DANH Y DANH NGÔN TINH HOA
TRƯƠNG TỒN ĐỄ
Mục
lục
PHẦN THỨ HAI : LUẬN TRỊ
I. ĐẠI PHÁP ĐIỀU TRỊ
197. Chữa bệnh phải tìm từ Bản.
“Tố
Vấn - Âm Dương ứng tượng đại luận”
Câu này nêu lên nguyên tắc cơ bản về biện
chứng luận trị, là trọng tâm lý luận cho học thuyết điều trị của Đông y. Nói chữa
bệnh phải tìm từ gốc” có nghĩa là phải khéo tìm ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến tật
bệnh, nhằm đúng vào nó mà tiến hành điều trị. Sự phát sinh phát triển của tật bệnh
tất cả là thông qua sự biểu hiện của những chứng trạng nào đó, nhưng những chứng
trạng đó chỉ là hiện tượng của tật bệnh chứ không thể nói là bản chất của tật bệnh.
Chỉ có tập hợp đầy đủ, hiểu rõ các phương diện của tật bệnh bao gồm toàn bộ
tình huống chứng trạng ở trong, tiến hành phân tích tổng hợp, thông qua hiện tượng
và bản chất để tìm ra nguyên nhân căn bản của tật bệnh, từ đó mà xác định
phương pháp điều trị thích hợp, chứ không phải “đau đầu chữa đầu, đau chân chữa
chân” điều trị mù quáng.
“Bản” với “Tiêu” là nói tương đối, có thể
dùng để thuyết minh quan hệ chủ thứ trong các loại mâu thuẫn trong quá trình bệnh
biến. Ví dụ nói theo hai phía tà và chính, chính khí là bản, tà khí là tiêu.
Nói theo nguyên nhân bệnh với chứng trạng, nguyên nhân bệnh là bản, chứng trạng
là tiêu. Nói theo phát bệnh trước và sau thì nguyên phát bệnh, bệnh phát cũ là
Bản; kế phát bệnh, bệnh mới phát là tiêu. Những vấn đề trên đều có ý nghĩa chỉ
đạo trong lâm sàng.
Cũng nên chỉ rõ, phép trị tiêu bản ứng dụng
trên lâm sàng, nói chung là “chữa bệnh phải tìm từ bản”. Nhưng ở một số tình huống,
Tiêu bệnh nguy cấp nếu không giải quyết kịp thời có thể nguy đến sinh mạng người
bệnh và ảnh hưởng đến điều trị tật bệnh, thì nên áp dụng nguyên tắc “Cấp thì trị
tiêu - Hoãn thì trị bản”, trước chữa tiêu bệnh sau chữa bản bệnh. Nếu cả Tiêu
và Bản đều nặng thì nên cùng chữa cả Tiêu Bản.
Quy nạp lại, trị bệnh phải tìm Bản. Cấp
thì trị Tiêu. Tiêu Bản cùng trị, có như vậy mới là nội dung toàn diện của phép
tắc Tiêu Bản.
198.
Hoãn thì trị Bản. cấp thì trị Tiêu
Minh - Lý Diên
“Y học nhập môn - Tiêu bản luận”
Câu này là thể hiện linh hoạt vấn đề Tiêu Bản
trong phép tắc chữa bệnh phải tìm từ Bản.
Tiêu là hiện tượng và chứng hậu biểu hiện
tật bệnh lâm sàng - Bản là cơ chế bệnh phát sinh tật bệnh, tức là bản chất của
tật bệnh.
Trong bệnh tình phát triển nhiều biến
hoá phức tạp, thường xuất hiện vai trò chủ thứ Tiêu Bản khác nhau. Cho nên
trong điều trị nên phân biệt trước sau hoãn cấp
Tình huống chung là nên “trị bệnh phải
tìm từ bản”. Nhưng khi tiêu bệnh quá gấp ảnh hưởng đến an nguy của người bệnh
thì việc cần giải quyết trước tức như nói cấp thì trị Tiêu”. Ví dụ Tỳ hư dẫn đến
cổ trướng thì Tỳ hư là Bản, Cổ trướng là Tiêu, nhưng đương lúc cổ trướng nghiêm
trọng, bụng to như cái trống, nhị tiện không lợi, suyễn gấp khó thở thì nên
công thuỷ lợi niệu, thuỷ rút bệnh êm mới dùng thuốc kiện Tỳ củng cố cái gốc. Đối
với tình huống bệnh mạn tính hoặc bệnh mạn tính ở thời kỳ khôi phục bệnh tình
tương đối hoà hoãn thì nên kiên trì giữ nguyên tắc chữa bệnh phải tìm từ Bản để
đạt hiệu quả trị bản trừ tiêu. Ví dụ chứng Phế lao khái thấu, cái gốc phần nhiều
do Phế Thận âm hư, nhưng trong điều trị nói chung không sử dụng phép trị tiêu
chỉ khái mà phải tư dưỡng Phế Thận. Cái Bản là Âm hư được điều trị thì chứng
Khái là Tiêu tự trừ đó tức là “Hoãn thì trị từ Bản”.
199.
Phải khắc phục cái chủ yếu, trước hết phải tìm ra nguyên nhân.
“Tố Vấn - Chí chân yếu đại luận”
Câu này nêu một nguyên tắc cơ bản về biện
chứng luận trị, mang ý nghĩa chỉ đạo và phổ biến trong lâm sàng.
Phàm muốn trị bệnh, cần phải khống chế
khắc phục cái - bệnh căn chủ yếu của nó, hơn nữa trước tiên phải tìm ra nguyên
nhân gây bệnh của nó, rồi sau mới xét chứng luận trị, điều trị mới nhằm đúng đối
tượng mà thu hiệu quả cao.
Trương cảnh Nhạc chú thích rằng: “Phải
khắc phục cái chủ yếu tức là khống chế cái gốc bệnh. Trước hết phải tìm ra
nguyên nhân là tìm cái nguồn gốc gây nên bệnh”. Chúng ta nhận rằng “Phải khắc
phục cái chủ yếu” cũng có thể lý giải được là phải khống chế được chủ chứng của
tật bệnh. Bởi vì chủ chứng thường là chỗ rất đau khổ của người bệnh, gặp chúng
Tiêu gấp gáp phải nên lưu tâm khống chế khắc phục. Lý giải này so với thuyết
pháp nói trên không mẫu thuẫn nhau, thuyết pháp trên nói Bản của bệnh, câu nói
sau là nói Tiêu của bệnh, chỉ khác nhau về góc độ mà thôi.
200.
Chữa bệnh trước tiên phải hiểu bệnh. Hiểu bệnh rồi sau mới bàn đến dùng thuốc.
Thanh - Dụ Gia Ngôn
“Ngụ ý thảo - Tiên nghị bệnh hậu nghị dược”
Danh ngôn này thể hiện tinh thần biện chứng
luận trị, là một câu luận đoán nổi tiếng của họ Dụ mà cốt lõi là bắt buộc bàn đến
bệnh và điều khiển thuốc, tuỳ cơ ứng biến.
Họ Dụ nói bệnh qua bàn luận rõ ràng, thì
có bệnh ấy phải có ngay thuốc ấy, bệnh biến ra ngàn vẻ thuốc cũng ngàn vẻ”. “Hiểu
bệnh thì trong trăm ngàn vị thuốc, chỉ cần mó đến một vài vị đã hiệu nghiệm như
thần”. Cũng nên chỉ rõ là, luận điểm này của họ Dụ chủ yếu là nhằm vào những thầy
thuốc xoàng đương thời chỉ biết bàn thuốc không biết bàn đến bệnh làm đảo lộn
khuynh hướng nên mới đề xuất như vậy, đến nay vẫn còn có nghĩa hiện thực.
201.
Thấy bệnh chữa bệnh, điều tối kỵ của thầy thuốc.
Minh - Chu Thận Trai
“Thận
Trai di thư - Biện chứng thi trị”
Câu này trái lại với nguyên tắc bắt buộc
“Chữa bệnh phải tìm từ Bản”. Chu Thận Trai giải thích: “Bệnh có tiêu bản, phần
nhiều có trường hợp không phát hiện Bản bệnh mà chỉ thấy Tiêu bệnh. Có trường hợp
tiêu bản trái ngược nhau không phù hợp. Nếu thấy xuất hiện một chứng mà chữa
ngay chứng ấy tất nhiên sai lầm. Chỉ thấy xuất hiện một chứng mà có thể biết tại
sao mà có chứng ấy, đó là có thể biết cái Bản”. Tiên hiền không thiếu lời bàn về
phương diện này, như Diệp Thiên Sĩ đã từng nói tới “Thấy bệnh chữa bệnh, sẽ
không bổ ích mấy” và “Thấy bệnh chữa bệnh là kiến thức nông nổi”... đều là bắt
buộc thầy thuốc điều trị đông y phản đối kiến thức nông nổi đau đầu chữa đầu,
đau chân chữa chân..
202.
Thấy Đờm chớ chữa đờm. Thấy huyết chớ chữa huyết. Không mồ hôi không phát hãn.
Có nhiệt đừng công nhiệt. Suyễn sinh đừng hao khí. Tinh chớ sáp tiết. Hiểu rõ
những điều hay. Mới là thầy anh kiệt.
Minh - Lý Trung Tử
“Y
tôn tất độc – Thận vi tiên thiên bản. Tỳ vi hậu thiên bản luận”
dẫn lời Vương Ứng Chấn
Những câu này từ phản diện nêu rõ nguyên
tắc chữa bệnh phải tìm từ gốc. Chữa bệnh tìm từ gốc tuyệt đối không phải là
phép chữa đối chứng đau đầu chữa đầu, đau chân chữa chân.
Đông y chữa bệnh theo phép nghiên cứu giảng
dạy là biện chứng tìm nguyên nhân, xét nguyên nhân để luận trị. Ví dụ như Đàm
chứng: Đàm có thể hình thành do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân do thấp thì làm
ráo đi, nguyên nhân do lạnh thì nên làm cho ấm, nguyên nhân do nhiệt thì phải
thanh, nguyên nhân do hư thì phải bổ, xét cái nguyên nhân sinh đàm để chặn đứng
cái nguồn sinh ra nó mới là đạo lý chữa từ gốc bệnh. Nếu chỉ nhằm vào thấy đàm
thì hoá đàm khó tránh khỏi bệnh theo cách chữa mà sinh ra, vĩnh viễn không ngày
nào yên. Ngoài ra như huyết chứng, nhiệt chứng, vô hãn, suyễn chứng, di tinh,
không chứng nào vượt ngoài biện pháp ấy. Tóm lại, chữa bệnh tìm từ gốc, không
thể thấy xuất hiện một chứng thì chữa một chứng mà phải dành nhiều công phu để
biện chứng.
Xét nguyên nhân để luận trị, thấy bệnh
chữa từ cái nguồn sinh ra bệnh, đạo lý rõ ràng như vậy mới xứng đáng được gọi
là tuấn kiệt trong Đông y, có thể tham khảo những danh ngôn nói ở trên.
203.
Trước hết phải nắm rõ tuế khí, đừng khắc phạt thiên hoà.
“Tố Vấn - Ngũ thường chính đại luận”
Chữa bệnh, trước hết phải chú ý đến đặc
điểm khí hậu, dùng thuốc không trái với biến hoá của giới tự nhiên. Câu này bắt
buộc Đông y chữa bệnh phải thuận theo sự thích ứng với biến hoá của khí hậu tự
nhiên, cũng như thường nói Nhân thời chế nghi “đó là một đặc sắc to lớn của
đông y trị liệu, là biểu hiện quan niệm chỉnh thể của Đông y. Ví dụ như mùa Hạ
nóng gắt dùng ít thuốc cay nóng, mùa Đông rét buốt nên dùng ít thuốc hàn lương.
Lý Đông Viên có câu nói mùa Đông không dùng thang Bạch hổ, mùa Hạ không dùng
thang Thanh long” tức là thể hiện phương diện này.
204.
Cẩn thận xét thấy “gián” “thậm”, lấy ý mà điều hoà, “gián” thì dùng kiêm, “thậm”
thì dùng một mình.
“Tố Vấn - Tiêu bản bệnh truyền luận”
Câu này chỉ dẫn căn cứ vào bệnh tình nặng
nhẹ thế nào để vận dụng lý luận tiêu bản. “Gián Thậm”. Gián là nói bệnh còn
nông. Thậm là nói bệnh đã nặng”, “gián” cũng có ý như “kiêm”, chứng có kiêm chứng,
như hàn nhiệt lẫn lộn, biểu lý lẫn lộn v.v. “Gián thì cùng đi; thậm thì đi một
mình”. Trương cảnh Nhạc chú giải: “Bệnh nông thì có thể kiêm trị, cho nên nói
cùng đi. Bệnh thậm thì khó chứa đựng sự rối loạn cho nên nói đi một mình”,
“cùng đi” tức là cùng chữa tiêu bản “đi một mình” chỉ chữa riêng tiêu hoặc chữa
riêng bản.
Ý tứ toàn câu là: cẩn thận xem xét nặng
nhẹ hoãn cấp của tật bệnh, tập trung tinh lực mà điều trị. Bệnh nhẹ có thể cùng
chữa cả tiêu và bản, bệnh nặng thì phải nắm vững mâu thuẫn chủ yếu, tập trung lực
lượng mà điều trị, hoặc chữa tiêu, không được phức tạp lẫn lộn. Biện pháp này
thực có ý nghĩa chỉ đạo trong lâm sàng.
205.
Nguyên tắc chữa bệnh, nên biết tà và chính, nên cân nhắc nặng nhẹ.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Luận trị thiên”
Nguyên tắc điều trị tật bệnh nên phân biệt
rõ tà chính với tình huống so sánh. Tà thịnh thì nên khu tà ngay, chính hư thì
nên phù chính, nếu hai biện pháp ấy chữa khác đi, sẽ phạm vào lỗi “hư hư thực
thực”. Cũng cần cân nhắc bệnh tình nặng nhẹ, bệnh nhẹ thì chữa nhẹ đừng để khắc
phạt thái quá; bệnh nặng chữa nặng, xe lội vũng bùn cũng là hỏng việc. Câu này
họ Trương nêu ra đối với lâm sàng điều trị yêu cầu trước tiên là phải nắm vững
bệnh tình.
206.
Phép phân (chia) để trị ở chỗ xét nặng nhẹ. Phép hợp để trị, cần phân biệt chủ
và khách
Thanh - La Hạo
“Y kinh dư luận - Trị bệnh hoãn cấp phân
hợp luận”
Họ La cho rằng chữa bệnh có hai điều
khó: Một là phân biệt hoãn cấp. Hai là biết phân (chia) hợp. Nói biết phân hợp
là chỗ khi phải chữa bệnh chứng có vài bệnh cùng xuất hiện, nên cân nhắc lựa chọn
biện pháp phân trị hay hợp trị. Câu này nêu khi áp dụng phân trị hay hợp trị
nên tuân theo nguyên tắc. Khi phân chia điều trị, phải phân biệt rõ chứng nào
nhẹ, chứng nào nặng, trước hết phải chữa chứng nặng. Khi hợp lại để điều trị
chung, cần phải phân rõ bệnh chứng chủ yếu, bệnh chứng thứ yếu và phải lấy điều
trị bệnh chứng chủ yếu làm chính, bệnh chứng thứ yếu làm phụ. Họ La nêu thí dụ:
“như có biểu chứng mà kiêm cả lý chứng, biểu chứng nặng thì nên giải biểu, lý
chứng nặng thì nên thanh lý, đó là phép phân trị. Như chứng này thuộc Hư, ngoại
tà lại nặng. Bổ chính thì giúp cho tà, trừ tà thì hại chính, biện pháp ổn đáng
là hợp trị cả hai. Hư chứng nặng thì lấy chữa Hư là chủ yếu kèm theo thuốc khu
tà. Tà còn mạnh thì lấy khu tà là chủ yếu kèm theo thuốc phù chính.
207.
Nghĩ như bệnh thuộc cố tật lại thêm bệnh đột ngột, nên chữa bệnh đột ngột trước
sau hãy chữa cố tật.
Đông Hán - Trương Trọng Cảnh
“Kim Quĩ yếu lược - Tạng Phủ kinh lạc
tiên hậu bệnh mạch chứng trị”
Câu này nêu người bị bệnh lâu ngày (cố tật)
lại cảm nhiễm bệnh mới (bệnh đột ngột) phải nắm nguyên tắc điều trị trước sau
hoãn cấp như thế nào, đó tức là nguyên tắc trước hãy chữa bệnh đột ngột rồi sau
mới chữa cố tật. Bởi vì bệnh mới thì ngắn ngày vị trí nông, xu thế gấp, phát
triển nhanh, không được để chậm trễ mà nên chữa trước. Bệnh lâu ngày thời gian
dài vị trí sâu, xu thế từ từ, phát triển chậm có thể xử lý thong thả, cho nên
điều trị sau. Đương nhiên phải xem bệnh tình cụ thể, cũng có khi bệnh cũ bệnh mới
cùng chữa một lúc, không nên câu nệ.
208.
Bị bệnh từ trước rồi sau mới sinh trung mãn, nên chữa Tiêu.
209.
Đại tiểu tiện không lợi, nên chữa Tiêu.
“Tố Vấn - Tiêu bản bệnh truyền luận”
Lý luận Đông y cho rằng phát bệnh trước
là Bản, phát bệnh sau là Tiêu “Chữa bệnh phải tìm từ Bản”, nói chung mọi tình
huống đều nên điều trị phát bệnh trước, bệnh nguyên phát.
“Tiêu bản bệnh truyền luận” nêu thí dụ
thuyết minh nhiều loại bệnh chứng đều là điều trị bệnh phát sinh trước, bệnh
nguyên phát ấy là “Bản” sau mới chữa bệnh kế phát là “Tiêu” Chỉ riêng có hai
trường hợp “Trung mãn” và “đại tiểu không lợi” (tức nhị tiện không thông lợi)
là hai bệnh kế phát cần phải chữa trước, đó là thể hiện nguyên tắc “cấp thì trị
tiêu”, về lý do, Trương cảnh Nhạc giải thích khá cụ thể, dẫn giải như sau:
Mọi bệnh đều chữa “bản” trước mà chỉ có
chứng trung mãn là trị “tiêu” trước, bởi vì trung mãn phát bệnh, tà khí ở Vị, Vị
là cái “bản” của Tạng Phủ. Vị mãn (đầy) thì cái khí của đồ ăn thuốc uống không
lưu hành mà tạng phủ đều mất sự chăm sóc, cho nên trị nó trước cũng là để chữa
“bản” vậy. Lại nói: “Trước đã có bệnh khác, mà sau lại tiểu tiện không lợi,
cũng là trị tiêu trước”. Mọi bệnh đều chữa Bản, riêng chứng này lại chữa Tiêu.
Bởi vì đại tiểu tiện không thông là dấu hiệu nguy cấp, tuy là tiêu bệnh cũng phải
chữa trước, đó là ý nói cấp thì chữa tiêu”. Trên lâm sàng, ngoài hai chứng
“trung mãn” và “đại tiểu tiện không lợi” nên điều trị trước, đến như chứng “Ẩu
thổ” cũng thuộc tiêu và cấp nên giải trừ trước là phải, vì lý do cũng tương tự
với “trung mãn”.
210.
Hãn, mà đừng làm thương Hạ, mà đừng làm tổn.
Ôn, mà đừng làm táo Hàn, mà đừng làm
ngưng Tiêu, mà đừng phạt
Bổ, mà đừng trệ
Hoà, mà đừng tràn lan Thổ, mà đừng chậm
chễ.
Đương đại - Bổ Phụ Chu
“Bồ
Phụ Chu y liệu kinh nghiệm - Bát pháp vận dụng”
Những câu này, qui nạp những điều cần
chú ý trong ứng dụng Bát pháp, là kinh nghiệm tổng kết quý báu của đại Trung y
đương đại Bổ Phụ Chu. Cốt lõi vấn đề là khi ứng dụng bát pháp cần phải nắm vững
chi ly, ngăn ngừa lạm dụng, dùng quá phạm vi, làm tổn hại chính khí; cụ thể như
sau.
- Hãn mà đừng làm thương: Hãn pháp dùng
trong tình huống tà ở bì mao, nhưng dùng thuốc cần phải thích hợp, không nên
hãn mà hãn là “ngộ biểu”(sai lầm chữa ở biểu) ra quá nhiều mồ hôi sẽ thương
dương, ra mồ hôi quá tay sẽ thương âm, đều thuộc loại “ra mồ hôi quá nhiều” đều
làm hại chính khí, không thể không biết.
- Hạ mà đừng làm tổn: Hạ pháp thích hợp
với chứng lý thực tà thịnh, tính thuốc mãnh liệt, sử dụng không thích đáng sẽ tổn
thương chính khí. Không nên hạ mà hạ là Hạ sai lầm. Bệnh nhẹ mà thuốc mạnh là hạ
thái quá... đều làm thương tổn chính khí, cũng nên cẩn thận.
- Ôn mà đừng làm táo: Ôn pháp thích hợp
với Hàn chứng cũng cẩn phải có chừng mực. Dùng quá độ thuốc táo nhiệt có thể dẫn
đến táo kiệt thương âm.
- Thanh mà đừng làm ngưng: Phép Thanh
thích hợp với Thực chứng, nhưng cần chú ý tránh dùng nhiều hàn lương: một là
làm hại Tỳ Vị, hai là thuốc vượt qua vị trí bệnh đến nỗi nhiệt bệnh chưa rứt hết
hàn chứng đã nổi lên đó là “mắc bệnh tại thuốc”.
- Tiêu mà đừng phạt: Phép Tiêu dùng
trong những chứng thực tích, đàm hạch, tích tụ, trưng hà, các thuốc điều trị đều
có tính khắc phạt, sử dụng không thích đáng trái lại tổn thương chính khí. Vì vậy
cần hiểu rõ bộ vị của bệnh phân biệt nặng nhẹ để tránh trừng phạt không quá
tay. Đồng thời phải chú ý thể chất khoẻ yếu của người bệnh mà tiêu bổ cùng
dùng, vận dụng cho linh hoạt.
- Bổ mà đừng trệ: Phép Bổ ứng dụng trong
Hư chứng nhưng phải chú ý trong bổ có thông, phối hợp thích đáng thuốc lý khí
và hoà huyết, đó cũng là “trong tĩnh có động” khiến cho khí huyết điều hoà thuận
chiều mới có thể thành công. Dùng bổ vớ vẩn, bổ vô tội vạ chỉ chuốc lấy trở ngại
khí huyết, khó mà thu được công hiệu.
- Hoà mà đừng tràn lan: Phép Hoà thích hợp
với các chứng tà ở bán biểu bán lý và Tạng Phủ khí huyết không điều hoà, phạm
vi ứng dụng khá rộng, nhưng phải hoà cho thích đáng không được lạm dụng.
- Thổ mà đừng chậm trễ: Phép Thổ thích hợp
với loại tà khí ở Thượng tiêu, phần nhiều thuộc Thực tà, điều trị nên khẩn
trương. Nói thổ mà đừng chậm trễ” là nói phải chớp lấy thời cơ, tấn công nhanh
chóng đừng chậm trễ.
Bồ Phụ Chu tổng kết kinh nghiệm vận dụng
bát pháp, phương pháp biện chứng đầy đủ đáng để chúng ta học tập.
211.
Chữa bệnh chia ba phép sơ trung mạt: Con đường sơ trị (giai đoạn đầu) theo phép
nên mạnh dạn. Con đường trung trị (giai đoạn giữa) theo phép vừa mạnh vừa từ từ
hỗ trợ nhau..Con đường mạt trị (giai đoạn cuối) theo phép nên thong thả từ từ.
Nguyên - Vương Hiếu Cổ
“Thử sự nan tri - Tam pháp ngũ trị luận”
Tật bệnh không ngừng biến hoá, ba thời kỳ
sơ, trung, mạt đều có đặc điểm, dùng thuốc cũng phải theo đó mà biến hoá. Họ
Vương nói câu này là chỉ vào điểm đó, rất có ý nghĩa phổ biến trong lâm sàng.
Nguyên văn là: “Chữa bệnh lúc bắt đầu, theo phép nên mạnh dạn”, là ý nói dùng
thuốc phải nhạy bén hùng mạnh. Bởi vì mắc bệnh lúc mới thường mạnh, cảm nhiễm
dù nặng hay nhẹ, đều nên dùng thuốc mạnh đuổi bỏ tà ngay. Chữa bệnh ở giai đoạn
giữa, theo phép nên vừa mạnh vừa từ từ tương kiêm, vì nhiễm bệnh, không là tà mới
thì là tà đã lâu, phải trong sự làm dịu sự gấp gáp có cả ý phù chính khu tà, điều
trị chiếu cố cả đôi bên. Dưỡng chính khu tà, ví dụ như thấy tà khí nhiều mà
chính khí ít thì nên dùng nhiều thuốc khu tà, thuốc dưỡng chính ít (phép gia giảm
thuốc, đều theo nguyên tắc đó). Những loại thuốc gia giảm như thế, khi lâm sàng
càng phải nghe ngóng đối chứng để tăng giảm dùng thuốc và phải căn cứ vào thời
tiết, có phải kiêng tránh gì không. Dùng thêm phép châm cứu, hiệu quả càng
nhanh. Biện pháp chữa sau cùng lại nên thong thả, nói thong thả là dùng loại
thuốc êm dịu uống lâu không độc, phần nhiều có tác dụng nuôi khí huyết yên bên
trong. Bởi vì bệnh chứng đã lâu, tà khí ẩn nấp khá sâu, chính khí mong manh, điều
trị phải khéo chọn thuốc uống được lâu dài, “chính khí được nuôi nhiều thì tà
khí sẽ rút. “Lý lẽ đã rõ ràng sáng suốt, chẳng cần bàn thêm.
212.
Phàm chữa bệnh, tất cả nên làm cho tà có con đường rút lui.
Thanh - Chu Học Hải
“Độc y tùy bút - Dụng dược tu sử tà hữu
xuất lộ”
Câu này nêu một nguyên tắc trọng yếu
trong điều trị, đủ cho đời sau suy ngẫm.
Chữa bệnh tấn công tà khí, nên khiến cho
tà khí có lối thoát ra ngoài, đóng cửa giữ giặc là điều tối kỵ của y gia. Ngô Hựu
Khả có bàn: “Hoàng liên tính lạnh mà không tiết, chỉ có thể chế nhiệt chứ không
tiết thực. Nếu bên trong có thực tà thì phải dựa vào Đại hoàng mới tiết được. Nếu
chỉ dùng Hoàng liên để thanh thì trái lại nhiệt tà bám trụ, ẩn náu bên trong
càng sâu, điều trị tấn công càng khó”. (Thu Học Hải cũng nêu thí dụ là “có người
bị bệnh Đàm ẩm uống Phụ tử lâu ngày biến thành thũng mu bàn chân, đó là vì
không dùng các thứ khổ giáng đạm thấm như Phục linh, Trư linh để khỏi thông tà
khí, mà chỉ chuyên ích phần Dương, Dương khí quá vượng càng xô đẩy đàm thuỷ tứ
phía, tức là cái lỗi “bổ mà không tiết vậy”. Qua những thí dụ trên có thể hiểu
rõ vấn đề, tóm lại là “nên hạ cho nó ra, mà không tiết thì không hạ được. Nên tống
cho nó ra ngoài, mà không tán thì không đẩy được ra ngoài”.
Chữa bệnh nên xét xu thế của bệnh, nhân
xu thế mà khơi thông, biểu chứng thì dùng phép thấu đạt, bệnh thủy khí thì dùng
phép thấm lợi, âm dương lý thực thì nên công hạ, đều là những phương pháp làm
cho tà khí có đường rút lui.
213.
Chữa khi chưa có bệnh có nghĩa là thấy Can mắc bệnh, biết là Can bệnh sẽ truyền
sang Tỳ, cho nên phải làm cho Tỳ khí vững chắc trước tiên.
Nạn
kinh - Nạn thứ 77
214.
Thấy Can mắc bệnh, biết là bệnh Can sẽ truyền sang Tỳ, trước phải làm vững chắc
Tỳ.
Đông Hán - Trương Trọng Cảnh
“Kim quĩ yếu lược - Tạng Phủ Kinh lạc
tiên hậu bệnh mạch chứng”
Ý nghĩa hai danh ngôn trên giống nhau, đều
là vận dụng cụ thể lý luận của Nội Kinh “chữa từ khi chưa mắc bệnh”. Đông y cho
rằng trong năm Tạng có mối liên hệ tồn tại lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Mối liên
hệ này thông thường dùng sinh khắc chế hoá của năm Tạng để thuyết minh. Một Tạng
có bệnh có thể ảnh hưởng tới các Tạng khác, khi điều trị nên đồng thời điều trị
dự phòng, đó tức là nội dung tư tưởng trọng yếu của Đông y “chữa từ khi chưa mắc
bệnh”. Danh ngôn này lấy Can bệnh làm ví dụ: Can mộc có thể khắc phạt Tỳ thổ,
khi gặp Can bệnh Thực chứng, dễ truyền sang Tỳ, đó là nói Mộc vượng khắc thổ”,
khi điều trị nên xuất phát từ dự phòng, chú ý làm cho Tỳ vững mạnh để phòng ngừa
Can bệnh truyền sang Tỳ. Như bài thuốc nổi tiếng Tiêu giao tán để chữa Can uất,
dùng các vị Truật, Linh là mang ý nghĩa làm cho “Tỳ vững mạnh”. Mối quan hệ Can
Tỳ nhu thế, “các tạng khác cũng theo ngụ ý đó”. Lý luận “chữa từ khi chưa mắc bệnh”
này có thể nói là đặc sắc rất lớn trong điều trị học của Đông y, có ý nghĩa chỉ
đạo trong lâm sàng.
