LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Wednesday, November 23, 2016

Cách trị thân bệnh, tâm bệnh, nghiệp bệnh hiệu quả


TÂM DƯỢC TRỊ TÂM BỆNH

Nói đến "Tâm lý học sức khỏe" (Health Psychology), nhiều người thường cho rằng, đó là chuyên ngành khoa học hình thành ở phương Tây cuối Thế kỷ trước - Với cột mốc là sự kiện thành lập phân hội "Tâm lý học sức khỏe", thuộc Hội Tâm lý học Mỹ, năm 1978.

Trong Đông y, tuy không có chuyên ngành mang tên "Tâm lý học sức khỏe", nhưng từ thời xưa Đông y đã hết sức coi trọng ảnh hưởng của tâm lý đối với sức khỏe và bệnh tật. Bằng chứng tiêu biểu là, cách nay 2000 năm, sách "Nội Kinh", bộ lý luận kinh điển của Đông y, đã có những luận thuật sâu sắc về mối quan hệ giữa tâm lý và sinh lý, cũng như diễn biến bệnh lý ở con người.



• Hình thần hợp nhất

    Hãy thử cùng nghe một trích đoạn từ sách "Nội Kinh":

        - Lôi Công (thầy thuốc nổi tiếng thời cổ đại) đứng dậy vái và nói: Thần trẻ tuổi, còn hồ đồ, (...) chưa biết những biểu hiện về mặt tâm lý. Nay mong được Hoàng Đế chỉ giáo.

        - Hoàng Đế nói: Khi chẩn bệnh, cần hỏi xem bệnh nhân có phải trước kia phú quý mà về sau bần tiện hay không. Người cao quý biến thành ty tiện, tuy không nhiễm ngoại tà, bệnh vẫn sinh ra từ trong, bệnh này gọi là "thoát doanh". Còn người trước giàu sau nghèo mà phát bệnh, thì bệnh gọi là "thất tinh". Hai bệnh đó, đều là do tình chí bị uất ức, khiến khí huyết ngưng kết, thân thể suy bại dần, tích lũy lâu ngày mà thành bệnh, thậm chí tử vong. (...) Người thầy thuốc, khi chẩn trị, nếu không chú ý tới những biến động về tinh thần tình cảm, chỉ biết chữa trị theo triệu chứng, thì sẽ là không đúng với đạo, và đương nhiên ắt sẽ vô hiệu.

    Từ thời "Nội kinh", Đông y đã đề xuất quan điểm "Hình thần hợp nhất": Coi cơ thể con người là một "chỉnh thể", trong đó "thần" (tâm lý, tinh thần) và "hình" (thể xác, sinh lý) là một thể thống nhất, không thể chia cắt.

    "Thần" không thể tồn tại nếu không có "hình", ngược lại "hình" mà không có thần sẽ chỉ là một cái xác chết: "Hình giả thần chi chất; thần giả hình chi dụng. Vô hình tắc thần vô dĩ sinh; vô thần tắc hình vô khả hoạt”. Tạm dịch: "Cấu trúc sinh lý (hình) là nền tảng vật chất của hoạt động tinh thần. Thần là công dụng, biểu hiện các chức năng của hình. Không có hình thì thần sẽ không tồn tại; không có thần thì thân hình chỉ là cái xác".

    Con người là loài động vật có tình cảm. Trong xã hội luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn, cuộc sống của con người có những lúc thuận buồm xuôi gió, cũng có những lúc gặp phải trắc trở, do đó không thể tránh khỏi những biến động về mặt tâm lý, lúc vui, lúc buồn, ... Chỉ cần những kích thích đó không vượt quá khả năng chịu đựng, thì không có hại đối với sức khỏe. Đó là những phản ứng có tính bản năng của con người; cũng là hình thức tự điều tiết, để duy trì cân bằng tâm lý. Tuy nhiên, khi những biến động tâm lý có cường độ quá mạnh vượt quá sức chịu đựng, hoặc kéo dài quá lâu, sẽ ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh lý, khiến cho âm dương khí huyết mất điều hòa, chức năng nội tạng bị rối loạn, mà sinh ra bệnh. Nói chung, những kích thích cường liệt, như bạo nộ, đột nhiên khiếp sợ, có thể gây bệnh ngay sau đó. Còn những biến động như lo lắng, nghĩ ngợi, đau buồn, tuy không mãnh liệt, nhưng nếu cứ dai dẳng, kéo dài lâu ngày, cũng có thể sinh bệnh.

