LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Friday, September 9, 2016

NĂNG LƯỢNG TRƯỜNG SINH HỌC





NGƯỜI KHAI SÁNG BỘ MÔN NĂNG LƯỢNG SINH HỌC

Tiến sĩ DASIRA NARADA là tổ sư bộ môn Năng Lượng Sinh Học



NĂNG LƯỢNG SINH HỌC(BIOENERGY)

I . CON NGƯỜI

Con người là một thực thể của Vũ Trụ. Nói một cách khác, con người là một tiểu Vũ Trụ.

Bất cứ một thể sống nào cũng bao gồm:

-Thân thể (nhìn thấy)

-Cơ thể năng lượng (không nhìn thấy)

Khả năng của con người rất lớn, nhưng chúng ta hiểu biết về mình chẳng bao nhiêu! Thực tế, con người có những khả năng kỳ diệu như sau:

-Thần giao cách cảm – Télépathy.

- Nhìn xuyên không và thời gian – Clairvoyance.

- Đọc được tư tưởng – Télédiagnostic.

- Hiệu ứng toàn lực và toàn thức – Strength & Omnisoience.

- Phẫu thuật tâm linh – Spiritual surgery.

- Chữa bệnh bằng xung năng lượng – Bioenergo therapy.

Tất cả đều có nguồn gốc từ năng lượng sinh học, gọi là “NHÂN ĐIỆN”.

Bằng chứng, cách đây 2.600 năm đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài ngồi thiền định mà đắc được lục thông:

- Thiên nhãn thông- Nhìn xa.

- Thiên nhĩ thông – Nghe xa.

- Tha tâm thông – Biết tư tưởng.

- Túc mệnh thông – Biết các đời trước.

- Thần túc thông – Đi như bay.

- Lậu tận thông – Không còn phiền não.

II. NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ LÀ GÌ?

Năng lượng vũ trụ là một loại thanh khí bao trùm khắp không gian.

Nó là một hơi nóng thiên nhiên nuôi sống tất cả: chúng sinh, muông thú và cây cỏ. Không có năng lượng này thì không có bất cứ vật gì còn tồn tại.

-Người Ấn Độ quan niệm nguồn năng lượng vũ trụ này là khí PRANA.

-Người Trung Quốc cũng biết thu ngoại khí, tức là năng lượng vũ trụ để luyện thành khí công.

-Nền y học Đông phương gọi là Tiên thiên khí – Hậu thiên khí.

-Các kinh Phật đều nói về Thiền Định, Luân Xa (LX) và Chân Hõa Tam Muội. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh A Di Đà nói rất rõ về sử dụng các Luân Xa (LX) và Thiền.

-Tổ Bồ Đề Đạt Ma (tổ thứ 1 của Trung Hoa) dùng phép thiền, lấy năng lượng vũ trụ để chữa bệnh.

Phật giáo Tây Tạng chấp nhận phép thiền YOGA (lấy năng lượng vũ trụ) để tạo ra : mắt thần, khinh thân và minh triết.

III. NĂNG LƯỢNG SINH HỌC LÀ GÌ?

- Năng lượng sinh học là một loại năng lượng trong cơ thể con người, ta gọi là

NHÂN ĐIỆN. Sỡ dĩ gọi là là nhân điện là để phân biệt với các loài muông thú và cây cỏ, chúng cũng có năng lượng Sinh học như ta.

- Nhân điện có được là nhờ cơ thể chúng ta thu nhận năng lượng vũ trụ qua các

hệ thống luân xa trong con người. Khi thu hút vào trong người, nó trở thành năng lượng sinh học, gọi là nhân điện. Nó hoàn toàn không phải như điện tim, điện não, điện cơ. Nhân điện ở từng cơ thể mạnh yếu khác nhau và tỏa ra ngoài một vùng ánh sáng bao quanh, ta gọi là hào quang mà mắt thường không nhìn thấy.

Các nhà sư Tây Tạng đã khổ luyện môn này để có thể nhìn vào hào quang mà biết được đối tượng khỏe yếu, và bị bệnh gì?

Chính năng lượng sinh học này giúp con người khai thác được những khả năng kỳ diệu của mình, như đã trình bày ở trên.

NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ ———> Vào con người:

-Qua hệ thống luân xa

-Chuyển thành năng lượng

sinh học gọi là nhân điện

Nhân điện :

- Tạo và phát ra sóng não mang thông tin.

- Giúp cho đời sống được quân bình, khoẻ mạnh hay yếu.

- Nếu các luân xa được khai mở, năng lượng vũ trụ thu hút vào được nhiều,

làm cho có đủ lực để chữa bệnh cho người, bằng cách phát ra lực từ bàn tay gọi là”xung năng lượng” để trị liệu.

Xung năng lượng có đủ mạnh, đủ nhiều hay không là do khả năng của thầy chữa, còn tiếp nhận được bao nhiêu? Kết qủa ra sao? Là tùy thuộc vào khả năng tiếp thu của bệnh nhân. Cho nên, khi chữa bệnh, cả người chữa và người được chữa phải trong tư thế tĩnh tâm.

IV. LÀM SAO “XUNG NĂNG LƯỢNG” TRỊ ĐƯỢC BỆNH?

Khi cơ thể lâm bệnh, tức là màng tế bào, màng mô, hoặc cơ quan bị mất cân bằng hoạt động của điện áp.

Các “ion” kim loại có thể từ trong ra ngoài hoặc ngược lại, hoặc sắp xếp không đúng quy luật nào hết.

Những ‘’ion” này lại rất nhạy bén đối với năng lượng hoặc điện trường.

Muốn lập lại trật tự, cần phải dùng đến ngoại lực như: hóa chất, tác nhân, vật lý, hoặc năng lượng để cân bằng. Chính sự không cân bằng tạo ra các bệnh.

Phương pháp trị bệnh bằng nhân điện dựa vào nguyên tắc trên. Người có “nhân điện” tiến hành các thao tác lên các luân xa, huyệt, tạo xung năng lượng từ bàn tay mình, truyền vào cơ thể của bệnh nhân là người tiếp nhận và sử dụng năng lượng đó để cân bằng và lập lại trật tự.

Châm cứu hoăc day huyệt cũng đều có mục đích như trên, nhưng:

- Châm cứu, day huyệt kích thích cơ thể, để nó tự điều tiết. Nhưng vì cơ thể

đang lâm bệnh nên việc tự điều chỉnh thường khó khăn và có thể phải kéo dài.

- Dùng hóa chất cũng lập lại được sự cân bằng của các tế bào, nhưng lại sẽ sinh

ra những phản ứng phụ.

-Ngược lại, nhân điện trực tiếp cung cấp năng lượng cho cơ thể lâm bệnh dưới

dạng “XUNG”, giúp cơ thể tự điều chỉnh, phục hồi trong một thời gian ngắn mà không bị phản ứng phụ (side effect).

V. LUÂN XA LÀ GÌ?

Luân xa (chakras) là một loại huyệt trong con người. Khi hút năng lượng vũ trụ vào cơ thể để nuôi các tế bào liên hệ, nó quay tròn như bánh xe, nên gọi là Luân Xa.

Năng lượng vũ trụ vào nhiều hay ít, tùy thuộc theo sức quay của luân xa.

Với người không được mở luân xa, nó quay rất chậm. Quay nhanh bao nhiêu thì năng lượng vào bấy nhiêu.

Khi vào trong cơ thể, nó biến thành năng lượng sinh học, gọi là Nhân Điện. Năng lượng này giúp nuôi sống các tế bào, nếu không đủ năng lượng, các tế bào bị tắc nghẽn và sinh ra bệnh. Các môn võ thuật của Trung Hoa đã khai triển lực này gọi là “Chưởng Lực”. Nhân điện càng nhiều thì lực càng mạnh.



VI . TỖNG SỐ LUÂN XA (huyệt).

Con người có tất cả:

- 11 Luân xa chính.

- 4 Luân xa phụ.

a) Luân xa chính.

- 6 Luân xa thuộc mạch đốc, phần dương gồm có:

LX 1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 7

- 5 Luân xa thuộc mạch nhâm, phần âm gồm có:

LX 6 – 8 – 9 – 10 – 11

b) Luân xa phụ

- 2 Luân xa phụ ở hai bàn tay gọi là huyệt “lao cung” gồm có: LX – 12 – 13

- 2 Luân xa phụ ở hai bàn chân gọi là huyệt “dũng tuyền”gồm có: LX 14-15

Các luân xa kể trên, nếu được khai mở nó sẽ quay nhanh. Và thu nhận rất nhiều năng lượng vũ trụ để điều hòa âm dương trong cơ thể.

VII. KHAI MỞ LUÂN XA.

Luân xa được khai mỡ do:

- bẫm sinh (tức là có căn từ kiếp trước).

- Tu thiền lâu ngày.

- Có thể do tai nạn được khai mở.

- Được huấn luyện bởi các huấn luyện viên được xác nhận (certified).

Nếu không được chỉ dẫn, hoặc được huấn luyện, sẽ dể bị rối loạn thần kinh.

-Với những người có căn bản về Thiền, nếu được khai mở luân xa, thì việc

Thu hút năng lượng vũ trụ rất là tiện lợi, nhanh và rất mạnh.

Có 2 loại Thiền: Động – Nhu.

Thiền động dành cho các võ sư luyện khí công, yoga. Họ dùng lối thiền này để thu nhận năng lượng rồi tạo thành sức mạnh phát công.

Thiền nhu dành cho các vị chân tu, nhà sư, cha cố, các nhà ngoại cảm, nhân điện v.v… …. . . Họ dùng năng lượng này cho sự hiểu biết xâu xa, và vào các khả năng kỳ diệu khác.

Dù động hay nhu, Thiền phải được hướng dẫn theo đúng phương pháp, qua sách vở, các thiện trí thức hay các thiền sư. Ngày xưa, chính vị đệ nhất Sư Tổ cũng phải khổ luyện rất lâu với các minh sư, nên mới thành công.

Theo khoa học, não bộ của con người có thể phát ra năm loại sóng điện, được phân biệt như: BÉTA – ALPHA – THÉTA – DELTA – GAMMA .

Sóng Não Chu Kỳ Mục Đích

—————————————————————————————————–

- BÉTA 12 – 25 HZ – Trong trạng thái bình thường,
 Khi làm việc hoặc hoạt động.  Khi có suy tư, buồn, bực hoặc phiền não, thì chu kỳ sẽ tăng quá 25Hz làm cho cơ thể mệt mỏi, v.v....                           
- ALPHA 8 – 12 HZ -Trạng thái ngũ

- THÉTA 4 – 8 HZ -Trạng thái thư giãn hoặc vô

- DELTA 1 – 4 HZ thức

-GAMMA < 1HZ -Vô thức hoàn toàn (thiền)

Trong vô thức hoàn toàn (vào định) tâm linh trong sạch, tâm lý thoải mái (cộng với các luân xa đã được khai mở) giúp ta thu nhận năng lượng vũ trụ rất cao (vì lúc đó, sóng não hoạt động rất nhỏ).

Tình trạng này có thể ví như 1 ly nước, khi ly không còn nước, thì ta có thể rót thêm nước, ngược lại, khi ly nước đầy rồi thì không thể rót thêm được nữa.






      NĂNG LƯỢNG SINH HỌC

           Vũ trụ là một hệ thống nhất. Thế giới vi mô và vĩ mô có nhiều mối quan hệ mật thiết với nhau. Con người là một chủ thể của vũ trụ (về cấu tạo và sự tồn tại của nó), sống trong vũ trụ và chịu ảnh hưởng, tác độn của môi trường, nhiệt độ, ánh sáng…
Có thể chia thành 3 nhóm quan hệ như sau:
-          Tác động qua lại giữa cơ thể sống với nhau
-          Tác động qua lại giữa cơ thể sống với vạn vật
-          Tác động qua lại giữa cơ thể sống với thế giới vũ trụ

