MỘT SỐ HUYỆT VÙNG CHÂN (12 HUYỆT)
Kinh Vị: Độc tỵ ST-35, Túc tam lý ST-36, Nội đình ST-44
Kinh Tỳ: Tam âm giao SP-6, Địa cơ SP-8, Âm lăng tuyền SP-9
Kinh Can: Thái xung LIV-2
Kinh Thận: Thái khê KID-3
Kinh Bàng quang: Ủy trung BL-40, Thừa sơn BL-57, Côn lôn BL-60
Kinh Đởm: Dương lăng tuyền G.B.-34
ĐỘC TỴ ST-35
Tên tiếng Anh: Calf’s NoseTên phiên âm: DU BI (dú bí)
Tên tiếng Trung: 犊鼻
Tên Huyệt
Huyệt ở vị trí có hình dạng giống cái mũi (tỵ) của con trâu, vì vậy gọi là Độc Tỵ (Trung Y Cương Mục).
VỊ TRÍ
Gấp gối, huyệt ở chỗ lõm bờ dưới xương bánh chè,1,2,3,5,6,7,8 bờ ngoài dây chằng bánh chè,1,5,6,7,8
TÚC TAM LÝ ST-36
Tên tiếng Anh: Leg Three MilesTên phiên âm: ZU SAN LI (zú sān lǐ)
Tên tiếng Trung: 足三里
Tên Huyệt
“Lý” là thôn xóm, “tam lý” là ba xóm làng: Túc tam lý bao gồm Vị, Đại trường, Tiểu trường (Thủ tam lý bao gồm cả Tiểu trường và Đại trường). Huyệt Túc Tam Lý liên quan đến khí của Trường Vị, là nơi hội của 3 phủ Vị, Đại Trường, Tiểu Trường vì vậy mới gọi là Tam Lý.
Huyệt ở dưới lõm khớp gối 3 thốn, lại chữa 3 vùng trên, giữa và dưới của dạ dầy (Vị), vì vậy gọi là Túc Tam Lý (Trung Y Cương Mục).
Một truyền thuyết cho rằng: châm hoặc bấm huyệt Túc Tam Lý giúp cho binh lính đi bộ được hơn 3 (tam) dặm (lý) (trên 5 km) mà không bị mỏi.
VỊ TRÍ
Hoặc xác định huyệt ngang bờ dưới lồi củ chày và cách lồi củ chày phía ngoài 1 khoát ngón tay,1,5Từ huyệt Độc tỵ (chỗ lõm bờ dưới xương bánh chè, bờ ngoài dây chằng bánh chè) đo xuống 3 thốn,1,2,3,4,5,6,7,8 huyệt nằm cách mào chày phía ngoài một khoát ngón tay (1 thốn),2,3,4,5,6,7,8 ngang bờ dưới lồi củ chày,1,5
THÁI XUNG LIV-3
Tên tiếng Anh: Great RushingTên phiên âm: TAI CHONG (tài chōng)
Tên tiếng Trung: 太冲
TÊN HUYỆT
“Thái” hàm nghĩa ‘to, lớn’. “Xung” hàm nghĩa ‘mạnh mẽ, hăng hái, xiết, vọt lên’.
Huyệt là nơi nguyên khí cư ngụ, khí huyết đại thịnh là yếu đạo để khí thông hành, vì vậy gọi là Thái Xung (Trung Y Cương Mục).
Vị trí
Cách xác địnhTrên mu bàn chân, giữa xương đốt bàn chân 1 và 2,4,5,8 chỗ lõm phía trước chỗ nối hai đầu sau của xương đốt bàn chân 1 và 2,1,5,6,7 ngang chỗ nối thân với đầu sau xương đốt bàn chân 11,4
Từ kẽ ngón chân 1 và 2, sờ dọc theo rãnh giữa hai xương đốt bàn chân 1 và 2 trên mu bàn chân, đi lên đến chỗ lõm trước chỗ gặp nhau của hai đầu sau xương đốt bàn chân 1-2,1,5,6,7, (chỗ lõm trước góc tạo bởi hai đầu sau của hai xương đốt bàn chân 1-2)1,5. Huyệt nằm trong chỗ lõm này, cách kẽ ngón chân 1-2 phía trên 2 thốn2, hoặc cách đỉnh kẽ ngón chân 1-2 (huyệt Hành gian LIV-2) phía trên 1,5 thốn1,3.
NỘI ĐÌNH ST-44
TÊN TIẾNG ANH: Inner Court
TÊN PHIÊN ÂM: NEI TING (nèi tíng)
TÊN TIẾNG TRUNG: 内庭
TÊN HUYỆT
Đoài theo Kinh Dịch có nghĩa là cửa (môn), miệng (khẩu), ví như cái đình. Huyệt ở phía trong (nội) so với huyệt Lệ Đoài, vì vậy gọi là Nội Đình (Thường Dụng Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy).
VỊ TRÍ
CÁCH XÁC ĐỊNHỞ mu bàn chân, huyệt ở đầu kẽ ngón chân 2-3,1,4,5,7,8 cách kẽ ngón chân 2-3 phía sau 0,5 thốn,2,6
Ép sát hai đầu ngón chân 2-3 lại với nhau,1,4 huyệt ở đầu kẽ hai ngón chân, phía mu chân,1,4,5,7,8 ngang chỗ nối thân với đầu sau (đầu gần) xương đốt ngón 1 của ngón chân thứ 2,1,4
THÁI KHÊ KID-3
Tên tiếng anh: Supreme StreamTên phiên âm: TAI XI (tài xī)
Tên tiếng trung: 太溪
TÊN HUYỆT
Huyệt là nơi tập trung kinh khí mạnh nhất (thái) của kinh Thận, lại nằm ở chỗ lõm giống hình cái suối (khê), vì vậy gọi là Thái Khê (Trung Y Cương Mục).
