-
Tích khí tồn tinh cánh dưỡng thần,
Thiểu tư quả dục, vật lao thân.
( Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.) Vậy tinh khí thần là gì?
-
Trời có ba báu là: Nhựt , Nguyệt , Tinh.
Đất có ba báu là: Thủy , Hỏa.,Phong
Người có tam bửu là: Tinh, Khí ,Thần.
Đất nhờ ba báu ấy ma ømưa gió điều hòa, cỏ cây tươi nhuận thời tiết có bốn mùa.
Người có tam bửu để nuôi dưỡng thân thể, minh mẩn phát kiến khoa học giúp nhân loại.
Con người qui được tam bửu ngũ hành thì đắc quả đạt đạo, còn chơi bời trác táng làm hư hoại tam bửu ngũ hành thì thân bại , hình người mà dạ thú. Vậy phải giữ gìn tinh , khí , thần như báu vật.
TINH
KHÍ
Khí là sức hoạt động của nội tạng như khí lục phủ, khí ngũ tạng…
Như vậy, khí bao hàm cả hai loại trên Theo nguồn gốc thì khí trời hít thở vào phổi và khí hoá sinh ra trong thức ăn uống đều gọi là khí hậu thiên.
Còn khí chứa ở thận gọi là khí tiên thiên, vì nó bao gồm khí nguyên âm (thận âm) và khí nguyên dương (thận dương) bẩm thụ ở tiên thiên , nên còn gọi là nguyên khí.
Hai khí tiên thiên và hậu thiên bao trùm bốn thứ: nguyên khí, tôn khí, dinh khí và vệ khí. Tôn khí (thượng tiêu ) chưá ở Thượng khí hải tại giữa ngực . Đó là chỗ vừa qui tụ vừa xuất phát vận hành trong toàn thân rồi lại trở về tại đó.Tôn khí và nguyên khí, một chứa ở lồng ngực và một chứa ở thận kết hợp nhau mới nuôi dưỡng cả cơ thể. Ta gọi chung cả hai là chân khí. Chân khí kết hợp với cốt khí làm cho cơ thể khỏe mạnh.
Dinh khí (Trung tiêu) là thứ khí của thức ăn uống thuộc âm. Âm tính nhu thuận cho nên dinh khí đi ở trong mạch .
Vệ khí (hạ tiêu) là khí mạnh trong đồ ăn uống nên thuộc dương đi ngoài mạch .Khi ta luyện khí thì âm dương ức chế lẫn nhau. Nếu tôn khí, dinh khí, vệ khí bất hoà trở ngại, ta sẽ bị bệnh.
THẦN
Thần biểu hiện sức sống . Cho nên thần còn thì sống, thần chết thì hết. Thần sung mãn thì ngươì khỏe mạnh , thần suy kém thì người yếu đuối.
Quan hệ giữa tinh , khí, thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Cái mạng con người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Để cho pháp luân thường chuyển thì khí sinh tinh, tinh dưỡng khí, khí dưỡng thần, rồi thần lại hoá khí. Tam bửu hổ tương lẫn nhau. Tinh là cơ sở của thần, khí từ tinh hoá ra. Thần là mặt biểu hiện của khí .
Sự thăng trầm của tinh , khí, thần quan hệ đến mạnh yếu của thân thể, sự mất còn của sự sống. Vì thế cổ nhân mới gọi tinh khí thần là tam bửu (ba món báu ), tức là nguồn gốc sinh mạng của con người. Các nhà đaọ học coi thần là Thái cực nơi cơ thể con người . Thần chủ đaọ viêïc phối hợp khí hóa âm dương màta thường gọi là thần khí , thần sắc. Nên thần mất tạng tuyệt, vì các tạng có nhiệm vụ : can tàng hồn , tâm tàng thần, thận tàng tinh, phế tàng phách và tỳ tàng trí ý. Như thế , thần luân chuyển họat động , biến hóa vô cùng , không có chúng sanh nào mà không có thần ngự trị.
Luyện kỷ là tự luyện mình ( kỷ là tự mình ) lập cái tâm cho dứt sự thương yêu (diệt dục ), trìu mến , và mọi quyến rũ của thế gian (trường trai ) là tập làm chủ bản thân mình . Tu đơn , tu chơn , thiền định, hay luyện kỷ là một trong các cách nói khác nhau . Hườn hư là an tịnh cái tâm , luyện cho khí hậu thiên tiếp vơí khí tiên thiên. Hễ hườn hư là đạt đạo.
Ngoài việc nâng cao chính khí để cơ thể nhẹ nhàng thuần dương đắc quả, việc luyện tinh khí thần là tập cho con người tính điềm đạm ,vui tươi, lòng nhân ái, có những suy nghĩ tốt , bỏ tư tưởng xấu xa, tăng cường hoạt động nội tạng mà còn sửa mình , trừ khử các bịnh và diệt thất tình , lục dục nữa.
Vì giận thì hại can (can thuộc mộc), mừng quá hại tâm (tâm thuộc hoả) , lo nghĩ hại tỳ (tỳ thuộc thổ) buồn quá hại phế (phế thuộc kim) , sợ hãi hại thận (thận thuộc thủy).
Thế nên bỏ giận dữ để nuôi dưỡng tinh, ít lo nghĩ để nuôi dưỡng thần, bớt nói để nuôi dưỡng khí, ngăn lòng ham muốn để nuôi dưỡng tâm.