           Điều quan trọng nhất là bằng cách này hay cách khác, con người đã và đang khai thác  sử dụng nguồn năng lượng vô tận của vũ trụ. Trước đây con người nhận biết nó như là khí Prana, ngoại khí… Năng lượng sinh học này tồn tại xung quanh mỗi cơ thể sống, tạo thành khuôn mẫu cho tế bào và cho cơ thể sống tồn tại, phát triển.
           Một trong những hình thức của con người sử dụng năng lượng vũ trụ là trực tiếp thu nhận nó qua các điểm đặc biệt trên cơ thể rồi biến nó thành một dạng năng lượng khác. Tùy theo quan niệm, người ta gọi năng lượng này là Tiên Thiên Khí, Nội khí, Năng lượng sinh học, plasma sinh học, hào quang, Vầng Ethe, Nhân điện, Trường sinh học…
          Ngày nay, các gọi thông thường nhất là năng lượng sinh học hoặc nhân điện.  Khi con người có năng lượng sinh học đủ mạnh thì sẽ có được những khả năng kỳ diệu. nhiều năm trôi qua, song chưa có cơ sở khoa học để giải thích những thông tin loại này, vì vậy chúng ta ít được biết về chúng.
           Mấy năm gần đây, trong cộng đồng có một số người tiếp cận phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học. Có ý kiến chỉ trích, có ý kiến khen ngợi. Tuy nhiên, việc làm đó đã đánh thức và mở mang tâm trí trước nhiều khả năng vượt khỏi ranh giới của khoa học thực nghiệm.
          Theo chúng tôi, ngày nay ta có thể giải thích hiện tượng nhân điện nhờ tổng hợp các chân lý của nhiều ngành khoa học từ cổ chí kim, từ Đông sang Tay, ví dụ:
-    Triết học  ( vận động của vật chất)
-    Thuyết Âm Dượng
-    Toán học (cấu trúc hình học của thân thể, nguyên lý cơ học, dòng chảy, hỗn mang, rối và điểm hút của hệ động lực, lý thuyết hệ thống)
-    Vật lý (trường thống nhất, nguyên lý điện động học, truyền tải, xung năng lượng…)
-    Y học cổ truyền ( học thuyết về Kinh – Mạch)
-    Thần kinh thể dịch ( vùng phản chiế của các nội tạng, sự điều tiết hoạt động thân thể, các đám rối thần kinh..)
-    Bệnh học ( nguyên nhân nhiễm bệnh, điều kiện thời gian hoàn cảnh sức khỏe để trị liệu…)
-    Sinh học phân tử ( cấu trúc tế bào, mô, cơ quan và cân bằng động của các màng…)
          Con người là một thành phần của vũ trụ và mang tính toàn đồ vũ trụ. Bất cứ sinh vật nào cũng được hợp thành từ 2 loại vật chất: năng lượng và thông tin. Bản thân con người gồm 2 cơ thể : thân thể ( tế bào, mô, cơ quan) và cơ thể năng lượng bao quanh thân thể. Không phải ai cũng nhìn thấy được vầng hào quang trên một số vĩ nhân hoặc thánh nhân, nhưng bản thân nó vẫn tồn tại.
          Y học cổ truyền chỉ ra rằng cơ thể con ngường có một hệ kinh mạch để điều hòa khí huyết. Tác động vật lý vào các huyêt có tác dụng trị bệnh. Trong hệ kinh mạch của con người, ta chú ý đến mạnh Nhâm và mạch Đốc. Hai mạch này nối liền khi ta ngậm miệng lại, tạo thành một vòng kín lưu thông khí huyết.
          Cơ thể năng lượng của con người không ngừng chuyển động, nó tạo ra một dòng chảy năng lương lượng lớn nhất dọc theo mạnh Nhâm về mạch Đốc và kết thúc giữa hậu môn và bộ phạn sinh dục ngoài. Dòng chảy năng lượng này ( tựa như dòng hải lưu trong đại dương ) tùy thuộc vào địa hình nơi nó đi qua, vào cấu trúc hình học của cơ thể , tạo ra các vùng xoáy (thừa hoặc thiếu) và trong vùng xoáy của dòng chảy năng lượng xuất hiện các điểm hút. Mặt khác, các điểm hút cũng là giao thoa của các sóng năng lượng quanh thân thể.
          Cơ thể vật chất của con người có một cấu trúc hình học gồm nhiề đa tạp nhẵn từng phần. Chính cấu trúc này ảnh hưởng tới dòng chảy năng lượng bên ngoài tạo nên những vùng xoáy năng lượng. Con người sống trong vũ trụ, giao tiếp với môi trường xung quanh không chỉ bằng 5 triệu lỗ chân long, bằng 5 giác quan, mà còn có những điểm đặc biệt, qua đó con người giao tiếp thông thương năng lượng vũ trụ.
           Nhưng tại sao người bình thường không có khả năng lấy năng lượng của vũ trụ? Tất nhiên, trong nhiều thế hệ đã qua, trong hàng tỷ người vẫ có không ít người có khả năng đó  mà không cần tập luyện.
           Sự tiếp nhận năng lượng và thông tin vũ trụ này, khả năng bình thường không vươn tới được. nhưng với một công nghệ sẽ bàn dưới đây có tác dụng giúp con người tạo được năng lượng sinh học đủ mạnh. Chúng ta cũng không thể dùng giác quan bình thường và các kiến thức của ngành khoa học vật lý đương đại để giả thích khả năng thu nhận đặc biệt nói trên.

Sự kỳ diệu của năng lượng sinh học
           Vào những năm cuối thế kỷ XX, nhân loại đã phát triển một phương pháp Dưỡng sinh bằng ứng dụng Trường Năng lượng Sinh học, gọi tắt là Trường Sinh học.
           Trong đó phải kể đến Tiến sỹ Đasira Narada (1846 – 1924) người Sri Lanka, đã có công lớn trong việc ứng dụng Trường Năng lượng Sinh học giúp con người phòng bệnh, tự trị bệnh không dùng thuốc và coi đây là một môn khoa học về dưỡng sinh. Đây là một phương pháp bổ sung cho Y học hiện đại, dựa trên lý thuyết của hệ thống Kinh Lạc. Trong thực tế, thường xuyên tập luyện Dưỡng sinh Trường Sinh học có thể làm cho Kinh Lạc thông suốt, các cơ quan phủ tạng vận hành hanh thông, nhờ đó mà đạt được mục đích dưỡng sinh, đẩy lùi bệnh tật, thân thể khỏe mạnh.


          7 đại huyệt Trường sinh học năng lượng gọi là 7 luân xa, trong khoa học gọi là đám rối thần kinh. Vị trí các luân xa nằm trên các đỉnh đầu, trước trán và dọc theo xương sống đến tận giữa bộ phận cơ quan sinh dục và hậu môn. Mỗi luân xa có một tác dụng cho một số bộ phận trong cơ thể.

          Nếu được khai mở, các luân xa này hoạt động để quân bình cơ thể và chuyển hóa năng lượng tạo ra sức khỏe và tinh thần mạnh mẽ cho con người. Việc học phương pháp ứng dụng năng lượng sinh học không chỉ có ý nghĩa trong chữa bệnh mà còn hướng người học đến những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.

          Chương trình học của phương pháp này cũng khá đơn giản. Chương trình ở cấp 1 và 2 bao gồm: Giải thích phần lý thuyết về vai trò của luân xa đối với cơ thể của con người, khai mở luân xa cho các môn sinh do các huấn luyện viên có năng lực mở, hướng dẫn các phương pháp tự điều chỉnh trong lúc luyện tập. Sau khi kết thúc cấp học trong vòng 1 tuần, người học có thể tự tập luyện tại nhà.

LUÂN XA
Tại các điểm hút, con người có khả năng thu nhận năng lượng vũ trụ. Các điểm hút này được gọi là luân xa (gọi là bánh xe quay vì khi năng lượng đi vào thân thể, con người có cảm giác cá điểm này quay). Luân xa là cửa ngõ, qua đó con người có thể trao đổi năng lượng với môi trường xung quanh.

LUÂN XA 1
           Nằm giữa bộ phận sinh dục ngoài và hậu môn, tại huyệt Hội Âm. Là vùng xoáy cuối cùng của dòng chảy năng lượng nên nếu khai thông, chúng ta sẽ nhận được nguồn năng lượng vô tận. Tuy nhiên, trong khi khả năng tiếp nhận có hạn, tuyệt đối không được khai thông luân xa 1. Luân xa này sẽ được hướng dẫn sử dụng sau một thời gian dài luyện tập.

LUÂN XA 2
           Nằm ngay đốt xương cụt tại huyệt Trường Cường. Có tác dụng chữa các bệnh về về cơ quan sinh dục, bài tiết. Khai thông luân xa 2 nếu biết hạn chế sắc dụng thì cơ thể khỏe mạnh, cường tráng minh mẫn. Ngược lại, nếu đam mê sắc dục mà không hạn chế được thì suy kiệt nhanh chóng.

LUÂN XA 3
          Nằm trên cột sống ngang thận, tại huyệt Mệnh Môn. Luân xa 3 có tác dụng điều hòa năng lượng trong cơ thể , chữa trị các bệnh về hệ tiêu hóa, gan, mật, làm cho ăn ngon…

LUÂN XA 4
           Nằm ngang huyệt Tâm Du, nơi cột sống ngang tim. Có tác dụng chữa trị các bệnh về tim (hẹp, hở, suy tim), huyết áp, cholesterol máu cao và một số bệnh nội tạng khác. Khai thông luân xa 4 tạo cho con người thanh thản, bình tĩnh và dễ thông cảm với con người.

LUÂN XA 5
           Nằm trên cột sống ngang vai, tại huyệt Đại Chùy. Có tác dụng chữa các bệnh của hệ hô hấp như mũi, họng, suyễn, phổi, các bệnh về da, dị ứng và dùng để cắt cơn sốt.

LUÂN XA 6
          Nằm giữa trán, tại nguyện Ngạnh Trung ( nằm giữa huyệt Thần Đình và huyệt Ấn Đường), liên quan đến vỏ não và tuyến Tùng, tuyến Yên, là con mắt thứ 3 (thiên nhãn). Đưa năng lượng vào luân xa 6 có thể điểu chỉnh thần kinh, mất trí nhớ, huyết áp và hoạt động tứ chi.

LUÂN XA 7
          Nằm ngay đỉnh đầu, tại huyệt Bách Hội. Nếu tập luyện lâu ngày và đạt trình độ cao, luân xa 7 sẽ phát hào quang. Khai thông luân xa 7 tăng sinh lực cho con người. chủ trị các bệnh cấp cứu, thần kinh, phối hợp với các luân xa khác chữa trị hầu hết bệnh tật.

LUÂN XA 8
          Nằm ngay huyệt Thiên Đột (chỗ sâu nhất ở cổ). Có chức năng giống luân xa 5

LUÂN XA 9
          Nằm ngay huyệt Đản Trung, có tác dụng cân bằng âm dương, tăng khả năng nhạy cảm và tác dụng giống luân xa 4

LUÂN XA 10
          Nằm ngay huyệt Đan Điền, có chức năng giống luân xa 3

LUÂN XA 11
          Nằm ngay huyệt Khúc Cốt, trên bộ phận sinh dục ngoài, có chức năng giống luân xa 2
          Hệ thống luân xa trên mạch Nhâm, ngoài tác dụng tăng năng lượng sinh học, điều chỉnh các cơ quan nội tạng còn giúp con người nhạy cảm với đối tượng, chúng là những rada thu phát

LUÂN XA 12
          Nằm ngay huyệt Lao Cung bàn tay trái

LUÂN XA 13
          Nằm ngay huyệt Lao Cung bàn tay phải
          Cả hai luân xa 12 và 13 có tác dụng nâng cao năng lượng sinh học và tạo xung mạnh.

LUÂN  XA 14
          Nằm ngay huyệt Dũng Tuyền bàn chân trái

LUÂN XA 15
           Nằm ngay huyệt Dũng Tuyền bàn chân phải
           Hệ thống các luân xa phụ này có tác dụng cân bằng âm dương, trên dưới thân thể và nâng cao năng lượng sinh học

LUÂN XA 16
          Nằm ngay huyệt Ngọc Chẩm đối xứng với luân xa 6. Luân xa nảy có tác dụng đưa thân thể về trạng thái cân bằng.
          Qua hệ thống luân xa, trong những điều kiện nhất định, con người thu nhận năng lượng vụ trụ, biến đổi nó thành năng lượng sinh học. Chỉ nhờ năng lượng này, con người mới có được khả năng kỳ diệu, chẳng hạn như tạo và phát các sóng não mang thông tin, các xung năng lượng từ hai bàn tay  … trong nhân điện trị liệu
          Điều kiện đủ để một người có năng lượng sinh học mạnh hơn bình thường là:
-   Khai mở hệ thống luân xa ( do bẩm sinh, tu luyện lâu ngày, hoặc do tai nạn, do dùng xung năng lượng bắn phá)
-   Vô thức ( thực hiện quá trình thả lỏng cơ thể và đơn giản ý nghĩ)
          Dựa vào những điểm cơ bản này, ta có thể huấn luyện cho cộng đồng tạo nên khả năng có năng lượng sinh học đủ mạnh để dưỡng sinh tăng cường sức khỏe và điều chỉnh chữa trị một số bệnh.


Ai có thể tập luyện ngồi thiền?

          Về phương pháp tập luyện, người học có thể lựa chọn bất kỳ thời điểm nào trong ngày, miễn là khi cơ thể, đầu óc được thoải mái. Mỗi ngày phải tập ít nhất một lần, tối thiểu là 35 phút/lần. Các động tác để bắt đầu bài học như sau: Thứ nhất, mở mắt hít bằng mũi và thở ra bằng miệng tối thiểu 3 lần trở lên. Thứ hai, nhắm mắt, miệng ngậm lại, thở tự do. Đây chính là thời điểm vào bài tập và bắt buộc người tập không suy nghĩ điều gì. Thứ ba, động tác nghỉ, kết thúc buổi tập, người học chỉ cần mở mắt hít nhẹ bằng mũi thở ra bằng miệng 3 lần.

          Ông Học giải thích: “Đây là lúc các luân xa hoạt động để thu hút năng lượng, đầu óc của người tập không được nghĩ điều gì, đầu óc càng trống rỗng thì năng lượng thu vào càng nhiều. Tư thế khi tập luyện là chân phải kết đài hoa sen theo kiểu bán già nghĩa là 1 chân dưới, 1 chân trên hoặc kiết già tức lòng của 2 bàn chân hướng lên trên. Trong lúc ngồi thiền thì mắt nhắm, lưng thẳng, 2 lòng bàn tay đặt trên đầu gối, hướng lên trên”. Ngoài ra trong lúc tập luyện, người tập không để phân tâm hoặc bị ngoại cảnh tác động. Nếu trong trường hợp buộc phải ngưng buổi tập luyện giữa chừng thì phải thực hiện động tác nghỉ để không làm mất luân xa.

          Tất cả mọi người từ 18 tuổi trở lên đều có thể tập luyện môn học này. Một số trường hợp nhỏ hơn 18 tuổi nhưng có khả năng lĩnh hội được cũng có thể theo tập, điều quyết định thành công trong việc tập luyện là tính kiên trì, nhẫn nại trong thời gian đầu theo học.

          “Rất khó để người mới học ngồi yên trong vài chục phút. Đó thực sự là thử thách mà người học cần phải vượt qua. Nhưng ngồi yên rồi thì chúng ta còn cần một cái đầu rỗng nữa, nghĩa là chúng ta không được nghĩ tới bất cứ điều gì. Điều này cũng cần phải tập luyện. Người tập có thể áp dụng phương pháp tự kỷ ám thị để khiến mình tập trung hơn trong tập luyện”, ông nói.