VỊ TRÍ
Chỗ lõm phía sau mắt cá chân trong,1,3 phía trên xương gót,1,3 ngang lồi cao nhất (đỉnh) mắt cá chân trong,6,7 cách lồi cao nhất mắt cá chân trong phía sau 0,5 thốn,1,2Hoặc lấy điểm giữa đường nối từ lồi cao nhất mắt cá trong đến gân gót,4,6,8
CÔN LÔN BL-60
Tên tiếng anh: Kunlun MountainsTên phiên âm: Kun Lun (Kūn lún)
Tên tiếng trung: 昆侖
TÊN HUYỆT
Côn Lôn là tên 1 ngọn núi. Huyệt ở gót chân có hình dạng giống như ngọn núi đó, vì vậy gọi là Côn Lôn (Trung Y Cương Mục).
VỊ TRÍ
Chỗ lõm phía sau mắt cá chân ngoài,1,2,3,6 phía trên xương gót,1,3 cách lồi cao nhất mắt cá chân phía sau 0,5 thốn,1,2,3
Hoặc lấy điểm giữa đường nối từ lồi cao nhất mắt cá chân ngoài đến gân gót,7,8.
TAM ÂM GIAO SP-6
Tên tiếng anh: Three Yin IntersectionTên phiên âm: SANYINJIAO (sān yīn jiāo)
Tên tiếng trung: 三阴交
Tên huyệt
Tam (có nghĩa là ba); Âm (mặt trong chân thuộc Âm); Giao ( có nghĩa là chỗ gặp nhau). Huyệt ở tại chỗ gặp nhau (giao hội) của ba kinh âm ở chân (Can, Tỳ, Thận) vì vậy gọi là Tam Âm Giao.
Vị trí
Huyệt nằm trong chỗ lõm giới hạn bởi phía trước là bờ sau xương chày, phía sau là cơ gấp các ngón chân dài1,8.Mặt trong cẳng chân, cách lồi cao nhất (đỉnh) mắt cá chân trong phía trên 3 thốn,1,2,3,5,6,7,8 bờ sau xương chày,1,4,5,6,7,8
Claudia Focks. Atlas of Acupuncture. Churchill Livingstone, 2008.
ÂM LĂNG TUYỀN SP-9
TÊN TIẾNG ANH: Yin Mound SpringTÊN PHIÊN ÂM: Yin ling quan (Yīn líng quán)
TÊN TIẾNG TRUNG: 陰陵泉
TÊN HUYỆT
Huyệt ở chỗ lõm (giống con suối = tuyền) phía dưới đầu xương mác (giống cái gò = lăng), lại ở mặt trong ngoài chân (mặt trong = âm), vì vậy gọi là Âm Lăng Tuyền.
VỊ TRÍ
CÁCH XÁC ĐỊNHGấp gối, huyệt ở mặt trong cẳng chân, trong chỗ lõm ở bờ dưới lồi cầu trong xương chày,1,2,4,5,6,7,8 bờ sau xương chày,1,2,4,5,6,7 ngang chỗ nối thân với lồi cầu trong xương chày,5
Sờ dọc bờ sau-trong xương chày lên đến góc tạo bởi lồi cầu trong xương chày2,5,6 và bờ sau xương chày,6 huyệt nằm trong chỗ lõm được giới hạn phía trước là bờ sau xương chày,5,6,7,8 phía sau là cơ bụng chân,1,5,7,8 và phía trên là cơ chân ngỗng,1,5,8
Huyệt nằm ngang mức với huyệt Dương lăng tuyền (G.B.-34),5,6.
Cơ chân ngỗng (pes anserinus) là một nhóm
cơ bao gồm cơ may (sartorinus), cơ thon (gracilis) và cơ bán gân (
semitendonosus). Ba cơ này xuất phát từ 3 vị trí khác nhau nhưng 3 trẽ
gân của 3 cơ này nhập lại bám vào mặt trước trong đầu trên xương chày.
Hình ảnh ba trẽ gân giống như chân của con ngỗng nên đã được đặt tên
theo hình ảnh này.
ĐỊA CƠ SP-8
TÊN TIẾNG ANH: Earth’s CruxTÊN PHIÊN ÂM: Diji (Dì jī)
TÊN TIẾNG TRUNG: 地機
VỊ TRÍ
Mặt trong cẳng chân, dưới huyệt Âm lăng tuyền (chỗ nối thân và lồi cầu trong xương chày) 3 thốn,1,2,3,4,5,6,7,8 sát bờ sau-trong xương chày,1,3,4,5,6
ỦY TRUNG BL-40
TÊN TIẾNG ANH: Middle of the CrookTÊN PHIÊN ÂM: WEI ZHONG (wěi zhōng)
TÊN TIẾNG TRUNG: 委中
TÊN HUYỆT
Huyệt nằm ở giữa (trung) nếp gấp nhượng chân (uỷ ) vì vậy gọi là Uỷ Trung.
VỊ TRÍ
Chính giữa nếp lằn khoeo chân,1,2,4,5,6,7,8 giữa gân cơ bán gân và gân cơ nhị đầu đùi,5,6,7 (gấp gối để làm rõ gân cơ).
Claudia Focks. Atlas of Acupuncture. Churchill Livingstone, 2008.
THỪA SƠN BL-57
TÊN TIẾNG ANH: Supporting MountainTÊN PHIÊN ÂM: CHENG SHAN (chéng shān)
TÊN TIẾNG TRUNG: 承山
TÊN HUYỆT
Huyệt ở vị trí cuối bắp chân (có hình dạng hình chữ V, như cái núi). Huyệt lại ở vị trí chịu (tiếp) sức mạnh của toàn thân, vì vậy gọi là Thừa Sơn (Trung Y Cương Mục).