215.
Chữa bệnh cấp tính phải có gan (đởm) và kiến thức. Chữa bệnh mạn tính phải có
phương và giữ gìn.
Đương đại - Nhạc Mĩ Trung
“Nhạc Mĩ Trung luận y tập”
Danh ngôn này của cố danh y đương đại Nhạc
Mĩ Trung tổng kết nguyên tắc xử lý tật bệnh cấp tính mạn tính khác nhau.
Bệnh cấp tính phần nhiều thuộc lục dâm
thời dịch gây nên, truyền biến nhanh, chứng trạng phần nhiều hiểm ác, điều trị
nên bám sát cơ chế bệnh, nhân cơ chế bệnh mà phán đoán, đón đầu tấn công, dùng
thuốc phải chuẩn xác và liều cao, tức là ý nói phải “có gan” mạnh dạn, Ngô Cúc
Thông từng nói chữa ngoại cảm như tướng võ”, dùng binh quý ở thần tốc, đuổi tà
cần phải sạch là theo ý đó. Một chút do dự e dè nào đều có thể dẫn đến sai lầm
cơ chế bệnh, nung nấu thành hậu họa. Họ Nhạc nói: “có gan, có nhận thức, phải học
Trọng Cảnh, thang thuốc liều cao, đơn đao tiến thẳng, đánh nhanh giải quyết
nhanh”. Đương nhiên, nếu chỉ “có gan” cũng chưa đủ, mà cần phải “có nhận thức”,
tức như đối với bệnh cấp tính phải biết cho đích xác nhạy bén, như vậy phải dựa
vào công phu cơ bản sâu sắc và kinh nghiêm lâm sàng phong phú. “Có gan” mà
không có nhận thức thì chỉ là hành vi lỗ mãng vô ích.
Còn như bệnh mạn tính, nói chung đều là
bệnh lâu hư yếu, tình trạng đến từ từ, rút lui cũng chậm chạp, điều trị phải có
thời gian, từ lượng biến đến chất biến, dứt khoát không thể sớm tối đã lập
công. Ngô Cúc Thông cũng nói: “Chữa nội thương như tướng văn”, bình tĩnh ung
dung xoay chuyển thần cơ để đưa người lên cõi thọ là ý như thế. Đối với bệnh mạn
tính mà sử dụng đối chứng dùng thuốc lúc đầu có thể thấy như vô hiệu. Nếu người
bệnh tha thiết mong hiệu quả, thầy thuốc lại không có định kiến, thế tất dẫn đến
lúc dùng thuốc hàn, lúc dùng thuốc nhiệt, sáng dùng phép công tối dùng phép bổ,
luôn tay đổi phương, kết quả là càng đuổi càng xa, chính như nói dục tốc bất đạt”.
Vì vậy, điều trị bệnh mạn tính phải có định kiến sáng suốt, điều trị theo hướng
bảo toàn khôn khéo, đấy là cốt yếu không nên xem thường. Họ Nhạc nói: “Có
phương pháp, có sự giữ gìn phải học Đông Viên, thang thuốc liều nhẹ cho uống nhẩn
nha, như ngày nhàn rỗi, từ lượng tích luỹ dẫn đến biến hoá về chất”.
216.
Cấp bệnh mà dùng thuốc hoãn, là nuôi kẻ sát nhân. Hoãn bệnh mà dùng thuốc cấp,
là thúc ép sát nhân.
Tống - Đậu Tài
“Biển Thước tâm thư - Yếu chi hoãn cấp”
Câu này nêu lên hậu quả do điều trị bệnh
Cấp, Mạn (hoãn) tính dùng thuốc sai lầm gây nên, là hình ảnh sinh động, mẫu mực
cho mọi người. Bệnh có năng nhẹ, điều trị có hoãn cấp. Đối với bệnh cấp tính cần
phải dùng thuốc mãnh liệt (thuốc cấp) đánh nhanh giải quyết nhanh để tránh lưu
hậu họa, nếu lại dùng các loại hoãn dược nhẹ nhưng bình hoà để điều trị, tình
thế hoãn không giải quyết được cấp, chiến lược sai lầm, thậm chí nuôi ung nhọt
để lại hậu quả, dẫn đến nguy nan người bệnh, nên mới nói nuôi kẻ sát nhân”.
Đối với bệnh mạn tính thì nên ung dung xử
lý, dùng các loại thuốc nhẹ nhàng êm dịu, tích luỹ nhiều ngày để lập công. Gặp
lúc chính khí đã hư, nếu lại dùng thuốc mãnh liệt gấp gáp, khó mà tránh khỏi tổn
thương chính khí người bệnh cũng dẫn đến nguy hiểm cho nên nói thúc ép sát
nhân”. Câu này với câu trên tuy khác lời nhưng cùng một ý, chỉ khác nhau mặt thẳng
mặt trái mà thôi.
217.
Bệnh có mới, lâu. Mới thì xu thế cấp, điều trị nên trọng tễ. Lâu thì xu thế
hoãn, điều trị nên dùng thang thuốc nhẹ nhàng.
Minh - Chu Thận Trai
“Thận Trai di thư - Nhị thập lục tự
nguyên cơ – Hoãn”
Câu này nêu nguyên tắc dùng thuốc chữa bệnh
mới bệnh lâu khác nhau. Bệnh mới tà khí đương mạnh, chính khí chưa hư, nên dùng
thang thuốc liều cao mãnh liệt, đuổi bỏ tà ngay để tránh hậu hoạn. Bệnh lâu tà
khí đã từ từ mà chính khí tổn thương khá lớn, điều trị nên dùng thang thuốc
bình hoà nhẹ nhàng, chăm sóc chu đáo, không nên lạm dụng thang thuốc liều cao để
tránh tổn thương chính khí.
218.
Con đường khéo sử về sâu, càng phải học kỹ.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y
học nguyên lưu luận - Danh y bất khả vi luận”
219.
Điều lý sau khi mắc bệnh không dễ như khi chữa bệnh.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Hạ tiêu thiên”
Hai câu y văn đều nêu tính trọng yếu chăm
sóc sau khi mắc bệnh, khiến cho phải suy nghĩ sâu sắc. Sau khi khỏi ốm nặng hoặc
chính khí hư yếu mà dư tà chưa sạch hoặc tà khí tuy rút nhưng chính khí đã suy,
theo phép nên châm chước cặn kẽ, điều lý thích hợp không nên coi thường, kể cả
ăn uống, nằm ngồi kiêng kị cũng nên chú ý, tránh khỏi cái lỗi do chăm sóc không
khéo dẫn đến bao công lao trước đi đến uổng công, tật bệnh dằng dai hoặc tái
phát. Họ Ngô bàn: “Chăm sóc sau khi mắc bệnh không dễ như khi chữa.
II. TẠNG PHỦ LUẬN TRỊ
220.
Bản của tiên thiên ở Thận. Bản của hậu thiên ở Tỳ.
Minh - Lý Trung Tử
“Y
tôn tất độc - Thận vi tiền thiên bản. Tỳ vi hậu thiên bản luận”
Câu này đánh giá cao về lý luận khái
quát hai tạng Tỳ Thận có tác dụng trọng yếu trong hoạt động sinh mạng của con
người, là một cống hiến lớn của Lý Trung Tử về lý luận Đông y.
Tại sao là căn bản của con người? Họ Lý
kinh qua nghiên cứu nêu ra quan điểm “Bản của tiên thiên tại Thận, bản của hậu
thiên tại Tỳ” lập luận tinh vi, có ảnh hưởng rất sâu cho đời sau, đến nay chúng
ta vẫn tin phục.
Họ Lý nói: “Khi chưa có thân này, đã có
hai Thận từ trước cho nên Thận là Bản của Tạng Phủ, là cái rễ của 12 kinh mạch,
cái gốc của hô hấp, cái nguồn của Tam tiêu”. Cũng tức là nói Thận khí là “cái bắt
đầu mà con người phải dựa vào đó”. Cho nên nói Thận là Bản của tiên thiên”.
Lại nói: “Một khi đã có thân hình này,
là phải nhờ đến cốc khí. Cốc khí vào Vị, thay đổi ở sáu Phủ mà khí đến, hoà điều
năm Tạng mà sinh ra huyết”. Đó cũng là nói sau khi người ta sinh ra, phải nhờ
vào sự tiêu hoá và công năng vận chuyển của Tỳ Vị mới có thể hoá sinh ra khí
huyết, “con người nhờ vào đây mới sống được”. Cho nên nói Tỳ là Bản của hậu
thiên”.
Tóm lại Lý Trung Tử cho rằng từ công
năng sinh lý của Tỳ Thận xuất phát từ lời bàn căn bản tiên hậu thiên nổi tiếng
đó...
221.
Thuỷ là nguồn của vạn vật. Thổ là mẹ của vạn vật.
Minh - Lý Trung Tử
“Y
tôn tất độc - Hư lao”
“Thuỷ” chỉ tạng Thận. “Thổ” chỉ Tỳ Vị.
Câu văn này với câu Lý Trung Tử nói ở trên “Bản của tiên thiên ở Thận. Bản của
hậu thiên ở Tỳ” ý nghĩa đại thể là nhất trí, có thể nói là phép biến thông, lời
nói mang tính hình tượng.
222.
Chữa tiên thiên nên tìm các loại thuộc tinh huyết. Chữa hậu thiên nên tham khảo
các phương về đồ ăn cốc khí.
Thanh - Vương Húc Cao
“Vương Húc Cao yán - Hư lao”
Câu này nêu đặc điểm dừng thuốc khác
nhau của hai tạng Tỳ Thận khi mắc bệnh Hư lao rất có giá trị chỉ đạo lâm sàng.
Điều trị chứng Hư lao, chú trọng vào Tỳ Thận. Thận là gốc của tiên thiên, là
nguồn của tinh huyết, Thận hư thì tinh huyết bất túc, điều trị chỉ có “thứ huyết
nhục hữu tình mới bù đắp được tinh huyết trong thân thể”, bởi vì “tinh huyết đều
là thứ hữu hình, nếu lấy cái vật vô tình là thảo mộc để bổ ích là thanh khí
không tương ứng (lời Diệp Thiên Sĩ) đời sau mới đem lý luận này khái quát là
“huyết nhục bù đắp cho tinh”, các loại thuốc như lợn, tuỷ sống dê, Qui bản, Miết
giáp, A giao, Tử hà sa ….
Tỳ là gốc của hậu thiên, nguồn của sinh
hoá sự sống của hậu thiên, cái quý nhất là cơm gạo, cho nên bồi bổ Tỳ Vị vừa phải
dùng thuốc kiện Tỳ ích Vị, còn phải dùng đến các phương về “đồ ăn cốc khí”. Nói
các phương về đồ ăn cốc khí, một mặt là chỉ những thứ thuốc vừa có thể bổ Tỳ, vừa
có thể dùng để ăn hàng ngày như Hoài sơn, Dĩ mễ, Khiếm thực, Đại táo, Biển đậu,
Ngạnh mễ v.v. mặt khác là chỉ các loại ăn uống bổ ích như bánh Bát tiên trường
thọ, canh Đương qui sinh khương nấu với thịt dê...
223.
Chữa căn bản của tiên thiên thì có chia ra Thuỷ và Hỏa. Chữa căn bản của hậu
thiên thì có chia ra nhọc mệt hay ăn uống.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Thận vi tiên thiên bản,
Tỳ vi hậu thiên bán luận”
Lý Trung Tử nêu ra lời bàn căn bản về
tiên hậu thiên nổi tiếng, nhưng cụ thể khi đến mỗi tạng khí Tỳ, Thận thì cơ chế
bệnh cũng có chỗ khác nhau, phép chữa tự nhiên cũng không giống nhau. Nguyên
văn như sau: “Chữa căn bản của tiên thiên thì có chia ra thuỷ và Hỏa. Thuỷ bất
túc thì dùng Lục vị hoàn làm mạnh nguồn thuỷ để chế dương quang. Hỏa bất túc
thì dùng Bát vị hoàn để ích cái chủ của Hỏa tan bỏ cái lạnh lẽo ở phần âm. Chữa
căn bản của hậu thiên thì có nhọc mệt và ăn uống khác nhau, tổn thương do ăn uống
thì dùng Chỉ xác hoàn, tổn thương do nhọc mệt thì uống Bổ trung ích khí hoàn”.
Những lời bàn này đều thể hiện tinh thần biện chứng luận trị.
224.
Điều lý Tỳ Vị là vương đạo trong nghề y. Hạn chế ăn uống là bài thuốc tốt đẩy
lùi tật bệnh.
Minh - Phương Quảng
“Đan Khê tâm pháp phụ dư - Y chỉ - Phục
Cổ Yên phương thị phú”
Câu này thể hiện sự khen ngợi của đời
sau đối với học thuyết Tỳ Vị của Lý Đông Viên. “Vương đạo” nghĩa chính là nói
chủ trương của nhà Nho lấy nhân nghĩa để cai trị thiên hạ, đó là nói đối lập với
“bá đạo”.
Lý Đông Viên khai sáng “học thuyết bổ thổ”,
khẳng định Tỳ Vị là gốc của nguyên khí, chữa bệnh phải coi trọng điều lý Tỳ Vị,
luôn giữ gìn Vị Khí, phản đối lạm dụng thuốc công phạt, cũng giống như chủ
trương lấy nhân nghĩa để cai trị thiên hạ, do đó mà được đời sau xếp vào “Vượng
đạo của ngành y”. Đông Viên còn vạch rõ việc ăn uống không điều độ có giá trị
trọng yếu trong điều trị tật bệnh, cho nên nói hạn chế ăn uống là phương thuốc
tốt đẩy lùi tật bệnh” đều là nhận thức rất được coi trọng.
225.
Trăm bệnh trong bốn mùa, Vị khí là gốc.
Thanh - Dư Sư Ngu
“Dịch
chẩn Nhất đắc - Dịch chẩn chi chứng - Vị nhiệt bất thực”
Câu này nêu lên tính trọng yếu của Vị
khí trong cơ thể con người đối với quá trình chữa bệnh. Tỳ Vị là gốc của hậu
thiên, nguồn của sự sinh hoá, có tác dụng trọng yếu trong điều trị khi cơ thể mắc
bệnh. Các thầy thuốc nhiều đời đều coi trọng điểm này. Suy ngẫm câu “Trăm bệnh
trong bốn mùa, Vị khí là gốc” có hai điểm: Một là các loại tật bệnh phần nhiều
do Tỳ Vị hư yếu mà phát sinh. Lý Đông Viên từng nói: “Nội thương Tỳ Vị, trăm bệnh
sinh ra từ đấy? tức là ý tứ này. Hai là sau khi đã mắc bệnh, sự tồn vong mạnh yếu
của Vị khí là nhân tố trọng yếu chữa bệnh có hiệu quả hay không. Lý Trung Tử từng
nói Vị khí một khi đã bại, dù trăm thứ thuốc cũng khó gỡ” tức là nói ý tứ này.
Coi trọng Tỳ Vị, giữ gìn Vị khí, là đặc sắc trọng yếu trong điều trị học của
Đông y.
226.
Vị khí khi đã bại, trăm thứ thuốc cũng khó gỡ.
Minh - Lý Trung Tử
“Y
tôn tất độc - Thận vi tiên thiên bản, Tỳ vi hậu thiên bản luận”
Câu này nêu tác dụng trọng yếu của Vị
khí thịnh hay suy trong chữa bệnh, thể hiện quan điểm “Tỳ là gốc của hậu thiên”
trong học thuật của Lý Trung Tử. Vị khí là chỉ công năng sinh lý vận hoá của Tỳ
Vị, mọi thứ thuốc phải nhờ vào Vị khí mới lưu hành được sức thuốc để phát huy
tác dụng điều trị, một khi Vị khí bại, thì mọi thứ thuốc không phát huy được sức
thuốc, bệnh tất nhiên khó chữa.
227.
Sự sống dựa vào hậu thiên, ăn được là quý.
Cận đại - Trương Tích Thuần
“Y học dung trung tham tây lục - Y
phương”
Câu này ý nói Tỳ Vị là gốc của hậu
thiên, công năng dựa vào sự sống của sinh mệnh là ở cơ sở ăn được (nạp cốc) nói
lên sự ăn uống bình thường mang tính trọng yếu đối với công năng của Tỳ Vị.
Trương Tích Thuần nói Bất cứ bệnh gì, nếu sau khi uống thuốc vào mà ăn khá dần
lên là dễ chữa, mà ăn uống giảm sút đi thì khó chữa” nói lên đặc tính sinh lý
trọng yếu của Tỳ Vị, giúp cho người đời sau có nhận thức trân trọng đối với Tỳ
Vị.
228.
Phép chữa bệnh phải lấy cốc khí trước tiên.
Kim - Lưu Hoàn Tố
“Tố
Vấn bệnh cơ khí nghi bảo mệnh tập - Bản thảo luận quyển 9”
Câu này nói lên tác dụng của thực bổ, thực
dưỡng. Lưu Hoàn Tố là ty tổ của học phái Hàn lương trong bốn đại gia đời Kim
Nguyên, nhưng trong điều trị tạp bệnh không thiên chấp chỉ dùng một loại hàn
lương mà còn đề cao thực bổ thực dưỡng, nói lên quan điểm chú trọng Vị khí
trong điều trị của ông.
229.
Dùng ăn để dẹp ốm đau, dùng tình chí đẩy lui tật bệnh, có thể gọi là thầy giỏi.
Đường - Tôn Tư Mạo
“Thiên kim yếu phương - Thực trị tư luận”
Danh ngôn này nêu tính trọng yếu trong
điều trị áp dụng bằng thực vật chữa bệnh với tâm lý chữa bệnh, muốn làm thầy
thuốc giỏi không thể không biết điều ấy. Tôn Tư Mạo rất coi trọng chữa bệnh bằng
thực vật, chữa bằng thực vật không khỏi bấy giờ mới dùng đến thuốc, không sai
quan điểm Vương đạo trong ngành y. Ông nói: “Thực vật có thể dồn tà khí mà yên
Tạng Phủ, sảng khoái thần trí nhờ vào đó để tư dưỡng huyết khí”, “muốn yên cái
gốc của tấm thân, phải nhờ vào cái ăn”. Vì thế có thể dùng thực vật mà chữa được
bệnh, mới là lương y”. Còn như tâm lý liệu pháp hiện đại càng được nhiều người
coi trọng, có thể dùng tâm lý để tháo gỡ tâm tình u uất mà chữa bệnh cho người,
cũng là vấn đề mà thầy thuốc sáng suốt cần chú ý.
230.
Tỳ nên thăng mới khoẻ, Vị nên giáng mới hoà. Thái âm thấp thổ, được dương mới vận
động. Dương minh dương thổ, được âm tự yên. Vì Tỳ thích cương táo. Vị ưa nhu
nhuận.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chi nam y án - Tỳ Vị” theo nhận
xét của Hoa Tụ Vân
Câu này khái quát sinh bệnh lý của Tỳ Vị
và sự khác nhau trong nguyên tắc dùng thuốc, có ý nghĩa chỉ đạo cho chúng ta về
nhận thức trong điều trị về bệnh biến Tỳ Vị có tính cương lĩnh.
Tỳ là âm Tạng, thuộc Thái âm thấp thổ,
tính của nó ưa ráo, khí của nó ưa thăng, được dương khí thì vận chuyển mạnh. Vị
là dương Phủ, thuộc Dương minh táo thổ, tính của nó ưa thấp, khí của nó ưa
giáng, được âm dịch thì yên hoà. Quan điểm này của họ Diệp hoàn toàn chính xác,
ông rất tin phục Lý Đông Viên, từng nói: “Nội thương phải theo phép của Đông
Viên” nhưng Đông Viên chữa Tỳ lại tinh tế mà chữa Vị thì sơ lược đó là điều mọi
người đều biết cả. Họ Diệp chỉ ra đặc điểm khác nhau của Tỳ Vị, đem Tỳ Vị tách
ra để chữa, đúng là bổ sung chỗ bất túc của Đông Viên. Trên lâm sàng chữa Tỳ,
nên coi trọng phép ích khí thăng dương của Đông Viên, mà chữa Vị thì có thể
theo nguyên tắc dưỡng Vị ích âm của họ Diệp. Tóm lại, Tỳ Vị có tính âm dương
khác nhau, sự ưa ghét không giống nhau, điều trị nên tìm sự liên thuộc đó.
231.
Kiện Tỳ nên thăng, thông Vị nên giáng. Cho nên chữa Tỳ lấy thuốc táo để thăng
đó là nói lấy ánh dương để sưởi ấm. Chữa Vị lấy thuốc nhuận để giáng, cho nên
nói mưa móc cho ngấm dần.
Thanh - La Hạo
“Y kinh dư luận - Tục Tỳ Vị luận”
aCâu này cũng nêu đặc tính sinh lý và
nguyên tắc điều trị khác nhau của Tỳ Vị có thể tham khảo với câu danh ngôn của
họ Diệp ở trên. Tác giả La Hạo cũng nhằm vào quan điểm của Đông Viên tinh tế về
chữa Tỳ mà sơ lược về chữa Vị, nêu ra vấn đề Tỳ Vị không thể chữa lẫn lộn. Ông
giải thích rằng “Nghĩ như Tỳ là Kỷ thổ, thể của nó thường thấp (ẩm ướt) cho nên
tác dụng hướng về Dương, ví như nơi đất ẩm ướt, không có dương quang chiếu vào
thì không sinh được vạn vật. Vị là Mậu thổ, thể của nó thường táo, cho nên tác
dụng hướng về âm, ví như nơi đất khô ráo, không có mưa móc ngấm vào, cũng không
thể sinh vạn vật. “
232.
Phần dương ở trong Vị ưa thăng phù, nếu hư thì trái lại hãm xuống dưới làm công
việc liễm giáng, sẽ sinh ra khí chèn nén không dễ chịu. Phần dương ở trong Thận
quý ở sự ngưng giáng, Lao (nhọc mệt) thì nổi lên trên, nếu lại làm cho thăng
phát, thì chân khí tiêu vong đến ngay.
Thanh - Trần Tu Viên
“Y học tùng chúng lục - Hư lao”
Danh ngôn này qui nạp bệnh lý biến hoá của
Tỳ Thận dương hư và sự kiêng tránh trong điều trị. Tác giả nói “Vị dương” có thể
là “Tỳ dương” mới đúng. “Lao” chỉ bệnh chứng Hư lao chứ không phải là Phế lao.
Tỳ chủ vận hoá, dương khí ở Tỳ ưa thăng, Tỳ hư thì khí không thăng mà trái lại
hãm xuống dưới, đây tức là “thanh khí ở dưới”. Nếu lại dùng thuốc thu liễm
giáng hạ, sẽ làm cho khí hãm nặng thêm, rõ là điều không nên. Thận chủ kín đáo,
quý ở chỗ cất giữ, hư thì khí nổi lên trên, xuất hiện hiện tượng hư dương vượt
lên trên, lúc này nếu lại dùng thuốc thăng đề phát tán sẽ khiến cho chân dương
tiêu vong, không thể không cẩn thận. Trên lâm sàng Tỳ dương hư nên thăng đề
không được liễm giáng. Thận dương hư phải cất giữ không được thăng đề, tóm lại
điều trị ngược lại với xu thế của bệnh là điều chúng ta nên chú ý.
233.
Phàm bệnh điên đảo khá rõ ràng, phải theo Tỳ Vị mà điều lý.
Thanh - Trình Hạnh Hiên
“Y thuật quyển 7”
dẫn lời của Chu Thận Trai
Bệnh tật hay tái phát khó phân biệt, phải
vững tay điều lý Tỳ Vị. Câu này nói lên (chữa bệnh) trong quá trình chữa bệnh
có chỗ nghi ngờ khó khăn phải đặc biệt coi trọng vai trò trọng yếu của Tỳ Vị, rất
có giá trị tham khảo trong lâm sàng.
Các chứng bệnh nghi ngờ khó khăn nói chung đều
là bệnh tình phức tạp, thường liên lụy đến nhiều tạng khí khác, rất khó khăn
trong điều trị. Tỳ Vị là gốc của hậu thiên, là nguồn sinh hoá của Tạng Phủ, điều
lý Tỳ Vị có thể làm cho khí huyết đầy đủ, ổn định các tạng khác, từ đó mà đạt mục
đích chữa khỏi tật bệnh.
234.
Chữa bệnh không khỏi, tìm đến Tỳ Vị mà chữa khỏi rất nhiều.
Minh - Chu Thận Trai
“Thận Trai di thư - Biện chứng thi trị”
Câu này cũng giống như danh ngôn nói
trên, đều phản ánh tư tưởng học thuật của họ Chu trong điều trị khi gặp bệnh
khó khăn rất coi trọng Tỳ Vị. Ông nói: “Chữa các bệnh không khỏi, tập trung tìm
trong Tỳ Vị sẽ không sai lầm nào cả. Sao lại nói vậy? Tỳ Vị một khi tổn thương,
thì bốn tạng khác đều không có sinh khí, cho nên tật bệnh ngày càng nhiều. Vạn
vật sinh ra từ Thổ, rồi cũng từ Thổ mà về... “ có thể tham khảo với danh ngôn
nói ở trên.
235.
Thổ vượng thì kim sinh, không phải bo bo giữ Phế. Thuỷ thăng thì Hỏa giáng, đừng
tất tưởi ở thanh Tâm.
Thanh - Trần Tu Viên
“Y học tùng chúng lục - Hư lao luận”
dẫn lời của Lý Trung Tử
Ý nói của câu này là: Đối với chứng Phế
hư, không nhất thiết phải lăm le bổ Phế mà chủ yếu phải điều bổ Tỳ Vị, Tỳ Vị dồi
dào sẽ có tác dụng bổ Phế. Đối với chứng Tâm Hỏa quá thịnh, không phải chỉ giới
hạn ở thanh Tâm Hỏa, có thể thông qua phương pháp tư bổ Thận thuỷ mà giáng Tâm
Hỏa. Đây là Lý Sĩ Tài căn cứ vào lý luận qui nạp ngũ hành sinh khắc để nêu ra
kinh nghiệm chữa bệnh Hư lao. Tạng Tỳ với tạng Phế là tạng mẫu tử, quan hệ
tương sinh. Tỳ thổ nuôi nấng Phế kim, cho nên chứng Phế hư có thể thông qua bổ
Tỳ mà đạt mục đích điều trị, đó cũng là cái ý “hư thì bổ mẹ”, “bổ thổ sinh
kim”. Tâm với Thận có quan hệ tương khắc, đó cũng là quan hệ chế ước lẫn nhau.
Tâm Hỏa giáng xuống, Thận thuỷ giúp lên trên thì công năng sinh lý của Tâm Thận
mới hiệp điều, gọi là “Tâm Thận tương giao”, “Thuỷ Hỏa ký tế”. Nếu Tâm Hỏa
thiên thịnh, lúc này không những có thể để mắt tới thanh giáng Tâm Hỏa mà còn
có thể thông qua phương pháp tư bổ Thận thuỷ để đạt mục đích thanh giáng Tâm Hỏa.
236.
Vị thuộc dương thổ, nên mát nên nhuận. Can là cương tạng, nên nhu nên hoà.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam yán - Ế cách phiên vị
- Tô án”
Danh ngôn này khái quát đặc tính sinh lý
khác nhau và đặc điểm dùng thuốc của phủ Vị và tạng Can. Vị là Dương phủ, nhiều
khí nhiều huyết, bị bệnh thì dễ hoá nhiệt hoá táo, đó tức là nói Dương thổ. Điều
trị đương nhiên ưa mát ưa nhuận.
Can là chức quan Tướng quân, ưa điều đạt,
ghét ức uất, Can khí uất kết thì nên sơ đạt, gọi đó là hòa. Can thể âm mà dụng
dương, âm dễ hư mà dương dễ cang. Điều trị nên dưỡng huyết nhu nhuận. Đấy là
nói khi bình thường. Đương nhiên, Vị cũng thường thấy Hàn chứng. Can cũng có thể
xuất hiện thấp nhiệt. Ở đây nên biện chứng luận trị, không nên máy móc.
237.
Chữa Can không ưng, nên lấy Dương minh.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm
chứng chỉ nam y án - Mộc thừa Thổ”
Câu này nhắc người ta khi điều trị chứng
Can khí phạm Tỳ, nên suy nghĩ đến nhân tố Tỳ Vị đúng là lời bàn có kinh nghiệm.
Mộc dễ khắc Thổ, cho nên Can bệnh thường dễ lấn Tỳ phạm Vị dẫn đến các chứng của
Tỳ Vị. Khi dùng hàng loạt phương pháp để chữa Can không hiệu quả cần phải suy
nghĩ đến Tỳ hư làm gốc, mà Can lấy là tiêu nên chọn dùng phép chữa bổ Tỳ làm chủ
yếu để đạt mục đích phù Tỳ ức mộc.
238.