    Người xưa gọi các bệnh do nhân tố tâm lý (tình chí) gây nên là "Tâm bệnh", hoặc "Tình chí bệnh". "Tình chí" (tâm lý) có thể gây bệnh, mà tình chí cũng có thể chữa khỏi bệnh. Để chữa "Tâm bệnh", cần phải sử dụng loại "Tâm dược" - "Thuốc tâm lý” - "Liệu pháp tâm lý". Như người xưa nói: "Tâm dược y tâm bệnh”, hoặc là "Tâm bệnh tâm dược y" ("y" là chữa trị). Trong không ít trường hợp, theo một nghĩa nào đó, "tâm dược" còn có vai trò quan trọng hơn cả thuốc (theo nghĩa thông thường).



    Trong y thư và sử sách, còn ghi lại nhiều y án lý thú về chuyện "Tâm dược" chữa "Tâm bệnh". Xin thuật lại vài chuyện, để cùng tham khảo.

• Trừ "rắn" cần có "rắn" trong chén

    Đây là bệnh án kinh điển, sử dụng "Tâm dược" trị "Tâm bệnh", được ghi chép trong nhiều sách cổ. Sau đã trở thành thành ngữ gọi là "bôi cung xà ảnh" (cây cung trong chén rượu in hình con rắn).

    Một lần Ứng Sâm mời bạn là Đỗ Nghi đến nhà uống rượu. Khi đó trên tường có treo cây cung lớn. Bóng cung trong chén rượu tựa như con rắn. Đỗ Nghi nhìn chén rượu cảm thấy e ngại, nhưng chủ nhân đang mời rất chân thành, bèn miễn cưỡng uống hết chén rượu. Về nhà, Đỗ Nghi rất hoang mang, cảm thấy bụng đầy tức, không thể ăn uống, ngày càng gầy yếu. Mời danh y, uống đủ các loại thuốc mà không kết quả, chỉ còn chờ chết. Sau đó, có lần Ứng Sâm đến, thấy như vậy rất buồn, nhưng không hiểu vì sao rượu lại có rắn, về nhà suốt đêm suy nghĩ không ngủ được. Hôm sau tỉnh dậy, vào phòng khách, bỗng nhiên thấy trên tường treo cây cung, mới hiểu rõ chân tướng sự việc, liền phái người đem xe đón Đỗ Nghi đến; lại để ngồi ở vị trí cũ và bày tiệc chiêu đãi. Đỗ Nghi nâng chén rượu lên, lại nhìn thấy "rắn", vội gọi Ứng Sâm đến xem. Ứng Sâm cười to, chỉ lên tường và nói: "Trong chén không phải rắn, mà là bóng của cây cung. Không tin, tôi bỏ cây cung xuống, trong chén sẽ không còn thấy rắn". Nói xong, bèn tháo cung xuống. Đỗ Nghi nhìn vào chén rượu, quả nhiên không còn rắn, thế là nỗi lo tan biến, nở nụ cười; về nhà nghỉ dưỡng một thời gian, chẳng bao lâu sức khỏe đã khôi phục bình thường.

    Lời bàn: Chuyện trên mới nghe có vẻ hoang đường, nhưng trong cuộc sống không phải hiếm gặp. Con người ta, khi bỗng nhiên gặp phải sự lạ, chưa tìm hiểu rõ, thường dễ hiểu lầm, thậm chí tưởng tượng ra những điều quái lạ. Đối với loại "Tâm bệnh" này, chỉ khuyên bảo hay giải thích xuông, ít khi kết quả tốt. Muốn trừ con rắn ở trong đầu, cần có con "rắn" ở trong chén. Do đó, Ứng Sâm đã cho trình diễn lại toàn bộ hiện trường, đầy đủ vật chứng, để Đỗ Nghi dễ hiểu rõ chân tướng sự việc và mau khỏi bệnh.



• Bút lông cùn chữa khỏi liệt dương

    Thời xưa, có công tử khôi ngô và tráng kiện. Đến tuổi thành hôn, được kết duyên với cô gái vô cùng xinh đẹp. Nên ngày đêm mong ngóng, sao cho mau đến ngày thành hôn. Đêm tân hôn, yến tiệc chưa tan, khách chưa về hết, chàng đã kéo nàng vào động phòng. Vừa vào, chàng đã xông vào như hổ đói, muốn lâm trận ngay. Nhưng từ khi đính hôn, cô gái mới chỉ gặp mặt chàng vài ba lần, nên còn e thẹn. Vừa xấu hổ vừa sợ hãi, liền đẩy mạnh chàng ra. Đột nhiên bị cự tuyệt, lửa tình ngùn ngụt bỗng tắt ngấm, dương cụ đang bột khởi cũng mềm nhũn luôn. Sau đó, mỗi lần lâm phòng, chàng lại thấy hết sức hoang mang, dương cụ không thể nào bột khởi, vô cùng đau khổ. Chàng ngấm ngầm mua thuốc tráng dương uống, nhưng hoàn toàn không có kết quả. Cuối cùng, chỉ còn cách mời một thầy thuốc tới nhà chẩn trị.