Vị trí
Trong chỗ lõm hình chữ “V” ở mặt sau cẳng chân8 khi gấp gan chân,8 nơi tiếp giáp của hai đầu cơ bụng chân (cơ sinh đôi),1,2,3,5,6
huyệt nằm trên đường thẳng nối từ huyệt Ủy trung (BL-40) và gân gót,7 dưới Ủy trung 8 thốn,5,6,7,8
chính giữa đoạn thẳng nối từ huyệt Ủy trung (BL-40) đến huyệt Côn lôn (BL-60)6,8
DƯƠNG LĂNG TUYỀN G.B.-34
TÊN TIẾNG ANH: Yang Mound SpringTÊN PHIÊN ÂM: Yang Ling Quan (Yáng líng quán)
TÊN TIẾNG TRUNG: 阳陵泉
TÊN HUYỆT
Huyệt ở chỗ lõm (giống con suối = tuyền) phía dưới đầu xương mác (giống cái gò = lăng), lại ở mặt ngoài chân (mặt ngoài = dương), vì vậy gọi là Dương Lăng Tuyền.
VỊ TRÍ
Chỗ lõm phía trước và phía dưới đầu trên xương mác,4,5,6,7,8 ngang chỗ nối thân với đầu trên xương mác,1 giữa cơ mác dài và cơ duỗi các ngón chân dài,1,3,5,8
**********************************************************************************
LUẬN VỀ HUYỆT THÁI XUNG (LIV-3)
TÀI CHŌNG大冲 / GREAT RUSHING
Thái xung LIV-3 là huyệt quan trọng nhất
của kinh Can, có phạm vi hoạt động rộng lớn, có thể sử dụng để quân bình
cả hai bệnh cảnh thái quá và bất túc của tạng Can và kinh Can. Chính vì
tầm quan trọng đó nên danh y Từ Phong đời Minh đã xếp Thái xung LIV-3
vào “Mã Đơn Dương Thiên Tinh Thập Nhất Huyệt” (11 huyệt) trong tác phẩm
“Châm Cứu Đại Toàn” của ông. Từ lúc đó, những huyệt này được biết đến là
“Mã Đơn Dương Thiên Tinh Thập Nhị Huyệt” (12 huyệt).
TÊN HUYỆT
“Thái” hàm nghĩa ‘to, lớn’.
“Xung” hàm nghĩa ‘mạnh mẽ, hăng hái, xiết, vọt lên’.Huyệt là nơi nguyên khí cư ngụ, khí huyết đại thịnh là yếu đạo để khí thông hành, vì vậy gọi là Thái Xung (Trung Y Cương Mục).
ĐẶC ĐIỂM
Nguyên huyệt, huyệt Du (thuộc Thổ) của kinh Túc Quyết âm Can.
Thuộc nhóm Mã Đơn Dương Thiên Tinh Thập Nhị Huyệt.
VỊ TRÍ
Trên mu bàn chân, giữa xương đốt bàn chân 1 và 2,4,5,8 chỗ lõm phía trước chỗ nối hai đầu sau của xương đốt bàn chân 1 và 2,1,5,6,7 ngang chỗ nối thân với đầu sau xương đốt bàn chân 11,4
CÁCH XÁC ĐỊNH
Từ kẽ ngón chân 1 và 2, sờ dọc theo rãnh giữa hai xương đốt bàn chân 1 và 2 trên mu bàn chân, đi lên đến chỗ lõm trước chỗ gặp nhau của hai đầu sau xương đốt bàn chân 1-2,1,5,6,7 (chỗ lõm trước góc tạo bởi hai đầu sau của hai xương đốt bàn chân 1-2)1,5. Huyệt nằm trong chỗ lõm này, cách kẽ ngón chân 1-2 phía trên 2 thốn,2 hoặc cách đỉnh kẽ ngón chân 1-2 (huyệt Hành gian LIV-2) phía trên 1,5 thốn1,3.
GIẢI PHẪU
Cơ-xương-khớp
Qua da và mô dưới da là bờ ngoài của gân cơ duỗi ngón chân cái dài,1,3,8 bờ trong gân cơ duỗi ngón chân cái ngắn,1,3 kim xuyên qua cơ gian cốt mu chân,1,3,8 vào khoảng gian đốt bàn 1,8 (khe giữa đầu sau của xương đốt bàn chân 1 và 2)1
Mạch máu-Thần kinh
Lớp nông là cung tĩnh mạch mu chân và nhánh bì mu chân (nhánh mu ngón chân) của thần kinh mác sâu,8
Lớp sâu là động mạch mu chân (thuộc động mạch chày trước) và nhánh trong của thần kinh mác sâu,1,3,7,8 (thuộc thần kinh mác chung, chi phối vận động cơ vùng cẳng chân trước, chi phối cảm giác kẽ giữa ngón chân 1-2).
Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5,1,3.
CÁCH CHÂM
Châm thẳng,5,7 hoặc chếch,5,8 hướng về phía huyệt Dũng tuyền KID-1,6 sâu khoảng 0,5 thốn.1,2,3,5,6,7,8 Có thể sâu đến 1 thốn,5 hoặc 1,5 thốn6. Phụ nữ có thai không nên châm,5
Cứu 3-5 tráng.
Ôn cứu 5-10 phút.
CÔNG NĂNG
- Sơ Can lý khí, điều hòa huyết dịch.
- Bình Can tức phong.
- Tư âm dưỡng huyết, an thần.
- Thanh Can tả hỏa.
- Thanh lợi đầu mắt.
- Điều kinh, chỉ thống
- Thông điều hạ tiêu, thanh lợi thấp nhiệt hạ tiêu.
- Tổng quan, điều trị chứng khí uất trệ và tư âm dưỡng huyết – điều hòa tất cả các bệnh lý của Can.