Muốn nuôi dưỡng tâm phải nuôi dưỡng thần trước.
Muốn nuôi dưỡng thần phải nuôi dưỡng khí trước.
Muốn nuôi dưỡng khí phải nuôi dưỡng tinh trước.
Muốn nuôi dưỡng tinh phải nuôi duỡng chí trước.
Muốn nuôi dưỡng chí phải nuôi dưỡng thần trước.
Việc luyện đaọ chỉ có một mục đích, nhưng mỗi thời kỳ có tên khác nhau. Phật Giáo chú trọng “Hư vô tịch diệt” nên dùng phép thiền định mà giữ lòng không cho xao động.
Đạo Tiên chú trọng “ thanh tịnh vô vi” để tùng thiên lý, quyết không để cái tâm lưu luyến hồng trần , tức lánh trần.
Đạo Nho chú “ tồn tâm dưỡng tánh”, chỉ tĩnh toạ để tạo cái tính tiết độ cao siêu của bậc quân tử.
Đại Đạo thì chú trọng luyện “ tam bửu, ngũ hành” mỗi ngày công phu bốn lượt và tịnh luyện một lần để nuôi dưỡng linh hồn, vì đó là mục đích trọng yếu của tu thân.
Luyện tinh khí thần, chủ yếu là luyện khí. Khí vào buồng phổi rồi luân lưu khắp châu thân để nuôi dưỡng cơ thể . Vậy luyện khí tức là luyện thở .
Con người có thể nhịn ăn 50 ngày, nhịn uống 5 ngày, nhưng chỉ nhịn thở vài phút thì sự sống không còn.
Khi còn bào thai trong bụng mẹ thì bà mẹ đã thở cho thai nhi .Khi sanh ra, cuống rún bị cắt rời tách khỏi nguồn thở của mẹ. Thán khí trong máu trẻ sơ sinh tăng cao khiến nó phải khóc giúp cho hai lá phổi bung ra.
Thế là sự hô hấp của đứa bé bắt đầu thở cho đến cuối cuộc đời của nó. Như vậy sợi nhau thai thay thế bởi sợi sinh khí đem sự sống của khí trời vào cho con người . Sợi khí đó là hơi thở. Hơi thở là sự sống, mà sống là phải thở. Nhưng thở cách nào cho sự sống khỏe mạnh và sống lâu dài, đó là cả một nghệ thuật nên phải luyện khí vừa để nuôi cơ thể, vừa để dưỡng thần chí.
Muốn tham thiền nhập định, trước phải luyện khí. Thế nên luyện khí rất quan trọng. Đức Chí Tôn dạy:
- “ T… làm Tịnh thất cho rồi đặng mấy anh em con vào tịnh; cái đài luyện khí trật hướng, phải xoay mặt qua chánh đông” (Đàn 5- 1928).
Muốn tịnh tâm (an tâm) , ta phải thở bằng bụng: phình bụng là hít vào, thót bụng là thở ra, thở như vậy để trái tim được thong thả.
TÍNH CHẤT CỦA LUYỆN THỞ
Khi thở ra, khí dơ trong các phế nang được thải ra hết. Khi hít vào, khí trong lành phải đi qua mũi đủ thời gian điều hòa nhiệt độ của không khí và đủ thời gian khi đi vào tận phế nang sâu nhất. Chính vì thế mà ta phải thở sâu và thong thả mới bảo đảm sự trao đổi khí bên trong cơ thể được trọn vẹn.
2-Thở êm nhẹ:
Biểu hiện sự thoải mái trong tâm hồn, hơi thở ra hoặc hít vào không có tiếng động, người ngồi bên cạnh không nghe được hơi thở của ta. Hãy đặt một cái lông trước lỗ mũi, nếu hơi thở lay động cái lông, tức hơi thở chưa êm nhẹ
3- Thở đều nhịp:
Vì các cơ quan trong thân thể đều tuân theo một nhịp điệu nhất định để giữ thế cân bằng, ổn định sinh lý và phụ thuộc vào nhịp thở và nhịp tim. Hai loại nhịp nầy quan hệ mật thiết với nhau. Do đó thay đổi nhịp thở cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của tim, tốt hay xấu tùy theo nhịp thở mau hay chậm .
Phải giữ đều nhịp thở từ đầu đến cuối lúc luyện khí, 8 lần trong một phút là tốt.
THỞ BẰNG MŨI
Nếu hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng thì mạch nhâm mạch đốc bị rời ra và độ nóng không khí dần dần mất nhiệt nên sẽ bị lạnh, gây ra sổ mũi hay sưng phổi. Còn thở ra bằng mũi thì nhiệt độ được bảo toàn giúp cho mũi điều hoà được không khí hít vào .
Mũi còn có vai trò điều tiết lưu lượng không khí hít vào và thở ra. Nếu thở bằng miệng thường làm thay đổi tỉ lệ đó và làm mất cân bằng hoạt động hô hấp.
Thở bằng miệng chỉ nên dùng trong trường hợp khẩn cấp do cơ thể đòi hỏi mà thôi.