    Sau khi tìm hiểu bệnh sử, xem mạch và kiểm tra toàn diện, thầy thuốc nói: "Than đầu bút lông cùn chữa liệt dương rất hay. Nhưng phải do chính tay vợ chế và đưa cho chồng uống, mới có tác dụng". Như bắt được vàng, chàng vội bảo vợ tìm mấy cái bút lông cùn, đem đốt, rồi nghiền mịn, hòa vào rượu, lúc nhập phòng đưa cho chàng uống. Lạ thay, thuốc vừa qua miệng, bệnh liệt dương đã khỏi hoàn toàn.

    Lời bàn: Theo số liệu thống, chỉ có 10-15% liệt dương thuộc loại "khí chất" (mắc bệnh thực sự); còn 85-90% trường hợp thuộc loại "chức năng". Trong quá trình chữa trị liệt dương chức năng, sự tham gia tích cực của người vợ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, trong việc giúp bạn đời tiêu trừ gánh nặng tâm lý, tăng thêm lòng tin.

    Người bệnh trong chuyện, thân thể vốn tráng kiện, tình dục mãnh liệt. Chỉ vì đêm tân hôn tâm lý bị chấn động quá mạnh, nên tạm thời đã bị liệt dương chức năng. Sau đó tinh thần bị ức chế, lại không được người vợ quan tâm giúp đỡ, phải ngấm ngầm mua thuốc tráng dương uống. Thầy thuốc đã phát hiện gốc bệnh, nên đã cố ý bảo người vợ tự tay chế thuốc (một cách biểu thị lòng thương yêu), nên đã giúp người chồng trút bỏ được gánh nặng tâm lý, lấy lại lòng tin. Nhờ vậy, "thuốc" đã phát huy tác dụng ngay tức thì. Thực ra, than đầu bút lông vốn không có tác dụng tráng dương; thầy thuốc chỉ sử dụng để làm chiêu bài.

Qua hai chuyện trên có thể thấy, bản lĩnh của thầy thuốc, không chỉ thể hiện trong đơn thuốc, mà còn thể hiện nhiều hơn ở bên ngoài phương thuốc.





Cách trị thân bệnh, tâm bệnh, nghiệp bệnh hiệu quả
Bệnh ( 病 ) là thuật ngữ chung cho cả Đông lẫn Tây y. Bệnh là là một cảm giác đau đớn, cả thể xác lẫn tinh thần. Bệnh là 1 trong 4 cái khổ ( Sanh 生, Lão 老, Bệnh 病, Tử 死 ) của chúng sinh mà Phật đã dạy. Mà đã là chúng sinh thì ai cũng phải bệnh, hôm nay ta còn trẻ khỏe, nhưng một ngày nào đó khi đã đến tuổi già cũng phải nếm trải 1 đôi lần bị bệnh, hoặc hơn thế nữa.
Bệnh là do Âm Dương mất cân bằng, Ngũ hành tương khắc, Tứ đại không  hòa, bệnh khổ là một quy luật chung ở góc độ nhân sinh quan.
Bệnh có thể chia ra 3 yếu tố: 1/- Thân bệnh ( 身 病 ), 2/- Tâm bệnh (心 病 ), 3/- Nghiệp bệnh (業 病)