- Chứng Can khí uất kết / Can dương thượng cang / Can dương hóa phong / Can hỏa thượng viêm – đau đầu, chóng mặt, nặng đầu, chứng uốn ván, co cứng các gân ở tay và chân, động kinh, chứng sợ gió, méo miệng, tăng huyết áp, nhìn mờ, sưng, đau, đỏ mắt, viêm loét miệng, môi nứt nẻ, sưng môi, vướng họng, đau họng, khô họng thích uống, nội nhiệt kèm khát nước, phát sốt nhẹ, nước da xanh tái.
- Chứng khí trệ trung tiêu – căng tức vùng hạ sườn, căng trướng và đau vùng gian sườn, đau ngực/hông sườn, hụt hơi, thở dài, sưng nách.
- Bệnh chứng tiêu hóa do Can Tỳ, Can Vị bất hòa – Đau bụng hoặc đau thượng vị, đau quanh rốn, buồn nôn, nôn mửa, nôn ra máu, táo bón, sôi bụng, tiêu chảy có hoặc không kèm phân sống, hội chứng lỵ, phân nhầy máu mủ và vàng da.
- Bệnh chứng tiết niệu – Đái dầm, di niệu, tiểu khó, tiểu buốt, 5 dạng rối loạn tiểu tiện (đái buốt, đái dắt -đái nhiều lần, bí đái, đái không tự chủ, đái ít), phù suy dinh dưỡng.
- Bệnh chứng sinh dục – đau và đầy tức vùng hạ vị, sưng đau tinh hoàn (chứng sán), chứng co rút tinh hoàn (hồ sán), sa tinh hoàn một bên (đồi sán), thoát vị (sa tử cung, thoát vị bẹn bìu), liệt dương, di tinh, suy giảm tinh trùng.
- Bệnh chứng kinh nguyệt – Rối loạn kinh nguyệt do huyết hư, âm hư, khí hư và/hoặc can khí uất kết – thiểu kinh, bế kinh, kinh nguyệt không đều, rong kinh, hội chứng tiền mãn kinh, đau căng tức vú, thiếu sữa, đổ mồ hôi liên tục và không dứt sau sinh.
- Bệnh chứng tâm sinh lý – giận dữ, cáu gắt, mất ngủ, lo lắng, sợ hãi.
- Chứng Tý – Đau thắt lưng lan xuống bụng dưới, đau thắt lưng, đau mặt trong và mặt ngoài gối, đau chi dưới, yếu liệt chi dưới, khó đi, cảm giác lạnh chân và gối, lạnh chân, đau mắt cá trong, sưng khuỷu tay và co rút các ngón tay.
Thái xung LIV-3 là Nguyên huyệt và là Du huyệt của kinh Can. “Linh Khu, thiên 6 – Thọ yếu cương nhu” có viết: “Âm bệnh ở tại Âm phận thì châm huyệt Huỳnh và huyệt Du thuộc Âm” – tức dùng Du huyệt để điều trị bệnh lý của tạng, “thiên 1 – Cửu châm thập nhị nguyên” viết: “Ngũ tạng có bệnh, dùng 12 Nguyên huyệt”.
Thái xung LIV-3 là huyệt quan trọng nhất của kinh Can, có phạm vi hoạt động rộng lớn, có thể sử dụng để quân bình cả hai bệnh cảnh thái quá và bất túc của tạng Can và kinh Can. Chính vì tầm quan trọng đó nên danh y Từ Phong đời Minh đã xếp Thái xung LIV-3 vào “Mã Đơn Dương Thiên Tinh Thập Nhất Huyệt” (11 huyệt) trong tác phẩm “Châm Cứu Đại Toàn” của ông. Từ lúc đó, những huyệt này được biết đến là “Mã Đơn Dương Thiên Tinh Thập Nhị Huyệt” (12 huyệt).
Chu Đan Khê nói: “Can chủ sơ tiết”; “khi khí huyết thông suốt thì vạn bệnh bất nhập. Khi khí huyết bất thông thì bệnh tật sẽ phát sinh”. Chức năng Can chủ sơ thông hàm nghĩa mặc dù Can không có chức năng sản sinh ra khí, nhưng nó đảm bảo sự vận hành của khí trong cơ thể được trơn tru, dễ dàng, hài hòa, thư thái và thông suốt. Chức năng này có thể bị suy yếu theo ba phương diện.
Đầu tiên và thường gặp nhất là do tình chí bị uất một cách đột ngột, đặc biệt là tức giận.
Hai là chức năng của Can quá mạnh biểu hiện là Can khí quá vượng. Trung y nhấn mạnh: “Chất của Can thuộc âm trong khi chức năng của Can thuộc dương”. Hàm nghĩa về mặt sinh lý, Can lấy khí là ‘Dụng’, lấy huyết là ‘Thể’, huyết thuộc âm, khí thuộc dương, gọi là ‘Thể âm mà Dụng dương’. Nói cách khác, Can dương phụ thuộc vào Can âm; Can dương, Can âm lấy Can khí, Can huyết làm cơ sở. Vì vậy, Can khí uất kết có thể làm hao tổn âm huyết, mà Can âm, Can huyết có chức năng nhu dưỡng tạng Can.
Ba là chức năng sơ thông khí của Can có thể bị ảnh hưởng do ngoại tà thấp-nhiệt.