Can là tạng cứng cỏi, chức năng sơ tiết, dùng thuốc không nên cứng cỏi mà nên mềm
mại, không nên phạt mà nên hòa.
Thanh - Lâm Bội Cầm
“Loại chứng trị tài - Can khí can hỏa
can phong luận trị”
Khái quát đặc tính sinh lý của tạng Can
và kiêng tránh khi dùng thuốc. Can là chức quan Tướng quân, là tạng phong mộc, ở
chí là nộ, phát bệnh phần nhiều có hiện tượng gấp gáp mãnh liệt. Các chứng đắng
miệng, mắt đỏ, động phong, hoá hỏa, đều mang tính cứng cỏi mạnh tợn, cho nên gọi
là tạng cứng cỏi. Can thể âm mà dụng dương thường do âm hư mà đẫn đến dương
cang phong động hoá hỏa, phần nhiều thuộc hiện tượng táo nhiệt, điều trị nên
dùng thuốc tư dưỡng âm huyết mà tránh dùng thuốc táo nhiệt, cho nên nói: “dùng
thuốc không nên cứng cỏi mà nên mềm mại”. Can chủ sơ tiết, ưa điều đạt mà ghét ức
uất. Can uất thì nên sơ thông khí huyết khiến cho hòa bình, biện pháp công phạt
nào cũng đều bất lợi, cho nên nói không nên phạt mà nên hòa”.
239.
Can thể Âm mà dụng Dương
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Can phong”
dẫn lời của Hoa Tụ Vân
Danh ngôn này khái quát đặc tính sinh lý
của tạng Can rất có ý nghĩa về nhận thức và chỉ đạo việc dùng thuốc đối với Can
bệnh.
Thể, nói chung chỉ thực thể hoặc thực chất.
Dụng chỉ tác dụng hoặc cơ năng. Can là Tạng chứa huyết, huyết thuộc âm cho nên
thể của Can là Âm. Can chủ về sơ tiết, bên trong giữ Tướng Hỏa, là tạng phong mộc,
dễ động phong hoá hỏa lại chủ về mọi hoạt động của gân, những công năng tác dụng
và bệnh lý biến hoá ấy, nếu giải thích theo góc độ Âm Dương thì nó thiên về động,
thiên về hỏa, thuộc Dương, đó tức là hàm nghĩa “Can thể Âm dụng Dương”. Trên điều
trị, việc dùng thuốc nên chú ý đến việc dùng các vị mềm mại không dùng vị cứng
rắn, nên hòa không nên phạt. Có thể tham khảo với nhũng y văn nói ở trên.
240. Ất Quý đồng nguyên, Can Thận đồng
trị.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Thuỷ hỏa Âm dương luận”
Câu này nói lên mối liên hệ sinh lý, bệnh
lý của hai tạng Can Thận và chỉ ra đặc điểm điều trị xét theo hàm nghĩa Thiên
can. Ất đại biểu cho tạng Can, Quý đại biểu cho tạng Thận. Ất Quý đồng nguyên
là chỉ mối quan hệ chặt chẽ trên sinh lý bệnh lý hai tạng Can Thận. Can Thận
cùng thuộc Hạ tiêu, Can chứa huyết, Thận chứa tính, tinh và huyết có thể chuyển
hoá lẫn nhau, Thận với Can lại là tạng mẫu tử, vì vậy Can Thận trên sinh lý tồn
tại nương tựa sự sống vào nhau, trên bệnh lý có mới liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau.
Vì mối quan hệ Can Thận đồng nguyên cho nên nêu ra nguyên tắc Can Thận đồng trị.
Ví dụ Can âm bất túc, Can dương găng lên, có thể dùng phương pháp tư bổ Thận thuỷ
để tư dưỡng Can mộc đạt được mục đích bình
Can tiềm Dương, thể hiện được nguyên tắc điều
trị như nói ở trên. Lý Trung Tử lại nêu ra các nguyên tắc “Bổ Thận tức là bổ
Can”, “Tả Can tức là tả Thận”, đều là những nhận thức nêu ra từ cơ sở “Ất Quý đồng
nguyên, Can Thận đồng trị”.
241.
Phế là tạng non nớt, là hoa cái toàn Thận, nên nhuận không nên táo.
Thanh - Tưởng Pháp
“Thần y vựng biên - Khiết Cù - Ất canh
phương”
Danh ngôn này khái quát đặc tính sinh lý
và sự kiêng kỵ dùng thuốc đối với tạng Phế. Phế trong năm Tạng sáu Phủ ở vị trí
tốt cao che đậy các tạng khác cho nên gọi là “hoa cái”. Lá Phế non yếu không chịu
nổi nóng lạnh, bên ngoài và da lông dễ bị tà khí xâm phạm cho nên gọi là “Tạng
non nớt”. Sách “Y phương khảo” nói “Phế là tạng rất sạch, một tý bụi không chứa”
cũng theo ý đó. Phế thuộc táo kim, bản tính ghét ráo, cho nên dùng thuốc “nên
nhuận không nên táo” những lý luận ấy rất có ý nghĩa chỉ đạo trong lâm sàng.
242.
Phế là tạng non nớt, có thể chữa nhẹ nhàng không được mạnh tay.
Thanh - Trần Sĩ Đạc
“Thạch thất bí lục - ức trị pháp”
Nêu lên nguyên tắc dùng thuốc để chữa bệnh
ở tạng Phế. Phế là tạng non nớt như đã nói ở y văn trên. Phế ở thượng tiêu, chữa
bệnh ở Thượng tiêu phải nhẹ nhàng như cái lông, không nhẹ nhàng thì không nâng
lên được cho nên dùng thuốc phải trong trẻo nhẹ nhàng, chứ không nên nặng nề,
dùng thuốc không vượt quá nơi bị bệnh, trừng phạt không quá tay. “Chữa nhẹ
nhàng” có hai hàm nghĩa: một là lượng thuốc nên ít, hai là nên dùng các vị thuốc
thanh đạm khí nhẹ.
Diệp Thiên Sĩ khi bàn chữa bệnh Phế từng
nói Hết thảy các vị thuốc, chủ yếu đều phải nhẹ nhàng không dùng thuốc có khí vị
nặng đục. Đó là nói vị cay để mà khai, vị đắng để mà giáng” là thích hợp với
phép chữa nhẹ nhàng đối với tạng non yếu”(Lâm chứng chỉ nan y án) chính là tôn
chỉ của danh ngôn này.
243.
Sáu phủ lấy thông là Bổ.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm
chứng chỉ nam y án - Mộc thừa thổ - Nhuế án”
Câu này căn cứ vào đặc điểm sinh lý của
lục Phủ để tổng kết ra một bí quyết điều trị bệnh biến của lục Phủ. Lục phủ tức
Đởm, Vị, Tiểu trường, Đại trường, Bàng quang, Tam tiêu, công năng sinh lý chủ yếu
của chúng là chứa đựng và truyền hoá thuỷ cốc, hoàn thành việc tiêu hoá, hấp thụ
và bài tiết đồ ăn uống. “Tố Vấn - Ngũ trạng biệt luận” chỉ rõ: “Sáu phủ chuyển
hoá vật mà không chứa”, cho nên chắc “mà không đầy”, khái quát được đặc điểm
sinh lý của sáu Phủ. Chỉ có không ngừng thu nạp, tiêu hoá, truyền đạo thuỷ cốc;
không ngừng bài tiết cặn bã thừa thãi và thuỷ phân, đó cũng là duy trì trạng
thái thông thuận lâu dài mới duy trì được công năng tiêu hoá bình thường, mỗi một
khâu nào đó xuất hiện đình trệ, lập tức ảnh hưởng tới công năng tiêu hoá, điều
trị nên lấy thông giáng làm đại pháp, khôi phục công năng truyền đạo cũng như
khiến cho tạng khí bị hư tổn tiến tới bổ ích khôi phục công năng.
Diệp Thiên Sĩ căn cứ vào đó, tổng kết lý
luận “Lục phủ lấy thông làm Bổ” đối với chỉ đạo bệnh biến của lục Phủ có giá trị
chỉ đạo rất trọng yếu. Những năm gần đây những phương diện điều trị cấp phúc chứng
trong ngoại khoa, chọn dùng phương pháp thông lý công hạ để chữa tắc ruột, viêm
ruột thừa, chứng sỏi mật thu hoạch được nhiều kinh nghiệm quý báu tức là phát
huy cụ thể lý luận này. Đời sau đem câu này đổi làm “lục phủ lấy thông làm dụng”
ý nghĩa cũng tương tự.
244.
Chữa Thượng tiêu như lông (không nhẹ thì không nâng lên), chữa Trung tiêu như
cái cân (không thăng bằng thì không yên), chữa hạ tiêu như nắm đấm (không nặng
thì không chìm).
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện – Tạp thuyết – Trị bệnh
Pháp luận”
Dùng hình tượng để nêu nguyên tắc chữa
các bệnh ở Tam tiêu. Họ Ngô là người sáng lập ra cương lĩnh Tam tiêu biện chứng
trong Ôn bệnh. Đối với vị trí bệnh, tình trạng triệu chứng và đặc điểm dùng thuốc
ở tam tiêu đều được trình bày cụ thể. Tà khí ở Thượng tiêu, vì bộ vị cao, lại gần
thể biểu, cho nên điều trị cũng nên lựa chọn, các thuốc nhẹ nhàng tuyên tán,
phương hương thanh hoá, những dược tính nhẹ nhàng cũng ví như lông chim có thể
bay bổng để dồn tà khí ra ngoài, ngụ ý “nhẹ để trừ thực”, đây tức là hàm nghĩa
của phép trị “Thượng tiêu như lông”. Tà khí ở Trung tiêu, vị trí ở giữa khoảng
trên và dưới, đó là cái chốt xoay chuyển vào ra thăng giáng, cho nên phép trị cần
phải thích nghi thăng giáng, dùng thuốc không được thiên về quá nhẹ cũng không
được quá thiên về trọng trọc mà phải thăng bằng như cán cân đều đặn ngang nhau,
đó là hàm nghĩa chữa Trung tiêu phải như cái cân. Tà khí ở Hạ tiêu, vị trí bệnh
ở nơi thấp nhất, ở trong, ở dưới, cho nên dùng thuốc vô luận là công hay bổ, đều
nêu chọn loại nặng như nắm đấm là những vị thuốc có chất nặng, vị hậu mới dễ đạt
đến nơi bị bệnh, đó là hàm nghĩa chữa Hạ tiêu nặng như nắm đấm.
Họ Ngô coi trọng cách phân chia điều trị
này, từng đề ra lời khuyên răn. “Chữa trên đừng phạm giữa, chữa giữa đừng phạm
dưới”. Trên lâm sàng nguyên tắc phân chia Tam tiêu điều trị không chỉ dùng
trong chỉ đạo điều trị Ôn bệnh mà đối với điều trị Tạp bệnh cũng có giá trị
tham khảo tốt, như một số lương y cao tuổi khi dùng Phụ tử thường đồng thời gia
một vị Đại giả thạch. Tức là sự suy tính theo cái ý “chữa Hạ tiêu như Quyền (nấm
đấm)”.
III. ÂM DƯƠNG
245.
Giỏi bổ Dương, phải từ trong Âm cầu Dương thì Dương được Âm giúp mà sinh hoá vô
cùng. Giỏi bổ Âm, phải từ trong Dương cầu Âm thì Âm được Dương thăng mà suối
nguồn không kiệt.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát (trận)
lộ - Bổ lược”
Câu này căn cứ vào lý luận “Âm dương hỗ
căn”, “Âm dương tương tế” nêu ra những kiến giải tinh vi trong điều trị âm
dương hư tổn có ảnh hưởng sâu sắc cho đời sau. Đông y cho rằng âm dương hỗ căn,
âm tổn có thể liên luỵ đến dương, dương tổn có thể liên luỵ đến âm, bổ âm có thể
giúp cho dương, bổ dương có thể ích âm.
Âm là cơ sở của dương, dương là tác dụng
của âm, cho nên khi bổ dương nên dành phần tư âm thích đáng, khi tư âm cũng
dành phần thích đáng trợ dương, từ đó mà đạt được mục đích trong âm tìm dương,
trong dương cầu âm, âm dương giúp lẫn nhau, âm dương thăng bằng.
Cần chỉ rõ: “trong âm tìm dương” và
“trong dương tìm âm” đều không phải là việc áp dụng thuốc âm đối phó với thuốc
dương, tám lạng đối với nửa cân, mà phải có chủ và thứ, có trọng điểm nổi bật.
Ví dụ: họ Trương sáng tạo ra thang thuốc bổ Âm “Tả qui hoàn” tức là có cái ý
“trong Dương tìm Âm”, lấy những vị thuốc tư âm hùng hậu như Thục địa, Sơn dược,
Sơn thù du, Câu kỷ, Quy bản giao, Ngưu tất v.v. kèm theo hai vị thuốc bổ dương
như Lộc giác giao, Thỏ ty tử, “khiến cho âm được dương thăng mà suối nguồn
không kiệt” trái lại “trong Âm cầu Dương” cũng như thế.
246.
Trong thuốc hồi dương, phải kèm theo thuốc Âm. Trong thuốc nhiếp âm, cần chiếu
cố dương khí.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Thoát”
dẫn lời của Hoa Tụ Vân
Ý nghĩa câu này với câu trên gần giống
nhau có thể tham khảo những điều phân tích trên. Chỗ khác nhau là ở câu này
trình bày điều trị chứng Âm, Dương thoát.
Điều trị chứng Thoát điều chủ yếu là đừng
để cho âm dương ly tuyệt, cho nên trong khi hồi dương phải kèm theo thuốc âm,
trong khi nhiếp âm phải kèm theo thuốc Dương, từ đó mà đạt được mục đích trong
âm cầu dương, trong dương cầu âm, âm dương giúp đỡ lẫn nhau.
247.
Dương hư nặng, trước phải hồi dương, sau đó dần dần cho thuốc bổ âm, đó là vì
không có âm thì dương không hoá được. Âm hư nặng, trước phải bổ âm, sau đó dần
dần cho thuốc bổ dương, đó là vì không có dương thì âm không sinh được.
Thanh - Vương Tam Tôn
“Y quyền sơ biên”
Điều này với hai câu 245 - 246 ý nghĩa gần
giống nhau, có thể tham khảo chung. Khi dương hư nặng, kíp phải hồi dương trước,
không gia âm dược để khỏi thọc sườn. Khi âm hư nặng, kíp phải bổ âm trước,
không gia dương được, để tránh làm hại âm thêm. Rồi sau căn cứ vào lý luận “âm
dương hỗ căn” lại dần dà thêm âm dược hoặc dương dược để đạt mục đích âm dương
bình hành.
Tóm lại, tiêu bản trước sau lớp lang trật
tự thực là biện pháp tốt.
248.
Dương hư nhiều hàn, nên bổ bằng cam ôn mà không nên dùng các thuốc thanh nhuận.
Âm hư nhiều nhiệt, nên bổ bằng cam lương mà các vị cay ráo thì không được dùng.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lộ
- Bổ lược”
Trình bày nguyên tắc dùng thuốc khác
nhau giữa hai chứng hư hàn, hư nhiệt phải có nề nếp qui củ. Dương hư phần nhiều
có hàn chứng, dùng thuốc bổ cam ôn là chính trị, nếu dùng các loại thanh nhuận
thì sợ thuốc ôn níu kéo không lợi cho chứng
hư hàn, cho nên mới không nên dùng. Âm hư phần nhiều có nhiệt chứng, dùng thuốc
bổ cam lương là chính trị, nếu dùng các loại cay ráo thì khó tránh thương âm
cho nên không được dùng. Câu này với câu “trong âm tìm dương” “trong dương tìm
âm” của họ Trương về tư tưởng học thuật hoàn toàn không mâu thuẫn. Cảnh Nhạc chỉ
rõ: “lấy tinh khí chia âm dương thì âm dương không thể phân chia. Lấy hàn nhiệt
để chia âm dương thì âm dương không được lẫn lộn”. Câu này tức là chỉ chứng hư
hàn hư nhiệt, phép chữa không được lẫn lộn, mà lý luận “trong âm tìm dương”,
“trong dương tìm âm” thì áp dụng trong chứng âm hư dương hư chưa thấy biến động
hàn nhiệt, điều trị nên chiếu cố đôi bên.
249.
Dùng thuốc Hàn mà vẫn nhiệt thì lấy ở Âm. Dùng thuốc nhiệt mà vẫn hàn thì lấy ở
Dương.
“Tố Vấn - Chí chân yếu đại luận”
Ý tứ hai câu này là: các loại chứng nhiệt
dùng thuốc khổ hàn để chữa mà nhiệt lại nặng thêm, nên chọn biện pháp tư âm mà
điều trị. Các loại chứng hàn mà dùng thuốc cay nóng để chữa mà hàn lại nặng
thêm, nên chọn biện pháp ôn dương mà điều trị.
Vương Băng chú giải là “Dùng hàn mà
không thấy hàn là không có thuỷ. Dùng nhiệt mà không thấy nhiệt là không có Hỏa”.
Nêu rõ loại trên gốc bệnh là Thận âm bất túc; loại sau gốc bệnh là Thận dương bất
túc.
Âm hư nêu tư bổ Thận âm, tức là “làm mạnh
cái chủ của Thủy để chế dương quang”. Dương hư nên ôn bổ Thận dương, tức là
“làm ích cái nguồn của Hỏa làm tiêu tan âm ế”.
Các phương pháp dưỡng âm thanh nhiệt và
bổ dương khu hàn ấy đối với điều trị thực chứng “chữa nhiệt lấy thuốc hàn”, và
“chữa hàn lấy thuốc nhiệt” có khác nhau về bản chất, lâm sàng cần chú ý.
250.
Ích nguồn của Hỏa để tiêu tan âm ế. Mạnh chủ của Thuỷ để chế dương quang.
Đường - V ương Băng
“Tố Vấn chí chân yếu đại luận” chú văn
Câu này là Vương Băng chú thích kinh văn trong Tố Vấn nói ở trên, có nghĩa
là: dùng phương pháp ôn bổ Thận dương để
đẩy lùi chứng hư hàn do dương khuy; dùng phương pháp tư bổ Thận âm để chế ước
chứng hư nhiệt do âm hư dương cang. Lời chú của họ Vương là khai sáng cho con
sông đầu tiên về học thuyết bổ Âm cho hậu thế, trở nên nội dung trọng yếu của
lý luận Đông y mà bài thuốc đại biểu là Lục vị địa hoàng hoàn, Kim quỹ Thận khí
hoàn. Câu này lời gọn mà ý bao quát, văn phong sáng sủa, được đời sau lưu truyền
rất rộng, có xu thế vượt qua cả nguyên văn của “Tố Vấn”. Có người nói gọn là:
“ích Hỏa tiêu âm”, “tráng thuỷ chế dương”.
251.
Âm chứng giống như Dương, dùng thuốc thanh thì chết. Dương chứng giống như âm,
dùng thuốc ôn chết ngay.
Thanh - Cố Tùng Viên
“Cố Tùng Viên y kính - Cách ngôn vậng toản”
Câu này lưu ý chúng ta đối với chứng
chân giả hàn nhiệt, nhất định phải nhận thức phân biệt chính xác không bị hiện
tượng giả mê hoặc, nếu không thì nhận chứng sai lầm, điều trị tất không đúng, tạo
nên hậu quả nghiêm trọng không thể không cẩn thận. “Dương chứng giống như Âm”
là chỉ chứng chân hàn giả nhiệt, âm hàn nội thịnh, cách dương ra ngoài; nếu lại
mê hoặc bởi hiện tượng giả nhiệt mà nhầm dùng phép thanh, chẳng khác gì nước đá
lại thêm tuyết, khó tránh khỏi chết vì vong dương. “Dương chứng giống như âm”
là chỉ chứng chân nhiệt giả hàn, dương nhiệt quá thịnh cách âm ra ngoài, nếu bị
mê hoặc bởi hiện tượng giả hàn mà nhầm dùng thuốc ôn, chẳng khác gì lửa cháy đổ
thêm dầu, tất dẫn đến âm tuyệt mà chết.
252.
Âm Dương đều bất túc, nếu bổ dương thì âm kiệt, tư âm thì dương thoát, gặp trường
hợp này, nên dùng thuốc cam (ngọt).
“Linh Khu - Chung thủy thiên”
Nêu lên đại pháp dùng thuốc đối với chứng
Âm Dương đều hư có ý nghĩa mở lối cho đời sau. Chứng Âm Dương đều hư, điều trị
khó cho cả đôi bên. Nếu đơn thuần bổ dương, thuốc phần nhiều ôn nhiệt sợ làm
hao âm dịch, bất lợi cho chứng Âm hư Nếu đơn thuần tư âm, thuốc phần nhiều âm
mát dễ dẫn đến hư dương thoát ra ngoài. Vì thế nêu ra việc điều trị bằng thuốc
có vị ngọt, đều không tổn thương trở ngại gì đến chứng Âm Dương đều hư. Thuốc
chủ yếu là bổ Tỳ, có thể bù đắp nguồn sinh hoá, nuôi dưỡng khí huyết, khiến cho
âm dương trở về thăng bằng. Những lý luận được Diệp Thiên Sĩ đời Thanh qui nạp
như “Trên dưới đều tổn thì nên chữa giữa”, “vị ngọt bù đắp ở giữa” đều lấy đó
làm cội nguồn mà Tiểu kiến trung thang là bài thuốc đại biểu.
253.
Xuân Hạ dưỡng dương. Thu Đông dưỡng âm
“Tố Vấn - Tứ khí điều thần đại luận”
Người với trời đất liên hệ với nhau. Con
người với âm dương tiêu tưởng cũng phải thích ứng với quy luật biến hoá của âm
dương bốn mùa. Mùa Xuân Hạ dương khí phát tán, âm tinh cũng dễ theo đó mà tiết
mất, cho nên phải thuận theo khí sinh phát mà dưỡng dương, củng cố giữ gìn âm
tinh, cất chứa đừng để tiết mất. Mùa Thu Đông âm tinh cất giữ càng phải thuận
theo thời tiết, tích chứa nuôi dưỡng âm tinh để làm chỗ nương tựa cho mùa Xuân
Hạ sinh phát. Y văn này thể hiện đặc điểm độc đáo về lý luận của Đông y. Hiện đại
chữa Viêm chi khí quản mạn tính chọn dùng phương pháp “bệnh mùa Đông chữa mùa Hạ”,
cội nguồn lý luận là ở đó. Viêm chi khí quản mạn tính phần nhiều phát cơn vào
mùa Đông, ngay lúc đó chỉ có thể chữa tiêu bệnh chỉ khái bình suyễn, mà giai đoạn
dịu cơn ở mùa Hạ thì điều trị theo phép phù chính cố bản, cũng tức là “dưỡng
dương” có thể thu được hiệu quả chữa Bản.
254.
Chữa Âm, không có phép Bổ vội vàng, không uống thuốc lâu thì không hiệu quả.
Minh - Mậu Trọng Thuần
“Tiên Tình Trai y học quảng bút ký - Thổ
huyết”
255.
Cứu Âm, đừng lập công nhanh chóng.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Hư lao”
Ý nghĩa hai y văn này gần giống nhau, đều
nói lên đặc điểm là biện pháp bổ âm phải từ từ mới lập công, kinh nghiệm thật
chính xác. Dương hoá khí, âm thành hình, loại hữu hình khó mà sinh được nhanh,
không tích cóp dần dà thì không lập công được. Vả lại thuốc bổ Âm đều thuộc loại
cam lương tư nhuận, tính nhu mà vận hành chậm khó mà trông đợi hiệu quả nhanh.
256.
Chữa Tâm không cần thiết đều dùng thuốc nhiệt; chữa Thận không cần thiết đều
dùng thuốc hàn. Nhưng làm ích phần Dương của Tâm, thuốc hàn cũng dùng được; làm
mạnh phần Âm của Thận, thuốc nhiệt cũng có thể dùng.
Đường - Vương Băng
“Tố Vấn - Chí chân yếu đại luận” chú văn
Đây là câu chú giải của Vương Băng trong kinh văn: “Các thuốc hàn mà vẫn nhiệt
thì lấy ở Âm, các thuốc nhiệt mà vẫn hàn thì lấy ở Dương đó là tìm từ thuộc tính”
nhằm trình bày thêm một bước đối với câu: ích nguồn của Hỏa làm tan âm ế, mạnh
chủ của Thuỷ để chế dương cang”. Tâm chủ Hỏa thuộc Dương. Thận chủ thuỷ thuộc
Âm. Điều trị Tâm dương bất túc không nhất thiết dùng thuốc ôn nhiệt. Điều trị
Thận thuỷ bất túc không nhất thiết đều đùng thuốc hàn lương. Chỉ cần phù trợ
Tâm Dương, hư hàn có thể rút lui. Tư bổ Thận âm, hư nhiệt cũng có thể chế phục.
IV. BIỂU LÝ LUẬN TRỊ
257.
Ngoại cảm theo khuôn phép Trọng Cảnh. Nội thương theo khuôn phép Đông Viên. Nhiệt
bệnh áp dụng phép Hà Gian. Tạp bệnh áp dụng phép Đan Khê.
Minh - Vương Luân
“Minh y tạp trứ Y luận”
Nêu lên những sở trường trong lâm sàng của
4 danh y cổ đại, làm khuôn mẫu cho đời sau.
Trương Trọng Cảnh soạn “Thương hàn luận”,
tổng kết có hệ thống về điều trị ngoại cảm Thương hàn, sáng lập ra hệ thống biện
chứng lục kinh, đến nay vẫn có giá trị chỉ đạo thực tiễn lâm sàng, nên mới nói
ngoại cảm theo khuôn phép của Trọng Cảnh”.
Lý Đông Viên là thuỷ tổ của phái bổ Thổ,
sáng lập ra lý luận “nội thương Tỳ Vị, trăm bệnh sinh ra từ đó”, giỏi chữa các
bệnh nội thương, được đời sau tôn là bậc thầy của khuôn phép này, cho nên nói nội
thương theo khuôn phép của Đông Viên”.
Lưu Hà Gian là đại biểu cho phái hàn
lương nêu ra “Hỏa nhiệt luận” để chữa Nhiệt bệnh kinh nghiệm rất phong phú, cho
nên nói Nhiệt bệnh áp dụng phép của Hà Gian”.
Chu Đan Khê là đại biểu cho phái tư âm,
nhưng đối với điều trị tạp bệnh cũng tích luỹ nhiều kinh nghiệm phong phú.
Vương Luân từng tổng kết kinh nghiệm chữa Tạp bệnh của Đan Khê, quy nạp “Tứ
pháp trị bệnh luận” trứ danh: Đan Khê tiên sinh chữa bệnh không ngoài khí - huyết
- đàm, cho nên dùng thuốc có ba yếu tố: Chữa bệnh về khí dùng Tứ quân thang. Chữa
bệnh về huyết dùng Tứ vật thang. Chữa bệnh về Đàm dùng Nhị trần thang. Bệnh lâu
thuộc uất, lập ngay bài thuốc chữa uất gọi là Việt cúc hoàn, cho nên nói Tạp bệnh
dùng phép của Đan Khế”.
Những sở trường của tiền nhân, thật là
kho báu của Đông y đáng được chúng ta trân trọng và thừa kế.
258.
Chữa ngoại cảm như Tướng (võ) chữa nội thương như Tướng (văn)
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Tạp thuyết - Trị bệnh
pháp luận”
Câu này vận dụng thí dụ để nói lên phép
trị hai loại bệnh ngoại cảm, nội thương khác nhau được đời sau lưu truyền rất rộng.
Mọi tật bệnh, không ngoài hai loại nội thương, ngoại cảm. Cơ chế bệnh và phép
chữa khác nhau rất xa.
Bệnh ngoại cảm do lục dâm ngoại xâm,
phát bệnh gấp phần nhiều chính khí chưa tổn hại, điều trị chủ yếu nên dùng các
loại thuốc mạnh để đuổi tà, như vị tướng đem quân đi đánh giặc, việc binh quý ở
thần tốc, có biện pháp linh hoạt, khéo léo để phòng hậu quả, tóm lại tà khí rút
đi sớm ngày nào thì người dân đỡ khổ ngày ấy.
Còn tạp bệnh nội thương, phần nhiều do tạng
phủ tổn hại xu thế bệnh từ từ, chính khí bất túc, hư chứng khá nhiều khôi phục
cũng chậm, vì thế điều trị không mong công hiệu ngay, nên dùng biện pháp phù
chính, điều lý từ từ làm chủ yếu, như vai trò Tể tướng (văn) trông coi nội
chính, thảo luận kế hoạch, bình tĩnh ung dung, lo toan kín đáo, điều lý nhiều bề,
thu hiệu quả dần dần.
Hai câu này rất có ý nghĩa chỉ đạo đối với
hai loại bệnh chứng nội thương ngoại cảm, suy rộng ra ý nghĩa rất sâu sắc “chữa
ngoại cảm như tướng võ quý ở dũng mãnh. Chữa nội thương như tướng văn, quý ở
chu đáo vẹn toàn”
259.