         
Vị trí 7 luân xa trên cơ thể người
Vài nét về người sáng lập

Theo những tài liệu nghiên cứu trong ngành, Năng lượng sinh học hay Trường sinh học dưỡng sinh là phương pháp do tiến sĩ Dasira Narada sáng lập ra. Dasira Narada thường được các môn sinh trong nước ta gọi một cách tôn kính là tổ sư. Ông sinh năm 1846 tại đất nước Sri-lanka và được cho là mất vào năm 1924. Ông vốn dĩ là 1 tiến sĩ chuyên ngành Triết học và là người có uy tín trong ngành ngoại giao Sri-lanka lúc sinh thời. Khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp ông xin từ bỏ rồi tự đi tu học ở Ấn Độ.

18 năm sau, tức vào năm 1911, ông công bố phương pháp ứng dụng năng lượng sinh học để tự chữa bệnh. Trong quá trình nghiên cứu, ông đã tự khai mở luân xa của mình và phát hiện ra phương pháp để khai mở luân xa cho người khác.

Sau khi sáng lập ra phương pháp có thể cứu giúp được nhiều người, vị tiến sĩ này đã đi khắp nơi để giúp mọi người. Trong thời gian này, ông cũng thu nhận 1 đệ tử duy nhất để chân truyền toàn bộ bí kíp. Người này được gọi là tổ sư đệ nhị, lấy tên Narada Maha Thera. Vị tổ sư đệ nhị này có mối quan hệ khá tốt đẹp với nước Việt Nam ta, và có công đầu trong việc đưa môn học Trường sinh học dưỡng sinh này vào nước ta.

Đó là vào khoảng thời gian những năm 1930 đến 1950, ông đi đến nhiều nơi trong nước ta để thuyết giảng. Năm 1972, ông trở lại một lần nữa và lựa chọn 5 người để truyền lại bí quyết Trường sinh học. Từ đó cho đến nay, phương pháp này ngày càng được nhân rộng ở nước ta.

Trường sinh học thực sự là một môn học, một phương pháp tập luyện có hiệu quả trong việc tự điều trị bệnh. “Người bệnh nên thử nghiệm phương pháp này và ngay cả người khỏe mạnh nếu có niềm tin vào bản thân hoàn toàn có thể thử để nâng cao sức khỏe cho mình. Mọi người ban đầu nghe có thể rất khó tin, chính bản thân của tôi ngay từ đầu cũng vậy. Phương pháp này dựa trên những nguyên tắc, nguyên lý có cơ sở, căn cứ để nhằm giúp đỡ tất cả mọi người chứ không vì bất kỳ mục đích nào khác”, ông Học nhắn nhủ.

Với những lợi ích thiết thực mà Trường sinh học mang lại cho người bệnh, hy vọng trong một tương lai gần, sẽ có những công trình nghiên cứu, khảo nghiệm để phương pháp này thực sự được các ngành y tế, khoa học công nhận để truyền bá rộng rãi hơn.




NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ VÀ NĂNG LƯỢNG SINH HỌC

          Có người ngộ nhận rằng vũ trụ là cái gì rất xa xăm, nơi chỉ có các phi thuyền mới đến được và năng lượng vũ trụ cũng ở rất xa mà con người trên trái đất hoàn toàn không cảm nhận.

         Vậy các sinh vật nói chung và cây cối nói riêng trên trái đất sống bằng gì? Thực vật có khả năng thu trực tiếp năng lượng vũ trụ tạo nên gluxit, protit, lipit, các khoáng chất… động vật muốn tồn tại lại phải nhận năng lượng gián tiếp qua cây cỏ hoặc các loại động vật khác. Con người có nhiều khả năng để có được năng lượng giúp tồn tại, phát triển và sáng tạo. Ăn tinh bột, thịt cá… để tạo ra năng lượng thực phẩm là khả năng thấp nhất mà một con người sống nào cũng  thực hiện được nơi bản năng sinh tồn.  Còn một loại năng lượng khác, gọi là năng lượng sinh học thì không  phải ai cũng có nhiều, đủ mạnh để có thể phát huy những khả năng tiềm ẩn của mình.

          Vấn đề chúng ta muốn đề cập là : năng lượng vũ trụ và năng lượng sinh học trên thực tế có hay không?



I.       NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ

          Nền văn minh Ấn Độ có đề cập đến sự tồn tại của khí Prana. Còn người Trung Quốc cổ xưa cũng biết thu Ngoại khí để phát công trong môn phái khí công lâu đời. Nền y học phương Đông cũng quan tâm đến hai loại : Khí tiên thiên và khí hậu thiên.

          Các loại khí này được phát hiện từ rất xa xưa nhưng lại rất mới đối với hầu hết chúng ta. Các nhà khoa học trên thế giới nhìn nhận loại vật chất này theo hai trường phái sau:

-   Loại vật chất có cấu tạo vật lý phát ra từ các loại vật chất khác

-   Loại vật chất mới, mịn hơn, tinh tế hơn, nằm ngoài khái niệm của khoa học vật lý đương đại.

          Sự tranh chấp trên chỉ có tính chất nội bộ khoa học để dùng hiểu biết khoa học minh họa loại vất chất này bằng ngôn từ. Còn loại chất đó thực tế vẫn tồn tại, cây cối vẫn trực tiếp thu được, thậm chí con người cũng có thể làm như vậy.

         Theo quan điểm của nhà vật lý lỗi lạc S.Hawking, vũ trụ là tổng thể nhiều thiên hà được hình thành sau một vụ nổ lớn (Big Bang). Theo vật lý thiên văn, riêng thiên hà có hệ mặt trời của chúng ta bao gồm hơn 200 tỷ ngôi sao và tạo ra khoảng vài ngàn hệ mặt trời như vậy. Trong vũ trụ, Trái đất chỉ là một hành tình của một thiên hà và chỉ một thiên hà của chúng ta, cũng có thời 2.000 trái đất.

          Như vậy, sẽ là quá khắt khe khi khẳng định rằng năng lượng vũ trụ đến với chúng ta chỉ có từ mặt trời.

          Khi nghiên cứu vũ trụ, các nhà vật lý băn khoăn không hiểu nguồn năng lượng lớn bức xạ từ các thái dương hệ chưa đo đạc được hiện nằm ở đâu. Năm 1965, hai  nhà vật lý Mỹ , Arno Phenzias và Robert Wilson tiến hành trắc nghiệm một máy dò sóng cực ngắn rất nhạy. cả hai người nhận thấy máy ghi lại tiếng ồn quá nhiều so với mức cần thiết.  Tiếng ồn này dường như đến từ mọi phía, chẳng có phương nào đặc biệt. Họ nghĩ rằng, tiếng ồn trong khí quyển mạnh hon nếu cho máy dò hướng theo phương thẳng đứng, nhưng lạ thay từ mọi phía tiếng ồn lại như nhau. Tiếng ồn giống nhau cả ngày lẫn đêm và suốt cả một năm bất kể Trái đất quay quanh trục của nó và quay quanh mặt trời.  Điều này chứng tỏ bức xạ tời từ ngoài hệ mặt Trời, thậm chí cả ngoài Thiên Hà của chúng t, vì nếu không nó sẽ làm thay đổi khi chuyển động của Trái đất làm cho máy đổi hướng. Các nhà khoa học khẳng định bức xạ đến với chúng ta từ những vùng xa của Vũ trụ. Benzias và Wilson đã nhận giải thưởng Nobel Vật lý năm 1978 về phát hiện nói trên.

          Nhà vật lý vũ trụ nổi tiếng, chuyên viên khoa học thuộc Cơ quan hàng không vũ trụ NASA Hoa Kỳ, Tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận cùng tiến sĩ Monmerle khi nghiên cứu độc sáng của các vì sao đã chứng minh rằng : với độ ánh sáng như thế thì lượng vật chất vũ trụ phải gấp 10 lần vật chất biết được. Như vậy, còn một lượng vật chất chưa biết nhiều gấp chin lần vật chất đã phát hiện. Họ đi đến kết luận : sự tìm hiểu bản chất của loại vật chất vô hình này là một thách đố khủng kiếp đối với trí tưởng tượng của chúng ta.

          Năng lượng vũ trụ vẫn tồn tại quanh ta dưới dạng mà khoa học vật lý dù phát triển như hiện nay vẫn chưa xác nhận hết.

          Nhà vật lý lý thuyết lừng danh , từng được giải thưởng Nobel, giáo sư R. Feymann khẳng định : chúng ta không thể giải thích được bằng các đưa kiến thức vật lý sẵn có, mà phải mở rộng vật lý học…



II.    NĂNG LƯỢNG SINH HỌC

          Nền khoa học hiện nay thường chỉ tin vào thực nghiệm.  Quan điểm cho rằng con người là một thực thể vật chất gồm nhiều cơ quan lien kết lại và tư duy thần kinh – não tủy đã không giải thích nổi các hiện tượng Siêu nhiên của chính con người.

          Nhà vật lý thiên tài Einstein đã tiên đoán về sự tương đương giữa vật chất và năng lượng. vật chất là năng lượng cô đọng lại, còn năng lượng là vật chất bị phân tán ra.

          Khi nghiên cứu sự sống, chúng ta thấy rằng mọi cơ thể sốn đều được cấu tạo bởi thành phần : năng lượng và thông tin. Trong khi đó vật chất vô sinh chỉ có năng lượng mà thôi.

          Phần năng lượng đặc của con người là Thân Thể (PE), phần năng lượng mang thông tin được gọi là cơ thể năng lượng (PE). Tính thông tin của PE đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại, tiến hóa của sinh vật và trong quan hệ giữa cơ thể sống với nhau.

          Năm 1939, ông Kirlian đã dùng máy ảnh gắn thêm lăng kính lọc màu xanh Cobalt để chụp cá cơ thể sống. hình ảnh thu được từ lá cây, con người… đều có đường viền quanh rất rõ. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng Kirlian. Viện khoa học ảnh Cộng hòa liên bang Đức hiện lưu trữ khảng 80.000 ngàn tấm ảnh về hiệu ứng loại này. Với phương pháp Kirlian, người ta có thể chụp được hào quang của những cơ thể sống khác nhau, có thể nhận biết trái thái sức khỏe của từng cơ thể sống qua năng lượng bao quanh.

          Cũng năm 1939, Bác sĩ Harol Burr, giáo sư Khoa sinh học trường đại học Yale Hoa Kỳ, trong báo cáo của Viện hàn lâm khoa học quốc gia có bài “ Bằng chứng về sự tồn tại của trường điện động học trong cơ thể sống”.

          Trong thập kỷ 60, nhiều nhà khoa học đã quan tâm nghiên cứu lĩnh vực này. Nhà vật lý Walter Kirner dùng máy ảnh có chất Dicyanine chụp năng lượng quanh cơ thể sống. Các bác sĩ, William Teller, Ravitz… đã có những đóng góp đáng kể trong nghiên cứu các lĩnh vực năng lượng sinh học.  Đặc biệt, bác sĩ Valorie Hunt còn phát hiện khả năng dùng năng lượng sinh học để nghe từ xa.

          Năm 1986, tại hội nghị quốc tế về thần giao cách cảm tại Praha, nhà vật lý nổi tiếng R. Targ, chuyên viên NASA Hoa Kỳ, đã đọc báo cáo về sức mạnh của tâm năng.

          Năng lượng sinh học ở từng cơ thể sống mạnh yếu khác nhau khi tỏa ra ngoài, tạo thành vật chất thực tại : Hào Quang

          Nguyên lý hợp nhất Thiên – Nhân – Địa có ý nghĩa trong cách nhìn nhận và đánh giá vũ trụ. Khoa học quan sát vũ trụ một cánh tổng thể, dự báo cả cái chưa biết đang tồn tại.

          Năng lượng sinh học có thể được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực  siêu nhiên của con người. Một trong các ứng dụng thực tế là chữa bệnh.

          Năng lượng sinh học sẽ mạnh hơn khi thân thể chúng ta thu nhận năng lượng vũ trụ qua hệ thống luân xa mở trong những điều kiện nhất định. Năng lượng sinh học này, ta còn gọi là nhân điện, nó hoàn toàn không phải như điện tim đồ, điện não, điện cơ… Nhân điện chỉ là một thuật ngữ quen dùng để phân biệt với năng lượng sinh học củ các muông thú và cây cối. Muốn biết nó là gì phải tiếp cận và nghiên cứu nghiêm túc.

          Hiểu như thế nào về năng lượng vũ trụ và năng lượng sinh học tùy thuộc vào kiến thức  tổng hợp của chúng ta. Đây là loại vật chất vẫn tồn tại như nó từng tồn tại từ xưa đến giờ, mà cũng chẳng xa đâu, quanh mỗi người đều có.

          Vấn đề có tính cấp thiết là tìm tòi nghiên cứu các kiến thức cổ kim, phối hợp khoa học hiện đại xây dựng được một công nghệ sinh học hoàn chỉnh giúp huấn luyện được số đông nhiều người , trong một thời gian ngắn có khả năng tạo được năng lượng sinh học mạnh cho mình và có thể dùng nó phục vụ xã hội.



Trường Sinh Học Nhân Điện của Thầy Lương Minh Đáng

ap_20100707034104272Master.dang
          Thầy sử dụng nhiều ngôn ngữ, phương tiện sẵn có từ xa xưa đến hiện đại để làm lý thuyết giao giảng cho ngành nhân điện như sự tự chủ, khai mở luân xa, minh triết, giác ngộ, tình thương, quyên mình phục vụ cho mọi người, an nhiên tự tại, cân bằng âm dương, chân ngã, đứng trên bình diện phải trái đúng sai tốt xấu, phong tục tập quán gia đình xã hội, sinh tử, hạnh phúc may mắn, quyền lực ích kỷ, tranh quyền đoạt lợi vv… những lý thuyết này do những bậc hiền nhân để lại hoặc được dân gian cộng đồng đúc kết lại thành kinh nghiệm và bài học răn dạy cho hậu thế.