1/ Về thân bệnh ( 身 病 ) : Bệnh nào cũng có nguyên nhân của nó
- Thân bệnh thuộc về ngoại nhân ( 外因 ) là  tác nhân gây nên từ bên ngoài của thân theo y học cổ truyền như sau  :
- Do ăn uống, ngủ nghỉ thất thường, lao động vất vả, do chấn thương. Đang trong lúc cơ thể suy nhược đột ngột thời tiết thay đổi làm cho cơ thể chưa kịp thích nghi mà sinh ra các chứng bệnh như:
1/- Phong ( 風 )gồm có :
- Ngoại phong : là gió bên ngoài, chủ khí mùa xuân, thường cùng  với các khí khác như: phong hàn ( cảm  lạnh ),  phong nhiệt ( cảm nóng ), phong thấp ( cảm thấp do khí ẩm ướt ).
- Nội phong : tức là huyết hư sinh phong (血 虛 生 風 ) nghĩa là máu không đủ sinh ra các chứng đau nhức…
2/- Hàn  ( 寒 )gồm có :
- Ngoại hàn:  là cơ thể ảnh hưởng khí lạnh bên ngoài ,lạnh chủ khí của mùa Đông, hay làm ủng tắc không ra mồ hôi, thường có phong hàn, hàn thấp.
- Nội hàn : do khí âm thịnh mà khí dương bị suy nên trong người luôn thấy lạnh.
3/-Thử ( 曙 ) : nắng chủ khí về mùa hạ có đặc tính làm sốt cao, thường có : thương thử ( cảm nắng ), trúng thử ( trúng nắng ) …
4/-Thấp ( 濕) : độ ẩm thấp trong không khí,   thường có phong thấp, thấp  thử và hàn thấp….
5/-Táo ( 燥): chủ khí của mùa thu, độ khô ráo của không khí, thường gây những bệnh sốt cao, táo nhiệt ( nóng và khô ráo).
6/-Hoả ( ): là hỏa nhiệt, đặc tính là nóng của các bệnh lệ khí, dịch khí, bệnh truyền nhiễm. Thường có thấp nhiệt, phong nhiệt (khí nóng ), thử nhiệt (nắng nóng ).
Như vậy, Tùy theo mùa mà nhiễm tùy loại bệnh và cũng  tùy chứng : Hàn (寒) lạnh; Nhiệt (熱) nóng; Hư (虚) bệnh yếu lâu ngày; Thực (實) là bệnh mới phát; Biểu (表) bệnh còn bên ngoài; Lý (里) là bệnh đã nhập sâu vào trong .



2/ Về tâm bệnh (心 病 ):
Tâm bệnh thuộc về tình chí, nội nhân (内 因 ): là nguyên nhân bệnh từ bên trong theo y học cổ truyền như sau :
-  Hỉ 喜:( hỷ thương tâm喜 傷 心) : Vui mừng quá hại đến tâm khí (心 氣).
-  Nộ 怒:  (nộ thương can 怒 傷 肝):  Giận  quá hại đến can khí (肝 氣).
-  Bi  悲 ( bi thương phế 悲 傷 肺 ): sầu, muộn quá hại đến phế khí ( 肺 氣 ). .
-  Ưu 憂 : ( ưu thương tỳ 憂 傷 脾) :  lo lắng quá hại đến tỳ khí ( 脾 氣 ).
-  Khủng 恐 (khủng thương thận 恐傷 腎 ) : Sợ hãi quá  hại đến thận khí ( 肾 氣 )...
Nếu mắc phải 1 trong những tình chí như trên sẽ mang trong người về chứng thuộc về tâm bệnh, tâm bệnh thì xưa nay chưa thấy ai chữa bằng thuốc  mà dứt.
Ví dụ: Có một gia đình nọ sinh một người con vì cưng chìu quá, lớn lên nó theo bạn xấu cờ bạc rượu chè, trộm cắp, nợ nần…làm cho  cha mẹ bao nhiêu năm khổ tâm mà sinh ra nhiều bệnh, bỗng thời gian sau này người con gặp được bạn tốt hướng dẫn anh ta giác ngộ được Phật Pháp nên xả bỏ các thói hư tật xấu, chí thú làm ăn, tối đến đi chùa lễ Phật, lễ phép với người trên, khiêm nhường kẻ dưới,  khiến cho cha mẹ vui mừng, bệnh tật lâu nay bỗng tan biến đâu hết.
Cũng tương tự như thế, nên có chuyện kể rằng: khoảng 70 năm về trước ở vùng miền Tây sông nước có một gia đình điền chủ nọ, bà vợ ông mê xem hát tuồng, ở đâu có diễn tuồng là có mặt bà.
Một hôm bà đi xem hát, trong  vỡ tuồng  có 3 nhân vật : Một ông vua , 1 ông quan nịnh thần và 1 ông quan trung thần.
Ông quan trung thần lúc nào cũng xả thân vì nước vì dân nhưng kết cuộc vì nghe lời dèm pha, sàm tấu của  quan nịnh thần mà nhà vua đem ông quan trung thần ra chém chết.
Sau khi xem xong vỡ tuồng đó về nhà bà luôn tự nghĩ “Tại sao một người trung thần vì nước vì dân mà chết bi thảm như thế ?” Bà không chia sẻ cảm nghĩ với ai, một mình bà luôn thấy đời sao mà bất công đến thế ? Bà âm thầm  buồn bã rồi sinh ra bệnh trầm uất.
Bà ốm yếu xanh xao, bà bỏ ăn, mất ngủ trải qua bao nhiêu năm sinh ra  chứng trầm cảm, không nói chuyện với ai, bao nhiêu thầy giỏi được mời đến, tất cả những phương thuốc  hay, loại đắc nhất chồng con của bà điều lo cho bà cả, nhưng bệnh tình ngày càng thêm trầm trọng.
Tất cả thầy bùa, thầy cúng điều được ông nhà mời đến nhưng rồi cũng không thuyên giảm chút nào cả vì cứ nghĩ bà bị ma ám.
Cuối cùng, một ông thầy Lang vườn ở cùng  xã , mà lâu nay gia đình bà cho là tầm thường không đáng mời thì nay vì sinh mạng của bà nên ông phải mang lễ vật đến mời thỉnh.
Đến nơi xem xét bệnh nhân, ông Lang vườn tự nghĩ “Bà này bệnh cũng lâu, ăn uống, lao động thì không vất vả như người nghèo, thầy giỏi khắp nơi cũng đã mời đến mà không hết bệnh, chắc hẳn bà này có uẩn khúc gì đây ? ”
Nghĩ thế nên thầy Lang vườn vừa xem mạch vừa ân cần vấn bệnh:
-“ Thưa bà, tôi biết bà đang có một uẩn khúc gì đây ? Hoặc là chồng con của bà có gì không phải mà đã làm cho bà buồn, hoặc ai đó đã làm cho bà lo , bà giận ?”
Sau câu hỏi đó, bà như được gãi đúng chỗ ngứa, như ống khóa mở đúng chìa, nó mở được nỗi lòng của bà,  bà huyên thuyên kể lại nỗi uất ức của câu chuyện tuồng hát năm xưa đã khiến cho bà khổ đau, khiến cho bà uất giận.
Gặp riêng ông chồng để trao đổi, bàn bạc, ông thầy lang vườn góp ý khuyên ông  nên bỏ tiền mời đoàn hát năm xưa về làng diễn lại tuồng đó cho bà cùng dân chúng xem miễn phí , nhưng phải hoán đổi phần cuối của tuồng hát như vầy:  …nhà vua  thức tỉnh không còn nghe lời xu nịnh của quan nịnh thần nữa, vua kết tội và lệnh đem quan nịnh thần ra chém, khen thưởng bỗng lộc cho vị quan trung thần.
Quả nhiên sau khi xem xong vỡ tuồng bà vui vẻ khỏe mạnh bình thường trở lại như xưa mà không tốn  một giọt thuốc nào cả.