Chữa ngoại cảm lấy tấn công để thắng. Cho nên tà khí chưa sạch mà đã coi thường
dùng thuốc bổ khiến cho tà khí hãm vào trong mà suy vong. Chữa bệnh nội thương
lấy nuôi dưỡng để thắng. Cho nên chính khí bất túc mà coi thường dùng thuốc
công, khiến cho chính khí tiêu vong mà thiệt mạng.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên lưu luận - Y đạo thông trị
đạo luận”
Đây là nêu những điều cần tránh trong điều
trị hai chứng hậu lớn là ngoại cảm và nội thương có thể tham khảo những danh
ngôn đã nói trên kia.
Bên ngoài bị lục dâm xâm phạm, đó không
phải là cái sẵn có trong cơ thể, theo phép phải trừ đuổi tà cho nên nói Lấy tấn
công để thắng”. Nếu tà khí chưa lui hết mà lại coi thường dùng thuốc Bổ, thì
khó mà tránh khỏi sai lầm đóng cửa giữ giặc trong nhà, dễ khiến tà khí thâm nhập
biến sinh các chứng khác, cho nên không nên coi thường dùng phép Bổ.
Các chứng nội thương phần nhiều do hư tổn
hoặc do Tạng Phủ yếu kém, hoặc Âm Dương khí huyết bị tổn hại, điều trị nên bổ
ích phù chính, khôi phục cái vốn có cho nên nói là “lấy nuôi dưỡng để thắng”.
Nếu nhận thức chứng trạng không đích xác
mà hấp tấp dùng phép công, khó tránh khỏi sai lầm đánh vào nơi không có bệnh,
khiến cho chính khí càng hư tổn dẫn đến tiêu vong.
260.
Bệnh ở biểu thì đừng công lý, sợ biểu tà nhân chỗ hư sẽ hãm vào phần lý. Bệnh ở
lý thì đứng làm hư phần biểu, sợ ra mồ hôi nhiều dẫn đến vong dương.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Biện trị đại pháp luận”
Tật bệnh có chia biểu lý, phép trị có
phân biệt, không được chạy chữa lẫn lộn nếu trái lại sẽ chuốc hậu quả nghiêm trọng.
Bệnh ở Biểu thì nên giải biểu, nếu lại
công lý là cái sai lầm đánh vào nơi không bệnh, tạo thành lý hư, biểu tà có thể
nhân đó mà vào lý.
Bệnh ở Lý đừng phát tán phần biểu, nếu
không thì mắc sai lầm phá tan phên dậu, mồ hôi ra dẫn đến thương dương lâm sàng
nên cẩn thận.
261.
Thuốc phát hãn nên dùng sớm. Thuốc công hạ nên dùng muộn.
Thanh - La Quốc Cương
“La thị hội ước y kính - Thương hàn hãn
nghi tào hạ nghi trì”
Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc khi
vận dụng hai phép Hãn - Hạ để chữa
Thương hàn ngoại cảm bệnh.
Tác giả giải thích “nên phát hãn sớm là
nói phong hàn từ biểu mà vào, thì nên giải biểu ngay, tà khí theo biểu mà giải,
tránh khỏi phạm vào lý sẽ biến sinh chứng khác. Còn nên công hạ muộn là nói tà
khí truyền vào phủ của Dương minh, đợi cho tà nhiệt úng thịnh ở Lý, dùng thuốc
hạ bỏ tà nhiệt thì bệnh khỏi. Nếu tà nhiệt chưa thịnh mà hạ sớm thì chính khí bị
thương, khí âm hàn nhân chỗ hư mà phạm vào, sợ biến thành Bĩ khí, Kết hung” lý
lẽ đã rõ không phải nói thêm.
262.
Vật chất gây nên mồ hôi, lấy dương khí để vận dụng; lấy âm tinh làm tài liệu.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn
bệnh điều biện - Hãn luận”
Câu này bao quát cơ chế sinh lý của mồ
hôi, nêu ra cơ chế lý luận của phép Hãn, vì mồ hôi là sự kết hợp trưng hoá giữa
Dương khí với Âm tinh mà có.
Dương khí là động lực, khí hư vô lực thì
khó mà tạo ra mồ hôi, điều trị nên bổ mới có mồ hôi, bài thuốc như Sâm tô ẩm.
Âm tinh là tài liệu, hư thì mồ hôi sẽ bất túc, điều trị nên tư âm mới ra mồ
hôi, bài thuốc như Gia giảm Uy di thang...
263.
Muốn biểu tán, nên tránh dùng vị thuốc chua lạnh. Muốn giáng xuống, chớ dùng
kiêm thuốc thăng tán.
Thanh - Từ Linh Thai
“Tạp bệnh nguyên - Khí vị”
Dược tính vị chua, phần nhiều thu liễm
và cố sáp, dược tính vị thuốc lạnh mát, đa số trầm giáng mà tả hạ... đều là những
vị thuốc không lợi khi dùng phép thăng tán giải biểu. Cho nên lúc này nên tránh
dùng các loại thuốc ấy.
Những vị thuốc có đủ tác dụng thăng tán
đương nhiên không lợi cho khi cần giáng hạ, cho nên cũng không nên cho uống lẫn
lộn.
Câu này nêu lên sự kiêng tránh khi dùng
thuốc thăng tán giải biểu với thuốc giáng hạ.
264.
Thốn mạch Nhược, không được phát hãn, nếu phát hãn sẽ vong dương. Xích mạch Nhược,
không được phát hãn, nếu phát hãn sẽ vong âm.
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Y môn bát pháp - Luận
Hãn pháp”
Ở đây căn cứ vào mạch tượng mà nêu lên sự
cấm kỵ của phép Hãn. Ngô Cúc Thông bàn rằng: “Vật tạo ra mồ hôi là thông qua sự
vận dụng dương khí, lấy âm tinh làm tài liệu”.
Thốn mạch chủ Tâm Phế, hai tạng này đều ở
phía trên, thuộc Dương. Thốn mạch Nhược thì biết là dương đã hư, nếu lại phát
hãn, sợ khí sẽ thoát theo dịch, dương hư càng nặng, dẫn đến vong dương, cho nên
nói không được phát hãn.
Xích mạch chủ Thận, tạng này ở phía dưới,
thuộc Âm. Xích mạch Nhược thì biết là Âm bất túc, nếu lại phát hãn sẽ càng tổn
thương phần âm sẽ dẫn đến vong Âm cho nên cũng không nên phát hãn lần nữa.
265.
Chữa phong trước hết chữa huyết, huyết lưu hành thì phong tự diệt.
Tống - Trần Tự Minh
“Phụ nhân đại toàn lương phương - Chúng
tật môn - Phụ nhân tặc phong
thiên khô chi luận”
Đây là nguyên tắc trọng yếu để chữa
phong chứng, đời sau lưu truyền rất rộng là “chữa phong trước hết chữa huyết,
huyết lưu hành thì phong tự diệt”.
Phong với Huyết có mối tương quan bệnh
lý chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau, cho nên chữa phong chứng phải chiếu cố chữa
huyết.
Phong có chia ra Nội và Ngoại. Nội phong
căn bản vốn là khí huyết trái ngược nhau mà dẫn đến động phong, lúc này chữa
Huyết vốn là chính trị chứ không phải máy móc gò ép, như huyết hư chủ phong cần
dưỡng huyết, huyết nhiệt động phong cần lương huyết v..v....
Đời sau vận dụng lý luận này, chủ yếu gò
bó vào cách điều trị ngoại phong xâm nhập. Ngoại phong xâm phạm kinh lạc, huyết
mạch không được hòa, vít nghẽn không thông nên dẫn đến các chứng tê đau. Lúc
này khi dùng phép khu phong đồng thời tham gia các vị thuốc dưỡng huyết thông lạc
hỗ trợ cho khí huyết vận hành, chính khí khoẻ mạnh, thì dễ dồn đuổi bệnh tà.
Những phương thường dùng để chữa chứng Tỳ
phần nhiều gia Quy Khung là theo ý tứ ấy. Một số phương thuốc chữa Biểu chứng
cũng chọn những vị thuốc dưỡng huyết thông lạc cũng theo đạo lý ấy, như cửu vị
khương hoạt thang trong đó có Xuyên khung là một ví dụ.
266.
Thuốc chữa phong dược nên kiêm thuốc dưỡng huyết, mục đích để hạn chế cái táo.
Thuốc dưỡng huyết nên kiêm thuốc sưu phong, mục đích để lưu hành cái trệ.
Thanh - Uông Ngang
“Y phương tập giải - Khu phong chi tễ”
Đây là nêu vấn đề phối hợp giữa thuốc
khu phong và thuốc dưỡng huyết, có thể nói là sâu sắc về việc phối ngũ giữa động
và tĩnh.
Thuốc khu phong phần nhiều cay - ấm - đắng
- ráo rất dễ thương âm, phối ngũ với thuốc dưỡng huyết là có ý khống chế cái
táo.
Thuốc dưỡng huyết phần nhiều mềm mại và
nhớt, rất dễ trở ngại Vị, phối ngũ với thuốc khu phong có thể lưu hành cái trệ;
đối với việc phối ngũ với thuốc hành khí tuy đường rẽ có khác nhưng công hiệu
như nhau thật khéo, những vị thuốc thường dùng như Phòng phong, Khương hoạt.
267.
Thử bệnh trước hết dùng thuốc cay mát. Tiếp theo dùng thuốc ngọt lạnh, cuối
cùng dùng thuốc toan tiết thu liễm không cần dùng thuốc hạ.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Ấu khoa yếu lược - Hạ nhiệt”
dẫn lời của Trương Phong Đạt
Nêu lên phương pháp từng bước điều trị
Thử bệnh thật là khái quát xác đáng, được đời sau tôn là mẫu mực để trị bệnh Thử.
Thử là tà khí Hỏa nhiệt. Thanh thử quét
nhiệt là đại pháp điều trị, nhưng quá trình phát bệnh có quy luật diễn biến đầy
đủ nhất định và chứng hậu biểu hiện khác nhau, điều trị cũng có chỗ khác nhau.
Lúc bắt đầu phát bệnh Thử tiến rất nhanh
vào khí phận, nên thấy các chứng sốt cao, phiền khát, ra mồ hôi, mạch Hồng Đại,
gặp trường hợp này, nên dùng phép chữa tán hàn thanh khí như dừng phương Bạch Hổ
thang.
Nói trước tiên dùng thuốc cay mát” tức
là chỉ vào những vị thuốc cay mát liều cao của Bạch Hổ thang, chứ không phải là
cay mát giải biểu.
Tiếp theo là thử tà làm hại khí tân dịch,
điều trị theo phép thanh nhiệt sinh tân, dùng thang thuốc có vị ngọt lạnh như
Thanh thử ích khí thang của Vương Mạnh Anh.
Đến thời kỳ cuối của bệnh Thử, vì tân dịch
tổn thương nhiều mà muốn thành chứng Thoát, điều trị nên dùng những vị ngọt
chua để ích khí liễm tân dịch và cố thoát như dùng bài Sinh mạch tán.
Chứng Thử tuy dễ hao thương khí và tân dịch,
nhưng lại rất ít hình thành Dương minh phủ thực chứng, nên mới nói không cần
dùng thuốc Hạ”.
268.
Phép chữa chứng Thử tốt nhất là thanh Tâm lợi tiểu tiện.
Minh - Vương Luân
“Minh y tạp trứ - Thử bệnh”
Câu này giới thiệu đặc điểm đối với Thử
tà kiêm thấp, nhưng không nói phép trị, có chỗ khác nhau với danh ngôn nói trên
do Thử bệnh đơn thuần gây bệnh.
Thử tà gây bệnh, phần nhiều kiêm cả thấp
tà tác hại cho nên mới có thuyết “Thử phải kiêm thấp”.
Thử nhiệt kiêm thấp xâm phạm tới Tâm,
thường gây nên các chứng mình nóng, Tâm phiền, tiểu tiện sẻn đỏ, miệng khô mà
không muốn uống nước v.v.. điều trị vừa phải thanh bỏ cái nhiệt ở kinh Tâm, lại
vừa phải thấm lợi tiểu tiện đưa cái nhiệt đi xuống, dẫn Tâm Hỏa theo tiểu tiện
bài tiết ra, như dùng phương Đạo xích thanh Tâm thang.
Danh ngôn này tham khảo với danh ngôn
nói trên, thì phép chữa chứng Thử được coi là toàn vẹn.
269.
Ngoại thấp nên biểu tán. Nội thấp nên đạm thấm.
Nguyên - Chu Đan Khê
“Đan Khê tâm pháp trị yếu - Thấp”
Câu này nêu ra phép chữa khác nhau giữa
thấp tà ở bên ngoài và ở bên trong.
Ngoại thấp thì tà khí ở biểu, nên dùng
phép tuyên tán.
Nội thấp là tà khí ở lý, nên dùng thuốc
đạm thấm lợi tiểu tiện thực thuộc chính trị. Hai biện pháp này không được xử
trí lẫn lộn.
270.
Chữa thấp mà không lợi tiểu tiện là không biết phép chữa.
Kim - Lý Đông Viên
“Tỳ Vị luận - Điều lý Tỳ Vị trị nghiệm”
Câu này nêu lên đại pháp chữa thấp tà ở
bên trong, đến nay vẫn được mọi người tin phục.
Thấp là do thuỷ khí hoá ra, tính nó dồn
xuống nên có các chứng do thấp tà gây nên như tiết tả, phù thũng, đều phải nhân
cơ hội đó mà khơi thông khiến cho thấp có lối thoát, vì vậy lợi tiểu tiện là
phép chữa được lựa chọn trước tiên.
271.
Chữa Thấp bệnh ở Lý lấy lợi tiểu tiện là ý nghĩa thứ nhất. Chữa Thấp bệnh ở Biểu
lấy hơi ra mồ hôi là ý nghĩa thứ nhất.
Thanh - Trình Hạnh Hiên
“Y thuật - quyển 5”
Nêu lên phép chữa khác nhau khi thấp tà ở
biểu hay ở lý, có thể tham khảo
các danh ngôn nói ở trên.
Thấp tà ở Lý, phải lợi tiểu tiện để cho
tà có đường rút cho nên mới nói chữa thấp mà không lợi tiểu tiện là không biết
phép chữa”, rõ ràng là ý nghĩa thứ nhất để điều trị Thấp ở Lý.
Thấp tà ở Biểu, thường kết hợp với phong
tà, điều trị nên cho hơi ra mồ hôi, không được làm ra mồ hôi nhiều. Trọng Cảnh
sớm đã chỉ rõ “Kim Quĩ yếu lược” có câu “Chữa phong thấp nên phát hãn, nhưng chỉ
làm cho tý chút giống như ra mồ hôi là tà khí phong thấp đều rút”. Nếu “ra nhiều
mồ hôi, sợ phong khí rút đi còn lại thấp khí, vì thế mà không khỏi. Cho nên chữa
phong thấp ở biểu lấy hơi ra mồ hôi là ý nghĩa thứ nhất.
272.
Tài liệu Phong thấp bàn về Hãn pháp, quý ở từ từ không quý sự hấp tấp.
Thanh - Lôi Thiếu Quỳ
“Thời bệnh luận - Phong thấp”
dẫn lời của Dụ Gia Ngôn
Đây là tổng kết về sự kiêng kỵ khi vận dụng
Hãn pháp để chữa phong thấp ở
Biểu. Họ Lôi ca ngợi bội phần, gọi đó là
“kim vàng trong chữa bệnh phong thấp”
Phong thấp luận trong “y môn pháp luật”
của Dụ Gia Ngôn nguyên văn có câu “... Các chứng ra mồ hôi, sự gió, đoản hơi,
phát sốt, đau đầu, khớp xương đau, mình nặng phù nhẹ... những tình huống ấy nên
chữa bằng phép ra mồ hôi, phép ra mồ
hôi này có khác với phép ra mồ hôi thông
thường. Dùng Ma hoàng thang tất phải gia Bạch truật hoặc gia Ý dĩ nhân để trừ bỏ
thấp. Dùng Quế chi thang tất phải bỏ Bạch thược, gia Bạch truật, nặng hơn thì
dùng Phụ tử để làm ấm đường Kinh. Khi lấy ra mồ hôi lại “Quý ở từ từ không quý
sự hấp tấp” vội vã, vì hấp tấp thì phong rút mà thấp tồn tại, từ từ thì cả
phong lẫn thấp cùng rút. Câu nói này có thể tham khảo với những danh ngôn nói ở
trên.
273.
Táo ở trên thì cứu Tân, táo ở giữa thì tăng Dịch, táo ở dưới thì tư huyết.
Thanh - Du Căn Sơ
“Thông tục Thương hàn luận - Lục kinh tổng
quyết”
Nêu lên phép chữa lớn theo ba thời kỳ sơ
- trung - mạt của chứng Thu táo.
Thu táo là cảm nhiễm táo tà ở mùa Thu, lấy
tân dịch khô ráo là biểu hiện chủ yếu của bệnh chứng ngoại cảm. Phép trị nói
chung là “chữa táo thì phải nhuận”.
Nhưng Thu táo từ khi phát bệnh cho đến
thời kỳ cuối, “trước hết hại Phế tân, tiếp theo hại đến Vị dịch, cuối cùng tổn
thương Can huyết Thận âm”, biểu hiện lâm sàng có khác nhau, cho nên điều trị
cũng có chỗ chú trọng.
Thời kỳ đầu táo tà từ bên ngoài xâm phạm
“trước tiên hại Phế tân”, xuất hiện các chứng trạng ho khan không có đờm, họng
khô mũi ráo v.v... điều trị nên thanh Phế nhuận táo sinh tân như dùng hài Thanh
táo cứu Phế thang, đấy tức là cái ý “táo ở trên thì phải cứu tân”.
Thời kỳ giữa là táo tà phạm vào Vị, Vị dịch
tổn thương, gây nên các chứng phiền khát, lưỡi khô môi ráo, điều trị theo phép
dưỡng Vị tăng dịch như dùng phương Dưỡng Vị thang, đây tức là cái ý “táo ở giữa
thì tăng dịch”.
Thu táo ở thời kỳ cuối tổn thương đến
Can Thận, âm huyết bị hại, xuất hiện các chứng trạng phát sốt về đêm, táo bón,
lưỡi đỏ tía ít tân dịch, nặng hơn thì hư phong nội động, điều trị phải bù đắp
âm huyết của Can Thận như dùng các phương Tam giáp phục mạch, Đại định phong
châu... đây tức là cái ý nói táo ở hạ tiêu thì phải tư huyết”
Chữa táo có khác với chữa Hỏa. Chữa Hỏa
có thể dùng thuốc đắng lạnh. Chữa táo thì cần nhu nhuận, cho nên những đơn thuốc
nói trên đều có cái gốc từ những vị ngọt lạnh hoặc mặn lạnh.
Thuốc đắng lạnh thường dễ thương âm, tất
cả đều nên tránh, nguyên tắc điều trị này bao gồm các loại tích táo ở trong đối
với nhiều loại táo bệnh đều có ý nghĩa chỉ đạo rất bổ ích.
274.
Táo ở trên thì chữa ở Khí Táo ở dưới thì chữa ở Huyết
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Táo” Thiệu Tân
Phủ án
Quy nạp những kinh nghiệm quý báu của Diệp
Thiên Sĩ về điều trị táo ở trên và táo ở dưới.
Táo ở trên nói chung phần nhiều thuộc
ngoại tà tổn thương Thượng tiêu khí phận con người, biểu hiện là khí phận ở Phế
Vị bị hun đốt, điều trị nên dùng phép tân lương âm nhuận như dùng bài Thanh táo
cứu Phế thang của họ Dụ.
Táo ở dưới nói chung là chỉ nội thương
Can Thận ở Hạ tiêu, biểu hiện là tinh huyết khô cạn, điều trị nên nhu dưỡng
tinh huyết của Can Thận, nặng hơn thì mượn loại thuốc huyết nhục hữu tính để bồi
bổ, dùng các phương như Đại bổ địa hoàng hoàn và Lục vị địa hoàng hoàn.
275.
Hỏa của ngoại cảm, dùng thuốc mát để thanh. Hỏa của nội thương, dùng thuốc bổ để
thanh.
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Luận Thanh pháp”
Câu này nêu lên đại pháp điều trị ngoại
cảm và nội thương dẫn đến Hỏa chứng.
Hỏa có hư thực khác nhau. Chứng có ngoại
cảm nội thương khác nhau. Điều trị có bổ tả không giống nhau.Hỏa của ngoại cảm
do sự biến hoá của ngoại cảm lục dâm, thuốc thực Hỏa, điều trị nên áp dụng phép
“bệnh nhiệt thì dùng thuốc hàn” cho nên “lấy thuốc mát để thanh”
Hỏa của nội thương là do âm dương khí
huyết không điều gây nên, thuốc Hư Hỏa, điều trị nên điều bổ âm dương khí huyết,
như khí hư phát nhiệt thì nên bổ khí, âm hư phát nhiệt thì nên tư âm, cho nên
nói bất túc thì bổ” là như thế.
Hai loại Hỏa chúng của ngoại cảm và nội
thương cần được phân biệt rõ ràng không được lẫn lộn.
276.
Đan Khê tiên sinh chữa bệnh không ra ngoài Khí - Huyết - Đàm. Cho nên dùng thuốc
chủ yếu có ba loại: Bệnh ở Khí thì đùng Tứ quân tử. Bệnh ở huyết thì dùng Tứ vật
thang. Bệnh ở Đờm thì dùng Nhị trần thang. Bệnh mắc đã lâu thuộc uất, chủ trị bằng
phương chữa uất, đó là Việt cúc hoàn.
Minh - Vương Luân
“Minh y tạp trứ - Y luận”
Đây là kinh nghiệm tổng kết chữa tạp bệnh
của Chu Đan Khê, đời sau quy nạp thành “Tứ pháp trị bệnh luận”.
Họ
Chu không chỉ sáng lập ra phải dưỡng âm, mà còn có sở trường về chữa tạp bệnh.
Vương Luân ái mộ Đan Khô, đã tổng kết lời nối là “Chữa tạp bệnh thì áp dụng
phép của Đan Khê” có thể thấy ảnh hưởng rất lớn.
Đan Khê chữa tạp bệnh lấy Khí - Huyết -
Đàm - Uất làm “cương”. Phàm những bệnh mắc đã lâu, ông cho rằng có uất trệ,
sáng lập ra phương thuốc trứ danh Việt cúc hoàn. Đó là chỗ độc đáo của họ Chu. Những
nét lớn ở câu nối trên nó ảnh hưởng rất lớn cho các y gia đời sau, đã được ứng
dụng rộng rãi.
277.
Chủ trị tạp chứng có bốn chữ: Khí - Huyết - Đàm - uất
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Tạp bệnh chủ trị tứ tự
luận”
Câu này lấy những kinh nghiệm chữa tạp bệnh
của Chu Đan Khê - “Tứ pháp trị bệnh luận” có khái quát rất rõ ràng, làm khuôn mẫu
cho những người điều trị tạp bệnh, có thể tham khảo với các danh ngôn nói trên.
278.
Bệnh mắc đã lâu phải tham khảo sử dụng uất pháp
Thanh - Chu Học Hải
“Độc y tuỳ bút - Hư thực bổ tả luận”
Chu Học Hải quy nạp những kinh nghiệm độc
đáo về điều trị bệnh mạn tính của Chu Đan Khê, được đời sau ca tụng. Đan Khê chữa
tạp bệnh, lấy Khí - Huyết - Đàm - Uất làm cương, nhất là coi trọng Uất chứng. Từng
nói khí huyết điều hòa thì vạn bệnh không sinh ra - một khí phật uất thì mọi bệnh
sẽ sinh ra. Cho nên mọi tật bệnh ở người ta phần nhiều sinh ra từ uất” mấu chốt
điều trị chủ yếu là ở khí cơ. Bệnh mắc lâu phần nhiều do uất, cho nên bệnh mắc
lâu phải tham gia phép giải uất, sơ lý khí cơ, nên đã chế ra bài thuốc chữa uất
nổi tiếng là Việt cúc hoàn, cho đến nay được ứng dụng nhiều trên lâm sàng.
279.
Bệnh mắc đã lâu phải chữa ở đường Lạc.
Thanh - Chu Học Hải
“Độc y tùy bút. Hư thực bổ tả luận”
dẫn lời của Diệp Thiên Sĩ
Đây là một câu quy nạp kinh nghiệm điều trị của
Diệp Thiên Sĩ đối với bệnh mạn tính có thể coi là sáng kiến.
“Bị bệnh lâu phải chữa ở đường Lạc”
nguyên là nhận thức biện chứng của Diệp Thiên Sĩ về “Bệnh lâu vào lạc”. Ông cho
rằng với một số bệnh mạn tính, vì tà khí dây dưa kéo dài tất nhiên tổn thương đến
huyết lạc, nên mới nói Lúc mới bị bệnh thấp nhiệt ở Kinh, lâu ngày thì ứ nhiệt ở
Lạc” và “lúc bắt đầu ở Kinh, ở Khí, để lâu ngày thì vào Lạc vào Huyết”.
Tức là bệnh chia ra mới và cũ; có chia
ra ở kinh (khí) và ở Lạc (huyết). Tật bệnh ở thời kỳ đầu, vị trí bệnh nông ở biểu
phần nhiều gặp ở Khí phận mà tại Kinh. Bệnh lâu ngày vị trí ở sâu, phần nhiều tổn
thương đến huyết phận mà tại Lạc, nhận thức này là cống hiến độc đáo của họ Diệp
đối với lý luận Đông y, đời sau lưu truyền câu “Bệnh lâu ngày phần nhiều do ứ”
vốn là từ đấy.
Đã là “bệnh lâu thì vào Lạc” sao lại còn
nói “bệnh lâu phải chữa ở Lạc” đó là thuận tai mà thành văn. Họ Diệp chữa bệnh ở
Lạc khá đặc sắc, buộc phải dùng những loại thuốc cay nhuận hoặc loài sâu bọ, được
các Y gia đời sau rất tán thành, là kho kinh nghiệm quý cho Đông Y điều trị bệnh
mạn tính.
280.
Bệnh đã lâu, lấy ăn ngủ làm chủ yếu, không cần phải vội vã luận bệnh.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Thổ huyết”
Ý nói bệnh hư tổn lâu ngày cần phải coi
trọng giấc ngủ, cải thiện việc ăn uống, không phải hấp tấp điều trị bản thân tật
bệnh, thể hiện kinh nghiệm của Diệp Thiên Sĩ lấy điều dưỡng để điều trị suy hư
của cơ thể, ông quy nạp là quan điểm “bảo tổn thân thể, đó cũng là “giữ lấy người
rồi sau trị bệnh”. Mấu chốt điều trị bệnh đã lâu hư tổn là chăm sóc điều dưỡng
Tỳ Vị, coi sự thịnh suy của Tỳ Vị làm thước đo cho bệnh tình nặng nhẹ, làm căn
cứ chủ yếu cho sự chuyển qui; lấy việc ăn được hay không làm cái mốc trọng yếu
để nói lên sự thịnh suy của Vị khí cũng như việc ăn, tình huống giấc ngủ tốt
hay không cũng phản ánh âm dương mất điều hòa của cơ thể, lấy chính khí bị tổn
hại có được cải thiện hay không làm chỉ tiêu. Tóm lại, tình huống ăn uống và giấc
ngủ có quan hệ trực tiếp đến sự hư tổn, mức độ của bệnh biến và chuyển quy của
bệnh tình, đó là vấn đề trọng yếu trước mắt. Nếu như không chiếu cố đến ăn uống
giấc ngủ của người bệnh cho tốt, cứ một mực bàn cách chữa bệnh, đó là biện pháp
“chỉ thấy bệnh không thấy người” có thể nói là không biết phép điều lý chỗ Hư.
Câu này có giá trị tham khảo xác đáng đối với điều trị Hư tổn.
V. ÔN THANH
281.
Phép của Thương hàn là ở cứu Dương. Phép của ôn nhiệt là ở cứu Âm.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Trưng bảo tự”
Danh ngôn này nêu lên đại pháp điều trị
Thương hàn và Ôn bệnh khác nhau, vạch ra qui củ cho mọi người. Thương hàn với Ồn
bệnh, trên nguyên nhân cơ chế bệnh và biểu hiện lâm sàng đều khác nhau rỗ rệt,
vì vây lựa chọn phép chữa cũng khác hẳn nhau phải phân biệt dứt khoát.
Thương hàn là ngoại cảm hàn tà phần nhiều
làm hại dương khí con người, điều trị chú trọng vào dùng thuốc ấm làm hưng phấn
dương khí để khu trừ hàn tà, cho nên nói phép ở cứu Dương”.
Ôn bệnh là ngoại cảm ôn tà dễ tổn hại âm
tân của con người, điều trị chú trọng ở chiếu cố giữ gìn âm dịch vì có thuyết
nói giữ được một phần âm dịch là có một chút hi vọng sống” cho nên nói phép ở cứu
Âm”
282.
Thương hàn làm hại phần dương con người, cho nên ưa các vị tân ôn, can ôn, khổ
và nhiệt để cứu phần Dương. Ôn bệnh làm hại phần âm con người, cho nên ưa các vị
tân lương, cam hàn, cam hàm để cứu phần Âm.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Trung tiêu thiên”
Câu này khái quát đặc điểm gây bệnh của
Thương hàn và Ôn bệnh, quy luật khác nhau về đại pháp dùng thuốc.