Một điểm cần nhấn mạnh là phải hiểu được sự mất điều hòa của tạng Can do Can khí uất kết có thể làm phát sinh các rối loạn khác của tạng Can như Can khí hoành nghịch, hoặc Can khí hóa hỏa, Can âm bất túc dẫn đến Can dương thượng cang hoặc sự chuyển hóa Can hỏa hoặc Can dương thành Can phong. Sách “Loại Chứng Trị Tài” có viết: “Can Mộc tính thăng tán, không chịu nổi lấn át, uất thì Kinh khí nghịch…”
Vì thế có thể nói rằng bất kỳ bệnh chứng lâm sàng nào do mất điều hòa của tạng Can đều có thể quy là do Can khí uất kết. Can khí uất kết sẽ gây triệu chứng trướng, căng tức và đau, nổi trội ở các vùng mà kinh Can và kinh Đởm có quan hệ biểu – lý với nó đi qua. Trong đó triệu chứng ‘trướng’ được coi là đặc trưng, vì trước hết khí cơ phải uất trệ, trướng rồi sau mới gây đau, cho nên phần lớn bệnh về Can khí có thể có trướng mà không có đau, ít khi chỉ có đau mà không có trướng. Sự phát triển bệnh của nó phần nhiều bắt đầu từ bộ vị của bản Kinh và triệu chứng nổi lên ở hai bên sườn và bụng dưới rất rõ ràng, rồi sau mới theo đường kinh mà lan rộng ra, phía trên lên tới ngực lưng, phía dưới xuống tới bộ phần sinh dục. Khí uất có khuynh hướng di chuyển vòng quanh và thăng giáng thất thường, thường đi kèm với sự thay đổi tình chí, và được giảm bớt bởi các hoạt động thể lực và hoạt động biểu đạt tình chí, cả hai hoạt động này làm khí cơ thông suốt. Tên huyệt Thái xung LIV-3 liên quan đến chức năng của nó như là đường thông hành lớn cho sự vận hành của khí trong đường kinh. Nó là huyệt chính yếu để tăng cường sự vận hành thông suốt của Can khí, và có thể giải quyết sự tắc nghẽn của Can khí gây trướng, căng tức và đau ở bất kỳ bộ phận nào của cơ thể như đầu, mắt, miệng, ngực, tâm, vú, vùng thượng vị, vùng bụng, vùng hông sườn, tử cung hoặc bộ phận sinh dục.
Mặc khác, khí cơ nghẽn trệ làm cho tình chí uất nghịch không thư sướng, lâu ngày sẽ hóa nhiệt, loại nhiệt này cũng uất nên ở trong khó phát tiết ra ngoài, xuất hiện các triệu chứng tâm thần bất an như bực tức, nóng nảy, cáu gắt, mất ngủ, tiểu tiện vàng ít và sợ sệt… Sách “Linh khu” viết: “Can tàng huyết, huyết là nơi cư trú của hồn; Can khí bất túc sẽ gây ra sợ sệt”. Mặc dù, huyệt Thái xung LIV-3 được sử dụng rất nhiều trên lâm sàng đối với các biểu hiện khí uất thuộc tâm lý, cảm xúc như trầm cảm, thất vọng, cảm giác bị dồn nén, cáu gắt, tình trạng căng thẳng tiền mãn kinh (về tinh thần, cảm xúc, thần kinh), tâm tính thất thường, trạng thái muốn khóc .v.v… nhưng ngoại trừ chỉ định điều trị chứng sợ sệt, thì những chỉ định điều trị các chứng trạng tâm sinh lý khác hầu như không thấy trong các y văn cổ xưa.
Thái xung LIV-3 là yếu huyệt để bình Can dương, tức Can phong. Can là tạng thuộc ‘Phong Mộc’ và là ‘tướng Hỏa’. Khí của nó mãnh liệt, mạnh mẽ và linh hoạt, được nói đến trong Trung y như sau: “Can thượng thăng”; “Can chi phối sự vận động của cơ thể”. Vì vậy, Can thường nóng, táo bạo, hướng thượng và bản chất của Can thường vận hóa quá mức bình thường, biểu hiện Can dương thượng cang, hoặc tiến triển đến mức khấy động Can phong. Nguyên nhân dẫn đến chứng Can dương thượng cang, tức chứng Can dương nổi lên khuấy động, một là do Can nhiệt mà dương thắng lên trên, hai là do huyết hư mà dương không chứa đựng kín đáo. Sách “Loại Chứng Trị Tài” có viết: “Phong dựa vào mộc, mộc uất thì hóa phong, là chóng mặt, là choáng váng, là lưỡi tê dại, tai ù, là co cứng, là tê, là loại trúng…”; lại nói “Can dương hóa phong, quấy rối thanh khiếu ở trên thì đau đỉnh đầu, chóng mặt, hoa mắt, tai ù, hồi hộp, trằn trọc”. Ngoài ra, ‘phong’ có thể bị khuấy động do huyết hư và là kết quả của sự mất huyết trong lòng mạch. Huyệt Thái xung LIV-3 được chỉ định khi có biểu hiện của ‘phong’ điển hình như đau đầu, chóng mặt, nặng đầu, cảm giác sợ gió, co giật, động kinh, uốn ván và méo miệng…
Huyệt Thái xung cũng quan trọng không kém đối với các chứng Can hư. Nó có thể thúc đẩy sự sinh thành của cả Can huyết lẫn Can âm và vì vậy nó có tác dụng dinh dưỡng các bộ phận của cơ thể mà Can chi phối như mắt, gân và tử cung. Can âm hư là nguồn gốc của Can dương vượng, trong khi Can huyết hoặc Can âm hư thường là gốc của Can phong. Vì vậy, huyệt Thái xung LIV-3 có thể ức chế sự thái quá hoặc bổ sung sự bất túc, và có thể dùng để điều trị cả gốc lẫn ngọn của các chứng bệnh này.
“Linh khu, thiên 17 – Mạch độ” có viết: “Can khí thông với mắt, nếu Can hòa thì mắt có thể phân biệt được ngũ sắc”, “Tố vấn, thiên 10 – Ngũ tạng sinh thành” viết: “Can thụ huyết nhi năng kiến” (Can nhận được huyết thì nhìn thấy). Thái xung LIV-3 được chỉ định cho chứng Can huyết hư hoặc Can âm hư không nhu dưỡng cho mắt dẫn đến nhìn mờ và giảm thị lực cũng như chứng Can dương, Can hỏa vượng hoặc Can hóa phong, hóa nhiệt dẫn đến đỏ mắt, sưng mắt và đau mắt, hoặc Can phong dẫn đến sự vận động bất thường của mắt và mi mắt.