Thở bằng mũi còn có lợi là vì các đầu dây thần kinh khứu giác tập trung bên trong đó, giúp ta phân biệt được mùi hương để khám phá mọi sự thay đổi ô nhiểm của không khí mà cơ thể có phản ứng tự vệ tức thời. Khi tập thở thì thả lỏng các cơ bắp không tham gia vào động tác thở, như tay chân chẳng hạn. Hai mắt phải lim dim hoặc nhắm hẳn lại để dễ dàng tập trung ý tưởng vào Hạ khí hải (tức Đơn điền). Nhờ đó ta tưởng tượng khí lọt vào mũi nhẹ nhàng làm bụng phình lên, xẹp xuống. Tới một lúc, ta cảm hấy hơi thở dương khí lôi cuốn mình đi…và ta sắp bước sang trạng thái khoan khoái kỳ lạ phiêu diêu.
NHỮNG ĐIỂM CƠ BẢN VỀ THỞ BỤNG
2- Luôn luôn thể hiện trong tâm hình ảnh : phình bụng hít vào, xẹp bụng thở ra cho hết thán khí Thở sâu, thong thả, nhẹ nhàng và đều nhịp
Tập thở thuần thuộc đến độ nào đó không cần tập nữa mà cơ thể phản xạ thở tự nhiên theo thói quen.
Thầy Mạnh Tử viết rằng: “Thi tập nghĩa sở sanh, phi nghĩa tập nhi thủ chi”. Nghĩa là làm theo đạo pháp thì khí sanh mà không dùng sức để cưỡng chế. Thầy cũng nói: “Tất hữu sự yên, nhi vật chánh. Tâm vật động. Vật tư trưởng dả”. Aét có sự đến (khí sanh) nhưng đừng dùng sức mạnh ép khí.Tâm không động mà chẳng lưu ý trợ trưởng nữa. Thầy cho phép luyện thở như cách trồng lúa, muốn lúa mau lên thì phải năng chăm bón chớ chẳng phải lấy tay nhóm gốc, chẳng khác gì thúc bách khí chóng đến mà không biết pháp nuôi dưỡng khí thì không bao giờ đạt hiệu quả.
Ngay từ buổi đầu khai Đạo, Đức Chí Tôn đã dạy các môn đệ cần phải tịnh luyện:
- Thành tâm niệm Phật
Tịnh , tinh , tịnh, tỉnh, tỉnh.
Tịnh là vô nhứt vật,
Thành tâm hành đạo (pháp)
(Đàn đêm 14-1-1926)
- Tịnh khẩu chú
Lời ăn nói là nơi lỗ miệng
Tiếng luận bàn liệu biện đề phòng.
Giữ cho miệng đặng sạch trong,
Gìn tâm minh chánh rèn lòng niệm kinh
(1 lạy ) Tịnh tâm chú
Lòng người đặng tánh linh hơn vật
Biết kỉnh thành dè dặt khôn lanh
Khá tua lánh dữ làm lành
Những điều nghiệt ác hóa thành khói tan .
(1 lạy)
Tịnh thần chú
Ở trần thế bụi nhơ thân vấy
Khí trược xin bốc tẩy thành hơi
Đạo tâm giữ sạch chẳng dời
Lòng thành kỉnh lạy Phâït Trời chứng tri.
(1 lạy)
Muốn tĩnh tọa phải là một cái bồ đoàn, hình tròn đường kính 2 tấc, cao 1 tấc, dồn gòn. Bồ đoàn để giữa cái niệm hình vuông cạnh 6 tấc. Tu sĩ ngồi lên bồ đoàn xếp hoa sen như ngồi cúng ở Tòa Thánh .
Xương cùn chiếu đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua, nghiêng lại cho chính rồi chỉnh thân cho ngay thẳng, hai ống chân kéo sát vào thân, sau đó nới lỏng dây lưng, cổ áo cho thoải mái. Lấy mu bàn tay trái để lên lòng bàn tay phải (nữ thì làm ngược lại ). Hai ngón tay cái tiếp xúc với nhau, cạnh ngón út bàn tay đặt nhẹ vào dưới đơn điền..lưng thẳng , đầu hơi cuối xuống, mắt nhắm ¾. Gương mặt bình thản và bắt đầu thở bằng bụng (thai tức) . Nhớ ngậm miệng lại , răng khít răng, lưỡi kề răng làm như vậy giúp cho mạch nhâm và mạch đốc giao nhau. Nước miếng sẽ chảy ra gọi là huỳnh tương cam lộ, hãy nuốt từng ngụm một, gọi là ngọc dịch hườn đơn , nước miếng đó chính là tinh, tinh hóa khí, khí hóa thần.Nhờ đó điển trong người không thất thoát (trở lại trên) và luôn được pháp luân thường chuyển .
Nếu nằm ngữa thì buông lỏng cơ thể, thở tự nhiên , nhắm mắt ngậm miệng. Đặt huyệt lao cung của hai lòng bàn tay vào ngay huyệt Đơn điền.
Nếu nằm nghiêng bên trái thì đặt huyệt lao cung tay trái vào dái tai , lóng ngón tay út đặt lên huyệt Thái dương , chân trái duỗi thẳng, chân mặt hơi co, Huyệt Lao cung tay phải đặt trên huyệt hoàn khiêu . Nằm nghiêng bên phải thì ngượïc lại.