Học thuyết Ôn bệnh phát triển từ học
thuyết Thương hàn, nhưng hai học thuyết lại có chỗ khác nhau rõ rệt. Thương hàn
là hàn tà hại người, hại phần Dương của cơ thể, đại pháp điều trị tóm lại là “Bệnh
hàn thì dùng thuốc nhiệt”, nêu ra phép dùng thuốc tân ôn, khu trừ hàn tà, cổ vũ
dương khí của con người.
Ôn bệnh thì do ôn tà làm hại, hại phần
Âm của cơ thể, đại pháp điều trị là “Bệnh nhiệt thì dùng thuốc hàn”, nêu ra
phép dùng thuốc cam lương, thanh trừ nhiệt tà, chiếu cố giữ gìn âm dịch của con
người.
Trên đây là nói qui luật chung, thực ra,
bệnh biến Thương hàn chưa từng không làm hại âm dịch, mà Ôn bệnh cũng chưa từng
không làm hại dương khí con người, lúc này phải căn cứ vào tình huống cụ thể mà
biện chứng thi trị, không nên quá câu nệ vào y văn.
283.
Thương hàn nhiệt tà nung nấu, nên dùng thuốc hạ mạnh, ôn bệnh phần nhiều thấp
tà quấy rối ở trong, dùng thuốc hạ nên nhẹ nhàng.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Trưng bảo tự”
Câu này quy nạp kinh nghiệm lâm sàng vận
dụng phép hạ điều trị Thương hàn và Ôn bệnh của Diệp Thiên Sĩ.
Thương hàn tà nhiệt ở Lý, nung nấu cướp
đoạt tân dịch hình thành chứng Dương minh Phủ thực đại tiện táo kết, “dùng thuốc
hạ nên mạnh” ý nói phải hạ ngay để bảo tồn phần âm.
Ôn bệnh phần nhiều do thấp tà tác quái ở
trong, thấp với nhiệt kết ở phần Lý, đại tiện khó đi chứ không hình thành phân
táo, cho nên “dùng thuốc hạ nên nhẹ nhàng”, nếu tấn công quá mạnh sợ làm hại
chính khí, nguyên nhân cơ chế bệnh hai loại này khác nhau, tuy cùng dùng phép Hạ,
nhưng mạnh tay và nhẹ nhàng không giống nhau, lâm sàng cần phân biệt rõ ràng.
Nguyên văn trong “ôn nhiệt luận”, Diệp Thiên Sĩ nói: “Thấp nhiệt kết ở phần lý,
cũng nên dùng phép Hạ.. Nhưng Thương hàn tà nhiệt ở phần lý, nung nấu cướp đoạt
tân dịch, dùng thuốc hạ nên mạnh. Còn ở đây phần nhiều thấp nhiệt quấy rối ở
trong, dùng thuốc Hạ nên nhẹ nhàng”.
284.
Thương hàn phát hãn không nên ngại sớm, dùng thuốc hạ không nên ngại chậm. Ôn dịch
dùng thuốc hạ không nên ngại sớm, dùng thuốc phát hãn không nên ngại chậm.
Thanh - Đới Nguyên Chương
“Quảng ôn dịch luận - Biện thời hành dịch
lệ dữ phong hàn dị thụ”
Câu này nói sự khác nhau sử dụng hai
phép hãn, hạ trong bệnh Thương hàn và Ôn dịch có thể dựa vào đó mà chẩn đoán
phân biệt. Đới Nguyên Chương là nhà Ôn bệnh học nổi tiếng đời Thanh, có nghiên
cứu sâu sắc về Ôn dịch - bệnh truyền nhiễm nhiệt tính, biên soạn tác phẩm “Quảng
ôn dịch luận”, nêu ra năm pháp lớn để chữa Ôn dịch trong đó hai phép Hãn, Hạ
khác hẳn với Thương hàn, cần phải chú ý. Thương hàn phát hãn, trị Biểu không phạm
vào Lý. Thời dịch phát hãn, trị Biểu phải thông cả Lý. Thương hàn dùng phép Hạ
là hạ bỏ táo kết, phải đợi cho biểu tà hết sạch. Ôn dịch dùng phép Hạ, là hạ bỏ
uất nhiệt, vô luận là biểu tà đã hết sạch hay chưa hết, nhưng có kiêm Lý chứng
là hạ ngay. Nguyên văn trình bày rất rõ, trích dẫn như sau: “Phong hàn từ biểu
vào lý, từ bì mao mà vào cơ nhục rồi tới gân mạch, tới hung cách, tới Trường vị
từng lớp sâu dần không thể vượt qua cái này mà vào cái kia, cho nên phát hãn đừng
ngại sớm, công hạ đừng ngại muộn, vừa hòa vừa giải, nông sâu không được rối
ren. Lại vì khí đều thuộc lạnh, mỗi lớp thu liễm lại thêm một lớp, phải đợi cho
hàn hoá là nhiệt tà liễm vào trong mới có thể công hạ lương giải, nếu không thì
tà chưa vào lý, vội dùng thuốc công lợi lương giải làm hư khí ở lý, trái lại
làm biểu tà hãm vào trong mà thành các chứng nguy hiểm Kết hung Bĩ Lợi.
Thời chứng qua mũi miệng mà vào, trước
tiên phạm trung tiêu về sau biến thành cửu truyền. Nó truyền từ lý ra biểu, tuy
ra biểu mà lý chưa hẳn là hoàn toàn không có tà lưu lại; Kinh qua bán biểu,
cũng vị tất không có tà can thiệp, cho nên dùng phép hạ không ngại dùng sớm,
dùng phép hãn không ngại dùng muộn, vừa hòa vừa giải, nông sâu không được lẫn lộn,
bởi vì khí đều thuộc nhiệt, nhiệt có thể nung nấu, không cần biến thành uất mà
cái nung nấu này tất kèm theo cái nhiệt kia. Đương lúc chưa ra biểu lại cố muốn
cho ôn biểu, ngay từ lúc đầu dẫn độc nhiệt thành xu thế đốt rừng, biến ra các
chứng Ban, Nục, Cuồng, Suyễn rất hung dữ, cuối cùng làm thương chân âm biến
thành các chứng nguy hiểm khô đét, hôn trầm và quyết nghịch. “
285.
Nhiệt thì thanh, được nửa chừng thì thôi, tiếp theo phải ích âm. Hàn thì nhiệt,
già nửa thì yên, tiếp theo phải điều hòa.
Thanh - Hoài Bão Kỳ
“Y triệt - ứng cơ”
Khuyên người ta dùng hai phép hàn ôn không
nên quá tay và nêu ra đại pháp cải thiện về sau. Nhiệt bệnh dùng phép thanh đạt
được một nửa là được không nên dùng quá mức, tránh cái hại thuốc vượt qua chỗ bị
bệnh còn lưu lại băng giá. Nhiệt bệnh thường hay thương Âm, phải điều lý tốt về
sau, tóm lại lấy bổ Âm làm đại phép cho nên nói: “tiếp theo phải ích Âm”. Chứng
hàn thì dùng phép ôn, được hiệu quả già nửa thì yên không nên quá tay tránh khỏi
hóa táo. Điều lý về sau phép chung là dùng thuốc cam bình để ôn dương, đó là
nói tiếp theo phải điều hòa”. Nhà Trung y nổi tiếng đương đại Bồ Phụ Chu tiên
sinh từng nêu ra lý luận “Ôn mà đừng táo, hàn mà đừng ngưng” cũng giống ý nghĩa
nói ở Y văn này.
286.
Chữa nhiệt dùng thuốc hàn cho uống ấm. Chữa hàn dùng thuốc nhiệt cho uống nguội.
“Tố Vấn - Ngũ Thường chính đại luận”
Câu này ý nói: Dùng thuốc hàn lương để
chữa nhiệt bệnh nên uống ấm; dùng thuốc ôn nhiệt để chữa hàn chứng nên uống nguội,
mục đích là theo ý nghĩa đồng khí tương cần tránh khỏi phát sinh hiện tượng hàn
nhiệt ngăn cách thuộc phạm vi phép phản tá trong Đông y, cũng gọi là “phép uống
thuốc phản tá” rất có giá trị trong lâm sàng.
287.
Quế chi Uống khỏi họng, dương Thịnh thì chết. Thừa khí uống vào Vị, âm thịnh
cũng bại.
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Y môn bát pháp - Luận
ôn pháp”
Câu này đời sau lưu truyền rất rộng là
“Quế chi uống khỏi họng, nếu là dương thịnh thì chết. Thừa khí uống vào đến dạ
dày, nếu là âm thịnh thì tử vong”. Nêu lên rất sâu sắc về hậu quả nghiêm trọng
khi dùng nhầm hai phép hàn, ôn, cảnh cáo người ta dùng thuốc phải biện chứng
cho chuẩn xác. Quế chi là thuốc nóng, nếu xét chứng không cẩn thận nhằm đúng
trong chứng dương nhiệt, như lửa cháy đổ thêm dầu có thể đưa người ta đến cõi
chết. Thừa khí thang là thuốc hàn hạ, nếu nhầm dùng trong chứng âm thịnh, chẳng
khác nào trên băng phủ thêm tuyết. Cũng làm người ta tử vong, người thầy thuốc
không thể không cẩn thận.
288.
Tháng hè gay gắt, thang thuốc ôn nên nhẹ tay. Mùa đông giá buốt thang thuốc ôn
nên nặng lượng
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Y môn bát pháp - Luận
ôn pháp”
Danh ngôn này thể hiện tư tưởng chỉ đạo
“Nhân thời chế nghi” của Đông y, sách “Tố Vấn - Ngũ thường chính đại luận” có
thuyết pháp “Trước hết phải hiểu được tuế khí, đừng phạt thiên hòa” và “không
làm trái thời tiết của trời” đều là bắt buộc khi chữa bệnh phải suy nghĩ đến đặc
điểm thời lệnh thời tiết.
Điều trị chứng Hàn, đáng lẽ nên dùng thang thuốc
Ôn, nhưng liều lượng sử dụng trong hai mùa Đông, Hạ có khác nhau. Tháng Hạ gay
gắt, khí hậu nóng nực, có lợi cho việc điều trị bệnh thuộc Hàn, cho nên khi sử
dụng thang thuốc ôn cũng nên nhẹ liều lượng. Mùa Đông rét buốt, khí hậu lạnh
giá, thời khí với bệnh khí tương đồng. Lúc này đáng lý dùng thang thuốc ôn liều
lượng phải nặng hơn. Nói một hiểu mười, trong điều trị bất kể bệnh gì, cần phải
chú ý đến đặc điểm khí hậu thời lệnh, đó chính là lý luận đặc sắc của Đông y.
289.
Ôn bệnh mà không kiêm thấp, ghét cương mà thích nhu. ôn bệnh mà có kiêm thấp,
ghét nhu mà thích cương.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Phàm lệ”
Nêu lên nguyên tắc dùng thuốc khác nhau
để chữa Ôn bệnh có kiêm thấp hay không. Ôn bệnh mà không kiêm thấp tà, đơn thuần
do dương tà ôn nhiệt gây bệnh, rất dễ hao âm hại tân, khi điều trị nên chăm lo
chiếu cố âm dịch mà dùng nhiều loại thuốc nhu nhuận thuộc âm có tính vị cam hàn
tư nhuận; những thuốc cay nóng táo nhiệt là thứ cương táo hại âm đều không nên
dùng, cho nên nói Ghét cương mà thích nhu”.
Ôn bệnh có kiêm thấp tà, thấp với nhiệt
câu kết, dính trệ khó tách rời, lúc này mà lại dùng các loại nhu nhuận thuộc âm
thì mang cái hại giữ tà ở lại, mà dùng các loại thuốc cương táo có tính vị khổ
táo đạm thấm thì có thể phát huy tác dụng, cho nên nói “Ghét nhu thích cương”
Nguyên văn như sau: “Ôn bệnh mà không kiêm thấp thì kỵ cương thích nhu. Sau khi
khỏi Vị dương không phục hồi hoặc đo thầy thuốc trước dùng quá tay thuốc khổ
hàn đến nỗi thương tổn Vị dương, cũng xen kẽ thêm chút ít thuốc cương táo.
Ôn bệnh nếu kiêm thấp, ghét nhu mà thích
cương. Ở ranh giới thấp rút nhiệt tồn tại, làm sao mà không dùng được loại thuốc
nhu! Hoàn toàn là ở chỗ quan sát bệnh tình giỏi trong lâm sàng, hoàn toàn không
rắc rối gì khác (không sai lầm).
290.
Bệnh ôn nhiệt lo cạn phần âm. Bệnh thấp nhiệt lo hư phần dương.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biên – Hạ tiêu thiên”
Danh ngôn này nói lên đặc điểm cơ chế Ôn
nhiệt bệnh với Thấp nhiệt bệnh, vạch ra phương hướng điều trị. Ôn nhiệt bệnh
đơn thuần thuộc dương tà gây bệnh rất dễ hại âm dịch người ta, cho nên phải
luôn luôn xem xét tình huống tổn hại âm dịch, để chiếu cố trong điều trị. Thấp
nhiệt bệnh thì thấp với nhiệt kết hợp, tà khí cả âm và dương, ấp ủ dằng dai,
thanh nhiệt phải nắm vững từng li từng tý tránh khỏi vì quá hàn mà thương
dương. Vả lại thấp là âm tà vốn bất lợi cho dương khí, vì vậy khi điều trị thấp
nhiệt phải xét tới tình huống dương khí tổn hại, đó là chỗ cần chú ý trong lâm
sàng.
291.
Bệnh ở Vệ phát hãn thì được. Bệnh ở Khí có thể thanh khí. Bệnh vào Doanh còn có
thể thấu nhiệt chuyển khí... Bệnh đã vào Huyết sợ hao huyết động huyết, rất nên
lương huyết tán huyết.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Ôn nhiệt luận”
Câu này nêu ra đại cương điều trị bốn
giai đoạn Vệ - Khí - Doanh - Huyết của Ôn bệnh, đến nay vẫn là lý luận khuôn mẫu
của Ôn bệnh. Họ Diệp sáng lập ra lý luận biện chứng thi trị Vệ - Khí - Doanh -
Huyết của Ôn bệnh, xây dựng cơ sở cho Ôn bệnh học. Lý luận truyền biến của vệ
khí, doanh huyết phản ảnh vị trí bệnh nông sâu trong quá trình phát triển của Ồn
bệnh, bệnh tình nặng nhẹ và giai đoạn biến hoá bệnh trình, đồng thời cũng là
căn cứ phân biệt điều trị cho từng giai đoạn “Không thế thì không theo phép
nhanh hay chậm, lo đến mó tay vào là sai, trái lại thêm viển vông”(lời họ Diệp).
Tà ở Vệ phần, bệnh thuộc Biểu chứng, điều
trị nên tân lương giải biểu khiến cho tà giải theo đường ra chút ít mồ hôi,
dùng các phương như Tang cúc ẩm, Ngân kiều tán. Tà ở khí phận, lý nhiệt đã hun
đốt, điều trị nên tân hàn thanh khí, dùng phương Bạch hổ thang. Tà nhiệt vào
Doanh, bệnh tuy sâu một bậc, nếu quả là chưa thấy chứng hao huyết động huyết, vẫn
nên vững vàng dùng thuốc thấu tiết như Thanh doanh thang. Một khi nhiệt vào Huyết
phận mà thấy biến thành “hao huyết động huyết thì nên đùng ngay thuốc lương huyết,
chỉ huyết, tán huyết dưỡng âm, như dùng phương Tê giác địa hoàng thang trong
nguyên văn của họ Diệp còn nêu những tính dược đại biểu, giờ lược bớt.
292.
Thuốc ôn nhiệt có hiệu quả nhanh, chỉ cần một vài thang là có thể lập công. Thuốc
cam lương sức chậm chạp, không uống nhiều thì không hiệu quả.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Hỏa luận”
Điều trị dương hư phát nhiệt, nên dùng
thuốc ôn nhiệt. Thuốc ôn nhiệt thuộc Dương, tính cứng cỏi mà đi nhanh, cho nên
kiến hiệu nhanh chóng; chỉ cần một vài thang là có thể lập công.
Điều trị âm hư phát nhiệt, nên dùng thuốc
cam lương thuốc cam lương thuộc Âm, tính nhu mà đi chậm, cho nên hiệu quả từ từ,
“không uống lâu (nhiều) thì không hiệu quả”. Đây đúng là kinh nghiệm đáng bàn rất
có ý nghĩa phát huy trong lâm sàng.
293.
Ôn bệnh, thuốc tư âm chớ ngại dùng nhiều, dùng thuốc công hạ phải nên thận trọng.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Trung tiêu thiên”
Phân tích: Danh ngôn này tuy là nêu kiến
giải đối với Ôn bệnh sau khi dùng
thuốc hạ, nhưng không trái với nguyên tắc
thông thường trong điều trị Ôn bệnh.
Cơ chế bệnh chủ yếu của Ôn bệnh tất cả
là thương âm, Âm hư khó hồi phục, với lại thuốc tư âm tính nhu mà lưu hành chậm,
không uống nhiều thuốc thì không hiệu quả. Cho nên nói Tư âm chớ ngại dùng nhiều”.
Nhiệt làm thương khí âm mà lại dùng thuốc công hạ dễ hao thương nguyên khí cho
nên nói phải nên thận trọng”
294.
Lưu được một phần tân dịch tức là có một phần sinh lý
Thanh - Vương Mạnh Anh
“Ôn nhiệt kinh vĩ - Nội kinh phục khí ôn
nhiệt thiên”
Nêu lên nguyên tắc trọng yếu trong điều
trị Ôn bệnh. Ôn là dương tà rất dễ thương tân hao dịch. Trong mỗi quá trình Ôn
bệnh đều lấy Ôn nhiệt thương tân, âm dịch hao tổn làm bệnh cơ chủ yếu. Vì thế đối
với điều trị Ôn bệnh, nên “luôn luôn chiếu cố giữ gìn tân địch”, nhất là ở giai
đoạn cuối, mức độ tổn thương của âm dịch thường có quan hệ đến tiên lượng tật bệnh.
Ngô Tích Hoàng đời Thanh cũng có câu nói tương tự: “Còn một phần tân dịch là
còn một phần cuộc sống” đều là thuyết minh “giữ tân tồn âm” có ý nghĩa trọng yếu
trong quá trình điều trị Ôn bệnh.
295.
Cứu âm không ở huyết mà ở tân với mồ hôi.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Ôn nhiệt luận”
Câu này nói mấu chốt của Âm trong Ôn nhiệt bệnh
là ở sinh tân dịch và liễm mồ hôi, có chỗ khác với điều trị tạp bệnh thương âm.
Tạp bệnh thương âm là thuộc nội thương,
bệnh trình dài, xu thế bệnh từ từ, điều trị coi trọng tư dưỡng âm huyết, nói
chung nên thong thả. Còn nhiệt bệnh thương âm xu thế bệnh gấp gáp, tình trạng
chứng bệnh nặng, điều trị không được chậm mà phải sinh tân, giữ gìn tân cho
nhanh, nói giữ được một phần tân dịch là có một phần cuộc sống” là như thế, một
chữ “cứu” có thể cân nhắc. Nói chung tư dưỡng âm huyết sợ chậm chạp không nhanh
kịp thời, chỉ có cách sinh tân cho nhanh để bổ sung âm dịch, liễm mồ hôi, đừng
để tân dịch lại tiết ra nữa mới là thượng sách.
296.
Thông dương không ở thuốc ôn mà ở lợi tiểu tiện.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Ôn nhiệt luận”
Nói lên phép thông dương ứng dụng trong
bệnh Thấp ôn mấu chốt là ở thông lợi tiểu tiện, đối với phép thông dương trong
nội thương tạp bệnh cũng có chỗ khác nhau.
Phép thông dương của bệnh nội thương
thích dụng các thuốc ôn vận để làm tiêu tan hàn tà, còn bệnh Thấp ôn thì có ngụ
cả tà khí thấp nhiệt làm nghẽn trở khí cơ của Tam tiêu, nếu dùng thuốc Ôn vận
thì sợ giúp cho nhiệt tà, nếu dùng thuốc hàn lượng lại lo đến trở ngại thấp tà,
có thể coi là bó tay khó khăn.
Họ Diệp nói nhiệt bệnh cứu âm còn dễ,
thông dương rất khó” tức là nói ý trên. Chỉ có dùng những vị đạm thấm như Phục
linh, Trạch tả, Hoạt thạch v.v... để phân tiêu thấp trọc, khiến cho cái thấp tản
mạn ở Tam tiêu có con đường rứt theo lối Bàng quang, thấp rút thì cô lập nhiệt,
nhiệt tà cũng dễ giải quyết, dương khí được thông dùng các phương thuốc như Tam
nhân thang, Hoắc phác hạ linh thang.
297.
Thực nhiệt ở dưới, phép nên thanh lợi. Thực nhiệt ở trên, không được thăng đề.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát trận
- Hàn lược”
Câu này căn cứ vào bộ vị thực nhiệt mà
nêu ra sự kiêng kỵ trong điều trị. Chữa nhiệt thì dùng thuốc hàn, nên dùng phép
thanh, nhưng cần căn cứ vào bộ vị tà khí xâm phạm mà có sự xử lý khác nhau.
Thực nhiệt xâm phạm ở bộ phận dưới cơ thể,
nên đồng thời dùng thêm cả phép thông lợi khiến cho nhiệt thoát ra đường nhị tiện,
tà khí có đường rút có thể nói là nhân xu thế mà khơi thông. Khi thực nhiệt xâm
phạm ở bộ phận trên cơ thể, vì tính của Hỏa bốc lên, nếu lại dùng thuốc thăng đề,
chẳng khác gì quạt gió vào lửa, càng tăng xu thế nhiệt, vì thế không nên sử dụng.
Họ Trương nói: “Hỏa vốn cần Dương, nên chữa theo Âm, từ âm mà được giáng xuống,
nếu lại thăng là theo Dương. Kinh nói: Cao thì ức chế “nghĩa đó nên biết”.
298.
Tà Hỏa ở trên, không nên thăng, Hỏa được thăng lại càng bốc mạnh. Trầm hàn ở dưới,
không nên giáng, âm bị giáng càng dễ tiêu vong.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Hòa lược”
Câu này nói sự kiêng tránh trong điều trị
khi tà Hỏa ở bộ phận trên và trầm hàn ở bộ phận dưới.
Hỏa thuộc dương tà, tính nó bốc lên, tà
Hỏa ở bộ phận trên điều trị nên tiềm giáng, nếu lại dùng phép thăng đề, không
khác gì quạt mạnh, khó tránh khỏi cái hạI “Hỏa được thăng thì càng bốc”.
Hàn thuộc âm tà, tính nó ngưng giáng, trầm
hàn ở bộ phận dưới điều trị nên ôn tán, nếu lại dùng phép giáng xuống lại càng
làm âm tà nặng thêm, theo lý là phải tránh.
Tóm lại, chữa bệnh nên thi hành ngược lại
với xu thế của tà khí, nếu lại thuận theo xu thế của nó là giúp thêm cho tà mạnh
hơn.
299.
Chữa nhiệt ở người mập, nên nghĩ cái dương bị hư. Chữa nhiệt ở người gầy, nên
nghĩ cái âm bị hư
Thanh - Dụ Gia Ngôn
“Y môn pháp luật - Nhiệt thấp thử tam
khí môn”
Người mập với người gầy tuy cùng mắc bệnh
nhiệt nhưng điều trị lại có chỗ khác nhau, chủ yếu là do thể chất không giống
nhau, thể hiện đầy đủ tư tưởng chỉ đạo “nhân nhân trị nghi” trong chữa bệnh của
Đông y, là một đặc sắc lớn của Đông y trong điều trị học.
Nói theo thể chất, người mập nhiều đờm,
đa số là thể chất dương hư, cho
nên điều trị nhiệt bệnh ở người mập, cần
đúng bệnh thì ngừng, không nên dùng quá tay thuốc hàn lương để tránh tổn hại
dương khí. Người gầy nhiều Hỏa, đa số thuộc thể chất âm hư, khi điều trị nhiệt
bệnh, không nên dùng quá tay thuốc đắng lạnh để tránh hoá táo thương âm, đó là
những chỉ đạo rất ý nghĩa.
300.
Chữa chứng Ban nên thanh hoá không nên đề thấu. Chữa chứng Sa nên thấu tiết
không nên bổ khí.
Thanh - Lục Tử Hiển
“Lục nhân điều biện - Ban sa chẩn loa biện
luận”
Khái quát sự kiêng khem trong điều trị
Ban chẩn đời sau coi là khuôn mẫu trong điều trị. Từ “Sa” nói ở đây tức là “Chẩn”,
Ban chẩn là thể chứng trọng yếu trong Ôn bệnh. Ban là nốt to kết thành mảng, sờ
vào không vướng tay. Chẩn là nốt nhỏ như hạt tấm, sờ vào vướng tay, cả hai chứng
đều là dấu hiệu nhiệt tà phạm sâu vào doanh huyết. Nhung trên cơ chế bệnh, Ban
là Dương minh nhiệt độc, Chẩn là Thái âm phong nhiệt, vị trí bệnh có Phế Vị
khác nhau, trên điều trị cũng không giống nhau. Ban thuộc Dương minh tà nhiệt bức
bách ở huyết phận, điều trị nên thanh Vị tiết nhiệt, mát huyết hoá ban, cho uống
phương như Hoá ban thang, vì các loại thuốc thăng đề thấu phát đều có tính táo
phát đi lên, dễ làm cho khí huyết dồn lên trên, xúc động đến huyết nên phát Ban
càng nặng, cho nên nói không nên đề thấu”. Ngô Cúc Thông từng nói Ban chẩn dùng
thuốc thăng đề thì đổ máu mũi, hoặc quyết, hoặc ho khan, hoặc chứng Kính hôn
mê”. Chẩn thuộc Thái âm, phong nhiệt len lỏi vào trong huyết lạc, điều trị nên
tuyên Phế đạt tà, thanh doanh thấu chẩn, dùng phương thuốc như Ngân kiều tán bỏ
Đậu sị gia Sinh địa, Đan bì, Đại thanh diệp, Huyền sâm. Nếu bổ khí sẽ giúp cho
xu thế nhiệt kéo dài là điều cấm kỵ đối với bệnh này cho nên nói không nên bổ
khí”.
Trên lâm sàng Ban Chẩn thường xuất hiện
chung, điều trị nên lấy hoá ban làm chủ yếu và kiêm trị thấu chẩn. Ngoài ra thời
kỳ Ban chẩn mới phát không được dùng quá tay thuốc hàn lương để tránh tà nhiệt ẩn
náu, đó cũng là điều cần chú ý.
301.
Chữa Tâm Hỏa dùng thuốc khổ hàn. Chữa Thận Hỏa dùng thuốc hàm hàn.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên lưu luận - Quân Hỏa tướng
Hỏa luận”
Danh ngôn này giới thiệu những đại pháp
về điều trị và dùng thuốc đối với hai loại Tâm Hỏa và Thận Hỏa.
Tâm là tạng thuộc Hỏa, Hỏa này phần nhiều
là Thực, nên đánh thẳng bằng thuốc đắng lạnh, hơn nữa vị đắng vào Tâm dễ đạt tới
ổ bệnh, cho nên chữa Tâm Hỏa dùng thuốc khổ hàn được coi là đại pháp.
Thận là tạng thuộc Thuỷ, Hỏa này phần
nhiều là Hư là do chân âm hao tổn gây nên, điều trị nên tư âm giáng Hỏa, dùng
các vị thuốc hàm hàn để dục âm tiềm dương, hơn nữa vị mặn vào Thận dễ đạt tới ổ
bệnh, cho nên chữa Thận Hỏa dùng thuốc hàm hàn được coi là đại pháp, nếu dùng
thuốc khổ hàn, khó tránh khỏi hoá táo thương âm.
302.
Bệnh nhiệt dùng thuốc mát, nên kèm theo loại hoạt huyết mới không đến nỗi có
cái lo băng giá ẩn náu ở bên trong.
Thanh - Chu Học Hải
“Độc y tuỳ bút - Bệnh hậu điều bổ tu
kiêm tán khí phá huyết”
dẫn lời của Diệp Thiên Sĩ
Câu này nêu ra một nguyên tắc dùng thuốc
khi chữa nhiệt bệnh, đúng là kinh nghiệm đáng bàn. Nhiệt bệnh dùng thuốc mát là
chính trị, nhưng dùng thuốc mát quá nhiều có thể dẫn đến huyết ngưng thành ứ hoặc
tổn thương Tỳ Vị, có thể nói là “nhiệt bệnh chưa khỏi, bệnh do mát đã nổi lên”
cho nên cần kèm theo thuốc hoạt huyết. Danh y đương đại Bồ Phụ Chu từng quy nạp
là “hàn mà đừng làm cho ngưng” cũng ngụ ý kiến này.
VI. CÔNG BỔ
303.
Phép dùng thuốc công, quý ở xét cho đích thực không được quá tay. Phép dùng thuốc
bổ, quý ở nặng nhẹ có chừng mực, khó giải quyết đơn giản.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Luận trị thiên”
Danh ngôn này khái quát nguyên tắc vận dụng
hai phép công, bổ và điều cần chú ý khi dùng hai phép này. Họ Trương cho rằng
“phép tắc chữa bệnh phải biết tà khí với chính khí cân nhắc bên nào nặng bên
nào nhẹ”.