3/ Về nghiệp bệnh ( 業 病 ):
Nghiệp là trải qua thời gian đúc kết  từ hành động, lời nói, cảm nghĩ của  Thân-Khẩu-Ý mà thành Nghiệp.Nghiệp thì có thiện nghiệp và ác nghiệp, nhưng ở nội dung bài viết này đang đề cập đến nghiệp bệnh nên nghiêng nặng  về ác nghiệp. Bỡi có ác nghiệp mới sinh ra Nghiệp bệnh. Nghiệp thì có 3, gồm có:
- Thân (thân nghiệp 身 業 ): những  việc làm của thân như :giết người và vật, trộm cắp, tà  dâm… mà kết thành thân nghiệp.
- Khẩu ( khẩu nghiệp 口 業 ): miệng  nói lời dối gạt, nói hung ác, nói thêu dệt, nói 2 chiều ... mà kết thành khẩu nghiệp.
- Ý ( Ý nghiệp 意 業): ý ham muốn nhiều, hay giận hờn, lại si mê …mà kết thành ý nghiệp.
Nghiệp bệnh ở những người vô minh chưa biết gì về Nhân Quả, cũng như người Phật tử phá giới.
Giới ( 戒 ) là ranh giới, là rào cản, thông báo cho chúng ta biết không được vượt qua, nếu cố tình vượt qua sẽ nguy hiểm đến tính mạng ( có nhiều ở các bãi tắm vùng  biển ).
Cũng như thế, Phật chế ra 5 giới (ngũ giới 五 戒) cho hàng  Phật tử (佛 子) để không phạm phải:
- Nhứt bất sát (一 不 剎) Thứ nhất không được giết hại mạng sống của chúng sanh.
- Nhị bất đạo (二 不 盜) Thứ hai không được trộm cắp, cướp giật.
- Tam bất tà dâm ( 三 不 邪 婬) Thứ ba không được tà dâm.
- Tứ bất vọng ngữ (四 不 妄 語) Thứ tư không được nói dối, nói lời ác khẩu, nói hai chiều.
- Ngũ bất ẩm tửu (五 不 飲 酒) Thứ năm không được uống rượu hay các chất men say.
Nếu phạm phải 5 điều trên sẽ nguy hiểm cho đời sống hiện tại và sẽ chịu quả báo trong các đời vị lai.
“ Kẻ thù lớn nhất trong đời mình chính là mình” là 1 trong 14 điều Phật dạy ! Bỡi không ai tạo ra đau khổ cho mình, mà chính tự mình tạo ra hậu quả cho mình từ việc vô minh không biết hoặc biết mà phạm phải 5 điều trên:
- Ví như người sáng xỉn chiều say làm cho con người anh ta mất hết lý trí,khiến cho kẻ cười người chê, ai cũng sợ hãi xa lánh, và hậu quả anh ta mang chứng bệnh Xơ gan cổ trướng, ung thư gan mật mà chết ( giới thứ 5 ).
- Người thường nói dối, nói 2 chiều, nói lời độc ác làm chia rẽ mọi người, khiến cho người ta hai bên hiểu lầm nhau chia rẽ, thù hận nhau, cuối đời anh ta phải chịu quả báo ung thư miệng lưỡi mà chết ( giới thứ 4 ).
- Người đời thường nói câu “ 1 vợ thì ngủ giường lèo, 2 vợ thì ngủ chèo queo, 3 vợ... thì xuống chuồng heo mà nằm !”. Câu nói nghe tức cười, nghe tưởng như đùa nhưng mà là sự thật. Chính tôi cũng đã thấy biết người đó một đời có rất nhiều vợ, nhiều  tình nhân, rất nhiều con cháu nhưng khi tuổi già phải sống lang thang xó chợ đầu đường bệnh tật đầy thân, không ai chăm dưỡng cuối cùng bỏ thây nơi đầu chợ. ( phạm giới thứ 3 )
- Vào thời còn trẻ, tôi có nghe kể: quê tôi có một người chuyên đi ăn trộm, mà hình như cha mẹ sinh ra ông là để làm nghề ăn trộm thì phải, ăn trộm rất tài tình, chưa từng bị người ta bắt gặp. Khác với người ta, 30 tết mà nhà ông không sắm sửa gì cả,  khuya đến ai nấy ngủ mê ông lẻn vào từng nhà mang bánh trái thịt thà về đầy nhà ông. ( giới thứ 2 )
Biết ông ăn trộm nhưng luật xưa  “Đạo quả tang, dâm quả tích” mới kết án , chứ không phải thời nay công an phải dùng nghiệp vụ khoa học điều tra đủ chứng  cứ mới kết tội, nên trong làng ai đó có mất trộm dù biết chắc ông đó lấy nhưng cũng  đành phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Từ nghề ăn trộm, ông tích  chứa rất nhiều tiền của, đến khi mang rương tiền ra để chuẩn bị xây nhà thì ôi thôi,  trong rương toàn là mối, một ổ mối đã phá nát hết rương tiền của ông, ông tiếc của nên lăn ra đổ bệnh, bệnh  năm này qua năm nọ, cầu sống không xong mà cầu chết cũng không chết được.