Cứ thở đều đều cho huyền khí bên ngoài hòa lẫn với nguyên khí bên trong người thành chơn nhứt khí để nuôi cơ thể. Dẹp bỏ hết mọi ước muốn ở cõi trần gian , giữ cái tâm thanh tịnh, một ngày nào đó mà takhông thể biết trước được , tự nhiên thần khí của ta sáng bừng lên cảm thấy chân lý. Đó là lúc điểm sáng linh quang được bật cháy tỏa quanh thân ta, ấn chứng ngộ đạo . (1)
Lục Tổ dạy: “Một khi đã ngộ, thì chỗ nào cũng vậy . Muốn hồi hướng về Phật phải theo tự tánh mà hành chớ cầu ở ngoài thân. Tâm giác ngộ sáng suốt là Phật, Tâm ấy phóng đại quang minh phá hết lục dục chiếu vào tự tánh làm cho tam độc dứt liền , các tội đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tỏ chẳng khác gì cõi Tây phương”.
Tịnh từ 1 đến 2 giờ , muốn xả tịnh thì hai bàn tay chà sát vào nhau cho nóng gọi là “âm dương ký tế” rồi chà từ mặt lên trán ra sau ót , đoạn vuốt hai bên tai , hai cánh tay, hai ống chân. Sau cùng, hai bàn chân tự chà vào nhau, rồi đứng lên đi lại bình thường.
-
ĐỨC THANH SƠN ĐAÏO SĨ
Giáng cơ năm Giáp Dần
Ngộ có ba bậc: khải ngộ và chứng ngộ
-
Khải ngộ phải nhờ thiện trí thức chỉ dẫn phép tu niệm đọc kinh đọc sách, gọi là trí hưũ sư
Giải ngộ là nhân nghe một câu kinh hay lời giảng đạo Thánh hiền, liền thấy được bản tánh nhanh như chớp (sát na).
Chứng ngộ là công phu tịnh luyện viên mãn , an trụ tánh giác trọn vẹn do tịnh luyện mà phát ra, không nhờ sự giúp đỡ của ai , gọi là trí vô sư. Được chứng ngộ mới đạt bất sanh bất diệt tức giải thoát sinh tử mà hằng sống.
Nếu tu luyện đúng mức ta trở thành Thánh thiện , không những vậy vô hình trung, nhờ luyện khí cơ thể được khoẻ mạnh. Phương ngôn có câu : “Tinh thần Thánh thiện trong xác thân khang kiện” ( Une Aâme sainte dans un corps sain). Nói cách khác, xác thân khỏe mạnh mới có tinh thần Thánh Thiện Thầy cũng dạy:’’ Tham thiền nhập định là để tâm thần yên ổn hầu có sửa mình màtrừ khử các bịnh và diệt thất tình lục dục”.
Thật vậy luyện tam bưủ ngũ hành theo cổ nhân là để điều hòa mọi hoạt động sinh lý nội tạng và thần kinh . Trong sinh hoạt hằng ngày, cơ thể bị thay đổi luôn, hơi thở cũng phải thay đổi cho thích ứng. Ngồi bàn làm việc, chân tay ít hoạt động , mệt mõi; thay vì hút thuốc lá, hãy thở sâu 5 lần sẽ thấy khoan khoái . Khi lao động nặng nhọc, máu chứa đầy urê và acid lactic , hãy cứ thở sâu như trên đây sẽ thấy kết quả tốt.
Khi giận dữ, cáu gắt, nhịp tim đập dồn dập, hơi thở rối lên. Để nén cơn giận, ta hít vào thật sâu, đưa cơ hoành nén hơi giữ khí lại rồi thả ra từ từ. Làm như thế 5 lần cơn giận sẽ hết.
Đêm nằm không ngũ được, ngồi dậy xếp hai chân cho chặt làm động mạch đùi bị ép lại và thở như trên, rồi nằm xuống. Máu động mạch dồn trở lại hai bàn chân , đồng thời lôi cả máu từ não xuống, cơ thể chuyển sang trạng thái thiếp ngủ .
Thở bằng bụng có thể trị được nhiều chứng bệnh . Nhờ thở bằng cơ hoành, coi như trái tim thứ hai (deuxième coeur- veineux ) giúp người bị suy tim thoải mái vì tim ít gắng sức. Khi lên cơn hen suyển, ngồi thẳng thở ra một hơi dài sâu và tập trung ý xuống vùng dưới bụng đang thót vào như để đẩy khí ra thật hết rồi tự động hít nhẹ nhàng vào. Cố tập thời gian dài sẽ cắt đứt được cơn hen.
Khi thở bằng bụng, cơ hoành coi như cây thụt xoa bóp nội tạng như dạ dày, gan , ruột ; nên có tác dụng trị bón và loét dạ dày; đặc biệt kích thích tuần hoàn tĩnh mạch gan, làm tiêu tan xung huyết để ổn định tiêu hóa và hạ bịnh cao huyết áp.
Tóm lại , luyện khí thở bằng bụng tăng cường sức đề kháng và nâng cao sức khỏe cho cơ thể, tạo niềm tin mình tự chửa bịnh cho mình . Thế mới hay luyện tam bưủ đồng nghĩa với luyện tập dưỡng sinh cho thân khoẻ mạnh . Bởi lẽ, tinh thần Thánh Thiện chỉ có trong xác thân khang kiện.
-
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ đã dạy:
DƯỠNG SINH THI
Tích khí tồn tinh , cánh dưõng thần
Thiểu tư quả dục , vật lao thân
Thực bôi bán bão vô kiêm vị
Ẩm chỉ tam phân mạc quá tầng
Mỗi bá hí ngôn , đa thú tiếu
Thường hàm lạc ý , mạc sinh sân
Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu giao quá bách xuân
Dịch nghĩa:
Giữ khí , gìn tinh , lại dưỡng thần
Ít lo ít muốn , ít lao thân
Cơm nên vừa bụng đừng nhiều vị
Nước chỉ vài phân, chớ quá tầng
Môi cứ câu đùa vui miệng mãi
Dạ thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
Nóng hờn , biến trá, thôi đừng hỏi
Để NGÃ tiêu giao đến tuổi trăm.