“Dùng phép công, trước hết phải xem xét
sự chân giả của tà khí mà châm chước dùng thuốc, dứt khoát không được dùng quá
tay thuốc mãnh liệt đề phòng tổn thương chính khí. Dùng phép bổ phải phân biệt
rõ mức độ hư đến đâu mà điều lý toàn diện, không được xem nhẹ giản đơn. Người đời
sau nói gọn hai câu này là “Công không quá tay” và “Bổ khó mà đơn giản”. Họ
Trương dùng cách ví dụ sinh động giải thích hai câu này, nguyên văn là: “Phàm
chữa chứng Thực, ví như gieo mạ trong mạ lẫn cỏ, cỏ là kẻ thù của mạ, có một
thì nhổ bỏ một, có hai phải nhổ bỏ hai, đấy là cái giỏi của người làm cỏ lúa; nếu
cỏ một lại đi nhổ hai là làm hại đến mạ, cỏ hai lại đi nhổ bốn, là hai lần làm
hại mạ. Nếu lại không biết rõ mạ, đều cho là cỏ cả mà đi nhổ sạch thì không còn
mạ nữa. Đấy là cách dùng phép Công, quý ở chỗ xét cho đích thực, không được quá
tay.
Phàm chữa chứng Hư, ví như cấp lương, một
người một thăng, mười người một đấu, đó là lương đủ ăn một ngày. Nếu trăm người
chỉ cấp một đấu, ngàn người cấp một hộc ở chốn đông đảo ba quân lẽ nào cái
lương một gánh mà sống được sao? Một gánh không tiếp tế lại đem cả gánh trước bỏ
đi, khác nào tự giảm bớt từ bên trong? Đó là cách dùng phép Bổ, quý ở chỗ cân
nhắc nặng nhẹ, khó mà giải quyết đơn giản”.
304.
Phép dùng Bổ, quý ở trước nhẹ sau nặng, cốt ở thành công. Phép dùng Công, tất
phải trước từ từ sau mạnh tay, đúng bệnh thì thôi.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Luận trị thiên”
Câu này nêu nguyên tắc dùng thuốc trong
hai phép công, bổ, thể hiện quan điểm học thuật trong điều trị của họ Trương
quý ở chuyên sâu tinh vi rất có ý nghĩa chỉ đạo lâm sàng. Họ Trương đề xướng việc
dùng thuốc phải chuyên nhất không pha tạp “Nếu lấy tiêu để chế bổ, thà rằng
dùng thuần bổ chút ít, để dần dà tiến tới khỏi bệnh; nếu lấy bổ để chế công,
thà rằng dùng thuần công chút ít, từ một tiền đến hai cho tới khỏi bệnh”. Hư chứng
dùng phép bổ, dùng thuốc nên liều lượng nhẹ lúc ban đầu, dần dà tăng thêm, nếu
ra tay dùng ngay liều cao sợ mang cái nồng béo trở ngại Vị. Thực chứng dùng
phép công, dùng thuốc nên từ từ nhẹ nhàng, sau khi trúng bệnh hãy mạnh tay, nếu
quả là tấn công mạnh ngay, sợ bệnh nhẹ mà dùng thuốc liều cao, khắc phạt thái
quá. Đây là những kinh nghiệm lâm sàng giá trị.
305.
Phép Công không thể thu công từ từ. Phép bổ không thể mong hiệu quả nhanh.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Luận trị thiên”
Câu này nêu nguyên tắc khi vận dụng hai
phép công, bổ rất có ý nghĩa tham khảo trong lâm sàng. Nguyên văn của họ Trương
là: “Nếu bệnh mới phát đột ngột lại là người ít tuổi khoẻ mạnh thì có thể dùng
thuốc công thuốc tả, công chỉ có thể dùng tạm, chưa từng có bị bệnh suy yếu lâu
dài mà công nhiều lần lại không có hại, cho nên công không thể thu công từ từ.
Bệnh lâu ngày mà hư yếu, theo lý nên ôn nên bổ, bổ có thể dùng bình thường,
chưa từng có tổn thương căn bản mà bỏ bổ lại có thể trở lại nguyên dạng, cho
nên bổ không thể mong hiệu quả nhanh”. Lời lẽ đã rõ ràng, chẳng cần phải bàn
thêm.
306.
Hư chứng như nhà nghèo tài sản rỗng không, chỉ có cóp nhặt từng tý sớm tối
không quên, chứ không có phép nhanh hơn. Thực chứng như cướp trộm trong nhà, mở
cửa tống ra nhanh, giặc rút thì ngừng, không có phép nấn ná từ từ
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Biện trị đại pháp luận”
Điều trị Hư chứng nên xử lý thung dung,
thu công dần dà. Điều trị Thực chứng phải dồn sức đối phó, đánh nhanh quyết định
nhanh. Câu này dùng lối tỉ dụ nói lên đạo lý ấy, ý nghĩa giống với câu của
Trương Cảnh Nhạc ở trên, nên tham khảo.
307.
Thuốc bổ, khuyên đừng tiếp thụ nhanh mà úng trệ nhanh. Thuốc phạt, khuyên đừng
tranh đoạt vội mà dẫn đến lợi mạnh.
Thanh - Đường Đại Liệt
“Ngộ y vựng giảng - Nhiếp sinh tạp thoại”
Danh ngôn này khuyên răn phải chú ý khi
dùng hai phép công và bổ thành lời so sánh đối lập với câu 306 ở trên, lối rẽ
khác nhưng công hiệu chỉ là một có thể tham khảo chung. Hư chứng thì bệnh đến từ
từ mà bệnh lui cũng chậm, điều trị nên xử lý thung dung, lập công dần dần. Nếu
muốn mau chóng mà dùng thuốc bổ mạnh mà nhanh trái lại sẽ úng tắc Vị khí, dục tốc
thì bất đạt. Thực chứng theo lý nên khu tà, chỉ cần lượng bệnh mà dùng thuốc, nếu
công phạt quá mạnh, trái lại cướp đoạt tổn hại chính khí, phải nên thận trọng.
308.
Bệnh vốn thực mà có chứng hư nhất thời, thì tạm thời sử lý cái hư. Bệnh với hư
mà có chứng thực nhất thơi, thì nên nhẹ nhàng giải cái thực
Thanh - Hoài Bão Kỳ
“Y triệt - ứng cơ”
Câu này nêu nguyên tắc xử lý khi bệnh mắc
đã lâu lại có kiêm chứng mới, thể hiện quan điểm của Trương Trọng Cảnh: “nghĩ
như bị cố tật lại thêm bệnh đột ngột khác, thì trước tiên nên chữa bệnh đột ngột,
sau hãy chữa cố tật”
Người bệnh vốn có Thực chứng, nếu gặp hư
yếu nhất thời thì nên chữa cái hư trước. Nếu vẫn tiếp tục đuổi tà sợ bất lợi
cho hư chứng, rõ ràng là không nên. Người bệnh vốn có Hư chứng, nếu gặp Thực chứng
nhất thời thì nên dùng thang thuốc nhẹ nhàng mà đuổi tà từ từ, chỉ một từ “nhẹ
nhàng” là đủ thấm thìa. Nếu vẫn tiếp tục
bổ Hư, sợ lưu luyến tà mà bệnh tăng thêm, cũng là điều không nên.
Tóm lại, vốn có cố tật thì tạm gác lại,
các bệnh mới mắc phải nên chữa ngay, tránh khỏi sự dằng dai dẫn đến bệnh tình
phức tạp. Du Căn Sơ đời Thanh tác giả “Thông tục Thương hàn luận” từng nói qua:
“Trong hư mà kiêm thực, tuy toàn Thận có hiện tượng hư, chỉ một vài chỗ thấy thực,
thì thực chứng trái lại rất nguy hiểm.
Trong thực mà kiêm hư, tuy toàn Thận có
hiện tượng Thực, chỉ một vài chỗ thấy hư, thì hư chóng trái lại rất nguy hiểm.
Cảnh Nhạc nói Một chỗ chữa kẻ gian” là thế, có thể coi là lời ghi chú cho điều
văn này. Đó là một nguyên tắc xử lý cho tình hình bệnh chứng nói ở trên, ở chỗ
giáp gianh hư thực trên lâm sàng như vậy, có thể cân nhắc mức độ của hư thực mà
linh hoạt ứng dụng công bổ cùng dùng không nên câu nệ.
309.
Người thể thực khí mạnh, phải chữa bệnh mà giữ lấy người. Người thể suy khí hư,
phải giữ lấy người rồi chữa bệnh.
Đương đại - Nhạc Mĩ Trung
“Nhạc Mĩ Trung y án tập. Niệu độc chứng
trạng”
Câu này tổng kết nguyên tắc xử lý quan hệ
bệnh tà với chính khí thể hiện tư tưởng coi trọng chính khí trong điều trị của
Đông y.
Chữa bệnh công tà trước hết phải xem
chính khí người bệnh như thế nào. Nếu thể chất khoẻ mạnh, chịu nổi tấn công mới
có thể áp dụng tấn công tà đẩy lùi bệnh. Tà bị đẩy lùi thì chính khí yên, đó là
nói Phải chữa bệnh mà giữ lấy người? “Nếu thể trạng suy khí yếu, trước hết nên
bồi bổ nguyên khí, đợi cho chính khí hồi phục rồi hãy khu tà, đó là nói Phải giữ
lấy người rồi mới chữa bệnh”. Nếu chỉ nhìn vào bệnh mà không nhìn vào người,
chăm chú công phạt, chính khí không chống nổi sợ là thúc đẩy cho cái chết mau
hơn, cần phải rất thận trọng. “Giữ lấy người rồi hãy chữa bệnh” thể hiện tư tưởng
chỉ đạo của Đông y “nhân nhân trị nghi”.
310.
Hoãn thì chữa bệnh. Cấp thì chiếu cố đến mệnh.
Thanh - Trình Hạnh Hiên
“Trình Hạnh Hiên y án - Vương thị phụ tý
chứng án”
Câu này với câu 309 ở trên lối rẽ tuy
khác nhưng chỗ khéo là cùng công dụng, đều mang tư tường chỉ đạo điều trị phải
lấy chính khí làm gốc, có thể tham khảo.
Khi chính khí không bị hư, tuy mắc bệnh
còn khả năng chống đỡ, chịu đựng sức đuổi tà, nói lên bệnh tình còn từ từ, có
thể đuổi tà để chữa bệnh. Nếu khi chính khí không chống đỡ nổi, âm dương muốn
thoát, tính mệnh đã không giữ gìn được, tuy có tà đã không chịu đựng được công
phạt, nói lên bệnh tình nguy cấp, điều trị kíp phải đại bổ nguyên khí, trước hết
hãy giữ lấy tính mệnh, đó cũng là cái ý “chiếu cố đến mệnh”. Nếu không chiếu cố
tình trạng chính khí hư thể trạng suy, tấn công mù quáng chỉ dẫn đến âm dương
ly tuyệt chuốc lấy hậu quả nguyên khí thoát đột ngột... vì thế nên lấy “giữ người
rồi chữa bệnh” là thượng sách.
311.
Dưỡng sinh nên bàn lấy ăn làm bổ. Chữa bệnh nên bàn đến thuốc công
Kim - Trương Tử Hòa
“Nho môn sự Thận - Suy nguyên bổ pháp lợi
hại phi khinh thuyết”
Danh ngôn này bao quát quan điểm học thuật
dừng thuốc đuổi tà, lấy ăn để bổ dưỡng chính khí của Trương Tử Hòa. Họ Trương đại
biểu cho phái công tà chủ trương dùng ba phép hãn - thổ - hạ để khu tà công bệnh,
nẩy sinh ảnh hưởng lớn cho thầy thuốc đời sau. Nhưng ông chủ trương đồng thời với
công tà, không bao giờ bài xích bổ dưỡng chính khí, nhất là coi trọng Vị khí của
người bệnh, nên ra chỉ đạo lấy ăn để bổ. Ông nói: “Người giỏi đùng thuốc, phải
làm cho người bệnh ăn được cơm gạo, đấy mới là bổ đích thực “sau khi đã trừ được
bệnh, tiếp theo lấy ngũ cốc nuôi dưỡng, hoa quả hỗ trợ, thịt động vật bổ ích,
ăn đầy đủ rau” thực là đạo lý “lấy ăn nuôi dưỡng trên hết” trong Nội kinh. Ông
nói như vậy không phải là không dùng thuốc để bổ, mà chính là khuyên mọi người
thận trọng dùng phép bổ, uốn nắn một số người cố chấp dùng thuốc bổ bừa bãi, rất
có ý nghĩa chỉ đạo về nhiếp sinh kéo dài tuổi thọ.
312.
Đúng là thực chứng thì nên tạm thời giản Tiêu bệnh. Có nhiều hư chứng chỉ nên
tìm đến Bản bệnh.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát trận
- Công trận”
Câu này khuyên người sử dụng công pháp cần
chú ý đến chính khí mạnh hay yếu, không được công bừa. “Đúng là Thực chứng” tức
là tà khí đang thịnh mà chính khí không hư, lúc này khu tà tức là yên chính,
cho nên lấy công tà trị Tiêu bệnh làm chính. “Có nhiều hư” chỉ tuy có tà khí
nhưng chính khí đã hư, lúc này chỉ có thể phù chính để chữa Bản, nếu không chiếu
cố đến chính khí hư mà cứ nhắm mắt công bừa, sợ chính khí không chống đỡ nổi,
xu thế thất bại khó mà cứu vãn được. Đây là câu nói rất phù hợp với thực tế lâm
sàng.
313.
Hư thì bổ mẹ. Thực thì tả con
“Nạn kinh - Nạn thứ 69”
Kinh văn này căn cứ lý luận sinh khắc để nêu
ra nguyên tắc điều trị hư thực bổ tả, thể hiện lý luận đặc sắc trong trị liệu học
của Đông y.
Nói bổ mẹ chủ yếu là dùng quan hệ mẹ con trong
Hư chứng. Ví dụ Thận âm bất túc không thể tư dưỡng Can mộc dẫn đến Can âm bất
túc, Can dương thượng cang, gọi là “Thủy không hàm mộc”, về điều trị có thể
không trực tiếp chữa Can mà là bổ cái Hư của Thận. Bởi vì Thận là mẹ Can, Thận
có thể sinh Can mộc cho nên bổ Thận thuỷ để sinh Can mộc, đó tức là Hư thì bổ
me, bổ me có thể khiến cho con thực. Lâm sàng không chỉ mẹ mắc bệnh liên luỵ đến
con có thể dùng phương pháp bổ mẹ tức như khiến cho đơn thuần con Hư cũng có thể
dùng phương pháp này.
Ngoài phép tư thuỷ hàm mộc, còn có các
phép ích Hỏa (Tâm hoặc Thận) sinh Thổ (Tỳ) bồi Thổ sinh Kim (Phế) Kim Thuỷ (Thận)
tương sinh.
Nói là tả con chủ yếu sử dụng trong quan
hệ mẹ con thuộc Thực chứng, như Can Hỏa quá thịnh, có thăng không giáng, xuất
hiện hàng loạt thực chứng, có thể chọn dùng phép tả Tâm vì Tâm là con của Can,
từ đó mà có tác dụng giúp cho tả Can hỏa, đó tức là “Thực thì tả con”, tả con
có thể làm yên mẹ. Phương pháp bệnh mẹ liên luỵ đến con có thể áp dụng tả con
trên lâm sàng, đơn thuần mẹ mắc bệnh thuộc Thực chứng cũng có thể vận dụng
phương pháp này. Đương nhiên cần chú ý chia rõ chủ thứ, có thể chủ yếu là bổ mẹ
mà kiếm chiếu cố đến con, chủ yếu là tả con mà kiêm chiếu cố đến mẹ.
314.
Bệnh thực đừng e dè phép công, nếu chỉ dùng qua thức ngọt trệ, sẽ làm cho bệnh
dẳng dai. Bệnh hư chớ ngại ngần dùng bổ, nếu chỉ dùng qua thức tiêu hao, sẽ gây
nên rắc rối.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Công lược”
Nêu lên điều chú ý khi vận dụng hai phép
công, bổ, thể hiện tư tưởng chỉ đạo “dùng thuốc phải chuyên nhất không pha tạp”
của họ Trương. Ông cho rằng: “Nếu thực tà quá nặng, xét thấy đáng dùng phép
công thì không cần thiết phải pha tạp thuốc bổ”, lúc này nếu lại thêm thắt thuốc
ngọt bổ sẽ mang cái hại níu trệ tà lại, sẽ giằng co với thuốc công, thậm chí
tiêu trừ tác dụng. Cũng như vậy, hư thì phải bổ, tất phải dùng trong chứng hư tổn
phù hợp với phép dùng thuốc bổ, nếu lại dùng thêm thuốc tiêu thuốc phạt, sẽ chuốc
cái hại háo khí trái ngược với thang thuốc bổ, những điều trên rất có ý nghĩa
trên lâm sàng. Đương nhiên trong thực tiễn, sử dụng phép công bổ cùng dùng
không phải là hiếm, nhưng đấy là chỉ vào chứng hư thực lẫn lộn, ở danh ngôn này
chỉ nhằm vào chúng Thực, Hư đơn thuần tự có chỗ khác nhau.
315.
Chứng thực mà nhầm dùng thuốc bổ, chẳng qua làm tăng bệnh, bệnh tăng có thể
tháo gỡ. Chứng hư mà nhầm dùng thuốc công, trước hết thoát nguyên dương, đã
thoát nguyên dương thì hết chữa.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Công lược”
316.
Chứng thực mà nhầm thuốc bổ, cố nhiên tăng bệnh tà, còn có thể giải cứu, tai vạ
không lớn lắm. Chứng hư mà nhầm dùng thuốc công, chính khí mất đột ngột, không
cứu vãn nổi, tai vạ rất to.
Thanh - Dụ Gia Ngôn
“Y môn pháp luật - Tiên triết cách ngôn”
Câu này với câu 315 ở trên không khác
nhau mấy, đều là khuyên răn đừng phạm vào luật “hư hư thực thực”, nghiêm khắc
chỉ ra sai lầm dùng phép công phát sinh hậu quả nghiêm trọng. Chứng Thực mà nhẩm
dùng thuốc bổ sẽ làm tăng xu thế bệnh tà nặng hơn, nhưng còn khả năng tháo gỡ
không đến nỗi phát sinh hậu quả tai hại. Chứng Hư mà nhầm dùng thuốc công,
chính khí không chống đỡ nổi thậm chí thoát nguyên, khó mà điều trị cứu vãn, há
không phải thận trọng hay sao?
317.
Bổ phải kiêm dùng thuốc ôn Tả phải kiêm dùng thuốc lương
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục - Luận
trị thiên”
Danh ngôn này nêu việc dùng thuốc đặc sắc
khi vận dụng hai phép công, bổ của họ Trương thể hiện quan điểm học thuật của
ông nghiêng về ôn bổ. Họ Trương cho rằng: “Điều trị hư thực, đại để thực thì chịu
được thuốc hàn, hư thì chịu được thuốc nhiệt, cho nên Bổ phải kiêm dùng thuốc
Ôn, tả phải kiêm dùng thuốc Lương”. Đây là kinh nghiệm của họ Trương, có thể
tham khảo trên lâm sàng. Đương nhiên không làm mất đi sự phiến diện, vì Thực
cũng có Hàn chứng, khi dùng phép tả bất tất phải kiêm dùng thuốc Lương. Hư cũng
có âm khuy khi dùng phép bổ bất tất phải kiêm dùng thuốc Ôn. Tóm lại danh ngôn
này chỉ bàn rộng đại thể nên ứng dụng linh hoạt không nên cố chấp.
318.
Trên thực đừng dùng thuốc thăng. Dưới thực đừng dùng thuốc bí. Trên Hư tránh
dùng thuốc giáng, dưới Hư tránh dùng thuốc tiết.
Thanh - Từ Linh Thai
“Tạp bệnh nguyên - Khí vị”
Danh ngôn này nêu sự cấm kỵ khi chứng hậu
Hư và Thực xuất hiện ở bộ phận trên và dưới cơ thể. Khi bộ phận trên xuất hiện
tà thực, nếu lại dùng thuốc thăng đề, sẽ làm cho đã thực lại càng thêm thực.
Trái lại khi xuất hiện chính khí hư lại dùng thuốc giáng hạ, chỉ làm cho đã hư
càng thêm hư. Khi bộ phận dưới xuất hiện tà thực, nếu dùng các loại thuốc cố
sáp, tà không có đường ra, đó là đóng cửa mà đuổi giặc. Trái lại khi xuất hiện
hư chứng lại dùng thuốc tiết lợi, lại phạm đến điều răn “đã hư càng thêm hư”.
Những điều trên rất có ý nghĩa chỉ đạo lâm sàng khi dùng thuốc chữa bệnh.
319.
Công bệnh như đánh giặc, dùng thuốc như dùng binh, binh cần giỏi không cần nhiều,
thuốc cần quý không ngại mạnh.
Thanh - Trình Chi Điền
“Y pháp tâm truyền – Cổ kim trị pháp vô
dị đồng luận”
Câu này dùng phương thức so sánh việc
dùng thuốc phải theo đạo lý sáng suốt. Lâm sàng chỉ cần nhận bệnh chứng cho chuẩn
xác, có bệnh ấy thì phải dùng thuốc ấy, tránh dùng thuốc không đúng chỗ. Đối với
vấn đề này, họ Trình giải thích rất hay: “Thuốc để công bệnh, có bệnh nào thì bệnh
ấy hứng nhận”. Nếu không có bệnh ấy thì không riêng gì loại thuốc mạnh làm hại
chính khí mà dùng đến loại hòa bình có khi cũng là sát nhân. Có bệnh ấy lại
không dùng thuốc ấy thì khác nào nuôi ong tay áo, chứng nhẹ chuyển nặng, chứng
nặng thành nguy.
320.
Các loại bệnh thực có nặng có nhẹ, khi dùng phép công cũng phải cân nhắc trọng
khinh
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Công lược”
Các chứng do thực tà có nhẹ có nặng, có
cấp có hoãn, khi vận dụng phép công cũng phải xem xét mức độ bệnh tình mà dùng
thuốc, cốt yếu làm cho thuốc và bệnh tương đương, không thái quá cũng không bất
cập. Có hai khuynh hướng nên tránh: một là thuốc nặng bệnh nhẹ, khắc phạt đừng
quá đáng. Hai là thuốc nhẹ bệnh nặng, bát nước đổ vào xe củi cháy, cũng là vô
tích sự.
321.
Thuốc độc để công tà phải lấy ngũ cốc nuôi dưỡng
“Tố vấn - Tạng khí pháp thời luận”
Câu này nêu tính trọng yếu việc chăm sóc
ăn uống sau khi mắc bệnh. Chữa bệnh thì nên bàn dùng thuốc để tấn công, nhưng những
thuốc công tà dược tính phần lớn đều thiên về một phía, độc tính có nhiều có
ít, bất đắc dĩ mới phải dùng. Còn như điều lý sau khi mắc bệnh, Đông y đã có
hàng loạt nghiên cứu về thực dưỡng, thực trị, nói dưỡng sinh nên bàn đến bổ dưỡng
bằng ăn uống” là ý tứ đó. Tóm lại, thực dưỡng sau khi mắc bệnh là nội dung trọng
yếu trong điều trị học của Đông y, đã là thầy thuốc cần thể hội, nắm vững tinh
thần đó.
322.
Đại độc chữa bệnh, rút 6 phần 10 là được, thường độc chữa bệnh, rút 7 phần 10
là được, tiểu độc chữa bệnh rút 8 phần 10 là được, vô độc chữa bệnh rút 9 phần
10 là được. Gạo thịt rau quả, thực dưỡng dùng được hết. Đừng để thái quá làm hại
chính khí.
“Tố Vấn - Ngũ thường chính đại luận”
Những câu này khuyên người ta dùng thuốc
cần “trúng bệnh thì thôi” ngàn vạn lần không được quá tay, để tránh tổn hại
chính khí, “thuốc ấy ba phần độc” đông dược cũng không ngoài lệ đó. Dùng vị thuốc
có độc tính khá mạnh để chữa bệnh chỉ cần khiến cho bệnh lui đi sáu phần là nên
ngừng sử dụng. Vị thuốc có độc tính nói chung chỉ cần khiến cho bệnh lui đi bẩy
phần là nên ngừng sử dụng; Vị thuốc có ít độc tính chỉ cần khiến cho bệnh lui
đi 8 phần là có thể được. Còn những vị thuốc không có độc, chỉ cần đạt hiệu quả
9 phần là có thể được, sau đó điều dưỡng bằng cơm gạo, rau thịt, hoa quả, lấy
“thực dưỡng” điều lý, đợi cho cơ thể hồi phục dần dần, ngàn vạn lần không nên
dùng thuốc quá tay làm hại chính khí con người. Câu nói này ứng dụng chọn
phương dùng thuốc nhất là khi dùng thuốc mạnh để công tà có ý nghĩa sâu sắc.
323.
Thể trạng có Hư tà phép công đừng quá tay. Tổn thương do thực tà, tấn công
không nên chậm.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên luận - Dụng dược như dụng
binh luận”
Danh ngôn này nêu khi công tà nên căn cứ
vào chính khí mạnh yếu mà tuỳ cơ xử trí, thể hiện quan điểm “nhân nhân chế
nghi” trong biện chứng luận trị. Trong quá trình tà chính giao tranh tật bệnh dằng
co, giữ gìn chính khí là nội dung trọng yếu trong điều trị học của Đông y. Khi
chính khí mới bị hư, khu tà không nên quá mạnh để phòng tổn hại chính khí thêm.
Trái lại, khi chính khí còn dồi dào, nên công tà nhanh chóng không được chậm trễ
tránh cái sai lầm trong cuộc chiến.
324.
Tà khí mới, nên làm tan ngay. Tà ẩn náu lâu ngày, nên tấn công từ từ
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Tý”
Ứng dụng công pháp để đối phó với tà khí
mới, tà khí cũ có chỗ khác nhau. Tuy chỉ nói về chứng Tý, nhưng thực ra đối với
mọi chứng bệnh nói chung đều có ý nghĩa chỉ đạo. Tà khí mới là mới cảm nhiễm
ngoại tà, chính khí chưa bị hư, nên điều trị gấp, tốc chiến tốc quyết, tránh khỏi
lo về sau. Tà khí ẩn náu là tà lưu trệ đã lâu, chính khí đã tổn thương, không
chịu nổi tấn công mạnh mà nên tháo gỡ từ từ, tránh khỏi tổn hại chính khí. Họ
Diệp thường nêu ý chỉ đạo tháo gỡ từ từ bằng thuốc hoàn, có thể xem xét tham khảo.
Họ Diệp nhiều lần nhắc nhở “bệnh đã lâu, nên tấn công từ từ” trong “Lâm chứng
chỉ nam y án” đều thấy áp dụng biện pháp này.
325.
Tất cả các bệnh nội ngoại thương, khi tà đã rút, dùng thuốc nên uống xen kẽ
(gián phục)
Minh - Chu Thận Trai
“Thận Trai di thư - Nhị thập lục tự
nguyên cơ - Hoãn”
Chữa bệnh cần biết hoãn cấp, vô luận ngoại
cảm hay nội thương, khi tà khí đang thịnh, nên dùng thuốc tấn công mạnh, không
để cho tà khí bám trụ. Khi tà khí đã rút, nên áp dụng tấn công từ từ để tránh tổn
thương chính khí, nói chung không sử dụng thuốc theo cách thường qui mà nên cho
uống xen kẽ cách ngày, vừa không giữ tà lại, vừa có thể đợi chính khí hồi phục,
thật là kinh nghiệm đáng bàn. Danh ngôn này lưu ý mọi người cần chú ý khi vận dụng
công pháp.
326.
Tiên thánh dùng thuốc, trong thuốc tả tất kiêm thuốc bổ
Thanh - Đường Dung Xuyên
“Huyết chứng luận - Đình lịch đại táo tả
Phế thang”
Đây là câu bàn luận về ý nghĩa bài Đình
lịch Đại táo tả Phế thang, ca ngợi phép tắc phối ngũ trong thuốc tả thực phải
kiêm cả thuốc bổ chính của tiên thánh Trọng cảnh. Kinh nói: Tà khí sở dĩ lấn lướt
là đo chính khí tất hư. Khu tà phải chú ý tránh tập trung vào công phạt để
phòng tổn hại chính khí, nhất là đương lúc tà khí tuy thịnh, nhưng chính khí đã
hư, khi cần phải công phạt lại càng phải chú ý dùng xen kẽ phép bổ.
327.
Người cao tuổi nên thận trọng dùng phép Tả. Người ít tuổi nên thận trọng dùng
phép bổ.
Minh - Ngô Hựu Khả
“Ôn dịch luận - Lão thiếu dị trị luận”
Câu này căn cứ vào đặc điểm khác nhau giữa
người già với người trẻ, nêu ra nguyên tắc phải cẩn thận dùng thuốc công, thuốc
bổ, thể hiện tinh thần “nhân nhân chế nghi”. Người cao tuổi cơ chế sinh lý giảm
sút, bệnh tật phần nhiều thuộc hư, hoặc trong hư kiêm thực, ít gặp loại thực chứng
đơn thuần, vì thế phải thận trọng khi dùng phép công, đó là điều thứ nhất. Hai
là cho dù có thực tà thì dùng phép công cũng phải thận trọng, liều lượng thuốc
cũng nhẹ hơn so với người bình thường để tránh tổn hại chính khí, đây là ngụ ý
“người cao tuổi nên thận trọng dùng phép Tả”. Còn như câu “người ít tuổi nên thận
trọng dùng phép Bổ”, họ Ngô nêu rõ “người ít tuổi khí huyết sinh lý nhanh nhạy,
cơ năng bồng bột, khi trừ được tà khí thì chính khí hồi phục ngay” không cần
thiết phải Bổ, hoặc nếu có dùng Bổ cũng phải linh hoạt. Đương nhiên đây chỉ là
nói tình huống chung, họ Ngô còn nêu ra: “cũng có khi cao tuổi mà khoẻ mạnh, ít
tuổi mà bạc nhược, lại phải tòng quyền, không nên coi là lời bàn cố định” có thể
nói là rất công bằng hợp lý.