          Ngành nhân điện là ngành học bổ xung vì có được băng tần tổng hợp, được Thầy Lương Minh Đáng đem đến cho nhân loại bằng hình thức giảng dạy những công thức thực hành thực tập, những công thức Thầy được mặc khải từ Thượng Thiên để thực hiện được những lý thuyết của các vị giáo chủ tôn giáo, những lời dăn dạy của những bậc hiền triết, những lời đúc kết quý báu của cha ông để lại trong dân gian.

          Vì khối lượng thông tin có quá nhiều, nên dưới đây chỉ đưa ra những nét chính để làm rõ ngành nhân điện của Thầy Lương Minh Đáng sáng lập có sự đồng nhất và khác biệt như thế nào so với ngành nhân điện của Ngài Dasida Narada khai sáng.

          Câu chuyện bắt đầu từ lời Thầy Đáng thường nói với anh chị em rằng vào 3 ngày trước khi vào năm mới tết cổ truyền, tức ngày 28 tháng chạp năm 1971 âm lịch, lịch dương là năm 1972, lần đầu tiên Thầy ngồi thiền định Thầy nhập định liền và tiếp xúc với Thượng Thiên. Trong lúc nhập định các Đấng cao cả dạy cho Thầy rằng tương lai chỉ con người mới giúp được con người ngoài con người không ai giúp được con người đâu mà con người đó phải có quyền năng khả năng, tương lai con sẽ đi ngoại quốc hoằng hóa phật pháp cứu độ chúng sinh… Trong tài liệu dành cho học viên lớp 3 anh chị em đọc được Thầy Đáng nói người khai mở luân xa và giúp Thầy về trường sinh học là Ngài Dasida Nasada, học trò của Ngài Dasida Narada. Trong thời gian từ năm 1989 đến 1992 Thầy Đáng đi giao giảng vẫn thường trả lời như vậy với câu hỏi từ học trò rằng trường sinh học của Thầy từ đâu mà có và ai là người dạy cho Thầy. Tới năm 1992 Thầy Đáng nói Thầy tiếp xúc Thượng Thiên, các Đấng nói Thầy không mượn danh Ngài Dasida Nasada nữa vì nếu tiếp tục, những người ngoại quốc trên đất Mỹ sẽ nghĩ rằng Thầy đang giao giảng một chi phái của Phật giáo nguyên thủy vì Ngài Dasida Narada là một vị sư thầy. Từ đó Thầy không mượn danh Ngài Dasida Nasada nữa mà trả lời thẳng rằng những công thức nhân điện Thầy dạy lại cho học trò là Thầy học trực tiếp từ Thượng Thiên, Thầy thực hành thực tập thành công mới dạy lại cho học trò và việc khai mở luân xa 100% từ luân xa 2 đến luân xa 7 trong thời gian 200.000 năm trở lại đây chưa một người nào ngoài Thầy được Thượng Thiên cho phép. Ngay sau khi khai mở 100% luân xa, một người đã có khả năng tự trị bịnh cho mình và cho người khác, có khả năng cầu nguyện cho linh hồn thấp linh hồn xấu về với trời Phật đi tu, có khả năng giúp một người bị bịnh thần kinh giả nhiều năm đến nhiều chục năm trở lại bình thường sau 2 ngày trị bịnh. Tuy nhiên Thầy chưa một lần đính chính Thầy không gặp Ngài Dasira Nasada vào năm 1972 như trong tài liệu lớp 3 đã đề cập mà mỗi lần học trò hỏi về Ngài Dasira Nasada và Dasira Narada, Thầy chỉ trả lời trong cuộc đời học đạo của Thầy, không ai là Thầy của Thầy trừ Thượng Thiên, tất cả công thức nhân điện đều từ Thượng Thiên dạy trực tiếp cho Thầy mà có.

          Như vậy việc Thầy Đáng có gặp Ngài Dasira Nasada nhiều lần vào năm 1972 là có thật và Thầy cũng nói thời kỳ này Thầy có nhiều cơ duyên gặp gỡ những vị tu sĩ Phật giáo cấp cao khác mà Thầy đã nói cho anh chị em nghe trong các lớp học, Thầy cũng nói khi nói chuyện với một sư thầy tu học nhiều năm tại Thái Lan giờ về Việt Nam và dịch sách tiếng Thái cho người Việt học, Thầy cũng gọi vị sư thầy này là thầy. Những cuộc nói chuyện giữa Ngài Dasira Nasada và Thầy Lương Minh Đáng đã giúp Thầy có tri thức về trường sinh học nhân điện, có tri thức về ý nghĩa các luân xa trên cơ thể. Có thể nói Ngài Dasira Nasada là một người thầy đời, một người thầy nhân thế của Thầy Lương Minh Đáng. Trong lớp học nhân điện Thầy Đáng cũng nhắc nhở để anh chị em làm theo những lời dăn dạy từ phật đạo, từ công giáo để giúp anh chị em tinh tiến trên con đường tu học như việc xả bỏ ham muốn, cứu nhân độ thế…

          Anh chị em nhân điện chúng ta học bài học từ Thượng Thiên từ Thầy Lương Minh Đáng để anh chị em chúng ta minh triết giác ngộ, đầy đủ năng lực để sống và làm theo Thiên Ý hầu có khả năng giúp đỡ cho người đau yếu bệnh tật và những anh chị em mới có cơ duyên học hỏi phát triển tâm linh và hầu có năng lực mạnh mẽ vô lượng vô biên để siêu độ những anh linh có năng lượng thấp kém muốn về với Thiêng Liêng để tu học tái kiếp. Và chúng ta hiểu rằng mọi pháp của thánh hiều đều chung nguồn gốc và chung mục đích chỉ khác các ngài được tái sinh trong những thời điểm khác nhau và có những phương tiện bài học khác nhau để phù hợp với nhân loại trong thời kỳ hiên tại. Cụ thể về các pháp trường sinh học đều lấy việc khai mở luân xa làm nền tảng để thu hút năng lượng vũ trụ để đạt đến trạng thái thiên địa nhân hợp nhất, để giúp mình giúp người. Việc khai mở luân xa là mục đích mà con người muốn có được từ nhiều ngàn năm nay và danh từ luân xa cũng có từ thời trước khi Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni xuống trần.

          Anh chị em nhân điện chúng ta nhận năng lực khai mở 100% từ Thầy Lương Minh Đáng nhìn vào bức ảnh Ngài Dasira Narada chúng ta cảm nhận được năng lực báo trên luân xa 7, nếu là anh chị em cấp cao đã theo học ngành nhân điện nhiều năm và được nghe Thầy Lương Minh Đáng giảng dạy, khi nhìn vào bức ảnh Ngài Dasira Narada anh chị em cảm nhận được một năng lực rất quen thuộc và nhận ra năng lực này luôn thường trực kế bên Thầy Lương Minh Đáng giúp Thầy Lương Minh Đáng để Thầy giảng dạy cho anh chị em.

          Anh chị em tin tưởng công giáo được tình thương của Đức Chúa Giesu ban phát khi theo học ngành nhân điện anh chị em dễ dàng nhận ra tình thương của Chúa đang bên cạnh người Thầy đang dạy dỗ mình.

          Anh chị em tin tưởng Phật đạo theo học ngành nhân điện anh chị em có năng lực để tiếp xúc với Đức Phật và thực hiện được lời Phật dạy và những kiến thức phật giáo trước kia anh chị em rất khó khăn tiếp nhận và thấu hiểu thì nay anh chị em học một hiểu mười và tinh tấn trên con đường tu hành để về gần với Đức Thế Tôn.

Dưới đây là những đường link để anh chị em download file winrar chứa mp3 ghi lại lời Thầy Lương Minh Đáng giảng dạy các cấp, lần lượt chúng tôi sẽ upload tất cả và đều được post link tại đây
mp3 của CD Minh Triết & Giác Ngộ
mp3 của CD Hạnh Phúc & May Mắn
….
Lớp 5.2 & 6 cho Hồng Kông

….
Lớp 6 tại các nơi

Lớp 6 tại tp_HCM năm 2002
Lớp 6 ngày 16-1-2002
Lớp 6 ngày 23-1-2002
Lớp 6 ngày 8-9-2002
Lớp 6 ngày 13-10-2002
….
Lớp 7, 7+
….
Lớp Tiềm Năng I, II, III
….
Lớp Não Bộ Người Tiền Sử
….
Lớp 16 đầu tiên
Lớp 17 đầu tiên
Lớp 18 đầu tiên
Lớp 17 18
Lớp 17 18 sanjose
….
Lớp 19 Đầu tiên, file I, File II
Lớp 19 Thầy dạy cho Nam Mỹ
Lớp 19 cho Úc và Thái
Lớp 19 trong khóa Thầy dạy 4 lớp 16 17 18 19
….
Lớp 20 Đầu tiên




                        Video TRƯỜNG SINH HỌC

Lý thuyết cấp 4 phần 1
https://youtu.be/dOSKepXCB3U

 
Lý thuyết cấp 4 phần 2
https://youtu.be/jgcgrQO7Tig

 
Lý thuyết cấp 4 phần 3
https://youtu.be/q8N8QoazItI

 
Lý thuyết cấp 4 phần 4
https://youtu.be/TRAO1-EWI_w

 

















Tóm tắt những điều đúng sai về Trường Sinh Nhân Điện trong chữa bệnh


    Có nhiều người hỏi tôi về hiệu qủa cách chữa bệnh bằng năng lượng trường sinh học đúng hay sai. Tôi xin trả lời những điểm lưu ý sau đây :

A-Nguồn năng lượng thiên nhiên :
    1-Nguồn từ trường năng lượng qủa thực vẫn có sẵn ngoài không gian, không ai phủ nhận, nhưng bản chất có những năng lượng tốt thanh nhẹ hay những năng lượng ô trược do môi trường sống, như năng lượng trên vùng núi, vùng biển, môi trường điện lực, môi trường phóng xạ vẫn âm thầm tác động vào con người làm cho sức khỏe con người được khỏe mạnh hay bệnh tật.
    2-Năng lượng trong con người gọi là nhân điện cũng đã có sẵn trong cơ thể ta được hình thành từ 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần, nên nó cũng có năng lượng tốt và năng lượng xấu tùy thuộc vào những biến đổi của 3 yếu tố trên.
    Như về Tinh : Là những thực phẩm nuôi sống con người hoàn toàn tinh khiết tươi tốt chứa nhiều ion dương chứa nhiều oxy hay những thực phẩm chứa nhiều hóa chất độc hại mang nhiều ion âm chứa nhiều khí Co2.
    Như về Khí : Là môi trường sống trong gia đình, ngoài xã hội, thành phố, vùng cây xanh gió mát hay vùng ô nhiễm có ảnh hưởng đến khí của hơi thở trong con người giúp tăng oxy cho cơ thể tuần hoàn và lọc máu tốt hay nhiễm nhiều khí ô nhiễm làm biến đổi máu trở thành xấu sẽ sinh ra nhiều bệnh.
    Như về Thần: Là tư tưởng, tinh thần, trình độ tâm linh, văn hóa, văn minh xã hội trong môi trường sống và giao tiếp với những người chung quanh, nó có ảnh hưởng đến phong tục tập quán, thói quen tốt xấu, tính tình tốt xấu của mỗi con người.
    3 yếu tố này tổng hợp thành nguồn năng lượng tốt xấu trong con người nó làm cho con người khỏe mạnh, có đời sống văn hóa cao, có đời sống thánh thiện hay con người bệnh hoạn, có đời sống ích kỷ độc ác…

B-Nguồn năng lượng của Trường Sinh Nhân Điện :
    Để giúp cho con người sống trong những ảnh hưởng của môi trường văn minh mà khoa học kỹ nghệ đã đẩy con người lao vào cuộc sống vội vã, làm xáo trộn cả 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần, thực phẩm nông nghiệp chăn nuôi phát triển nhanh bằng hóa chất, không khí hơi thở bị ô nhiễm vì môi truờng, tinh thần thì bất an do nhiều áp lực cạnh tranh trong cuộc sống.
    Cuộc sống của người đời càng vất vả xô bồ, không giống cuộc sống của các nhà tu, tâm bình an, sống tự tại, ăn uống đơn giản thanh đạm ít bị ô nhiễm, biết cách luyện thở để nhận năng lượng tốt trong thiên nhiên và biết cách loại bỏ những năng lượng ô trược trong cơ thể, vì thế các vị này đã có một thân thể khỏe mạnh, một tinh thần minh mẫn, và có tấm lòng nhân từ bi, vị tha, bác ái, đã đem những kinh nghiệm sống của mình truyền trao cho người đời biết cách thu nhận năng lượng tốt trong thiên nhiên sẵn có để bảo tồn năng lượng cho cơ thể hoạt động.
    Cách tu luyện của những nhà tu Công Giáo cũng như Phật Giáo đã có từ lâu, mỗi khi các vị bị ô nhiễm từ thức ăn, khí hậu, môi trường, các vị tự chữa bằng phương pháp Tĩnh Tâm hay Tịnh Tu, điều hòa hơi thở và điều chỉnh cách ăn uống chỉ vài ngày là các vị khỏi bệnh.
    Trong số các vị tu sĩ này, có vị thiền sư Tích Lan Dasira Narada khi ghé thăm Việt Nam trong Lễ Khánh Thành tượng Phật Thích Ca nằm ở một ngôi chùa Vũng Tầu, Việt Nam, ông đã truyền cho 5 người, đây chỉ là phương pháp tu luyện hơi thở và tĩnh tâm, trong số này có cựu Đại Tá D.H.N đã nhờ nó mà trong suốt thời gian học tập cải tạo trong điều kiện khắc nghiệt không làm ảnh hưởng đến Tinh-Khí-Thần của ông.
    Thiền Sư Tích Lan cũng đã truyền phương pháp tu luyện này cho nhiều người ở những nơi ông đi qua, và ngay tại nuớc ông, nhưng không ai gọi nó là Trường Sinh Nhân Điện dùng nó để chữa bệnh cho người khác. Chỉ có Ông Lương Minh Đáng học được phương pháp này mới đặt tên cho nó là môn học Trường Sinh Nhân Điện và ngày nay chỉ có người Việt Nam mới lạm dụng nó để đem ra dạy thành từng cấp lớp học cách chữa bệnh thu tiền, không khác nào ăn cắp năng lượng có sẵn trong trời đất đem rao bán lấy tiền thu lợi, lại bắt ông tổ gánh tội bằng những buổi tiệc kỷ niệm sinh nhật của tổ.
    Trên thực tế, thiền sư Dasira Narada chỉ dạy phương pháp thở thiền tịnh tâm thì trong Phật Giáo vẫn đang thực hành đối với những tu sĩ, ngài thấy lợi lạc đem vào áp dụng cho các cư sĩ lại bị lợi dụng thành món hàng chứ không cần phải tu, do đó chính Ông LMĐ chia ra 6 cấp, mà ngay bản thân ông đến đó là bí, không phải là tu sĩ, không giữ 5 giới cấm, tham danh lợi là môi trường năng lượng xấu ảnh hưởng dến yếu tố Thần, không ăn thanh tịnh, ảnh hưởng đến yếu tố Tinh, khí lực dư thừa làm tăng áp huyết nên ông bị đột qụy.