Luyện tinh khí thần mục đích là để trường sinh , có sức khỏe để yêu đời , yêu người, không giận hờn, gian trá, ham muốn, mưu toan. Cứu cánh của người tu là thanh đạm ít món ăn vừa đủ no, uống từng ngụm nhỏ vì nước nhiều làm mệt tim.
Bởi lẽ bệnh tật phát sinh do ăn uống quá độ, tích tụ nhiều năm làm cơ thể mất quân bình âm dương mà sinh nhiều chất độc. Chỉ ăn khi đói , chỉ uống khi khát. Aên những chất thuần dương, như ngũ cốc xay lức và hoa quả. Tuyệt đối không ăn các thức có chất hóa học và các loại cà, măng, nấm… Được như vậy sống sẽ đến trăm tuổi già (quá bách xuân).
Đức Chí Tôn dạy:
-
1.-Thành tâm niệm Phật
Tịnh, tịnh ,tịnh, tỉnh ,tỉnh.
Tịnh là vô nhứt vật
Thành tâm hành đạo pháp
(Đàn đêm 14-1- 1926) 2- Một ngày thỏn mỏn một ngày qua
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa
Luyện Đạo tinh thông muôn tuổi thọ
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà
( Đàn đêm 28 -1-1926)
Chẳng cần chi con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu tượng Phật chi hết . Con hiểu bổn nguyên Thánh chất Thầy…Tùy sức mỗi đứa lo lập một Tịnh Thất. Còn chùa chiền thì ngày sau e con không đủ sức cai quản cho hết . (Đàn đêm 4- 8- 1926)
4- Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài hỉ chư môn đệ , chư chúng sanh, nghe:
-
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần
Nhuộm áo nâu sòng về Cực -lạc
Trau gương trí huệ phủi đai cân
Cơ Trời đến buổi đời thay đổi
Đạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần
Khổ hạnh dầu ai thìn một kiếp
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.
Ấy là buổi chung qui của khách trần đó. Nguồn Tiên , đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẽo vạy, bước đường ngay mà lần vào nơi cực lạc an nhàn. Rừng tòng suối lặng động thẳm non xanh , để mình vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi
Ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khổ. Đạo Trời mầu nhiệm, khá biết xét mình, sau khỏi điều tự hối. (Đàn đêm 26-1-1927)
5- Hễ bí pháp tịnh luyện thì "khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ",không được thấu lậu cho ai biết trước đặng hoặc tỏ vẽ, giải phân trên giấy mực hay là dùng cơ bút mà truyền bí pháp đặng ( Đàn đêm 25-9- Bính Tý)
6- Các con sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu khổ não tại thế nầy, Các con chết rồi , các con thế nào ?
Thầy dặn các con: nếu kẻ không tu , khi xuất hồn ra khỏi xác thì cứ theo cấp tội mà luân hồi , biết chừng nào hội hiệp cùng Thầy; nên Thầy ban quyền rộng rãi cho nhơn loại trên càn khôn thế giới , nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng. (Đàn đêm 19-12-1926)
Cảnh nhàn chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi địa đàng đây, vì nhơn loại không để ý tìm ra, cứ theo lối thấp hèn mà quên điều cao thượng . (Đàn đêm 21-2-1927)
7- Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân: Một thân phàm gọi là corporel ; Còn một Thiêng liêng gọi là spirituel. Cái Thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình vì có thể thấy đặng mà có thể cũng không thấy đặng.
Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng nầy do nơi tinh, khí, thần mà luyện thành. Nên hình ảnh nó như khuôn in rập , khi đắc đạo có tinh khí mà không có thần thì không thể nhập cõi hằng sống. Vậy ba món ấy phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất thể hiệp với khí Tiên Thiên mà trong khí Tiên thiên thì hằng có điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn , trong sạch nhẹ hơn không khí mới ra khỏi ngoài càn khôn đặng. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất ra Thánh, Tiên, Phật.
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. Nếu như các con ăn mặn mà luyện đạo rủi có ấn chứng làm sao giải tán cho đặng.
Vì vậy thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo . (Đàn đêm 17- 7 -1926)
ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU
- 8- Vâng Thiên sắc độ phàm thoát tục
Đóng phong đô giải ngục đọa đày
Máy linh cơ tạo nơi tay
Giác mê cứu đám lạc loài nguyên nhân
(Đàn đêm 7-1- Tân Mão)
DIÊU TRÌ CUNG 9- Vui nhơn , vui đạo , lại vui Thiền
Vui bước đường tu một bước yên
Vui bóng Cao Đài che khắp chốn
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên
(Noel 1925 - Lục Nương)
10- Bế ngũ quan khôn kiêng tục tánh
Diệt lục trần , xa lánh phàm tâm
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm
Đoạt phương tự diệt , giải phần hữu sanh
Linh linh , hiển hiển khinh khinh khứ
Sắc sắc không không sự sự tiêu
Chơn linh đẹp vẻ mỹ miều
Xuất dương thế sớm đến triều Ngọc Hư
(Tứ Nương -Nữ Trung tùng Phận)
-ĐỨC LÝ THÁI BAÏCH
- 11- Ngọn ngành chơn đaọ khá tường sâu
Dưỡng tánh tu tâm thấu lý mầu
Tiên, Phật nơi lòng người chưởng tập
Tây phương tại thế phải xa đâu
Anh hùng chớ để sa non diệm
Hào kiệt đừng cho vướng bể sầu
Tiên cảnh một màu bao thuở lợt
Đường ngay tua kiếp lập công đầu Có công phải biết gắng nên công (phu)
Tu tánh cho xong rán luyện lòng (tâm )
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục
Đơn tâm khó (thiền) Định, lấy chi mong.