328.
Chứng đại thực dùng thuốc công chưa đạt, có thể tăng thêm thuốc. Chứng thực nhẹ
dùng thuốc công thái quá, chỉ chuốc tai hại.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Trị luận thiên”
Câu này nêu một nguyên tắc vận dụng phép
công, tức là “công không được thái quá”. Thà rằng tăng thêm, còn hơn là quá
đáng, vì quá đáng khó tránh khỏi tổn hại chính khí, phải nên thận trọng.
329.
Bổ Thận không bằng bổ Tỳ
Tống
- Trương Nhuệ
“Kê phong phổ tế phương, quyển 12” dẫn lời
của Tôn Triệu
330.
Bổ Tỳ không bằng bổ Thận
Tống
- Nghiêm Dụng Hòa
“Nghiêm thị Tế sinh phương - Ngũ tạng môn - Tỳ
Vị hư thực luận trị”
Hai lời bàn trên đây tuy đều bảo vệ một
bên, nhưng đều là tổng kết qua kinh nghiệm thực tiễn của tiền nhân, chúng ta có
thể tham khảo trên lâm sàng.
Quan hệ giữa Tỳ và Thận là quan hệ tiên
thiên với hậu thiên. Thận ngụ ý tinh của tiên thiên, phải dựa vào tinh vi của
thuỷ cốc cho Tỳ Vị hoá sinh để nuôi dưỡng bổ xung; mà công năng của Tỳ Vị lại
phải nhờ vào sự sưởi ấm của Thận dương. Có thể thấy hai tạng Tỳ Thận đều trọng
yếu, xúc tiến lẫn nhau, dứt khoát không đối lập nhau.
Về ứng dụng trên lâm sàng, trong “Y môn
bát pháp” sách “Y học tâm ngộ” của Trình Chung Linh đời Thanh trình bày khá cặn
kẽ có thể tham khảo: “Hai tạng Tỳ Thận đều là căn bản, không bỏ được bên nào,
người xưa hoặc bảo là bổ Tỳ không bằng bổ Thận, là vì Hỏa của Mệnh môn có thể
sinh Tỳ thổ. Hoặc bảo là bổ Thận không bằng bổ Tỳ, là vì tinh vi của đồ ăn uống
tự nó có thể rót vào Thận, nên biết Tỳ yếu mà Thận không hư, lấy bổ Tỳ là việc
trước tiên. Thận yếu mà Tỳ không hư, lấy
bổ Thận là việc trước tiên. Nếu cả Tỳ Thận đều hư, thì kiêm bổ cả hai”.
Câu này khá công bằng, nên ứng dụng. Đương nhiên khi bổ cả Tỳ và Thận nên có sự
thiên trọng nhất định. Tỳ là nguồn sinh hoá của khí huyết, nếu khí huyết bất
túc, thì nên coi trọng vào bổ Tỳ. Thận là tạng Thuỷ Hỏa, nếu tiên thiên thuỷ Hỏa
bất túc, thì nên coi trọng vào bổ Thận, điều cốt yếu là phải phân biệt rõ gốc
ngọn trước sau của bệnh, mới là phương pháp chính xác.
331.
Tổn hại ở Phế cần ích khí
Tổn
hại ở Tâm nên điều hòa doanh vệ
Tổn hại ở Tỳ nên điều độ ăn uống thích hợp
ấm lạnh Tổn hại ở Can nên là dịu bên trong
Tổn hại ở Thận nên ích tinh.
Đó là những phép chữa tổn hại.
“Nạn kinh - Thập tứ nạn”
Đoạn y văn này qui nạp những phép lớn chữa
hư tổn của năm Tạng. Điều trị năm Tạng hư tổn có mối liên quan đến công năng
sinh lý của các Tạng. Như Phế chủ khí. Phế hư thì nên “ích khí”. Tâm chủ huyết
mạch, doanh đi ở trong mạch, Vệ đi ở ngoài mạch, đều có liên quan đến huyết mạch
của Tâm chủ, điều hòa doanh vệ thì chữa được chứng Tâm hư. Tỳ chủ vận hoá thuỷ
cốc, biểu lý với Vị, Tỳ hư nên “điều hòa sự ăn uống”. Lại vì Tỳ chủ về cơ nhục
và tứ chi, cho nên lại phải “thích hợp sự ấm lạnh” đề phòng ngoại tà quấy rối.
Can chứa huyết mà chủ về gân, Can huyết bất túc, gân không được nuôi dưỡng cho
nên thấy co cứng, vì thế Can hư thì phải “làm dịu bên trong” Thận chủ chứa
tinh, cho nên Thận hư nên “ích tinh”.
332.
Khí hư nên bổ phía trên. Tinh hư nên bổ phía dưới. Dương hư nên bổ mà kiêm ấm
áp. Âm hư nên bổ mà kiêm thanh giải.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cành Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Bổ lược”
Danh ngôn này khái quát đại pháp điều trị
Âm - Dương - Khí - Huyết bị hư tổn. Nguyên văn sau mỗi câu, còn nêu cả dược vật
đại biểu, ở đây lược bớt. Khí hư phần nhiều do Tâm Phế Tỳ hư tổn, cho nên điều
tri nên bổ phần trên dùng các vị thuốc như Sâm, Kỳ. Tinh hư phần nhiều vì Thận
tinh bất túc, cho nên điều trị nên bổ phần dưới, dùng các vị thuốc như Thục địa,
Câu kỷ. Dương hư thì hàn nhiều, cho nên điều trị nên bổ mà kiêm ấm áp, dùng các
vị thuốc như Quế, Phụ, Can khương. Âm hư thì nhiệt nhiều, điều trị nên bổ mà
kiêm thanh, dùng các vị thuốc như Nhị đổng, Bạch thược, Sinh địa v.v...
333.
Hình bất túc lấy khí làm cho ấm, Tinh bất túc lấy vị để mà bổ
“Tố vấn - Âm Dương ứng tượng đại luận”
Trương Cảnh Nhạc viết trong Loại kinh:
“Hình bất túc là phần Dương suy”, “Tinh bất túc là phần Âm suy”! Ý tứ của hai
câu y văn này là nói vì dương khí bất túc
mà dẫn đến hình thể suy kém, điều trị
nên dùng các loại thuốc ôn bổ dưỡng khí. Vì âm tinh bất túc” mà dẫn đến Thận thể
hư yếu, nên dùng các loại thuốc nồng hậu bao gồm các loại huyết nhục hữu tình để
điền bổ âm tinh. Câu y văn này, thực tế giới thiệu điều bổ Âm Dương như thế nào
“lấy khí làm cho ấm” và “lấy vị để bổ”, chủ yếu là phân biệt dùng thuốc để chữa
Dương hư hoặc Âm hư.
334.
Lâm sàng chữa bệnh không cần phải bàn có hư chứng hay không có hư chứng. Chỉ
căn cứ vào không có thực chứng mà bị bệnh là nên dùng thuốc kiêm bổ, để điều
hòa cái khí danh vệ tinh huyết.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Luận trị thiên”
Cũng không cần phải bàn có Hỏa chứng hay
không có Hỏa chứng, chỉ cần căn cứ vào không có nhiệt chứng mà bị bệnh thì nên
dùng thuốc kiêm ôn để vun đắp cái khí của Mệnh môn Tỳ Vị
Trương Cảnh Nhạc coi câu nói này là “Yếu
lĩnh của bổ tả”, thể hiện quan điểm học thuật của ông tập trung chú trọng vào
ôn bổ. Tuy nhiên lời bàn này khó tránh khỏi thiên vị, chỉ là của một nhân vật đại
biểu cho học phái Ồn bổ, về phương diện điều trị hư tổn, họ Trương đúng là có
chỗ độc đáo, xứng đáng là một danh gia. Từ quan điểm lịch sử duy vật chủ nghĩa
mà nhận xét thời đại hoạt động của Cảnh Nhạc, lâm sàng gặp khá nhiều chứng bệnh
thích hợp phép dùng thuốc ôn bổ, do đó mà lập luận phần nhiều bảo lưu ôn bổ,
tình thế đó là tất nhiên. Người đời sau nên học tập cho giỏi, không nên quá bám
riết vào một lý luận.
335.
Cả trên và dưới đều tổn hại, nên chữa ở đoạn giữa.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Hư lao”
Trong bệnh chứng Hư lao, nếu thấy xuất
hiện những biểu hiện Thượng tiêu Tâm Phế và Hạ tiêu Can Thận có sự hư tổn đôi
bên, điều trị nên tập trung điều lý Trung tiêu Tỳ Vị. Câu này thể hiện quan điểm
học thuật coi trọng Tỳ Vị trong điều trị chúng Hư lao của Diệp Thiên Sĩ. Họ Diệp
là một đại gia về Ôn bệnh nhưng rất tôn sùng Tỳ Vị luận của Lý Cảo, nêu ra
phương châm “về nội thương phải theo khuôn phép của Đông Viên, ông cho rằng “hư
lâu ngày phải tổn hại Vị”, nếu quả là tiên thiên, hậu thiên “hai khí cùng tổn hại
thì phải lấy cứu hậu thiên rất gấp” đều nói lên quan điểm của họ Diệp mười phần
coi trọng điều lý Tỳ Vị trong điều trị bệnh hư lao, có ý nghĩa chỉ đạo trọng yếu
trong lâm sàng.
336.
Các chứng Hư bất túc, trước hết phải làm mạnh bên trong.
Thanh - Uông Nhận Yêm
“Y phương tập giải - Lý khí chí tễ”
337. Năm tạng đều hư hãy chữa riêng hậu
thiên Tỳ Vị
Thanh - Vương Húc Cao
“Vương Húc Cao y án - Hư lao”
dẫn lời nhận xét của Phương Nhân Uyên
Ý nghĩa hai y văn trên gần giống nhau, đều
nói lên địa vị trọng yếu biện pháp điều lý hậu thiên Tỳ Vị trong điều trị các
chứng Hư bất túc, có thể tham khảo với những y văn nói ở trên
338.
Người giỏi dùng binh, trước tiên phải tích lương. Người giỏi chữa trị tà khí,
trước tiên cần nuôi chính khí.
Thanh - Lưu Hoàn Thụy
“Kinh lịch tạp luận” đông thống biện”
Danh ngôn này lấy binh pháp để so sánh
hình tượng để nói lên đạo lý muốn khu tà trước hãy tăng cường chính khí. Kinh
nói: “Tà sở dĩ gây hấn được là do khí hẳn hư”, coi làm căn cứ cho lý luận phù
chính khu tà. Trên lâm sàng, trước phù chính sau khu tà, xét cho cùng kiêm thấy
cả chính hư tà thực mà chính khí hư khá nặng coi làm chứng thích ứng. Nếu chính
khí quá hư lại bàn đến công tà sẽ làm tổn hại chính khí, đó là lý lẽ rất rõ
ràng.
339.
Điều thiết yếu nhất trong bổ Hư là nâng Vị khí
Thanh - Ngụy Chi Tú
“Độc danh y loại án - Hư tổn” dẫn lời nói của
Bùi Triệu Kỳ
Danh ngôn này nói tác dụng trọng yếu trong điều
trị theo phép nuôi dưỡng Vị khí trong bệnh hư tổn, có thể nói là hướng chỉ đạo
của phép Bổ hư rất sâu sắc. Lời trình bày của Bùi Triệu Kỳ ở đây cụ thể là “...
Người ta sau khi mắc bệnh nặng nhất thiết không được dùng thuốc bừa... Bởi vì
nguyên khí người ta lấy Vị khí làm gốc. Vị khí lại lấy cốc khí làm gốc. Người mắc
bệnh nặng, xa cốc khí lâu ngày, thì ưa thích thức ăn mà ghét thuốc uống, đó là
lẽ thường tình. Ở gianh giới này, chính là lúc cho ăn là tốt nhất, để nuôi dưỡng
Vị khí, Vị khí vượng thì nguyên khí cũng vượng, trong cái không bổ lại có cái rất
bổ vậy” Bây giờ người bổ không khéo, chỉ nhằm vào các vị Quy, Địa, Sâm, Truật,
Cam thảo, Hoàng kỳ, lấy đó làm phép bổ Hư, không phải là như thế. Không biết những
vị thuốc ấy đều là những thứ ngọt nhớt úng trệ, Vị khoẻ thì còn chịu đựng được,
nếu Vị yếu mà uống vào thì không trướng cũng đi tả, hoặc không đi tả thì nôn mửa
mà không ăn được, bệnh không đỡ lại tăng thêm, không phải là không có”. Lời bàn
sắc sảo đó thật đáng tin phục.
340.
Người khéo dùng thuốc phải làm cho bệnh nhân ăn tăng ngũ cốc, đấy mới là bổ
đúng đắn.
Kim - Trương Tử Hòa
“Nho môn sự thân - Thất phương thập tễ
thằng mặc kề”
Câu này thể hiện tư tưởng học thuật của
Trương Tử Hòa chữa bệnh phải coi trọng Vị khí. Ông cho rằng người giỏi dùng thuốc
là ở chỗ động viên người bệnh tăng ăn uống, đó mới là phép bổ đúng đắn, hợp với
tôn chỉ “ăn uống đầy đủ thì tốt, không ăn uống được thì chết”, đúng là vạch ra
phương pháp vận dụng phép bổ cho người đời sau rất chính xác.
341.
Thức ăn tự thấy ngon, tức là Vị ưu thích, ấy là bổ.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Hư lao”
Ý và câu này là: chứng Hư lao đã cùng cực,
dùng thuốc khó mà công hiệu ngay, cho ăn uống bệnh nhân cảm thấy ưa thích ngon
lành, nói theo Tỳ Vị tức là đưa thức Bổ, nói lên đưa thực dưỡng thực bổ chữa chứng
hư lao có tính trọng yếu. Họ Diệp đối với “hình sắc suy đoạt, khí sinh vượng đã
mong manh” của chứng Hư lao, cho rằng “thuốc khó mà công hiệu ngay, tìm thầy
cũng vô ích” chỉ có cách cho những thức ăn mà tự họ ưa thích, đấy mới là con đường
bổ dưỡng. Dụ Gia Ngôn cũng từng nói: “Tất thẩy những đồ ăn vị bạc chất nhẹ là
những thứ Vị ưa thích tiếp nhận” ý nói những thức thanh đạm là thứ Vị ưa thích,
có thể tham khảo.
342.
Người khéo điều lý, chẳng qua là dùng thuốc cho thích nghi, có thể giúp đỡ cho
sinh khí người ta lâu bền.
Thanh - Lý Quan Tiên
“Tri y tất biện - Tạp luận”
Câu này nêu việc dùng thuốc bổ Hư nên
cân nhắc nặng nhẹ thích hợp, chú ý thuận theo nhu cầu sinh lý của người bệnh có
thể nói là câu chỉ dẫn bổ Hư rất sâu sắc rất nên học tập.
Lý Quan Tiên cho rằng dùng thuốc bổ Hư
cũng như đạo lý tưới tắm cây cỏ, phải thuận theo nhu cầu của cơ thể, liều lượng
dùng thuốc nặng nhẹ cho thích hợp, tuyệt đối không theo kiểu càng nhiều càng tốt.
Đồng thời cần “trong Bổ phải có Khai”, phản đối cách bổ ngu ngốc ngăn đường bịt
lối, vít lấp sự phát huy sự sống, lời bàn khá là sâu sắc, trích lục như sau:
“Người bệnh dùng thuốc điều bổ, giống như tưới tắm cỏ cây, có khi chỉ cần tưới
nước trong, có khi cần tưới nước bón cây, vừa là nhu cầu thích hợp, vừa được tưới
tắm đúng mức, không mang cái hại thái quá hay bất cập, tự nhiên thấy tươi tốt
khác thường. Điều lý cho người bệnh cũng thế, có khi nên dùng thuốc thanh dưỡng,
có khi nên dùng thuốc bổ mạnh, có khi nên dùng thuốc bổ khí, có khi nên dùng
thuốc bổ âm, phải tìm được cái đích đáng mà thu hiệu quả cuối cùng chứ không được
nhắm mắt dùng bừa. Tức như có người muốn hiệu quả nhanh, dùng Nhân sâm để bổ
khí, đã uống Nhân sâm, khí nào còn bất túc nữa? Thục địa bổ âm, đã uống Thục địa,
âm nào còn bất túc nữa? Không biết rằng dùng thuốc để bổ dưỡng, cũng như cái lẽ
lấy nước tưới tắm hoa cỏ, tưới tắm thích hợp thì hoa cỏ nhờ đó mà lớn dần chứ
chẳng phải tưới tắm đã là cỏ cây vậy. Tức như Thược dược rất hay điều hòa đại
tiện nên phần nhiều thêm Thược dược để điều
hòa đại tiện, đâu có phải là nó biến thành Thược dược đâu. Vì thế trường
hợp khí hư nên dùng Sâm thì khí con người ta dễ sinh, mà Nhân sâm chứ chẳng phải
là Khí. Âm hư thì nên dùng Địa hoàng, vì uống Địa hoàng thì phần âm con người
ta dễ sinh, mà Thục địa chứ chẳng phải là Âm. Người khéo điều lý, chẳng qua
dùng thuốc cho thích nghi, có thể giúp cho khí sinh sinh của con người, nếu lấy
rễ cỏ vỏ cây để làm tác dụng khí và huyết, điều bổ ráo riết giống như cỏ cây tưới,
mầu quá nhiều trái lại lấn át sự vươn lên. Có thể biết dùng thuốc, tất cả là ở
chỗ nặng nhẹ cho thích hợp không được lẫn lộn. Huống chi người khéo dùng phép Bổ,
trong Bổ có Khai, giống như viết văn cứ nói hết thực sự không hư cấu tý nào, liệu
có thành bài văn được không?”
343.
Người giỏi dùng phép Bổ, trong Bổ có Khai
Thanh - Lý Quan Tiên
“Tri y tất biện - Tạp luận”
Câu này nêu một vấn đề kỹ sảo trong khi vận dụng
phép Bổ. “Khai” có nghĩa khai phóng, mở mang, có ý không bế tắc. “Trong Bổ có
Khai” là nói bổ phải linh hoạt không gây trì trệ. Thuốc bổ ích phần nhiều thuộc
loại nhớt trệ mà người bị chứng Hư phần nhiều cũng do khí huyết không vận chuyển,
dùng một vị tư bổ, tức là bảo bổ vớ vẩn, bổ làm nhớt thêm. Nếu quả là trong
hàng ngũ tư bổ hùng hậu phối hợp thêm chút ít thuốc lý khí hòa huyết, thì có thể
thúc đẩy khí cơ điều hòa, huyết trôi chảy, tức là ý nghĩa “trong Bổ có Khai”,
cũng còn gọi là “kết hợp cả động và tĩnh”.
344.
Trong thuốc bổ huyết kiêm cả hoạt huyết. đó là khéo vận dụng phép bổ.
Kim - Trương Nguyên Tố
“Tạng Phủ tiêu bản dược thức - Can uất”
Câu này vận dụng cụ thể tinh thần khi
dùng thuốc bổ huyết, lý luận như đã nói ở trên, mang ngụ ý “trong bổ có khai”.
345.
Thường thêm thuốc hành huyết trong thang thuốc bổ, hiệu quả càng nhanh.
Thanh - Chu Học Hải
“Độc y tuỳ bút - Bệnh hậu điêu bổ tu
kiêm tán khí phá huyết”
dẫn lời nói của Hoạt Bá Nhân
Câu này cũng thể hiện nguyên tắc “trong
bổ có khai”. Chu Học Hải cho rằng “sau khi bị bệnh đại hàn đại nhiệt, trong mạch
lạc tất có ứ huyết không dồn quét sạch, nếu không loại trừ thì huyết mới không
lưu thông được, cuối cùng nguyên khí không phục hồi, thậm chí có khi chuyển
thành hao tổn”. Câu nói thật hợp lý, có thể tham khảo.
346.
Hư thì có thể củng cố, bệnh thực không được củng cố. Bệnh đã lâu có thể củng cố,
bệnh đột ngột không được củng cố. Nên củng cố mà không củng cố thì nhiều như nước
biển cũng có lúc cạn. Không nên củng cố mà cứ củng cố, chẳng khắc gì đóng cửa
giữ giặc trong nhà.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
– Cố lược”
Danh ngôn này khái quát những chứng cấm
kỵ và những chứng thích ứng đối với phép củng cố. Đồng thời chỉ ra những hậu quả
khi bỏ lỡ cơ hội và điều trị sai lầm.
Cố pháp là phương pháp dùng những vị thuốc
cố sáp để điều trị những trường hợp khí huyết tân dịch hao tán hoạt thoát, vì vậy
nó chỉ có thể dùng cho những loại hư chứng, bệnh đã lâu ngày; lúc này cần củng
cố mà không củng cố thì khí huyết tân địch tiếp tục tiêu hao. Họ Trương nêu thí
dụ: “Dẫu nhiều như nước biển cũng cạn” là nói thẳng việc chính khí tiêu vong.
Thực chứng phát bệnh đột ngột đều thuộc tà khí ngang ngược, lúc này không nên củng
cố mà cứ củng cố, đó mới thật là đóng cửa giữ giặc trong nhà, chuốc lấy tai vạ.
347.
Vương đạo không cần hiệu quả nhanh, dùng nhiều sẽ có ích.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Hư lao”
“Vương đạo” ở đây là chỉ phép chữa điều
dưỡng chính khí, không dụng đến công phạt, nói tương đối với “Bá đạo”. Danh
ngôn này nói phép bổ hư phải điều lý thung dung tích luỹ tháng ngày để lập công
từ từ chứ không thể công hiệu ngay được. Trương Cảnh Nhạc nói bổ không mong hiệu
quả chóng” cũng theo ý tứ đó.
348.
Tà chưa rút đừng vội nói bổ, nếu bổ sẽ là nối giáo cho giặc.
Kim - Trương Tử Hòa
“Nho môn sự thân - Suy nguyên bổ pháp lợi
hại phi khinh thuyết”
Danh ngôn này nói phép Bổ phải đợi cho
tà rút hết, chỉ còn hư đơn thuần mới được ứng dụng, thể hiện đặc điểm học thuyết
công tà của Trương Tử Hòa. Tà chưa rút mà vội dùng phép Bổ là đóng cửa giữ giặc
trong nhà. Có cái tai hại giữ tà ở lại là điều càng phải chú ý. Đương nhiên
trên lâm sàng cũng có thể công bổ cũng dùng, phù chính để khu tà chứ chẳng nên
câu nệ vào câu trên.
349.
Có 3 chứng Hư yếu không chịu được phép bổ : Một là thấp nhiệt đang lấn chiếm
Trung tiêu. Hai là Can mộc thọc ngang vào vị trí của Thổ. Ba là
thầy thuốc trước đã nhầm dùng các thuốc
nhớt trệ là vít lấp Vị khí.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Y y bệnh thư - Tục truyền hư bất thụ bổ
luận”
Danh ngôn này tổng kết 3 nguyên nhân chứng
hư không chịu được thuốc bổ, thật là lời khuyên răn có giá trị khi ứng dụng
phép Bổ.
Thuốc uống vào không có Vị khí thì không
phát huy tác dụng, vô luận là thấp nhiệt còn tản mạn ở Trung tiêu hoặc là Can
khí phạm Tỳ (Mộc thọc ngang vào vị trí của thổ) cho đến dùng các thuốc bổ nhớt
trệ, tất cả đều khiến cho Tỳ Vị úng trệ, sự tiếp thụ vận hoá bị ngăn trở, thuốc
bổ khó mà phát huy dược lực, tự nhiên hình thành cục diện “Hư không chịu được Bổ”.
Người khéo điều trị nên phân biệt trước hãy dùng các phép thanh lợi thấp nhiệt,
sơ Can lý khí, phương hương khai Vị, đợi cho Vị khí hổi phục mới bàn đến cách bổ,
người muốn dùng thuốc bổ không thể không biết điều này.
VII. LUẬN TRỊ KHÍ HUYẾT
350.
Chữa bệnh lấy lý khí làm đầu, mà dùng thuốc lấy thông đường làm chủ yếu
Thanh - Vi Hiệp Mộng
“Y luận tam thập thiên - Dụng dược tất
tiên thông lộ”
Câu này nêu lên ý nghĩa trọng yếu, chữa
bệnh phải chiếu cố nguyên khí trước tiên, thực là lời bàn có kinh nghiệm. Người
ta lấy khí huyết làm gốc. Khí lấy thông làm thuận. Huyết lấy hòa làm quý. “Một
khi có phật uất, mọi bệnh sẽ sinh ra”. Họ Vi bàn rằng: 365 khiếu ở con người,
khiếu thông thì khí thuận. Khí thuận thường cùng lưu thông với trời đất, mà
vãng lai tương ứng với nhau, đẹp ở bên trong, thư sướng ra tứ chi, sinh phát ở
sự nghiệp, cho nên chữa bệnh phải lý khí trước tiên, mà dùng thuốc lấy thông đường
làm chủ.
Bởi vì kinh lạc người ta không thông thì
sự chuyển vận không nhanh nhẹn, thuốc không phát huy hết công năng.
Sự thông đường của thang thuốc tả khỏi
phải nói, đến như thang thuốc bổ như Tứ quân phải dùng Phục linh, Tứ vật tất phải
dùng Xuyên khung, Lục vị địa hoàng tất phải dùng Đan bì, Trạch tả, đều lấy
thông làm bổ.
Nói thật chí lý, rất là thấm thìa.
351.
Khí lấy thông làm bổ - Huyết lấy hòa làm bổ.
Đương đại - Bổ Phụ Chu
“Bồ Phụ Chu y liệu kinh nghiệm - Bát pháp vận dụng”
Câu này nêu việc bồi bổ khí huyết, là một
bí quyết tổng kết kinh nghiệm lâm sàng quý báu của Bồ Phụ Chu tiên sinh.
Khí cơ quý ở chỗ điều thuận - huyết lưu
thông quý ở chỗ hòa lợi.
Bổi bổ khí huyết cần phải trong Bổ có
Khai, trong tĩnh có động mới hợp với bản tính của khí huyết.
Một vị bổ không đúng chỗ, bổ nhớt chỉ tổ
làm trở ngại khí cơ, sáp trệ sự lưu thông của huyết, không đạt được mục đích bổ
ích. Vì vậy bổ khí nên phối ngũ với vị thuốc lý khí, bổ huyết nên phối ngũ với
thuốc hòa huyết mới là bí quyết bổ ích xác thực, có ý nghĩa chỉ đạo rất trọng yếu.
352.
Khí huyết đều trọng yếu. Bổ khí đứng trước bổ huyết. Âm dương đều cần thiết. Dưỡng
dương đứng trên phép tư âm.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc. Thuỷ Hỏa âm dương luận”
Lý Trung Tử là một nhân vật đại biểu của
học phái Ôn bổ. Câu này thể hiện tư tưởng học thuật của ông coi trọng dương
khí.
Ông cho rằng khí huyết đều trọng yếu. Âm
dương đều cần thiết. Nhưng trong quan hệ âm dương hỗ căn và cùng chuyển hoá lẫn
nhau, lại lấy Dương khí càng trọng yếu hơn. Ông nêu thí dụ rằng “vật không sinh
từ âm mà sinh từ dương, thí dụ như Xuân Hạ sinh mà Thu Đông sát vậy. Lại như cỏ
cây hướng về phía mặt trời thì tươi tốt, cái hoa nở ở nơi ấm lạnh kín đáo thì ẻo
lả... đấy là do không có Hỏa mà ức chế thuỷ. Không như thế thì không thể bình
được. Nói rõ tác dụng trọng yếu của Dương khí để duy trì sinh mạng con người.
Lý luận này của họ Lý nhằm phê phán những thầy thuốc đương thời sự thiên lệch
“cứ lăm le Tư âm, sợ sệt khi Ôn bổ”, trong lý luận của Đông y không để mất đi một
tư tưởng học thuật trọng yếu, được đời sau noi gương và phát huy.
353.
Vì khí bệnh mà liên can đến huyết, trước hết hãy chữa khí. Vì huyết bệnh mà
liên can đến khí, trước hết hãy chữa huyết.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Biện trị đại pháp luận”
Chứng trạng tật bệnh xuất hiện có trước
có sau. Nhưng bệnh phát trước là Bản, bệnh phát sau là Tiêu. Chữa bệnh phải tìm
từ Bản, có nghĩa là phải chữa bệnh phát trước. Từ Khí bệnh mà liên can đến huyết,
biểu hiện các chứng trạng đều là Huyết, nhưng Khí bệnh vốn là bệnh nguyên phát,
là bệnh Bản, chỉ có trước tiên chữa tốt bệnh nguyên phát thì cái bệnh kế phát
là Huyết bệnh tự nhiên cũng tốt.