C-Năng Lượng Tà Đạo :
    Khi cơ thể đã mở hết các luân xa thì tất cả mọi năng lượng vũ trụ tốt xấu đều vào, chỉ người có ý chí tu hành theo 1 pháp môn thiền định từ từ chứng được 4 qủa thánh là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán (có thần thông) thì năng lượng tốt được thu vào cơ thể gọi là chánh đạo, những vị này có bàn tay năng lượng chữa bệnh cho người được nhưng các vị này chỉ dạy cho mình phương pháp tu làm sao cho đạt được qủa thánh, trên qủa thánh là tu hạnh bồ tát trở lên cao thành Phật là danh từ chỉ người đã giác ngộ.
    Nhưng những phương pháp khác cũng có thần thông không phải do tu hành chân chính mà đạt được là phương pháp của tà đạo, nên không cần ăn chay, không cần giữ giới, vẫn phạm giới dâm dục, rượu chè, sát sanh, cờ bạc, trộm cắp, đây là loại trộm cắp vi tế, trộm năng lượng đem ra buôn bán.
    Trường Sinh Nhân Điện của Ông LMĐ từ cấp 6 đả rẽ sang tà giáo vọt lên cấp 21 và ông tuyên bố : Thầy và các đệ tử cao cấp của thầy là linh hồn tái sanh của các vị thầy Ai Cập, do đó những năng lượng và các khả năng thần thông đều do linh hồn các vị thầy Ai Cập dạy, nên mới có lớp Bộ Óc Người Tiền Sử và Kim Tự Tháp, và trường Đại Học Y Học Bổ Sung của TSNH chưa có tuyên bố một kết qủa chữa bệnh nào nổi tiếng, còn các học trò TSNH hiện nay chỉ muốn học chữa bệnh bằng thần thông không biết tu là gì nên lại thêm một sai lầm, khi truyền dạy dặn học viên không được niệm Phật mà không giải thích nguyên nhân.
    Như vậy kể từ khi Ông LMĐ bị đột qụy từ giã cõi đời, danh từ TSNH điện bị lạm dụng, học trò ông đã đem tổ và ông làm bình phong để tranh giành ảnh hưởng và làm phân hóa thành nhiều tên gọi, nhưng thật ra xét khả năng thu năng lượng với 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần xấu đã làm cho cơ thể mình chỉ thu nhận được năng lượng xấu khiến cho mình càng thêm bệnh hoạn.
    Muốn biết 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần trong con người mình tốt xấu như thế nào, chúng ta hãy dùng máy móc tây y để kiểm chứng, bằng cách đo áp huyết và đo đường, đo chỉ số bơm máu bằng máy Masimo xem từ thầy truyền năng lượng và người được truyền năng lượng chữa bệnh có làm thay đổi 3 yếu tố Khí lực/lượng máu/nồng độ đường trong máu từ xấu trờ thành tốt hay không.
    Thí dụ một người bị bệnh cao áp huyết trước khi được truyền năng lượng chữa bệnh, chúng ta hãy đo áp huyết và đường cả thầy chữa và bệnh nhân.
    Thí dụ về thầy chữa : áp huyết tay trái đo được 135.80mmHg nhịp tim 80, tay phải 132/78mmHg nhịp tim 83, đường đo được 8.6mmol/l.
    Bệnh nhân áp huyết tay trái đo đuợc 165/90mmHg nhịp tim 87, tay phải đo được 157/90mmHg nhịp tim 90, đường đo được 9.5mmol/l.
    Sau khi chữa bằng nhân điện có những trường hợp thường thấy :
    1-Các số liệu của cả 2 người như cũ, chúng ta kết luận thầy chữa không có năng lượng
    2-Áp huyết của thầy chữa tăng và bệnh nhân giảm là thầy chữa không có năng lượng bảo vệ mình mà trở thành bình thông nhau, để bệnh nhân truyền sang làm quân bình giữa hai người, bệnh nhân thấy khỏe mạnh tưởng là thầy chữa hay, và thầy thấy bệnh nhân hết nhức đầu thầy tưởng do tài năng truyền nhân điện của mình.
    3-Thầy chữa bị tăng áp huyết, nhưng bệnh nhân không giảm, là thầy cố dùng lực đẩy ra tay, vô tình thấy ép khí lực của thầy làm thầy tăng áp huyết, chứ thầy cũng không có năng lượng.
    4-Thầy chữa bị tăng áp huyết và bệnh nhân cũng tăng áp huyết, là thầy ép khí lực làm thầy bị tăng áp huyết, còn khí truyền ra tay thầy vào cơ thể bệnh nhân tăng thêm khí làm tăng áp huyết, nếu lực mạnh làm bệnh nhân nóng người xuất mồ hôi, thì cách chữa này không còn là nhân điện mà truyền nội công cho bệnh nhân xuất mồ hôi giải nhiệt thì áp huyết và đường giảm.
    5-Thầy chữa nhân điện không biết đặt tay theo âm dương, nên có khi âm dương của thầy và bệnh nhân hút nhay, dương dương hay âm âm đẩy năng lượng của nhau, làm rối loạn âm dương, nếu phù hợp với nhu cầu cần của bệnh nhân thì bệnh nhân khỏi bệnh vì âm dương được quân bình, nếu cùng cực âm dương thì đẩy nhau thành xung khắc khiến mất năng lượng của cả hai người làm hai người đều bệnh.
    6-Nếu thầy chữa nhiều bệnh nhân trong ngày bị mất sức thì thầy không có năng lượng mà lại cho người khác càng ngày càng yếu sức.
    7-Trường hợp dễ thấy nhất nếu 1 người áp huyết cao thân nhiệt, chỉ cần chữa những bệnh áp huyết thấp nguời lạnh thì không phải là thầy nhân điện cũng chữa thành công.
Ngược lại nếu chữa người có áp huyết cao hơn mình thì cả hai càng bị cao, một trong hai người sẽ bị bệnh nặng đi đến đột qụy.
    8-Nói đến trường hợp chữa tăng nhiệt hạ nhiệt cho bệnh nhân bằng truyền năng lượng nhiều khi không cần thiết phải truyền vì không có hiệu qủa. Thí dụ lưng hay bụng bệnh nhân đau do lạnh, thầy nhân điện mà có áp huyết thấp, cơ thể thiếu đường nên người thầy củng không có nhiệt lượng, còn truyền bàn tay năng lượng cho bệnh nhân nóng thì có nóng hơi hơi là do nguyên tắc khí công, ý ở đâu, khí đi đến đó, khí đến đâu máu chạy theo đến đó, nơi nào có máu chạy thỉ nơi đó nóng, nên khi thầy đưa ý vào bàn tay truyền hơi nóng đến bàn tay đặt trên bụng hay lưng bệnh nhân thấy nóng là nóng tạm thời rồi mất, chi bằng đắp khăn nóng, hơ bằng máy sấy tóc nóng hơn năng lượng của thầy chữa tốt hơn không.
    9-Truyền năng lượng chỉ là truyền khí, còn bệnh nhân có giữ được khí đó hay có nhận được khí lại lệ thuộc vào 3 yếu tố hơi thở, lượng máu, lượng đường, nếu hơi thở thoi thóp, máu thiếu, đường thiếu thì thầy năng lượng bó tay.
    10-Kiểm tra năng lượng của một thầy năng lượng trên bản thân của thầy bằng máy đo áp huyết, đo đường, máy Masimo xem chỉ số bơm máu, trước khi thầy tự chữa cho thầy làm sao cho sau khi chữa làm thay đổi được kết qủa như ý muốn, thì đó mới chính là năng lượng thứ thiệt.
    Cò khả năng chữa bệnh bằng năng lượng, đo áp huyết, đo đường, và chỉ số bơm máu của bệnh nhân trước và sau khi chữa có thay đổi tốt làm khỏi bệnh không, thì đó mới là thầy biết chữa bệnh bằng năng lượng.
    Ngược lại thầy chữa cũng truyền năng lượng, cũng làm thay đổi số liệu trước và sau khi chữa nhưng làm thay đổi xấu tệ hơn thì không phải là thầy chữa bệnh để khỏi bệnh cứu người mà chữa bệnh làm hại người.
    Nói tóm lại chữa bệnh bằng năng lượng mà không có kiểm chứng bằng con số cụ thể theo y khoa phục hồi được 3 yếu tố khí lực/lượng máu qua tim/ nồng độ đường trong máu, thì các thầy chữa trở thành những thầy lừa dối bệnh nhân theo học vừa tốn tiền vừa hại người trái với ý của các vị Tổ Sư là truyền cho phương pháp cho mọi người tự tu học với thân thể khỏe mạnh an vui tự tại không bệnh tật chứ không phải đem hình tổ sư làm bình phong để lừa thiên hạ hưởng lợi.
    Nếu qúy vị tin vào khả năng chữa bệnh của TSNH rất hay, chữa bệnh không cần dùng thuốc, nhưng có khỏi được bệnh hay không, không cần tranh cãi mà qúy vị hãy mạnh dạn đem áp dụng 3 máy : máy đo áp huyết ở 2 tay, đo đường, đo bằng máy khám tìm bệnh Masimo xem cách chữa có kết qủa thực sự làm thay đổi kết qủa xấu thành tốt hay không giữa thầy chữa và bệnh nhân trước và sau khi chữa để so sánh.
        Và cũng đừng để bị lầm những người tự xưng là thầy chữa bệnh bằng năng lượng, chúng ta có quyền đem 3 máy kiểm chứng kết qủa, để khỏi tiền mất tật mang


Vị trí, chức năng các trung tâm năng lượng trong cơ thể con người


I. LUÂN XA

         Hệ thống Luân xa là những trung tâm đặc biệt trên cơ thể con người. Khi được mởcơ thể thu nhận được nguồn năng lượng vô tận từ vũ trụ. Trong kinh Vedas (cách đây khoảng 6000 năm) đề cập đến 7 Luân xa. Khí công Trung Hoa nói đến các đại huyệt. Ai Cập cổ đại có hình Luân xa trên tường của Kim Tự Tháp.
  Photobucket
Bảy luân xa theo kinh Vedas (Ấn Độ)
        Trong hình minh hoạ trên, mỗi Luân xa được tượng trưng bằng một đoá hoa sen, có số cánh khác nhau:
L1 – Bốn cánh; L2 – Sáu cánh; L3 – Mười cánh; L4 – Mười hai cánh
L5 – Mười sáu cánh; L6 – Hai cánh; L7 – Một nghìn cánh.
Photobucket
-        Luân xa 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể. Chủ trị: các bệnh thần kinh, phối hợp với các Luân xa khác chữa trị hầu hết các bệnh.
-        Luân xa 6: Liên quan đến vỏ não, tuyến Yên, tuyến Tùng. Chủ trị: thần kinh, mất trí, huyết áp và hoạt động tứ chi.
-        Luân xa 5: Chữa trị hô hấp, mũi, họng, phổi, suyễn, bệnh về da, dị ứng (allergy)
-        Luân xa 4: Chữa trị về tim và Cholesteron
-        Luân xa 3: Điều hoà năng lượng cơ thể. Chữa trị tiêu hoá, gan, dạ dày, ruột, lá lách, thận.
-        Luân xa 2: Chữa trị hệ thống sinh dục, bài tiết
-        Luân xa 1: Tiềm lực nguồn vũ trụ
         Nhìn chung, các nền văn minh cổ đại đều nhìn nhận hệ thống Luân xa là các điểm đặc biệt, có thể được mở bằng nhiều con đường, trong đó có luyện tập. Với mục đích sử dụng khác nhau thì số lượng Luân xa là khác nhau.
         Theo quan điểm hiện nay, khuôn mẫu năng lượng sinh học bao quanh cơ thể sống con người (còn gọi là Hào Quang) không ngừng vận động và tạo ra các điểm hút. Quan sát thực tiễn, các nhà khoa học còn nhận thấy khuôn mẫu năng lượng sinh học tồn tại dưới dạng sóng vật chất. Giao thoa của 21 sóng năng lượng tạo ra đại huyệt là các Luân xa chính. Giao thoa của 14 sóng năng lượng tạo ra trung huyệt là các Luân xa phụ. Giao thoa của 7 sóng năng lượng tạo ra các huyệt châm cứu. Vị trí các Luân xa chính (Đại huyệt) là các đám rối thần kinh, các vùng phản chiếu nội tạng.
        Như vậy, Luân xa là cửa ngõ để giao tiếp, trao đổi năng lượng giữa cơ thể với môi trường.