Năm tháng trôi qua từng cơn đau đớn quằn quại chịu không xiết , một hôm ông dùng dao lưỡi liềm ( câu liêm là dụng cụ cong cong để gặt lúa ở quê ) cứa gần đứt  cuốn họng ôngmáu ra lênh láng nhưng vẫn chưa chết, người nhà phát hiện mới dành con dao vức đi nhưng rồi sau đó ông cũng tiếp tục tự dùng tay móc cuống họng ra cho đến chết.
Khi đám tang ông, có rất ít người đến phúng điếu, đã thế mọi người còn phán một câu “ xưa nay ổng ăn của móc họng người ta, nay ông phải tự móc họng mà chết thôi !”.
Và câu chuyện còn lưu truyền đến ngày hôm nay ( cọp chết để da, người ta chết để tiếng )
Bệnh về Nghiệp nặng  nhất phải nói là nghiệp Sát ( giết người vì thù hằn,vì sân hận, hoặc vì những lý do khác…và giết vật để ăn thịt ) tất cả điều là tâm ác, sẽ có quả báo hiện đời này (hiện báo 現 報) hoặc đời sau (hậu báo 後 報) điều phải trả nghiệp,  cho đến trải qua nhiều đời nhiều kiếp oan oan tương báo ( 冤 冤 相 後)với nhau. ( giới thứ nhất)
Thời nay mỗi ngày xem báo nhan nhản những tin tức mà  người ta trong tình cảm yêu đương, trong làm ăn, trong giao tiếp của xã hội… vì những chuyện không hài lòng nhau, từ xích mích nhỏ dẫn đến thù hằn, họ không ngần ngại sát hại nhau bằng nhiều cách, mà không hề biết đến 2 chữ Nhân Quả ( 因 果 )
Xưa Khổng Tử có dạy: 善 有 善 報, 惡 有 惡 報/ 若 澴 不 報, 時 時 未 到 (Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo/ Nhược hoàn bất báo, thời thời vị đáo). Nghĩa là : Làm Thiện thì sẽ có Quả báo Thiện./ Làm ác thì sẽ có Quả báo Ác./ Giờ chưa thấy Quả Báo là vì chưa đến lúc.
Giới trẻ hiện nay yêu đương dễ dãi, xem việc nạo phá thai là chuyện bình thường, 1 viên thuốc ngừa thai ( cực mạnh, tác dụng cấp tốc ) nhưng họ có biết đâu sau khi ân ái ( nếu gặp đúng ngày trứng rụng) trong các cô đã có 1 sanh linh bé nhỏ. Thế nên họ mang trọng tội giết người mà họ không hề hay biết.
Hậu quả tổn thương của nạo phá thai sẽ sanh ra những chứng bệnh phụ khoa nguy hiểm khôn lường, từ nhẹ dẫn đến nặng như ung thư tử cung, ung thư buồng trứng rồi di căn (mọc rễ ) qua đến gan, đến thận, đến tủy, đến xương….
Từ một cô gái khỏe mạnh, trẻ trung, xinh đẹp, diễm kiều, , má hồng môi thắm người lúc nào cũng phản phất hương thơm của son của phấn, nhưng sau một cơn bạo bệnh đã biến các cô trở nên đen điu, gầy đét,  từng hồi từng cơn đau vật vã, lúc bấy giờ trong người các cô  luôn tỏa ra các  mùi hôi thúi  từ  các khối u, các tế bào…
Dù nền y học hiện đại, thuốc men vượt bậc lại có những giáo sư, bác sĩ chuyên khoa ung thư hàng đầu thế giới nhưng cũng không chữa lành căn bệnh ( nghiệp  ) như thế
Cuối cùng cũng không sống được bao lâu, họ chết trong hãi hùng, chết trong đau đớn, thân rời bỏ thế gian nhưng hồn cũng không tránh khỏi địa ngục. ( ngoại trừ người đã giác ngô, biết ăn năn sám hối thì quả báo nhẹ hơn, chứ không thể tránh )
Lịch sử Phật giáo Trung Hoa có ghi lại chuyện rằng:  tại Tỉnh Chiếc Giang có một vị Tăng tên Hàm Uyên ( 涵 鸳  ) , vị Tăng  này tu hành đức hạnh rất tinh tấn chuyên cần , nhân có Phật sự nên sư phải ra ngoài.
Xong việc trên đường  khi trở về tình cờ Sư đi ngang qua quán thịt chó, không biết chủ quán đó họ ướp nướng bằng loại hương liệu gì mà mùi thơm không ai mà không muốn hít vào.
Và vị Tăng nọ cũng không tránh khỏi hít phải mùi thơm đó, nhưng khi sư giật mình nghĩ lại “Ta là người tu, không thể như thế này được !”,