(Đàn đêm 27-1-1926)
ĐỨC THANH SƠN TIÊN TRƯỞNG
- 12- Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư quả dục, vật lao thân
Thực bôi bán bảo vô kiêm vị
Ẩm chỉ tam phân mạc quá tầng
Mỗi bá hí ngôn, đa thú tiếu
Thường hàm lạc ý, mạc sinh sân
Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao quá bách xuân
-KINH CỬU:
-
Đem mình nương bóng Chí linh
Định tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa
( Kinh nhứt cửu ) Khí trong trẻo dường như băng tuyết
Thần im lìm dường nét thiều quang
Xa chừng thế giới địa hoàn
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng
(Kinh nhị cửu)
Ta đem " Phương pháp trị tâm" của Đức Hộ Pháp (ban hành số 209/HP ngày 14 -4 -Đinh -Hợi ) so sánh thấy phù hợp với "Thập Mục Ngưu Đồ" (mười búc tranh chăn trâu ) Những bức tranh nầy đã vẽ trong chánh điện chùa Tam Tông Miếu (tức chi Minh lý trong Ngũ Chi Đại Đạo)
-
. "Thập Mục Ngưu Đồ" đánh số La Mã (TMNĐ)
. " Phương pháp trị tâm" đánh số Á rập (PPTT)
I- Thập Mục Ngưu Đồ : Tìm trâu (tầm ngưu)
1- Phương Pháp trị Tâm: Ai cố oán kẻ thù của mình thì khó giữ THANH TÂM công chánh cho đặng
II - Thập Mục Ngưu Đồ : Thấy dấu trâu (kiến tích)
2- Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù nghịch của mình
I I I- Thập Mục Ngưu Đồ : Thấy trâu (kiến ngưu)
3- Phương pháp trị tâm: Sự cừu hận người hiền không biết đến hay là từ bỏ cừu hận oán ghét
I X- Thập Mục Ngưu Đồ: Được trâu (đắc ngưu)
4- Phương pháp trị tâm: Thắng đặng khí nộ mình thì không chọc ai giận giữ
V- Thập mục Ngưu Đồ: Chăn trâu (mục ngưu)
5- Phương pháp trị tâm: Lấy thiện mà trừ ác
VI- Thập mục Ngưu Đồ: Cỡi tâu về (kị ngưu qui gia)
6- Lấy nhơn nghĩa trừ bạo tàn
VI I- Thập Mục Ngưu Đồ: Quên trâu còn người (Vong ngưu tồn nhơn)
VI I I- Thập Mục Ngưu Đồ: Người trâu đều quên ( Nhơn ngưu câu vong)
7- Phương pháp trị tâm: Lấy lòng quảng đại đặng mở tâm lý hẹp hòi
X- Thập mục Ngưu Đồ: Buông tay vào chợ (đảo ngược số thứ tự)
8- Phương pháp trị Tâm: Lấy chánh trừ tà
I X- Thập Mục Ngưu Đồ: Phản bổn hoàn nguyên
9- Phương pháp trị tâm: Ấy là đường thương huệ kiếm
Tranh thiền vẽ trâu (chỉ cái tâm) ý nói: "Bạch ngưu xa" tức Phật thừa, là cái đại giác viên mãn , chủ trương đốn ngộ .
Bức họa 1-"Tầm ngưu" : vẽ một mục đồng đi tìm trâu (trâu không có hình) và kết thúc bằng bức họa "Nhập triền thùy chủ" (buông tay vào chợ) ; vẽ một nhà sư lẫn lộn trong đời
Trâu đâu mà tìm ? (trâu chỉ cái tâm) vì trong phút giây khác thường nào đó, ta nghi ngờ những điều tai nghe mắt thấy, tức nghi ngờ chính cái tâm ta
Từ bức họa 1 đến 6, ta thấy khoảng cách giữa người và trâu (cái tâm) thâu ngắn lại dần, đến lúc kẻ chăn trâu ngồi hẳn lên lưng trâu (bức họa 6) : trâu với người làm một Khi ta hỏi trâu ở đâu, chẳng khác nào ta hỏi tâm ở đâu .Trong khi chính ta đang cỡi trâu. Ta đi tìm tâm rốt cuộc tâm ở nơi lòng ta. Ta chỉ cần dừng lại , nó hiện ngay trước mắt trong ánh sáng muôn màu. Nếu loài người thỉnh thoảng biết dừng lại (định tâm suy tưởng) trong vài phút thôi thì thế gian nầy không đến nỗi quá buồn thảm như ngày nay.