Can thông với não tại huyệt Bách hội DU-20, điểm cao nhất của cơ thể, và là kinh âm duy nhất chạy lên phần trên của đầu. Do đó, huyệt Thái xung LIV-3 được dùng để điều trị các bệnh lý vùng đầu đặc biệt là đau đầu và chóng mặt trong cả hai trường hợp do Can hư hoặc Can vượng. Sách “Loại Chứng Trị Tài” có viết: “Can dương hóa phong, quấy rối thanh khiếu ở trên thì đau đỉnh đầu…”, vì vậy huyệt Thái xung LIV-2 còn được chỉ định đặc biệt trong điều trị đau đỉnh đầu.
Can liên quan mật thiết với chu kỳ kinh. Can tàng huyết và đường vận hành của nó đi xuống vùng bụng dưới liên lạc với mạch Nhâm tại huyệt Khúc cốt REN-2, Trung cực REN-3 và Quan nguyên REN-4, đồng thời sự vận hành thông suốt của Can khí quan trọng đối với kinh nguyệt vì nó đảm bảo sự vận hành thông lợi của huyết dịch. Vì tầm quan trọng của Can đối với kinh nguyệt nên Diệp Thiên Sĩ có nói “Can là khí tiên thiên của người nữ”. Can khí uất kết, Can hỏa hoặc Can huyết hư có thể gây ra các chứng bệnh như bế kinh, kinh nguyệt không đều và rong kinh. Thái xung LIV-3 là huyệt quan trọng dùng để điều trị các bệnh lý này.
Kinh Can chạy qua vùng sinh dục và vùng bụng dưới, liên quan mật thiết với cơ quan sinh dục-tiết niệu. Sự bài tiết bình thường của nước tiểu phụ thuộc chủ yếu vào Thận và Bàng quang nhưng cũng được hỗ trợ nhờ chức năng Can chủ sơ tiết. Huyệt Thái xung LIV-3 được chỉ định đối với các chứng bí tiểu, tiểu buốt hoặc tiểu khó do sự ứ trệ của khí, cũng như cho các chứng sán kết, đau vùng sinh dục, và sưng hoặc co thắt tinh hoàn. Do có liên hệ với vùng này nên Thái xung LIV-3 còn được chỉ định cho chứng rối loạn tiết niệu như đái dầm, di niệu và phù suy dinh dưỡng. Huyệt Thái xung còn được dùng để tư bổ chứng hư tổn trong vùng này như chứng thiểu tinh (tinh dịch ít <2ml, bình thường 2-6ml).
Trong đường ruột, tình trạng khí cơ suy yếu, không thông lợi có thể dẫn đến đi cầu phân bón, và huyệt Thái xung LIV-3 được dùng điều trị táo bón hoặc khó đi cầu do khí trệ hoặc do có nhiệt tích trệ. Chứng hậu lâm sàng thường thấy của chứng đau bụng và tiêu chảy là chứng Can khí uất kết cùng với Tỳ hư biểu hiện đi cầu khó xen kẽ với táo bón. Thái xung là huyệt quan trọng để điều trị chứng bệnh này, đồng thời có thể kết hợp với huyệt Chương môn LIV-13, huyệt mộ của Tỳ. Ở trung tiêu, Thái xung LIV-3 thường dùng để điều trị nôn mửa do Can khí bất hòa và vàng da do Can Đởm thấp nhiệt.
Ngoài ra, Thái xung LIV-3 và Hợp cốc L.I.-4 được gọi là ‘Tứ Quan’ huyệt. “Tứ quan huyệt” là sự phối hợp hai huyệt Thái xung LIV-3 và Hợp cốc L.I.-4 cả hai bên. Sự phối hợp này được biết đến đầu tiên trong ”Tiêu U Phú”, viết rằng “đau do hàn nhiệt gây bế tắc, thủ tứ quan”. Câu này hàm ý rằng các huyệt Nguyên của sáu kinh dương xuất ra ở “tứ quan”. Vì nguyên lý cơ bản điều trị đau do tắc nghẽn là chọn huyệt của các kinh dương, điều này giải thích tại sao hai huyệt này được xem là hiệu quả trong điều trị đau do tắc nghẽn. Về sau, việc sử dụng các huyệt này được mở rộng trong điều trị các bệnh lý liên quan đến đau và co thắt. Đây là sự kết hợp hài hòa. Huyệt Hợp cốc L.I.-4 ở chi trên nằm trong chỗ lõm giữa hai xương đốt bàn tay 1 và 2, trong khi huyệt Thái xung LIV-3 ở chi dưới trong chỗ lõm giữa hai xương đốt bàn chân 1 và 2. Hợp cốc L.I.-4 là Nguyên huyệt thuộc kinh Dương minh ‘nhiều khí, nhiều huyết’ còn Thái xung LIV-3 là Nguyên huyệt và là Du huyệt thuộc kinh Quyết âm “nhiều huyết, ít khí’, có chức năng sơ thông kinh khí. Hợp cốc chủ về khí, Thái xung chủ về huyết. Do đó, Hợp cốc có công năng điều khí, phát hãn giải biểu, đuổi Phong trấn thống; Thái xung lại có công năng điều huyết, khai lợi quan tiết, đuổi Phong trấn áp được nỗi lo sợ, trừ đau nhức, dẫn khí hạ hành. Phối cả 2 huyệt sẽ điều được khí huyết, hoà được Âm Dương, trừ Phong, bình Can khí, đồng thời có thể hoạt hóa mạnh mẽ khí và huyết, đảm bảo khí huyết được lưu thông khắp cơ thể.
Sau hết, Thái xung LIV-3 được chỉ định cho các loại bệnh lý liên quan đến đường kinh như đau thắt lưng, đau gối hoặc đau, yếu chân, lạnh chân, lạnh gối và co rút các ngón tay.