Sư kinh hãi, sư  hối hả bước vội về chùa tắm rửa và lên thắp nhang đèn trước điện Phật sám hối, nhưng đến khuya  trong người sư bỗng nóng sốt hừng hực, qua ngày hôm sau sư càng sốt mê man, điều ngạc nhiên là trong khắp người sư nổi lên 18 cái khối u, mỗi khối u to như quả mận, toàn thân đau nhức hãi hùng, càng ngày 18 khối u càng to lớn và đau đớn hành hạ.
Tất cả những vị lương y giỏi nào cũng được lần lượt mời đến, nhưng đều lắc đầu không tìm ra nguyên nhân bệnh gì cả. Thời gian trôi qua dù vẫn uống  thuốc men nhưng có khi đỡ khi đau.
Một hôm nọ, vào một buổi chiều chập tối, bên hông chùa, sư bắt ghế ngồi tựa vách , trong thâm tâm rất đau buồn. Dưới ánh trăng non mờ Sư bỗng thấy có 1 đoàn  người từ xa đi đến, dụi dụi cặp mắt sư nhìn kỹ tất cả trong đoàn người này có thân mà không  có đầu . Ôi,  thật là khủng khiếp.
Khi đến gần, trong đoàn người có tiếng hỏi:
-“ Chào ông ! Ông còn nhớ 18 người chúng tôi không ?”
-“ Không ! Không ! Tôi không biết mấy người là ai cả !” Vừa sợ sệt, Sư vừa khỏa tay trả lời thế.
-“ Phải rồi, nhiều kiếp trôi qua rồi làm sao ông nhớ được, mà chúng tôi thì không thể quên ông. Tôi nói cho ông biết, kiếp xưa kia  ông là một vi quan tướng quân được lệnh vua cùng quân lính chúng tôi trấn ải một vùng biên cương.
Một hôm ông lệnh cho 20 người chúng tôi tuần tra vùng biên ải,  khi đi ngang qua ngôi  làng vùng sơn cước, trong nhóm chúng tôi có 2 người tự ý tách ra và phạm phải quân kỷ  là hiếp dâm 1 người phụ nữ.
Sau buổi tuần tra  trở về, thì người chồng phụ nữ đó đến gặp ông thưa kiện, là một vị quan tướng quân  nên ông tức giận đem 20 người lính chúng tôi  ra chém đầu hết . Chỉ có 2 người phạm quân kỷ mà ông chém cả 18 người chúng tôi hàm oan vô tội .
Đã trải qua bao nhiêu đời chúng tôi luôn tìm ông để đòi nợ, để báo mối thù xưa, nhưng vì bao nhiêu kiếp  qua ông tu hành  tịnh tấn nên chúng tôi không làm gì được ông.
Tháng vừa rồi ông khởi tâm tham ngửi mùi thịt chó nên cơ hội đó chúng tôi mới lọt vào được thân ông mà đòi nợ , thấy ông thành tâm sám hối chúng tôi cũng cảm động nhưng nghĩ đến việc ông giết oan chúng tôi từ kiếp xưa, nỗi uất hận nên không thể bỏ qua. Thôi thì ông cứ cố gắng tu hành đi, tạm thời 3 năm sau sẽ tính tiếp. !”
Nói xong 18 oan hồn biến mất, Sư hãi hùng chạy vội vào điện Phật quỳ lạy sám hối liên hồi, quả nhiên sau đó 18 khối u trong người của Sư không thuốc nhưng tự tiêu. Sau đó Sư tinh tấn tu hành,  nhưng cho đến 3 năm sau bịnh cũ tái phát trở lại nặng hơn rồi Sư cũng qua đời.
Thế mới biết, nghiệp sát tội rất nặng dù trải qua bao nhiêu đời rồi mà cũng không tránh oan oan tương báo, phải chịu trả quả nghiệp bệnh như thế.
Người tu học Phật không ai mà không biết tích xưa, trong Pháp Từ Bi Thủy sám: chuyện 2 người tên Viên Án và Triệu Thố vì kết mối oan thù để rồi kiếp sau một người  trở thành ngài Ngộ Đạt Quốc sư cũng phải chịu nỗi đau đớn mụt ghẻ mặt người nơi đầu gối. may mà nhờ công đức tu hành, gặp Bồ tát Ca Nhã Ca cứu giúp, nếu không thì nghiệp kia cũng khó mà tránh.
Tuy là những chuyện đã xa xưa, chuyện quá khứ, nhưng luật nhân quả trả vay xưa nay vẫn là sự thật.
Rồi mới đây sự việc xảy ra vào năm 2012 câu chuyện người thật việc thật tại Đức Trọng Lâm Đồng làm rúng động hàng Phật tử khắp trong khắp đất nước Việt Nam và Phật tử trên thế giới.
Câu chuyện cậu thiếu niên Nguyễn văn Công trải qua 3 năm mỗi ngày được  thuê giết hại hàng trăm con gà, vịt, chó , mèo….kết cục phải trả một cái quả khi một khối ung  mặt người đau đớn phát ra trên khớp gối của cậu ta, trải qua bao nhiều năm đau khổ đi hết bệnh viện này, đến bệnh viện khác nhưng có vị bác sĩ nào, có loại thuốc nào ở thế gian mà chữa  được bịnh nghiệp ( sát sanh ) ?