II.  VỊ TRÍ 6 LUÂN XA MẠCH ĐỐC

1. Giới thiệu Mạch Nhâm và Mạch Đốc

        Trên cơ thể con người có hàng nghìn huyệt, phân bố trên các đường kinh, mạch, lạc…trong đó quan trọng nhất làc Mạch Nhâm và Mạch Đốc. Hai mạch này chứa các đại huyệt, là kênh năng lượng chính liên quan tới các cơ phận cơ bản của cơ thể.
         Mạch Đốc (Đốc: chỉ huy) là nơi hợp lưu của các đường kinh Dương, chủ trì tất cả những kinh Dương, bắt đầu từ huyệt Trường Cường (mỏm xương cụt), chạy dọc cột sống, lên đỉnh đầu, qua giữa trán, tới mũi, xuống tới môi trên, kết thúc tại huyệt Ngân Giao (dưới Nhân Trung) tại chân răng cửa hàm trên. Mạch Đốc thu năng lượng Dương (Sinh khí hay khí Tiên thiên- Năng lượng vũ trụ). Chiều vận hành đi xuống.
         Mạch Nhâm (Nhâm: đảm nhiệm, trách nhiệm). Là nơi hợp lưu toàn bộ các kinh Âm. Mạch Nhâm đảm nhiêm đối với tất cả các đường kinh Âm, bắt đầu từ huyệt Hội Âm (giữa bộ phận sinh dục ngoài và hậu môn) chạy dọc đường giữa bụng, qua rốn, qua ngực, lên cổ họng và hàm dưới, lượn vòng quanh môi, kết thúc tại huyệt Thừa Tương ở giữa cằm. Mạch Nhâm trao đổi năng lượng Âm (Địa khí, năng lượng của trái đất). Chiều vận hành đi từ dưới lên.
 Mạch Nhâm và Mạch Đốc được nối với nhau khi nâng lưỡi lên vòm miệng trên tại chân răng cửa.
         Trong chương trình cấp I, chỉ tiến hành mở các Luân xa mạch Đốc với mục đích tăng cường sinh khí cho cơ thể (Năng lượng Dương), bởi theo y học Phương Đông cơ thể con người thường là thừa Âm, thiếu Dương (Chính vì vậy con người thường hay bị mắc bệnh).

2. Vị trí, chức năng 6 trung tâm năng lượng (Luân xa) mạch Đốc

        Như đã trình bày, các trung tâm năng lượng trên hai mạch Nhâm-Đốc đóng vai trò quan trọng trong cơ thể con người. Cơ thể con người được cấu tạo một cách hoàn thiện, hoạt động theo một chu kỳ sinh học chặt chẽ và tuân theo các quy luật đặc biệt của tự nhiên. Các nhà khoa học đã khẳng định: “Bộ não của con người được cấu tạo tinh vi nhất trong vũ trụ” và đó cũng là thành quả vĩ đại nhất của Tạo Hóa.
         Mạch Đốc là nơi thu nhận các sinh khí (Năng lượng Dương) từ trong không gian, từ trong vũ trụ tưới vào cơ thể. Có 6 trung tâm liên quan tới các cơ phận cơ bản trong cơ thể (Còn gọi là Luân Xa) sẽ được mở trong cấp học này.
        Luân Xa 6: Nằm ở giữa trán, tại huyệt Thiên Mục ( Không thuộc Mạch Đốc nên gọi là huyệt kỳ), liên quan tới hoạt động của vỏ não, tuyến Tùng, tuyến Yên và hoạt động của chân tay. Đây là trung tâm trí tuệ của con người, là con mắt thứ ba hay giác quan thứ sáu, thể hiện khả năng về thần giao cách cảm, linh cảm…và cũng là nơi để phân biệt con người với các loài động vật khác. Đưa năng lượng vào Luân xa 6 có thể điều chỉnh các bệnh tâm thần, thần kinh, mất trí nhớ …
        Luân Xa 7: Nằm trên đỉnh đầu tại huyệt Bách Hội, phụ trách thần kinh trung ương, kiểm soát hoạt động của bán cầu đại não, cuống não, tiểu não và tủy sống. Đây là trung tâm điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể, chủ trị các bệnh cấp cứu, thần kinh, phối hợp với các LX khác chữa trị hầu hết các bệnh của cơ thể… Khai thông LX 7 tăng sinh lực cho con người.
        Luân xa 5: Nằm trên cột sống ngang vai, tại huyệt Đại Chùy, dưới đốt sống cổ 7. Luân xa 5 chủ trị về hô hấp, có tác dụng chữa trị các bệnh liên quan tới mũi, họng, cuống phổi, phổi, hen suyễn, các bệnh về da và có tác dụng để cắt cơn sốt.
        Luân xa 4Nằm trên cột sống ngang tim, tại huyệt Thần Đạo. Phụ trách hệ thống tuần hoàn, chủ trị các bệnh về tim, mạch máu, huyết áp… Đây là trung tâm thể hiện lòng nhân từ, yêu thương của con người với đồng loại và cũng là nơi để phân biệt con người với các loài động vật khác. Vì vậy Luân xa 4 còn gọi là Luân xa Trái Tim, Luân xa Buddha hay Luân xa Thánh Linh.
        Luân xa 3Nằm trên cột sống ngang thắt lưng tại huyệt Mệnh Môn, chủ trị về tiêu hóa, liên quan tới hoạt động của gan, mật, dạ dày, lá lách, ruột non, ruột già, thận…. Đây là trung tâm điều hòa năng lượng trong cơ thể (Trung tâm Thái Dương).
        Luân xa 2: Nằm tại huyệt Trường Cường, cuối đốt xương cụt. Chủ trị về sinh lý, sinh dục và bài tiết.

3. Những điều cần chú ý với Luân xa cao cấp

        Các Luân xa cao cấp mạch Đốc khi được mở 100% giống như một ngôi nhà, các cửa chính, cửa phụ đều đã được tháo bỏ hết các cánh che chắn. Gió, bụi, ánh sáng, … tự do lùa vào trong các căn phòng. Ngôi nhà đã hoàn toàn đổi khác! Từ nay trở đi không ai đặt tay mở Luân xa cho mình nữa.
        Khi được mở Luân xa cao cấp, học viên có khả năng phát và thu thông tin ở ngoài tầm cảm nhận bình thường bằng Luân xa 6. Để đạt được điều đó đòi hỏi chúng ta phải tập luyện đều đặn để có năng lượng sinh học đủ mạnh và tạo được sóng năng lượng.
        Có Luân xa cao cấp, không thiền Luân xa cũng không bị đóng lại. Tuy nhiên cần Thiền để đẩy xả các ô trược từ ngoài lọt vào cơ thể, tránh đau đớn. Hiện tượng đó xảy ra là do đường vào to trong khi lối ra nhỏ. Do đó cần tích cực xả trược.
        Người mở Luân xa cao cấp khi có bệnh phải cẩn trọng khi dùng thuốc vì càng nhiều trược. Liều dùng thường là tăng lên so với khi chưa mở Luân xa cao cấp mà tác dụng không nhiều bởi như đã biết “thuốc không chữa bệnh, thuốc giúp cá thể tự chữa bệnh”. Đây là một kinh nghiệm được rút ra qua nhiều thời gian huấn luyện. Phải kiên trì, tích cực tập luyện Thiền thì bệnh dứt khoát khỏi (trừ gãy xương, thủng dạ dày, huyết áp hoặc tim mạch cấp tính, …).
        Luân xa cao cấp giúp ta vươn tới giá trị tâm linh nhiều hơn thể xác, đánh thức khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người, chuẩn bị cho những bước tiếp theo đầy thử thách. Nhưng nếu ai vượt qua sẽ trở nên thông thái, khoẻ mạnh, giàu lòng bác ái, giàu lòng yêu thương đồng loại, giúp đời được nhiều hơn.

4. Luân xa 1

        Luân xa 1 là nơi giao nhau của hai mạch Nhâm – Đốc, vị trí tại huyệt Hội âm, giữa bộ phận sinh dục ngoài và hậu môn. Luân xa 1 còn gọi là Hoả xà (Kundalini), Con rắn lửa hay Tiềm lực nguồn vũ trụ.
        Việc Luân xa 1 hoạt động không có sự điều tiết, khống chế dễ gây ra hậu quả xấu. Đó là hiện tượng tẩu hoả nhập ma của một số người do bị căng thẳng quá độ, tập Khí công, Zen Nhật không đúng bài bản, tự tụng kinh gõ mõ hoặc chủ động khai mở sớm Luân xa 1 dẫn tới bán cầu não bị tổn thương. Hình ảnh bị lưu lại trên vùng nhìn thấy làm người bệnh hoang tưởng, nói nhiều, tâm thần, …
        Dấu hiệu Luân xa 1 hoạt động là: luồng lạch như con trạch chấu bò ngoằn ngoèo lên cột sống hoặc hơi nóng phà ra, có dấu hiệu như kim châm từ trong ra ở vùng Hội Âm.
Để tránh tình trạng siêu nhân thành phế nhân cần phải khống chế Luân xa 1. Tức là, khi thấy Luân xa 1 nóng, có dấu hiệu hoạt động hoặc khi trám Luân xa 1 giúp người khác cần tiến hành như sau:
        1.     Phát lệnh đưa năng lượng màu tím vào Luân xa 7
        2.     Hoá năng lượng tím thành vàng óng, phủ toàn bộ TIM
        3.     Đưa nguồn năng lượng từ TIM đến Luân xa 2 và ra 10 đầu ngón chân
        Thao tác này tự làm cho mình hoặc cho người bệnh. Thời gian có thể kéo dài từ 2 – 3 tháng, thậm chí với người tẩu hoả nhập ma có thể lâu hơn.

III. NHỮNG CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN MỞ LUÂN XA

 Có 4 con đường dẫn đến mở Luân xa:
1.    Bẩm sinh tự mở
2.    Bị tai nạn hoặc bị bệnh nặng lâu ngày, khi khỏi Luân xa tự mở
3.    Tập luyện công phu bí truyền lâu năm như : Yoga, Khí công, Nội công, Zen (Nhật Bản)…
4.    Mở chủ động bằng phương pháp của Tiến sĩ Đaisira Narađa

IV. NĂM ĐIỀU DẪN ĐẾN MẤT LUÂN XA

1.    Không duy trì Thiền mỗi ngày từ 30 phút trở lên.
2.    Sau khi uống bia rượu chưa được 4 giờ đồng hồ đã tập
3.    Khi có năng lượng mạnh, tỏ ra kiêu ngạo, tự xưng mình là đấng nọ đấng kia: “Ta là Phật, là Bồ Tát, là Thánh …”
4.    Để cho người có trình độ Luân xa thấp hơn đặt tay phát xung vào Luân xa của mình.
5.    Có lòng tham về vật chất hay kinh tế khi điều chỉnh cho người bệnh.



Thiền Cấp I


I. THIỀN TỊNH

 Chú ý: Trước khi vào tập, nên uống một cốc nước đầy ( từ 200 – 400ml). Rất hiệu quả.

1. Phá bế

        Trước khi tập và sau lúc tập xong, học viên có thể thực hiện động tác phá bế các huyệt sau để khai thông kinh mạch:
        -    Các huyệt ở tay: Hợp Cốc, Trung Chữ, Hậu Khê, Dưỡng Lão, Khúc Trì (Phụ nữ có thai không bấm Hợp Cốc)
 
Vị trí các huyệt phá bế và điều chỉnh ở tay
-    Các huyệt ở chân: Hãm Cốc, Túc Lâm Khấp, Thúc Cốt, Côn Lôn, Tam Âm Giao, Túc Tam Lý.
 
Vị trí các huyệt phá bế và điều chỉnh ở chân

2. Khởi động Thiền

        Ổn định tư thế Thiền, lưng thẳng, cổ thẳng, thả lỏng toàn bộ các cơ bắp. Hai bàn tay để ngửa trên hai đầu gối, mở mắt, hít nhẹ bằng mũi cho đầy lồng ngực và phình bụng ra, sau đó thổi ra từ từ bằng miệng (như thổi lửa) và thót bụng lại. Lặp lại it nhất 3 lần trở lên. Đây là động tác để thư giãn, làm sạch phổi. Mùa hè nên bắt đầu và kết thúc bằng nhịp thở ra để giảm nhiệt. Mùa đông nên bắt đầu và kết thúc bằng nhịp hít vào để tăng thân nhiệt.

3. Thiền (Dhyanna)

        -     Nhắm mắt để tập trung tư tưởng, đặt lưỡi lên vòm miệng trên tại chân răng cửa để nối mạch Nhâm - Đốc. Miệng ngậm tự nhiên, nét mặt vui vẻ, hơi mỉm cười…Hít thở sâu, chậm, nhẹ nhàng bằng mũi. Quá trình Thiền sẽ làm cho vùng vỏ não được nghỉ ngơi và các Luân xa thu được năng lượng.
        -     Thu năng lượng theo chiều từ LX6 – LX7 – LX5 – LX4 - LX3 - LX2. Tại mỗi LX thời gian thu từ 1 đến 1,5 phút. Quán tưởng phễu năng lượng hình chóp có đỉnh nhọn đang đi vào LX của mình, đáy hình chóp ở ngoài.
        -     Bước tiếp theo tự điều chỉnh bệnh cho mình, thời gian 7 – 10 phút.
       -     Quán tưởng toàn thân là một khối sáng, có thể cảm nhận thấy các hiện tượng: ánh sáng dọi vào Luân xa 6, hình ảnh, âm thanh, hương vị…Còn có hiện tượng giống như có những con bọ mản bò quanh mặt, quanh miệng, gây ngứa ngáy khó chịu. Các ngón tay có thể cảm thấy tê buốt, đầu có thể xoay lắc, hai tay xoay lắc hoặc nâng lên … Đó là những hiện tượng bình thường, có thể xảy ra. Hãy gạt bỏ mọi suy nghĩ, ưu tư phiền muộn một cách tự nhiên và có thể nhẩm “Muôn pháp là một, một đi về đâu” để đơn giản hóa mọi ý nghĩ trong đầu. Để có hiệu quả khi tập chúng ta có thể bật nhạc Thiền theo chương trình đã soạn cho từng cấp học. Thời gian tập không hạn chế, ngày có thể tập nhiều lần, mỗi lần càng lâu càng tốt, sẽ có tác dụng nhiều cho việc điều chỉnh bệnh và phòng bệnh.