Sau giai đoạn ngoại cầu, đến giai đoạn tự tri, tự giác. Khi người và trâu đều quên (nhơn ngưu câu vong) thì nơi chân trời hiện lên mặt trời hụê , tượng trưng bằng vòng tròn vô vi viên giác (bức họa 8-) Đó là tâm không đạt đạo rồi
Trở về ngôi vị cũ với bức họa 9 nhan đề : phản bổn hoàn nguyên ; vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về nguồn . Từ nguyên thỉ, con người vốn thanh tịnh, vốn là không, nên chỉ cần hiểu thấu tánh mình là hườn nguyên Khi đạt thành chánh quả phải nhập vào thế tục với cái tâm diệu dụng "cư trần bất nhiễm trần". Tu sĩ buông thỏng hai tay (nhập triền thùy thủ, bức tranh 10 ) đi vào chợ để độ đời. Mười bức tranh trâu có thể tóm gọn một câu : Vô tâm đạo dễ tầm (vô tâm đạo dị tầm).
1- HÀNH THIỀN ĐỒ
Vạn pháp qui nhứtNhứt qui hà xứ ?
Hữu giả cá tại
Hựu nhâm ma khứ
PHÉP THIỀN ĐI
Muôn pháp qui về mộtMột qui về nơi đâu?
Người có tâm đó
Lại đi tìm sao! Dịch âm
Hành diệc năng thiền, tọa diệc thiền ,
Thánh khả như tư, phàm bất nhiên.
Luận nhân bộ lý chi gian, bất khả
xu lớn thái cấp , cấp tắc động tức
thương thai , tấc tu an tường hưỡn
mạng nhi hành , nãi đắc khí hòa
tâm định , hoặc vảng hoặc lai ,thời
hành thời chỉ , nhản thị ư tâm hạ ,
tâm tàng ư động ; tức Vương trùng Dương
sởvị : “ Lưỡng cước nhiệm tùng hành
xứ khứ , nhất linh thiêng dữ khí túy
tương tùy , hữu thời tứ đại
tá vấn thanh thiên ngã thị thùy ?”
Dịch nghĩa:
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Thánh nhân có thể nói như thế, người phàm khó được
trong lúc đi đứng, gắp rút làm động hơi
Thở hai cái thánh thoát phải từ từ chậm chậm
mà đi, thì được hòa khí định tâm
hoặc qua hoặc lại, khi đi khi
đứng, mắt nhìn xuống tâm, tâm
dấu trong động; cho nên ông Vương Trùng Dương
nói: “ hai chân dù đi đến
chỗ nào, đều có một chơn linh ở
trong không khí thường theo ta.
Thử hỏi Trời xanh là ai vậy ?
Dịch âm:
Bạch Lạc Thiên vân : Tâm bất trạch
thời thích, túc bất trạch địa an, cùng
thông dữ viễn cận, nhất quán
vô lưỡng đoan
Dịch nghĩa:
Bạch Lạc Thiên nói: Tâm không chọn lúc
thích hợp, chân không chọn chỗ yên ổn,
cùng thông với xa gần đều nhất quán
mà không lưỡng đoan (chỉ một)
Dịch âm:
* Thật Chí Công vân: Nhược năng phóng hạ
không vô vật, tiên thị Như Lai đái trung hành
* Duy Ma Kinh vân: Cử túc hạ túc giai
tùng Đạo tràng lai.
* Pháp Tang tập vân: Trú tâm dạ tâm thường
du pháp uyển khứ
Dịch nghĩa:
* Thật Chí Công nói: Nếu Thường bỏ hết,
không một vật, thật là Như Lai đã vào
trong ta mà đi
* Duy Ma kinh nói: Giở chân, hạ chân đều
tùng theo đạo tràng mà đến
* Tập pháp Tang nói: Tâm ngày đêm
thường du hành theo vườn pháp mà đi
2- LẬP THIỀN ĐỒ
Tâm vô sở trúTrạm nhiên kiến tính
Thể dụng Như như
Khuếch nhiên Vô Thánh
PHÉP THIỀN ĐỨNG
Tâm không nơi trúLặng yên thấy tính
Thể dụng Như như
Trống lòng Vô Thánh (tâm không) Dịch âm
* Tùy thời tùy xứ tiêu dao, ư Trang Tử
vô hà hữu chi lương;
Bất thức bất tri du hí, u
Như Lai đại tịch diệt chi hải.
Nhược thiên lãng khí thanh chi
thời, đương dụng lập thần nạp khí
pháp như tiếp mạng; Kỳ pháp viết:
“ Cước cân trước địa tị liêu thiêu ,
Lưỡng thủ tương huyền tại huyệt biên.
Nhứt khí dẫn tùng thiên thượng giáng
Thôn thời mịch mịch đáo đơn điền.”
