhư dạng sóng bìnhthường lênxuống của Ánhsáng thiênnhiên. Tuynhiên, để đạttới được vậntốc cao hơn của "SiêuÁnhsáng", thì phải xét tới quái tiếptheo là "Trạch". Quái "Trạch" có hai vạch Dương nằm ở dưới một quái Âm, chothấy có sựmấtquânbình và khôngđốixứng. Vạch Âm nằm ở trên cùng còn ámchỉ một sự "thiếuhụt" nàođó, giốngnhư đường tắt (oa-bc) sovới (oabc).
Trên chỉ là một thídụ nhỏ trong vô số các hiệntượng về thiênnhiên của vũtrụ hay thếgiới loàingười mà khoa Dịch lý học có thể giả thích, dự đoán, hay chứng minh được. Chẳng hạn, đọcgiả có thể đã nghenói về những ápdụng của Dịchlý vào trong nhiều lãnhvực khác. Nhưng dám chắc chưa ai biết được, Dịchlý cóthể giảithích và trình bày tổng quát tấtcả các mô hình về chủ thuyết Chính trị từ cổ chí kim.

IV - Kết luận

Ðã đến lúc thuyết Ngũ hành cần phải được đóng khung lại và cho vào bảo tàng viện. Các bộ môn học thực hành đang được phổ biến và thông dụng trên thế giới, còn sót lại từ nền văn minh Trung hoa nói chung như: Ðông y học, Châm cứu, Lịch số, Phong Thủy, vv, phải thẳng thắn, dứt khoát từ bỏ hẳn thuyết Ngũ hành, để quay về lại với cội nguồn chân chínhlà Dịchlý mà nghiêncứu ápdụng, nếu muốn pháttriển trởthành tốt đẹp hơn.
Dịchlý khôngthể bị coi là một khoahọc huyền bí. Khôngcó bấtcứ lýluận nào, mệnh đề nào trong Dịchlý mà khôngthể hiểu, hay chứngminh được theo tiêuchuẩn khoahọc hiệnđại.









No comments:

Post a Comment