Khối u khớp gối của bệnh nhân Nguyễn Văn Công

Thế nên chúng ta người có trí không thể không tin Nhân Quả, không thể không tin lời Phật dạy. Nhân Quả không phải do Thượng Đế đặt ra. Nhân Quả không phải do Phật sáng chế. Nhân Quả là lẽ tự nhiên ! Hễ gây Nhân là gặt Quả. Bất kể anh là ai ? Theo tôn giáo nào ? Gây nhân Thiện sẽ có quả báo Thiện. Gây nhân Ác sẽ gặt quả báo ác. Sát sanh ắt phải thường mạng ! Phật nào cứu được ? Phật nào dung túng kẻ ác nhân ? Ngoại trừ người biết tin theo lời Phật dạy : Bỏ ác làm lành.
諸 惡 莫 作/ 衆 善 奉 行/ 自 凈 其 意/ 是 諸 佛 敎
Chư ác mạc tác./ Chúng thiện phụng hành./ Tự tịnh kỳ ý./ Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là: Các việc ác chớ làm/ Những việc Thiện nên làm/ Giữ ý mình trong sạch/ Ấy là lời Phật dạy.
Tóm lại :
- Thân bệnh dùng dược lý trị liệu (藥 里 治 蓼 ).
- Tâm bệnh dùng tâm lý trị liệu ( 心 里 治 蓼 )
- Nghiệp bệnh dùng phước báo trị liệu (福 報 治 蓼).














No comments:

Post a Comment