* Hoặc trú hoặc lập, minh mục minh
tâm, kiểm tình nhiên viên, tức
nghiệp dưỡng thần, dĩ vãng sự vật
truy tư, vị lai sự vật nghinh tưởng,
hiện tại sự vật lưu niệm; dục
đắc bảo thân đạo quyết, mạc
nhược nhàn tịnh giới khiết; yêu
cầu xuất thế thiền công, vô
như chiếu thâu ngưng dung. Tích
Quảng Thành Tử cáo Hoàng Đế
viết “ Mục vô sở kiến, nhỉ vô
sở văn, tâm vô sở trí, thần lương
thủ hình , hình nãi trường sinh,
kỳ ý đại đồng doãn vi thâm thiết “
Dịch nghĩa:
Tùy thời tùy chỗ tiêu dao, với Trang Tử
Không nơi nào không quê hương
không hiểu không biết chơi đùa,
Với Như Lai là biển đại tịch diệt
khi trời tỏ khí trong
nên dùng phép lập thầnnạp khí
mà tiếp mạng . Pháp ấy là:
“Nhón nhẹ gót chân mũi hướng xa
Hai tay đều để huyệt bên mà
Một hơi dẫn khí từ trời xuống
Hít tận đơn điền tới Mịch La”
Hoặc trú hoặc đứng, mê mắt
mê tâm, kiểm điểm tình ý và vọng
niệm, ngưng việc mà dưỡng thần, việc
qua chớ tưởng, việc chưa tới chớ nghĩ,
việc hiện tại chớ lưu niệm; muốn được
yếu quyết Đạo để giữ thân, chi bằng
an nhàn thanh tịnh, trong sạch;
muốn tìm nẻo xuất thế, thiền định, không chi
chiếu số thu ngưng mà dung hòa.
Xưa Quảng Thành Tử báo cáo lên Hoàng Đế
rằng:” Mắt không nơi thấy, tai không
chỗ nghe , tâm không điều phải biết
lấy thần giữ hình, hình mới sống lâu
ý ấy rộng lớn rất thâm thiết vậy”
3- NGỌA THIỀN ĐỒ
Khai tông tâm chi tínhThị bất động chi thể
Ngộ mộng giác chi chơn
Nhập văn tư chi tịch
PHÉP THIỀN NẰM
Khai tâm ấy là tínhViệc chẳng động là thể
Tỉnh ngủ mà giác là chơn
Nghe được ý tưởng là tịch diệt * - Giác ngộ thời, bất khả vọng tưởng, tắc tâm tiện hư minh,
phân diễn thời, diệc chỉ như xử thường, tắc sự tự thuận toại,
(Lúc tỉnh ngủ, không nên vọng tưởng, thì tâm trống trải sáng suốt.
Lúc bối rối, cũng cư xử như bình thường, thì mọi sự đều thuận, tự toại)
Dịch âm:
* - Tảo thạch phần hương nhiệm ý niệm
Tỉnh lại thời hữu khách đàm huyền
Tòng phong bất dụng bồ quì phiến
Tọa đối thanh nhai bách trượng tuyền
* - Cổ động u thâm tuyệt thế nhân
Thạch sàng phong tế bất sinh toàn
Nhật trường nhất giác Hi Hoàng thụy
Hựu kiến phong đầu thượng nguyệt luân
* - Nhân gian bạch nhật tỉnh do thụy
Lão Tử sơn trung thụy khước tỉnh .
Tỉnh thụy lưỡng phi hoàn lưỡng thị
Khê vân mạc mạc, thủy linh linh
* - Tâm thần dạ dạ túc Đơn điền
Tuyết mãn hoàng đỉnh, nguyệt mãn thiên
……….
Thủy tâm nhất đóa tử kim liên
Dịch nghĩa:
* Giường đá hương thơm giấc ngủ say
Tỉnh cơn có khách luận bàn đạo
Bóng tòng gió lộng không cần quạt (kè)
Đối ảnh suối sâu sườn núi dài
* Động xưa sâu kín biệt người đời
Giường đá gió mơn bụi chẳng hôi
Giấc ngủ Hi Hoàng ngày tỉnh giấc
Đầu non lại thấy ánh trăng đầy
* Người đời ngày tỉnh như ngủ
Lão Tử trong núi ngủ như tỉnh
Tỉnh ngủ hai việc đúng mà sai
Mây bay mờ mờ, nước rơi thanh thoát
* Đêm đêm thần trú tại đơn điền
Tuyết ngập đầy sân trăng ngập thiên
…………
Nước tâm là đóa tử kim liên ( hạt sen)
4-TỌA THIỀN ĐỒ
* Đế Nghiêu chi an anVăn Vương chi ung ung
Khổng Tử chi thân thân
Trang Chu chi chỉ chỉ Tọa cửu vọng sở tri
Hối giác nguyệt tại địa
Lãnh lãnh thiên phong lai
Đảng nhiên đáo can phế
Phủ kiến nhất hoằng thủy
Trừng trạm vô vật tế
Trung hữu tiêm lân du
Mặc nhiên tự tương khế
Vô sự thử tĩnh tọa
Nhất nhật như lưỡng nhật
Nhược hoạt thất thập niên
Tiện là bách tứ thập
Tỉnh tọa thiếu tư quả dục
Minh tâm dưỡng khí tồn thần
Thử thị tu chơn yếu quyết
Học giả khả dĩ thơ thân
PHÉP THIỀN NGỒI
Đế Nghiêu vững anVăn Vương hòa hòa
Khổng Tử tỏ rõ
Trang Chu lẳng lặng Ngồi lâu quên mọi việc
Bỗng thấy trăng lặng rồi
Gió thổi hơi lành lạnh
Thảng nhiên vào gan phổi
Khom nhìn dòng nước trong sâu
Trong vắt không một vật nào
Nơi giữa chỉ con cá nhỏ lội
Tự nhiên mọi vật ăn khớp nhau
Rảnh rang cứ ngồi tịnh
Một ngày như hai ngày
Nếu sống bảy mươi tuổi
Như tịnh được 140 năm
Ngồi tịnh ít lo, ít muốn
Mê tâm , dưỡng khí tồn thần
Đó là yếu quyết bậc chơn tu
Người tu cần ghi nhớ
No comments:
Post a Comment