PHỐI HUYỆT ĐIỀU TRỊ
BỆNH CHỨNG TIM MẠCH
- Đau thắt ngực – chứng Can Tâm thống: Thái xung LIV-3 và Hành gian LIV-2 (Tôn Tư Mạo. Thiên Kim Yếu Phương. 625).
- Đau thắt ngực – “Chứng quyết Tâm thống kèm sắc mặt xanh xao như người chết, khó thở suốt ngày, gọi là chứng Can Tâm thống”: Thái xung LIV-3 và Hành gian LIV-2 (Hoàng Phủ Mật. Châm Cứu Giáp Ất Kinh. 282), (Linh khu 24, 14).
- Tiêu chảy phân lỏng hoặc hội chứng lỵ kèm đi cầu phân máu: Thái xung LIV-3 và Khúc tuyền LIV-8 (Tôn Tư Mạo. Thiên Kim Yếu Phương. 625).
- Tiêu chảy: Thái xung LIV-3, Thần khuyết REN-8 và Tam âm giao SP-6 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Đại tiện khó: Thái xung LIV-3, Trung liêu BL-33, Thạch môn REN-5, Thừa sơn BL-57, Trung quản Ren-12, Thái khê KID-3, Đại chung KID-4 và Thừa cân BL-56 (Vương Chấp Trung. Châm Cứu Tư Sinh Kinh. 1220).
- Đi cầu ra máu: Thái xung LIV-3, Thừa sơn BL-57, Phục lưu KID-7 và Thái bạch SP-3 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Đi cầu ra máu: Thái xung LIV-3, Ẩn bạch SP-1, Hạ liêu BL-34, Hội dương BL-35, Lao cung TB-8, Phục lưu KID-7, Thái uyên LU-9, Thừa sơn BL-57, Trường cường DU-1 (Ngô Dịch Đỉnh. Thần Cứu Kinh Luân. 1851).
- Năm loại bệnh trĩ: Thái xung LIV-3, Ủy trung BL-40, Thừa sơn BL-57, Phi dương BL-58, Dương phụ GB-38, Phục lưu KID-7, Hiệp khê GB-43, Khí hải REN-6, Hội âm REN-1 và Trường cường DU-1 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- “Tỳ Vị dương hư, hàn trệ ở Can, tay chân quyết lãnh, nặng thì nôn mửa, bụng đau, tiêu chảy, lưỡi nhạt, bệu, mạch Trầm Tế muốn tuyệt”: Thái xung LIV-3, Quan nguyên REN-4, Trung quản REN-12 và Túc tam lý ST-36 (Đơn Ngọc Đường. Thương Hàn Luận Châm Cứu Phối Huyệt Tuyển Chú. Nhà xuất bản Vệ sinh Nhân dân Bắc Kinh, 1984).
- Viêm gan: Thái xung LIV-3, Hành gian LIV-2, Ngũ lý LIV-10 (Học Viện Trung Y Thượng Hải. Châm Cứu Học. Nhà xuất bản Vệ sinh Nhân dân Bắc Kinh, 1974).
- Đái dầm: Thái xung LIV-3, Kỳ môn SP-11, Thông lý HE-5, Đại đôn LIV-1, Bàng quang du BL-28, Ủy trung BL-40 và Thần môn HE-7 (Vương Chấp Trung. Châm Cứu Tư Sinh Kinh. 1220).
- Phù suy dinh dưỡng: Cứu Thái xung LIV-3 và Thận du BL-23 tổng cộng 100 lần (Tôn Tư Mạo. Thiên Kim Yếu Phương. 625).
- “Bệnh ngược phát từ kinh túc Quyết âm khiến cho người ta đau yếu, bụng dưới đầy, tiểu không thông, giống như bí tiểu mà không phải bí tiểu nhưng lại muốn đi tiểu luôn, sợ sệt, khí bất túc, trong bụng thấy khó chịu”: Thái xung LIV-3 (Tố Vấn 36, 6).
- “Bụng dưới đầy trướng, thích ở huyệt Túc Quyết Âm”: Thái Xung LIV-3 (Tố Vấn 41, 19).
- Đau bộ phận sinh dục: Thái xung LIV-3, Thận du BL-23, Chí thất BL-52 và Kinh cốt BL-64 (Vương Chấp Trung. Châm Cứu Tư Sinh Kinh. 1220).
- Sưng đau / co rút / sa tinh hoàn (chứng sán): Thái xung LIV-3 và Đại đôn LIV-1 (Hoạt Bá Nhân. Thập Tứ Kinh Phát Huy. 1341).
- Sưng đau / co rút / sa tinh hoàn (chứng sán): Thái xung LIV-3, Huyền chung GB-39 và Đại đô SP-2 (Cao Võ. Châm cứu Tụ Ạnh. 1529).
- Sưng đau / co rút / sa tinh hoàn (chứng sán): Thái xung LIV-3, Hành gian LIV-2, Lãi câu LIV-5, Trung phong LIV-4, Đại đô SP-2, Quan nguyên REN-4, Thủy đạo ST-28, Lan Môn (Lâu Anh. Y Học Cương Mục. 1565).
- Viêm tinh hoàn: Thái xung LIV-3, Lãi câu LIV-5 và Khúc tuyền LIV-8 (Học Viện Trung Y Thượng Hải. Châm Cứu Học. Nhà xuất bản Vệ sinh Nhân dân Bắc Kinh, 1974).
- Sa tử cung: Thái xung LIV-3, Thiếu phủ HE-8, Chiếu hải KID-6 và Khúc tuyền LIV-8 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Sa tử xung và xuất huyết tử cung: Thái xung LIV-3, Giao tín KID-8, Âm cốc KID-10 và Tam âm giao SP-6 (Vương Chấp Trung. Châm Cứu Tư Sinh Kinh. 1220).