4. Xả Thiền

        -    Mở mắt, chập hai bàn tay lại, hít mũi thở miệng như động tác khởi động Thiền: hít vào phình bụng, thở ra thót bụng. Khi thổi ra quan tưởng một dòng năng lượng thoát nhanh ra mười đầu ngón chân. Hit thở khoảng 3 – 4 lấn.
        -    Sau đó lấy tay vuốt mặt từ phia trước ra phía sau sau gáy, xoa vuốt hai mắt, vuốt tóc chải tóc, xoa vuốt hai vành tai, vuốt từ gáy xuông cổ.
        -    Tay nọ vuốt tay kia ở mặt ngoài cánh tay ra đến hết đầu các ngón tay 3- 5 lần. Vuốt từ hai thăn lưng xuống hông qua mặt ngoài hai chân ra đến hết đầu ngón chân 3-5 lần. Xoa bóp chân cho hết tê rồi mới nên đi lại.
        -    Có thể uống thêm một cốc nước đầy.
Sơ đồ quy trình tập:

II. KHẮC PHỤC MỘT SỐ PHẢN ỨNG PHỤ

        Thông thường sau khi Thiền, cơ thể trở nên dễ chịu, sảng khoái, thân nhiệt hơi tăng. Nhưng cũng có trường hợp do cơ thể có nhiều bệnh dễ gây ách tăc kinh mạch, học viên chưa quen hóa giải, hoặc động tác xả Thiền làm chưa tôt nên có hiện tượng đau đầu, tức ngực.
        -     Nếu bị đau đầu sau khi Thiền, có thể dùng một trong các cách sau:
        1.    Tập lại, thu năng lượng ở LX3, LX2 dẫn ra chân, sau đó xả Thiền cẩn thận
        2.    Chụm tay đặt hai bên thái dương
        3.    Nhờ hướng dẫn viên giải giúp.
        -     Nếu bị tức ngực, có thể sử dụng một trong các cách sau:
        1.    Tập lại, thu năng lương vào LX7, LX6 dẫn ra tay, hoăc LX3, LX2 dẫn ra chân, xả Thiền cẩn thận
        2.    Một tay vuốt nhẹ sau lưng
        3.    Nhờ hướng dẫn viên giải giúp.




Thiền Cấp II


Trước khi Thiền cần tiến hành phá bế tay chân, bấm các huyệt kích thích lưu thông khí huyết.

1. Khởi động thiền

Ngửa tay, mở mắt, hít thở mạnh theo nhịp 1 – 4 – 2 (thở 3 thì). Có thể hiểu như sau:
-        Thì 1: Hít mạnh bằng mũi, nhẩm đếm 1,2,3,4,5     (1 đơn vị)
-        Thì 2: Nín thở, nhẩm đếm 1,2,3 ….20         (4 đơn vị)
-        Thì 3: Thở ra bằng miệng, nhẩm đếm 1,2,3…10    (2 đơn vị)
Hít thở theo nhịp 1 – 4 – 2 từ 3 – 5 lần, mục đích thanh phế, phát động Luân xa, tăng tốc độ hoạt động của Luân xa.

2. Thiền

a.     Thiền thu năng lượng:
-        Nhắm mắt, đặt lưỡi lên chân răng cửa hàm trên, hít mũi, thở mũi.
-        Thu năng lượng theo chiều: L9 → L8 → L6 → L7 → L8 + L5 (thu đồng thời 2 Luân xa 8 và 5) → L9 + L4 ( thu đồng thời 2 Luân xa 9 và 4) → L3 → L2. Quán tưởng dòng năng lượng hình nón kèm ánh sáng đi vào Luân xa.
-        Tiếp theo quán tưởng toàn thân là một khối sáng. Tiến hành tự điều chỉnh.
b.     Tạo kênh dẫn Nhâm – Đốc:
-        Tạo kênh dẫn năng lượng Nhâm – Đốc: Tay để theo hệ kín (tay phải để trên tay trái, ngón cái chạm nhau) tại vị trí Luân xa 11.
-        Dẫn năng lượng theo nhịp 1 – 4 – 2 như sau:
Bước 1:
§  Hít vào, thu năng lượng tại Luân xa 6 (1 đơn vị)
§  Nín thở giữ năng lượng tại Luân xa 6 (4 đơn vị)
§  Thở ra và dẫn năng lượng chạy nhanh qua L7, L5, L4, L3, L2, L11, L10, L9, L8, L6  (2 đơn vị)
Bước 2:
§  Hít vào, thu năng lượng từ L6 chạy lên L7  (1 đơn vị)
§  Nín thở giữ năng lượng tại Luân xa 7 (4 đơn vị)
§  Thở ra và dẫn năng lượng chạy nhanh qua L7, L5, L4, L3, L2, L11, L10, L9, L8, L6  (2 đơn vị)
Bước 3:    Tiếp tục thực hiện như vậy cho đủ một vòng với các Luân xa 5, 4, 3, 2, 11, 10, 9, 8.
c.     Tập bắn xung năng lượng ở tay (động tác này có thể làm lúc xả thiền):
Sau khi dẫn năng lượng theo kênh Nhâm – Đốc ít nhất 1 vòng, tiến hành bắn xung ở tay (có thể chập tay hít thở 3 lần như xả thiền)
-        Động tác 1: Hai tay song song để gần nhau, giữ và nghe tay mình khoảng 1 phút. Sau đó đưa hai tay ra vào.
-        Động tác 2: Tiếp theo xoay hai tay ngược chiều nhau nhiều lần
-        Động tác 3: Một tay xoè, một tay chụm các ngón lại, nướng vào tay xoè kéo ra đẩy vào vài lần, vẩy và búng vào lòng bàn tay kia 5 – 7 lần. Sau đó dùng một ngón tay vẽ vòng tròn vào bàn tay kia. Tiếp theo đổi tay làm lại động tác 3.
                                           Tập bắn xung năng lượng ở tay

3. Xả thiền

-        Chập hai bàn tay, hít mũi thở miệng 3 lần
-        Tiếp theo vuốt mặt, gáy, tai.
-        Tay nọ vuốt tay kia: vuốt ra theo mặt ngoài, vuốt vào theo mặt trong tay. Hai tay vuốt chân: vuốt ra theo mặt ngoài, vuốt vào theo mặt trong chân.
-        Phá bế, xoa bóp chân cho hết tê. Uống một cốc nước đầy.
Sơ đồ quy trình tập:
 
Ghi chú:
-        Nên thực hiện đầy đủ quy trình tập trong mỗi lần tập luyện
-        Nếu thiếu thời gian, có thể bỏ qua bước 2.c (tạo kênh dẫn, bắn xung). Lúc đó quy trình tập gồm các bước 1→2.a→2.b→3





Thiền Cấp III


1. Khởi động thiền

Ở chương trình Trung cấp, khởi động Thiền là: mở mắt, hít vào bằng mũi, phình bụng, sau đó thở ra từ từ, ép bụng lại, nhịp 1 – 1 từ ba lần trở lên (Thở 2 thì).
Đến chương trình Trung cấp tăng cường (Luân xa 8-9 Mạch Nhâm), khởi động Thiền theo nhịp 1 – 4 – 2. Hít vào 1 nhịp, sau đó nín hít 4 nhịp rồi thở ra 2 nhịp, cũng làm từ ba lần trở lên (Thở 3 thì).
Ở Chương trình Luân xa Cao cấp, khởi động Thiền theo nhịp 1 – 4 – 2 – 4, thực hiện từ từ và êm ái (Thở 4 thì).
Cụ thể:
1                  →                4                  →          2                  →      4
Hít vào                        Nín hít                     Thở ra                     Nín thở
                                (phình bụng)                (thót bụng)
Giả sử thời gian của 1 nhịp là 5 giây, ta sẽ thở theo nhịp 1 – 4 – 2 – 4 như sau:
-        Nhịp 1: Hít vào 5 giây
-        Nhịp 2: Nín hít 5 x 4 = 20 giây
-        Nhịp 3: Thở ra 5 x 2 = 10 giây
-        Nhịp 4: Nín thở 5 x 4 = 20 giây
Tuỳ theo hơi thở ngắn hay dài mà ta quy định thời gian cho 1 nhịp thở của mình (tính bằng giây).

2. Thiền

Chương trình Cấp III khi thiền có thể chọn tư thế ngồi hoặc đứng.
Khi bước vào Thiền, sử dụng Luân xa 6 như con mắt thứ ba, từ trên cao điều khiển thu năng lượng vào các Luân xa:
LX7 (1’) → LX5 (1’) → LX4 (1’) → LX3 (1’) → LX2 (1-2’)
Thu năng lượng theo chiều dương giáng là chủ yếu (gần trời xa đất)
Luân xa 6 như con mắt thứ ba từ trên cao nhìn thấy rõ những dòng xoáy năng lượng kèm theo ánh sáng rực rỡ đang được thu vào từng Luân xa mạch Đốc. Ta cảm thấy các Luân xa nóng ran và độ quay của nó khi quán tưởng thu năng lượng. Mỗi Luân xa thời gian thu từ 1 – 1.5 phút.
Tiếp theo, phát lệnh (kèm theo hít mạnh bằng mũi) thu năng lượng toàn thân, quán tưởng một dải ánh sáng từ cằm qua Luân xa 7 chạy dọc cột sống xuống đến chân. Hai chân như được đi bằng đôi ủng to ánh sáng, hai tay được đi bằng đôi găng tay to phồng ánh sáng. Toàn thân như được úp trong một chiếc lồng năng lượng bằng ánh sáng. Chiếc lồng năng lượng này mỗi lúc một lớn lên, rộng ra, căng phồng ánh sáng chói loà.
Từ cấp ba trở đi, động tác tập luyện mỗi ngày một gian khổ và khó hơn, đòi hỏi những ai bước tới nên chuẩn bị cho mình một tư tưởng sẵn sàng, một niềm tin vững vàng và với sự kiên trì, tập luyện nghiêm túc thì mới có hy vọng thành quả.
Luân xa 6 (huyệt Thiên Mục ở giữa trán) ở cấp học này sẽ được sử dụng một cách tích cực trong khi Thiền cũng như để điều chỉnh bệnh từ xa. Nó khác với môn Khí công, người ta sử dụng huyệt Khí Hải (dưới rốn) để phát công là chủ yếu. Đây là sự khác nhau cơ bản của bộ môn Trường Sinh học Dưỡng sinh với môn Khí công các loại.
Trong quá trình Thiền, mắt có thể mở nhưng không nhìn vào đâu cả (vô vọng), cũng có thể vừa ngồi Thiền vừa nghe giảng bài, nhận năng lượng tẩy từ Luân xa 6 của Thầy.

3. Xả thiền

Mục đích xả là đẩy trược chảy ra chân, giúp cho kinh mạch thông thoáng, khí huyết lưu thông, bệnh tật lui giảm. Gồm các động tác:
-        Hai tay ôm gáy, bịt tai. Nghĩ ra chân.
-        Vuốt mặt, tai, cổ. Nghĩ ra chân.
-        Vuốt tóc, chải tóc, vuốt đầu, tay. Nghĩ ra chân.
-        Vuốt 2 vùng thận (sau lưng) qua hông. Nghĩ ra chân.
Nếu thiền đứng, bóp cho hết tê và ngồi xuống. Uống một cốc nước đầy.

4. Xả trược

Xả trược là một kỹ thuật đã được học từ chương trình Cấp II Mạch Nhâm. Trong chương trình Cấp III chỉ giới thiệu thêm một số cách đơn giản để xả trược:
-        Tư thế tay và chân gác lên nhau (như lớp Cấp II Mạch Nhâm) nhìn bằng Luân xa 6 các Luân xa, ý nghĩ dòng chảy ra chân. Thời gian xả như thiền, càng lâu càng tốt, bất kể lúc nào có điều kiện. Cũng có thể nằm, tay nọ ôm khuỷu tay kia, bàn chân vắt vào nhau để xả.
-        Tắm cũng là biện pháp xả trược tốt, nhất là dưới vòi hoa sen, nước có thể ấm hoặc mát, dòng chảy từ gáy xuống lưng, đến chân.
-        Thiền đứng xả trược rất nhanh và mạnh. Trường hợp bị TKG xâm nhập, đứng từ 1 đến 2 tiếng là hết.
-        Ngoài ra, có thể dùng sữa tươi (Vinamilk) cũng rất tốt, ngày dùng 1 hộp, liên tục 3 ngày. Sữa tươi có tác dụng đẩy xả các độc tố trong ruột ra ngoài. Khi đó có thể bị đi lỏng, mùi phân rất khó chịu, nhưng sau đó sẽ cảm thấy thoải mái, nhẹ nhõm, thông kinh mạch.





Thiền (Dhyanna)

        Muốn đánh thức khả năng tiềm ẩn trong cơ thể, con người phải có phương pháp tập luyện để biến đổi cơ thể vật chất và cơ thể năng lượng (Hào quang) tương thích với nhau ở mức cao. Việc mở Luân xa và Thiền đạt trạng thái vô thức là hai điều kiện cần và đủ để thu năng lượng vũ trụ tạo ra năng lượng sinh học mạnh. Chính vì vậy, sau khi được mở Luân xa, muốn thu được năng lượng vũ trụ một cách thường xuyên, học viên phải luyện tập bằng phương pháp Thiền (Dhyanna).
        Thiền (Dhyanna) là một kỹ thuật tu luyện nhằm đưa cơ thể sống của con người hòa nhập với trạng thái tự nhiên huyền diệu của trật tự vũ trụ. Thiền là một hiện tượng năng lượng, là sự quan sát bên trong để con người khai thông trí tuệ và khám phá những khả năng tiềm ẩn của chính mình.