- Sa tử cung và xuất huyết tử cung: Thái xung LIV-3 và Tam âm giao SP-6 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Xích bạch đới (khí hư ra nhiều dịch màu trắng lẫn màu đỏ): Khúc cốt REN-2 (cứu 7 mồi ngải), Thái xung LIV-3, Quan nguyên REN-4, Phục lưu KID-7, Tam âm giao SP-6 và Thiên xu ST-25 (cứu 100 mồi ngải) (Liêu Nhuận Hồng. Châm Cứu Tập Thành. 1874).
- Rong kinh: Thái xung LIV-3, Nhiên cốc KID-2 (Vương Chấp Trung. Châm Cứu Tư Sinh Kinh. 1220).
- Băng huyết: Thái xung LIV-3, Âm cốc KID-10, Đại đô SP-2, Khí hải REN-6, Nhiên cốc KID-2, Tam âm giao SP-6, Trung cực REN-3 (Ngô Dịch Đỉnh. Thần Cứu Kinh Luân. 1851).
- Khó sinh: Châm tả Thái xung LIV-3 và Tam âm giao SP-6, châm bổ Hợp cốc L.I.-4 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Thiếu sữa: Thái xung LIV-3, Phục lưu KID-7 (Cao Võ. Châm Cứu Tụ Ạnh. 1529).
- Thiếu sữa: Thái xung LIV-3, Túc lâm hấp GB-41, Kiên tĩnh GB-21, Đản trung REN-17 và Nhũ căn ST-18 (Trình Tân Nông. Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu. 1988).
- Đau vú: Thái xung LIV-3 và Phục lưu KID-7 (Hoàng Phủ Mật. Châm Cứu Giáp Ất Kinh. 282).
- “Đau do hàn nhiệt gây bế tắc, thủ Tứ quan”: Thái xung LIV-3 và Hợp cốc L.I.-4 hai bên (Dương Kế Châu. Tiêu U Phú. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Đau cánh tay dai dẳng lan lên vai và cột sống: Thái xung LIV-3 và Hợp cốc L.I.-4 (Từ Phong. Tịch Hoằng Phú. Châm Cứu Đại Toàn. 1439).
- Đau nhức tay chân: Thái xung LIV-3 và Hợp cốc L.I.-4, Khúc trì L.I.-11 và Túc tam lý ST-36 (Viện Trung Y Thượng Hải. Châm Cứu Học. Nhà xuất bản Vệ sinh Nhân dân Bắc Kinh, 1974).
- Yếu chân: cứu Thái xung LIV-3, Lệ đoài ST-45 và Phong thị GB-31 (Lâu Anh. Y Học Cương Mục. 1565).
- Yếu chân: Thái xung LIV-3, Dương lăng tuyền GB-34, Xung dương ST-42 và Khâu khư GB-40 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Không đi được: Thái xung LIV-3, Túc tam lý ST-36 và Trung phong LIV-4 (Cao Võ. Ngọc Long Phú. Châm Cứu Tụ Ạnh. 1529).
- Khó đi: Thái xung LIV-3 và Trung phong LIV-4 (Dương Kế Châu. Thắng Ngọc Ca. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Đau, sưng và nổi hạch ở nách: Thái xung LIV-3, Hiệp khê GB-43 và Dương phụ GB-38 (Tôn Tư Mạo. Thiên Kim Yếu Phương. 625).
- Đau trướng bụng lan ra sau lưng: Thái xung LIV-3 và Thái bạch SP-3 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Đỏ mắt và chảy máu mũi: Thái xung LIV-3, Đầu lâm khấp GB-15 và Hợp cốc L.I.-4 (Hoạt Bá Nhân. Thập Tứ Kinh Phát Huy. 1341).
- Nghẹt mũi, polyp mũi (trĩ mũi) và chảy mũi, nghẹt mũi (viêm mũi): Thái xung LIV-3 và Hợp cốc L.I.-4 (Hoạt Bá Nhân. Thập Tứ Kinh Phát Huy. 1341).
- Đau họng cấp: Đầu tiên châm Bách hội DU-20, sau đó châm Thái xung LIV-3, Chiếu hải KID-6 và Tam âm giao SP-6. (Từ Phong. Tịch Hoằng Phú. Châm Cứu Đại Toàn. 1439).
- Sưng môi: Thái xung LIV-3 và Ưng song ST-16 (Vương Chấp Trung. Châm Cứu Tư Sinh Kinh. 1220).
- Nứt lưỡi và chảy máu lưỡi: Thái xung LIV-3, Nội quan P-6 và Âm giao REN-7 (Cao Võ. Tạp Bệnh Huyệt Pháp Ca. Châm cứu Tụ Ạnh. 1529).
- Loét miệng, nhiệt miệng và khô miệng: Thái xung LIV-3, Lao cung P-8, Thiếu trạch SI-1 và Tam gian L.I.-3 (Tôn Tư Mạo. Thiên Kim Yếu Phương. 625).
- Khô miệng thích uống nước: Thái xung LIV-3 và Hành gian LIV-2 (Tôn Tư Mạo. Thiên Kim Yếu Phương. 625).
- Khô họng, khát nước: Thái xung LIV-3, Hành gian LIV-2, Thừa tương REN-24, Kim tân (trái) (M-HN-20) – Ngọc dịch (phải) (M-HN-20), Nhân trung DU-26, Liêm tuyền REN-23, Khúc trì L.I.-11, Lao cung P-8, Thương khâu SP-5, Nhiên cốc KID-2 và Ẩn bạch SP-1 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
- Mụn nhọt ở lưng: Thái xung LIV-3, Hành gian LIV-2, Túc lâm khấp GB-41, Kiên tĩnh GB-21, Túc tam lý ST-36, Ủy trung BL-60, Thiếu hải HE-3, Thông lý HE-5 (Dương Kế Châu. Châm Cứu Đại Thành. 1601).
No comments:
Post a Comment