I. TƯ THẾ THIỀN

          Có rất nhiều tư thế Thiền. Ở chương trình này, chúng ta chỉ thực hành 7 tư thế sau, trong đó tư thế ngồi Hoa Sen là tốt nhất:
1.     Ngồi hoa sen 2.    Ngồi một nửa hoa sen
3.    Ngồi xếp bằng 4.    Ngồi trên ghế
5.    Đứng 6.    Quỳ
7.    Nằm
Photobucket
Ngồi hoa sen

II. CÁCH CHỌN HƯỚNG THIỀN

        Con người là một tiểu vũ trụ, chịu sự tác động của môi trường năng lượng bên ngoài. Việc định hướng thiền nhằm giúp cơ thể thu năng lượng tốt hơn căn cứ theo Ngũ hành Sinh Khắc: Ngũ Hành Bát Quái, Can Chi Ngũ Hành và Thiên Bàn.
Bước 1: Xác định hàng Can:
        Số đơn vị của năm sinh ứng với hàng Can như sau:
Giáp:           4; Ất:               5; Bính:           6
Đinh:           7 ; Mậu:            8 ; Kỷ:              9
Canh:          0; Tân:             1; Nhâm:         2; Quý:            3
Bước 2: Xác định hàng Chi:
        -      Lấy tổng 2 số đầu của năm sinh chia 3, được số dư chính là điểm khởi đầu đã đánh số trên Thiên Bàn.
        -      Lấy 2 số cuối của năm sinh chia 12, được số dư chính là số phải đếm từ điểm khởi đầu đã tính ở trên, theo chiều kim đồng hồ trên Thiên Bàn để xác định hàng Chi.

THIÊN BÀN
 Photobucket
Bước 3: Xác định Mệnh:
        Tra cứu Can – Chi đã tính được ở Bước 1 và Bước 2 trên bảng Can Chi Ngũ Hành để xác định Mệnh:
NGŨ HÀNH CAN CHI
Photobucket 
Bước 4: Xác định hướng Thiền:
        Từ Ngũ Hành Tương Sinh, xác định hướng tương sinh cho người Mệnh đã tìm được ở Bước 3:
Photobucket
 Ngũ Hành Sinh Khắc
  Photobucket
Bát quái
        Ví dụ: Tính hướng ngồi Thiền cho một người sinh năm 1967
        -        Can: Người sinh năm 1967 có hàng đơn vị là 7, ứng với chữ Đinh
        -        Chi:
o   Lấy cụm 19: (1+9):3 dư 1 → Điểm khởi đầu từ cung Tí trên Thiên Bàn
o   Lấy cụm 67: 67:12 dư 7 → Có số phải đếm là 7
o   Từ Thiên Bàn, bắt đầu đếm từ cung Tí theo chiều kim đồng hồ: 1 → 7, dừng ở Mùi. Như vậy người sinh năm 1967 có Chi là Mùi.
        -        Mệnh: Trên bảng Can Chi Ngũ Hành, xác định được người tuổi Đinh Mùi là mệnh Thuỷ.
        -        Hướng thiền:
o   Từ Ngũ Hành Tương Sinh ta thấy người mệnh Thuỷ cần ngồi quay về hướng Kim (Kim sinh Thuỷ)
o   Đưa vào Bát Quái, hướng Kim là hướng Tây hoặc Tây Bắc
        → Như vậy, người sinh năm 1967 khi Thiền ngồi quay về hướng Tây hoặc Tây Bắc là tốt nhất.





Dưới đây là một bài viết của Tiến sĩ Dietrich Klinghardt về năng lượng sinh học và việc chữa bệnh bằng nguồn năng lượng này được đăng trên một trang web nước ngoài. Chúng tôi xin mạn phép dịch ra tiếng Việt và giới thiệu với bạn đọc gần xa để tham khảo, nghiên cứu thêm về năng lượng sinh học. Do sự khác biệt về văn hóa, về kiến thức, về cách nghiên cứu… một số thuật ngữ cũng như cách diễn đạt của họ có những khác biệt nhất định, nhưng cơ bản những nội dung chính của bài viết rất gần gũi với những kiến thức mà các môn sinh Trường Sinh học đã được nghiên cứu. Sau đây là nội dung bài viết:
 
          Trường Sinh lực và việc chữa bệnh bằng năng lượng
Niềm tin vào Trường Sinh lực con người, hoặc các lớp hào quang của con người, đã hình thành cơ sở của phương thức chữa bệnh khác nhau trong nhiều nền văn hóa rất lâu trước khi các nhà khoa học còn đang nghi ngờ ý tưởng về sự tồn tại năng lượng của con người.
Y học cổ truyền Trung Quốc, Tây Tạng, Ayureveda tất cả đều bắt nguồn từ niềm tin này. Những người chữa bệnh bằng năng lượng nhìn thấy các màu sắc khác nhau và các lớp của hào quang. Những lớp này liên quan đến các khía cạnh vật lý, tâm thần, tình cảm và tâm linh của con người.
Nghiên cứu mới đây đưa ra thêm một số ít bằng chứng thực tế về sự tồn tại các lĩnh vực năng lượng của con người. Và, cũng giống như sự truyền dạy của người cổ đại, rõ ràng những lĩnh vực này được bao gồm trong năng lượng ánh sáng. Trong ý nghĩa xác thực nhất, bạn là một sự tồn tại của ánh sáng.
Một trong những bác sĩ hàng đầu của nghiên cứu này là Tiến sĩ Dietrich Klinghardt. Ông được biết đến với học thuyết trên toàn thế giới của mình và đã được trao giải thưởng “Bác sĩ của năm” trong năm 2007 từ Quỹ toàn cầu về hệ thống y học thống nhất cho tác phẩm của mình.
Giống như nhiều bác sĩ đã đề cập trên trang web này, Tiến sĩ Klinghart đã vỡ mộng bởi những hạn chế của y học thông thường. Để phát triển mô hình tổng thể của mình về năm cấp độ chữa bệnh, ông đã bắt đầu từ những khái niệm phương Đông học ở Ấn Độ và từ các nghiên cứu khác của ông.
Nếu bạn đã quen thuộc với các khái niệm về hào quang của con người và sự hướng dẫn của những người có khả năng chữa bệnh bằng năng lượng, bạn sẽ hiểu được phần lớn những gì được viết ở đây. Điều này đặc biệt đúng với các nguyên tắc chung.
          Nguyên tắc cơ bản của chữa bệnh bằng năng lượng
Trước khi chúng tôi khám phá năm lớp trường sinh lực con người, đây là một số nguyên tắc cơ bản của Tiến sĩ Klinghardt chia sẻ về việc chữa bệnh ở những cấp độ này.
– Mỗi cấp độ của Trường Sinh lực tuân theo quy luật và trật tự riêng của mình.
– Những gì đang được thể hiện trong cơ thể vật lý cũng đang xảy ra trong bốn cấp độ khác (được nói kỹ hơn trong một nghiên cứu khác).
Chúng ta hãy xem điều này xảy ra như thế nào. Nhận thức và suy nghĩ của bạn dẫn đến những cảm xúc và thay đổi năng lượng cơ thể khác (cấp độ thứ hai). Những thay đổi này kích hoạt sự thay đổi trong cơ thể vật lý (cấp độ đầu tiên). Phần tác động của stress đến sức khỏe giải thích chu kỳ này một cách chi tiết.
– Để chữa bệnh thật sự, bạn cần phải làm việc trên tất cả các cấp cùng một lúc. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các khái niệm của sự chữa lành toàn diện và sức khỏe toàn diện.
– Năng lượng chúng ta cần phải chữa lành đến từ ba cấp độ thấp. Tiến sĩ Klinghardt khuyến cáo rằng bạn nên đặt nhiều năng lượng vào việc chữa bệnh ba cấp độ thấp bằng cách ăn các thực phẩm dinh dưỡng, tập thể dục và ngủ đủ giấc.
Bạn nuôi dưỡng “cơ thể năng lượng” thông qua yoga, massage, châm cứu, lắng nghe âm nhạc tốt, giải quyết xung đột tinh thần và kết nối mình với trái đất. Điều này sẽ giúp bạn giải tỏa “khí xấu” sinh ra từ lối sống hiện đại của chúng ta.
– Có một số chồng chéo giữa các cấp chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh liên quan được liệt kê dưới đây. Một số phương pháp, như thôi miên có ích với nhiều hơn một cấp.
          Năm cấp của Trường Sinh lực
+ Mức đầu tiên là cơ thể vật lý.
Mức độ này được điều chỉnh bởi các luật sinh hóa và cơ chế. Nó sử dụng năm giác quan và bị lực hấp dẫn tác động. Nó là kết nối nền tảng của chúng ta với trái đất và nguồn năng lượng vật lý của chúng ta. Nó kết thúc ở da và tạo ra khí thải ánh sáng.
Chế độ ăn uống, tập thể dục, liều thấp homeopathics, chỉnh hình, các biện pháp chữa trị bằng thảo dược, thuốc chữa bệnh thông thường và phẫu thuật, các biện pháp khắc phục hậu quả điều trị homeobotanical vitamin, dầu thơm tác động đến sức khỏe ở cấp độ này.
+ Cấp độ thứ hai là cơ thể năng lượng.
Đây là lĩnh vực của hệ thống thần kinh tự chủ. Nó được tạo ra bởi các dòng tế bào thần kinh. Năng lượng điện của chúng tạo ra từ trường mở rộng ra ngoài da. Lĩnh vực năng lượng này bao quanh toàn bộ cơ thể. Cơ thể năng lượng thường là phần đầu tiên của trong hào quang của con người mà người khác có thể nhìn thấy.
Châm cứu, liệu pháp từ trường, điều trị dòng siêu nhỏ (microcurrent), yoga, khí công, luyện thở, xoa bóp, thiền định, tự quản đáp ứng trị liệu (ART) là một số phương pháp điều trị hữu ích ở cấp độ này.
+ Lớp thứ ba là cơ thể tâm thần.
Cơ thể tâm thần được cho là mở rộng thành ra vô cực. Nó chứa một bản ghi của tất cả các sự kiện cuộc sống. Suy nghĩ, thái độ và niềm tin của chúng ta được hình thành và tổ chức ở đây. Hành vi bắt nguồn từ đây.
Tất cả các Trường Sinh lực con người tương tác với nhau ở cấp độ này. Nó là một lĩnh vực cá nhân và “đồng thuận”. Đây thường được gọi là mức độ cá nhân và phổ quát của siêu ý thức.
Thử nghiệm cơ bắp thịt hoặc vận động học, có thể được sử dụng để đối thoại với tiềm thức để lấy và chữa lành những ký ức đã bị đàn áp được lưu trữ trong cơ thể tâm thần. Tâm lý học và kỹ thuật khai thác tâm lý, thôi miên, quay về kiếp trước, tâm lý học năng lượng có ích cho việc chữa bệnh tâm thần.
Sức khỏe tốt ở cấp độ thứ ba có được từ việc tuân theo các quy tắc đơn giản tự nhiên. Nuôi dạy con cái trong nhà, nơi chúng được nuôi dưỡng, yêu thương, có thể học hỏi và được an toàn. Hãy đặt nỗ lực vào việc chữa lành cho gia đình của riêng bạn và xây dựng tình yêu và sự tôn trọng giữa các thế hệ. Việc này áp dụng cho cả người sống và đã chết, thân nhân và gia đình mở rộng (bạn bè, đồng môn…). Chữa bệnh quá khứ đôi khi được bao gồm trong liệu pháp năng lượng tâm lý và các khóa chữa bệnh đặc biệt.
Cơ thể tâm thần có tác dụng tổ chức với các cấp độ đầu tiên và thứ hai và ngược lại.
+ Cấp bốn được gọi là giấc mơ hoặc cơ thể trực giác.
Đây là mức của Trường Sinh lực con người vượt ra ngoài tâm trí. Đó là lĩnh vực vật lý lượng tử, vô thức tập thể, và siêu hình. Cấp độ này lưu trữ những chấn thương tồi tệ và các vấn đề tổ tiên chưa được giải quyết sẽ trở lại ở hai hoặc nhiều thế hệ.
Âm thanh và liệu pháp màu sắc, Sa-man giáo, nghi thức, nghiệp và kiếp trước liên quan đến cấp độ này. Đây là mức cao nhất mà một bác sĩ hoặc người chữa bệnh có thể làm việc với.
+ Lớp thứ năm là cơ thể tinh thần/tâm linh.
Đây là mức độ nhận thức, hiểu biết và tự chữa bệnh. Nó là kết nối cá nhân và đồng nhất của chúng ta với Đấng Thiêng liêng.
Lòng biết ơn là nhân tố quan trọng để nuôi dưỡng cơ thể tinh thần. Vì vậy, hãy dành thời gian một mình để yên tĩnh và thiền định.
          Lời bình:
Theo chúng tôi, sự khoa học của bài viết nằm ở quan điểm “Sức khỏe toàn diện”. Việc cải thiện năng lượng phải là sự cải thiện toàn diện, ở tất cả các tầng năng lượng của cơ thể. Nếu chỉ ở 1 hay 2 cấp độ cao nhất chẳng hạn, thì cũng không khác nào xe đạp có khung tốt nhưng bị hỏng lốp. Bởi vậy, chúng ta không nên coi nhẹ việc ăn uống, ngủ nghỉ hợp lý, tập thể dục đều đặn (điều này nhiều người cũng chưa thực hiện được). Chúng ta cần phải ý thức được rằng, bệnh tật không phải chỉ đến ở thế giới vô hình, rất nhiều bệnh tật đến từ thế giới hữu hình, đến từ lối sống, cách sinh hoạt ăn uống của chúng ta. Chúng ta có lợi thế hơn phần lớn loài người, bởi chúng ta được tiếp xúc và có khả năng cải thiện những tầng năng lượng cao cấp, thậm chí cả những tầng cao nhất. Nếu chúng ta chăm chỉ luyện tập thì chúng ta hoàn toàn có thể làm được việc trên. Cảm ơn Tiến sĩ Dietrich Klinghardt đã chia sẻ kiến thức học tập của mình về con người Trường Sinh học và phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng với chúng tôi.



































No comments:

Post a Comment