Cùng lý lẽ ấy, từ huyết bệnh mà liên can
đến khí, nên trước tiên chữa huyết.
Điều này thể hiện tinh thần nguyên tắc
chữa bệnh phải tìm từ Bản.
354.
Khí thực thì nên thanh nên giáng. Khí hư thì nên bổ nên ôn.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Biện trị đại pháp luận”
Câu này nêu nguyên tắc chữa hai chứng
Hư, Thực ở khí phận. Khí thực phần nhiều thuộc bệnh biến do nhiều nguyên nhân dẫn
đến khí cơ úng trệ, thăng giáng mất bình thường, trong đó chứng khí nghịch càng
gặp nhiều nhất. Như ở Phế thì mất chức năng tuyên giáng, Phế khí nghịch lên,
phát sinh khái suyễn thở dốc. Ở Vị thì mất sự hòa giáng, phát sinh nôn oẹ ợ
hơi. Ở Can thì Can khí nghịch lên, phát sinh đầu đau mà trướng, mặt mắt đỏ, điều
trị nên lý khí giáng nghịch.
Một phương diện khác “Khí hữu dư sẽ là Hỏa”
cho nên chữa chứng khí thực nên sử dụng cả phép thanh. Khí hư là chỉ nguyên khí
hư suy, công năng của Tạng Phủ giảm yếu, vả lại “Khí bất túc sẽ là hàn” cho nên
chữa chứng khí hư nên sử dụng phép ôn bổ
355.
Bệnh ở Khí phận chỉ cần lưu hành khí, không cần bệnh nhẹ dùng thuốc nặng khuấy
động đến huyết. Bệnh ở huyết phận thì phải chữa kiêm cả khí, vì khí lưu thông
huyết cũng lưu thông.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Chư thống -
Hoa Ngọc Đường án”
Đây là tổng kết một số kinh nghiệm chữa
chứng đau của Diệp Thiên Sĩ. Đối với chứng đau họ Diệp tích luỹ kinh nghiệm rất
phong phú. Ông từng nêu ra lý luận “Bệnh mới mắc tại kinh, mắc đã lâu vào lạc”.
Nói lên điều trị chứng đau cần phân biệt 10 bệnh tại Khí hay tại Huyết, rồi sau
mới phân biệt điều trị.
Bệnh ở Khí phận chỉ cần hành khí tán kết
mà giảm đau không cần phải gia thêm thuốc Huyết phận, tránh được sự dẫn tà vào
huyết, không vướng vào sự khuấy động huyết phận.
Bệnh ở Huyết phận thì nên hoạt huyết
thông lạc đồng thời kiêm cả hành khí. Bởi vì Khí là soái của Huyết, khí hành
thì huyết hành, gia các vị thuốc hành khí thì có lợi cho việc lưu thông huyết và
thông lạc, nghiệm thấy lâm sàng như vậy rất tốt.
356.
Những vị thuốc bổ khí có thể dùng liều cao, vị thuốc hành khí không được dùng
liều cao.
Thanh - Chu Thanh Dật
“Tĩnh yêm thuyết y - Khí huyết bệnh dụng
dược khinh trọng luận”
Những vị thuốc bổ huyết có thể dùng liều
cao, vị thuốc hành huyết không được dùng liều cao.
Khí hư thì bổ khí. Huyết hư thì bổ huyết.
Nhưng lâm sàng nói chung thường xen vào thuốc hành khí hoặc hoạt huyết, khiến
cho Bổ mà không trệ, trái lại sẽ là bổ tác hại, bổ làm cho dính nhớt. Đây là
kinh nghiệm lâm sàng mười phần quý báu.
Nhưng nên chú ý các loại thuốc hành khí
hoạt huyết chỉ nên dùng thang nhẹ nhàng không nên dùng liều cao. Họ Chu nói
không nhẹ không hay, không nhẹ không nhanh, không nhẹ không hoạt” là như thế.
Dùng liều cao là làm sai ý muốn, mắc sai lầm khuấy động cướp quyền. Ví dụ như
chứng Khí hư, chỉ nên trọng dụng thuốc bổ khí, và tham gia thuốc hành khí nhẹ
nhàng, nếu dùng quá liều lượng, khó mà tránh khỏi làm hao thêm cái khí đã bị
hư, tạo nên tình huống xấu. Cũng như vậy, chứng Huyết hư khó chịu đựng nổi những
vị thuốc hoạt huyết liều cao; thuốc hoạt huyết cũng không nên dùng quá nhiều.
357.
Chữa huyết thì phải điều khí
Thanh - Đường Dung Xuyên
“Huyết chứng luận - Tỵ nục”
Nêu lên tính trọng yếu khi chữa Huyết chứng
nên điều khí, nói mối quan hệ chặt chẽ giữa khí và huyết. Họ Đường nghiên cứu
sâu về Huyết chứng; câu nói này có ý nghĩa chỉ đạo chữa Huyết chứng trên lâm
sàng. Khí huyết có quan hệ chặt chẽ, khí là soái của huyết, khí có công sinh
huyết, hành huyết và thống huyết. Phát sinh Huyết chứng thường có liên quan tới
bệnh biến của Khí phận như khí nghịch thì huyết thăng, huyết tràn lên phía
trên, khí hư thì huyết thoát, huyết trào ra ngoài, điều trị nên phân biệt dùng
các phép giáng khí, bổ khí. Người xưa nói thấy huyết đừng vội trị huyết”, cũng
là có ngụ ý huyết bệnh thì trị khí. Đương nhiên, không chỉ có huyết chứng mới
phải điều khí, đối với tất cả những bệnh biến về huyết phận như các chứng Huyết
hư, Huyết ứ đều nên điều khí phận, đó là phù hợp quy luật chung.
358.
Huyết hữu hình không thể sinh ra nhanh. Khí vô hình cần phải củng cố gấp.
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Y môn bát pháp”
Câu này nói chứng mất huyết lượng nhiều,
điều trọng yếu phải ích khí cố thoát ngay, đây là một nguyên tắc trọng yếu khi
chữa Huyết chứng.
Huyết hư nên dùng phép bổ huyết, đó là
quy luật chung. Nhưng mất huyết lượng nhiều, khí theo huyết thoát, huyết mất sự
thống nhiếp, nhiệm vụ cấp thiết là phải đại bổ nguyên khí, cố thoát phòng tai
biến, nói chung phải uống Độc sâm thang là việc trước tiên. Lúc này nếu vẫn áp
dụng phép bổ huyết, huyết thuộc hữu hình không sinh ra nhanh, rõ ràng đối với cấp
cứu là quá chậm khó tránh khỏi biến chứng Thoát. Dùng phép ích khí ngoài tác dụng
cố thoát, còn có thể bổ khí để sinh huyết, lấy cái vô hình để sinh ra cái hữu
hình, cũng là lý lẽ dương sinh âm trưởng.
Sách “Lý hư nguyên giám” của Kỳ Thạch đời
Minh cũng có câu nói tương tự: “Tinh huyết hữu hình không sinh ra nhanh, chân
khí vô hình phải nên củng cố sớm”...
359.
Người giỏi chữa huyết, không chữa cái huyết hữu hình mà tìm tư cái khí vô hình.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Tạp thuyết - Trị
huyết luận”
Muốn chữa huyết phải bắt tay vào điều
khí, nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa khí và huyết. Khí là soái của huyết, huyết
là mẹ của khí, khí hành thì huyết hành, khí trệ thì huyết ứ... đều là nói người
khéo chữa huyết phải nên khéo điều khí, nói lên kinh nghiệm lâm sàng có giá trị
có thể tham khảo với các danh ngôn nói ở trên.
360. Huyết hư, bổ khí thì huyết tự sinh.
Huyết trệ, điều khí thì huyết sẽ thông.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Tạp thuyết - Huyết
chứng luận”
Câu này nêu các chứng Huyết hư, Huyết trệ
đều có thể luận trị theo khí, phản ánh mối quan hệ chặt chẽ khí, huyết. Khí có
thể sinh huyết, cho nên huyết hư, bổ khí thì huyết tự sinh ra. Khí là soái của
huyết, khí hành thì huyết hành, cho nên khí trệ, cần điều khí thì huyết sẽ
thông. Đương nhiên, vấn đề này mới chỉ là một phương diện. Đã thuộc về chúng
Huyết hư, Huyết trệ, dùng bổ huyết và hoạt huyết là theo phép chính trị, có thể
đồng thời phối hợp với các phép bổ khí, hành khí, không nên quá câu nệ từng câu
từng chữ.
361.
Huyết cũ không bỏ đi, huyết mới không sinh ra được.
Thanh - Đường Dung Xuyên
“Huyết chứng luận - Thổ huyết”
Câu này khái quát cơ chế bệnh lý trọng yếu
của Huyết chứng có ý nghĩa chỉ đạo về huyết chứng. “Huyết cũ” tức là “ứ huyết”.
Họ Đường nói huyết cũ tức là chỉ vào các Huyết chứng sau khi chảy ra ngoài mạch
mà còn lưu đọng ở trong cơ thể, nó cũng là “cái huyết ly kinh”. Tạo thành sản vật
bệnh lý, ứ huyết có thể dẫn đến nhiều loại bệnh chứng như các chứng đau, tóc rụng,
khát nước, hàn nhiệt, trưng hà, huyết khô lao sái v.v...
Vả lại “Cái huyết này ở cơ thể, không thể
làm thêm huyết tốt, mà trái lại trở ngại cho hoá cơ huyết mới”. “ứ huyết không
lưu thông thì huyết mới không còn sinh lý cho nên nói Huyết cũ không bỏ đi thì
huyết mới không sinh ra được”. Câu này là cơ sở lý luận cho các chứng xuất huyết
áp dụng phép hoá ứ.
362.
Đại cương về thông trị huyết chứng : Chỉ huyết là phép trọng yếu thứ nhất, Tiêu
ứ là phép thứ hai, Ninh huyết là phép thứ ba, Bổ hư là phép thu hoạch công hiệu.
Thanh - Đường Dung Xuyên
“Huyết chứng luận - Thổ huyết”
Câu này bao quát nguyên tắc và từng bước
điều trị Huyết chứng của Đường Dung Xuyên - là đại cương chống sai lầm điều trị
huyết chứng.
Họ Đường nghiên cứu sâu về Huyết chứng,
sáng tác “Huyết chứng luận”, nêu ra “Đại cương thông trị về huyết chứng”, có những
phân tích sâu sắc về huyết chứng như sau: Chỉ huyết: Phàm huyết chứng phát đột
ngột, tình thế nguy cấp “lúc này nguồn gốc của chứng huyết, không rỗi hơi
nghiên cứu làm gì, chỉ lấy chỉ huyết là phép trọng yếu thứ nhất” nói là “giữ lại
một phần huyết, tức là giữ được một phần sinh mạng”. Phép chỉ huyết của họ Đường
không phải chỉ nhằm vào loại thuốc thu
rít mà là tìm tòi chữa từ gốc “Rút củi đáy nồi”. Như chứng khí nghịch Hỏa
thịnh thì điều trị bằng phép giáng khí tả Hỏa, đề xướng dùng Tả Tâm thang, nhất
là chú trọng dùng một vị Đại hoàng. Mệt nhọc thương Tỳ, đề xướng dùng Quy Tỳ
thang. Khí theo huyết thoát, đề xướng đùng Độc sâm thang.
Tiêu ứ : Sau khi huyết đã ngừng, cái huyết
ly kinh chưa tràn ra hết thì thành ứ huyết không thể quay về đường cũ, đọng lại
không đi, gây nên nguy hại, “hoặc úng mà phát thành nhiệt, hoặc biến mà thành
lao, hoặc kết hòn, hoặc đau nhói” thậm chí làm cho huyết mới đi chẳng được yên,
cho nên lấy tiêu ứ làm phép thứ hai, họ Đường nêu ra sử dụng Hoa Nhị thạch tán.
Ninh huyết : Sau khi chỉ huyết và tiêu ứ,
còn sợ huyết lại trào động, không ở Kinh yên ổn, cho nên lấy Ninh huyết làm
phép thứ ba. Ninh huyết cũng là nêu ra phép chữa từ gốc. Nói chung tìm tòi
nguyên nhân nào gây nên động huyết để dùng các phép khu tà, điều khí, lương huyết,
tả Hỏa, thanh Can, theo chứng mà chữa cho thiết thực. Nhưng họ Đường đặc biệt
coi trọng điều lý khí cơ, ông cho rằng “sở dĩ huyết không được yên, đều là bởi
khí không được yên làm yên khí tức là làm cho yên huyết”.
Bổ khí : Tức là bổ huyết. Huyết mất đã
nhiều, chưa bao giờ là âm không hư, vì vậy nên dùng bổ hư để thu công hiệu. Họ
Đường nêu ra phép bổ huyết, chủ yếu là có thể ứng dụng sau khi tà khí đã quét sạch.
Xem xét bốn phép, đều xoay quanh nguyên
tắc chỉ huyết và phục hồi chính khí, tiền hô hậu ứng, chiếu cố cả tiêu bản đủ mở
mang kiến thức cho hậu học.
363.
Phàm Huyết chứng, tất cả lấy trừ ứ làm chủ yếu.
Thanh - Đường Dung Xuyên “Huyết chứng luận
- ứ huyết”
Câu này tham khảo với câu trên. Nêu lên
một nguyên tắc trọng yếu chữa Huyết chứng. Đường Dung Xuyên là đại gia chữa Huyết
chứng, lấy tiêu ứ làm cương lĩnh lớn thông trị Huyết chứng. Đó là cống hiến trọng
yếu về lý luận chữa Huyết chứng của ông. Các chứng xuất huyết, đã ly kinh mà
chưa rời cơ thổ, tức là ứ huyết, nó không hợp với loại huyết tốt. “Huyết cũ
không rút, huyết mới không sinh ra”. “Hoặc úng lại thành nhiệt, hoặc biến thành
Lao, hoặc kết hòn cục, hoặc đau nhói, lâu ngày biến chứng chưa thể lường trước.
Phải coi trọng việc tiêu trừ để tránh tai vạ về sau”. Người đời sau đem lý luận
này khái quát thành cụm từ “trừ ứ sinh mới”.
364.
Thổ huyết có 3 phép chủ yếu : Nên hành huyết không nên chỉ huyết, nên bổ Can
không nên phạt Can, nên giáng Khí không nên giáng Hỏa.
Minh - Mậu Trọng Thuần
“Tiên Tình Trai - Y học quảng bút ký -
Thổ huyết”
Câu này họ Mậu nêu ra quan điểm chữa chứng
Thổ huyết, trở thành lời bàn
trứ danh về lý luận Huyết chứng của Đông
y. Nguyên vãn như sau:
Nên hành huyết không nên chỉ huyết: Huyết
không theo kinh lạc, là do khí nghịch úng tắc ở trên. Hành huyết thì huyết sẽ
đi theo đường kinh lạc, không làm ngừng mà tự ngừng. Nếu chỉ huyết thì huyết
ngưng, huyết ngưng thì phát nhiệt, sợ ăn hình thành loại bệnh ngoan cố
Nên bổ Can, không nên phạt Can: Kinh
nói: Năm Tạng chứa tính khí mà không tả ra. Can là chức Tướng quân, chủ về chứa
huyết. Thổ huyết là do Can mất chức năng. Dưỡng Can thì Can khí bình mà huyết
có chốn về. Nếu phạt Can thì Can hư không chứa huyết nữa, huyết càng chảy không
ngừng.
Nên giáng khí, không nên giáng Hỏa : Khí
hữu dư sẽ là Hỏa. Khí giáng tức là Hỏa giáng. Hỏa giáng thì khí không bốc lên.
Huyết theo khí mà đi, sẽ không có cái lo huyết tràn lên khiếu trên nữa. Giáng Hỏa
tất phải dùng thang thuốc hàn lương trái lại làm thương Vị khí. Vị khí tổn
thương thì Tỳ không thống huyết được, huyết càng không trở về kinh”.
Đạo lý nói như vậy là rõ, rất có giá trị
tham khảo trong lâm sàng. Đương nhiên cũng không nên câu nệ, nếu như Thổ huyết
đầy chậu đầy bát, tình hình nguy cấp, lúc này lại phải chữa Tiêu bệnh, nên lấy
chỉ huyết làm chủ yếu.
Nếu như Can khí hoành nghịch hoặc Can Hỏa
bốc lên dẫn đến thổ huyết lại nên lấy sơ tiết Can khí hoặc giáng liễm Can Hỏa
làm chính trị, không nên câu nệ vào thuyết bổ Can. Mặt khác, Thổ huyết do khí
nghịch gây nên thì nên giáng khí. Nếu do Hỏa nghịch gây nên lại nên giáng Hỏa.
Giữa giáng Hỏa với giáng khí không nên lẫn lộn bàn chung đấy mới là vấn để cần
nêu ra cụ thể.
365.
Thực Hỏa thổ huyết, nên thanh nên giáng. Hư Hỏa thổ huyết, nên bổ nên hòa.
Thanh
- Vương Húc Cao
“Vương Húc Cao yán - Thổ huyết”
Nêu lên yếu lĩnh phép chữa Thổ huyết do Hỏa
hư, thực gây nên có quy củ rõ ràng. Thổ huyết do Hỏa gây nên có hư, thực. Thực
chứng phần nhiều do Hỏa thịnh khí nghịch, bức huyết đi bừa, điều trị nên thanh
Hỏa giáng khí. Hư chứng thì do âm hư Hỏa vượng, Vị mất hòa giáng gây nên, điều
trị nên bổ âm hòa Vị. Nguyên nhân bệnh hai loại này khác nhau, phép trị không
giống nhau không thể lẫn lộn.
366.
Chữa băng có 3 phép : Lúc đầu thì chỉ huyết. Thời kỳ giữa thì thanh nhiệt lương
huyết, để lọc cái nguồn. Thời kỳ cuối thì bổ huyết, phục hồi như cũ.
Thanh - Tiêu Canh Lục
“Nữ khoa kinh luân” dẫn lời của Phương Ước
Đây là một tổng kết trứ danh về chữa chứng
Huyết bằng thể hiện nguyên tắc “cấp thì trị tiêu, hoãn thì trị bản”.
Băng lậu tuy thuộc một bệnh, nhưng phát
bệnh có chia ra Hoãn Cấp. Huyết băng là chỉ xu thế cấp, là cấp chứng lượng xuất
huyết lớn, nếu không nhanh chóng chỉ huyết có thể tạo nên Thoát chứng, cho nên
thời kỳ đầu nên lấy chỉ huyết là nhiệm vụ trước tiên, cũng là ý nghĩa vít lấp
dòng chảy, thể hiện tinh thần “cấp thì trị tiêu”. Nguồn gốc bệnh này phần nhiều
do huyết nhiệt phát sinh cho nên lại không thể dùng một vị thuốc cố sáp, mà nên
áp dụng phép chữa thanh nhiệt lương huyết, để lọc sạch từ nguồn gốc, thể hiện
nguyên tắc chữa bệnh tìm từ gốc. Thời kỳ cuối vì tiền đề là mất huyết, cho nên
dùng phương pháp bổ huyết làm tốt về sau để phục vụ hồi như cũ. Phép ngăn lấp,
thanh lọc và phục hồi như cũ là ba phép lớn để chữa Huyết băng, ba phép này
không tách rời hoàn toàn. Phương Ước có nói: Nếu chỉ ngăn lấp dòng chẩy mà
không thanh lọc cái nguồn thì cái thế làm cho trời quang không sạch hết. Nếu chỉ
thanh lọc mà không phục hồi như cũ thì cô dương nổi lên không ngớt, không thể
không xem xét.
Cần nói rõ thêm, chứng Huyết băng cũng
có khi do khí hư mà phát sinh, thì lúc này thanh lọc cái nguồn lại không nên áp
dụng phép thanh nhiệt lương huyết.
367.
Thầy thuốc không biết phép chữa ở đường Lạc thì càng chữa càng vô cùng
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Chư ung”
Diệp Thiên Sĩ là người đầu tiên sáng lập
lý luận “Bệnh lâu vào Lạc” cho rằng tà khí quấy rối lâu ngày tất vào huyết lạc.
Đối với điều trị bệnh ở Lạc cũng tích luỹ kinh nghiệm phong phú, là phương pháp
đủ cho đời sau chọn dùng.
Về bộ vị bệnh ở Lạc, họ Diệp cho rằng:
“Tà không ở Biểu”, “phát tán mà không khỏi”, “Tà không ở Lý”, “công mà không dồn
được”, “Bổ chính để đuổi tà, chính với tà cùng bám trụ thì vô ích”.
Thầy thuốc không hiểu điều đó, “dùng thuốc
hàn ôn khắc nghiệt, lý khí trục huyết, tất cả là chưa dành công phu giảng giải
bệnh ở lạc” cho nên nói càng chữa càng vô cùng”.
Họ Diệp chữa bệnh ở Lạc, đề xướng cơ sở
dùng thuốc cay nhuận để thông Lạc, dùng các vị thuốc như Tân giáng. Toàn phúc,
Thanh thông, Đương quy, Đào nhân, Bá từ nhân v.v.. Nếu có âm hàn, lại kèm theo
thuốc tân ôn.
Bệnh ở Lạc lâu ngày, không dùng thang
thuốc mạnh thì vô hiệu, nêu ra phép dùng các thuốc sâu kiến len lỏi, khoét sâu
vào căn bệnh và nêu ra cách dùng thuốc viên theo cái ý từ từ “mưa đầm thấm
lâu”. Đủ thấy công phu của họ Diệp là sâu sắc, nếu nắm vững thì chữa bệnh ở Lạc
không đến nỗi “càng chữa càng vô cùng”.
VIII. KHUÔN PHÉP DÙNG PHƯƠNG DƯỢC
368.
Cốt yếu của phép điều trị là phải chuyên nhất không pha tạp mới là xử trí giỏi.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Truyền trung lục -
Luận trị thiên”
Danh ngôn này khái quát tư tưởng học thuật
của Trương Cảnh Nhạc chữa bệnh quý ở tinh vi chuyên nhất, phản đối việc dùng
thuốc pha tạp. Họ Trương nghiên cứu giảng giải biện chứng phải tìm đến gốc,
dùng thuốc chuyên nhất tinh vi. Ông cho rằng: “Bởi vì bệnh tật trong thiên hạ
biến thái tuy nhiều, nhưng cái gốc chỉ là một. Phương thuốc trong thiên hạ tuy
có nhiều phép chữa, đối chứng chỉ là một . Cho nên đạo lý chữa bệnh, phải nắm
đích xác là hàn thì phải làm tan bỏ hàn, đích xác là nhiệt thì phải thanh bỏ
nhiệt. Đánh bật được gốc thì mọi chứng trừ được hết, cho nên Nội kinh nói: “Chữa
bệnh phải tìm từ gốc”. Vì thế khi khám bệnh trước hết phải tìm ở gốc bệnh rồi
sau mới dùng thuốc... đã nắm được cái cốt yếu thì chỉ dùng một vài vị thuốc là
có thể trừ gốc bệnh, cho dù bệnh có ngoan cố sâu nặng, cũng chỉ dùng đến năm
sáu vị, bảy tám vị cũng đã là nhiều”. Họ Trương còn phê phán y giới đương thời
lan truyền một khuynh hướng “hễ loại nào có thể phơi sấy được thì khi dùng
thang thuốc không hàn không nhiệt, hoặc kiêm bổ kiêm tả, xác thực là sử dụng lại
còn ca ngợi là “ổn đáng”, như thế sao lại lấy cái đắp vá vào sự thiên lệch để cứu
cái tệ hại hay sao? Lại còn có trường hợp dùng để chữa phong, chữa Hỏa, chữa đàm, chữa thực cũng đem dùng cả, lại còn ca
ngợi là “hoàn hảo chu đáo”. Như thế sao lấy cái gốc để làm cái chữa ngọn hay
sao? Đã như vậy, có thể nói là chữa thuốc thuốc cũng chưa thấu đáo, còn mong gì
đạt tới ổ bệnh? Cho dù ngẫu nhiên mà khỏi, cũng chẳng thể biết cái năng lực của
bồi bổ, cái công của sự công phạt. Nếu lại là trường hợp không khỏi, cũng chẳng
thể biết cái hại của bồi bổ, và cái dở ở chỗ làm tiêu tán, rõ là già đời mà vẫn
chẳng bằng trẻ nít chưa mọc răng, tác hại ở chỗ không có định kiến, ứng dụng điều
trị không tinh tường”. Hôm nay chúng ta ôn lại đoạn y luận trên, vẫn còn cảm nhận
ý nghĩa hiện thực mười phần sâu sắc.
369.
Dùng thuốc kỵ nhất pha tạp, trong một phương mà có một, hai vị thì khó mà thu
công hiệu.
Thanh - Lục Dĩ Khoát
“Lãnh ô y thoại - quyển 1 - Thần dược”
Y gia xưa nay đều chú trọng dùng thuốc
tinh vi thuần nhất, phản đối pha tạp, đó là chính xác không nghi ngờ gì nữa.
Dùng thuốc như dùng binh, đó là việc làm bất đắc dĩ. Vị thuốc vốn là vị vá víu
sự thiên lệch và tháo gỡ cái hại mà sử dụng, có thể dùng để chữa bệnh, cũng có
thể gây nên bệnh, cho nên dùng thuốc loạn xạ linh tinh, chỉ làm cho ảnh hưởng đến
hiệu quả của vị thuốc chủ yếu mà thôi, thậm chí còn làm rối loạn khí huyết,
trái lại bất lợi cho người bệnh.
Họ Lục dẫn chứng một bệnh án rất có sức
thuyết phục như sau: “Mùa xuân năm Mậu ngọ, tôi từ Võ Lâm trở về, người lái đò
họ Trần mắc bệnh Ôn, sốt cao không mồ hôi, bẩy ngày không ăn được gì, miệng
khát, ngực bĩ đầy, khái thấu, đau đầu, mạch Sác bên hữu rõ hơn bên tả. Thầy thuốc
địa phương kê đơn, dùng Liên kiều, Qua lâu bì, Ngưu bàng tử, Đông tang diệp, Khổ
hạnh nhân, Hắc Sơn chi, Tượng bối, Trúc diệp, Lô căn, vị thuốc dùng đều trúng bệnh
tiếc rằng dùng nhiều hai vị Linh dương giác và Chỉ xác, uống 1 thang, bệnh
không giảm, ngực khó chịu, nhiệt nặng hơn. Mời tôi đến khám chữa. Tôi bỏ đi
Linh dương giác, Chỉ xác, gia Đậu sị, Bạc hà, uống 1 thang, mồ hôi ra khắp người,
ngay đó mình mát và ăn được. Lại bỏ Đậu sị, Ngưu bàng, gia Thiên hoa phấn, uống
2 thang, khỏi bệnh. Nhân đó suy nghĩ thói tục chữa Ôn nhiệt bệnh, động đến là
dùng ngay Linh dương giác, Tê giác, tà vốn ở Phế Vị lại truyền dẫn vào Tâm Can,
bệnh nhẹ trở nên nặng, trách nhiệm là như thế!”
Cố danh y đương đại Bồ Phụ Chu cũng từng
nói: “Dùng thuốc cốt ở thuần nhất, rất kỵ pha tạp, một phương mà dùng bừa một
hai vị không liên can gì, khó mà thu được công hiệu” so với danh ngôn này là nhất
trí. Đương nhiên, muốn đạt được dùng thuốc có tác dụng tinh vi thuần nhất không
phải là việc dễ mà cẩn phải có kinh nghiệm thực tiễn phong phú và phải có bề
dày lý luận sâu sắc.
370.
Dùng thuốc không trật tự như dùng binh không có kỷ luật, tuy có tướng mạnh,
nhưng phải vừa mạnh vừa có trách nhiệm, giống như gỡ rối tơ, từ từ thì gỡ được
đầu mối, hấp tấp thì càng gỡ càng rối.
Kim - Lý Đông Viên
“Chân châu nang chỉ trưởng - Dụng dược
tu tri”
Họ Lý dùng thuốc như ngọn cờ độc lập,
thường là vị thuốc thì nhiều nhưng lượng lại nhẹ, chủ yếu đạt được phép tắc phối
ngũ. Danh ngôn này nói lên tính trọng yếu trong việc nghiên cứu phối ngũ dùng
thuốc, tỉ dụ chặt chẽ, khiến cho người ta phải suy nghĩ. Đông Viên phối hợp
phương thuốc quân, thần, tá, sư rất trật tự, phối hợp thăng giáng phù trầm,
phép tắc rất nghiêm khắc có thể là phương pháp có hiệu quả.
Tục ngữ nói: “Bệnh đến như ngựa tế, bệnh
lui như rút tơ”. Chữa bệnh có khi như gỡ sợi tơ, tơ càng rối lại càng phải cẩn
thận, càng phải nhẹ nhàng, đó cũng là ngụ ý nghiên cứu dùng thuốc phải linh lợi
nghiêm chỉnh không nên nóng vội “từ từ thì có thể gỡ được đầu mối, nôn nóng thì
càng gỡ càng rối thêm” có thể là lời nói cảnh báo thiết thực.
371.
Nhẹ nhàng linh hoạt là cái y “phép chữa trọn vẹn, tinh giảm nắm chắc, xem tựa
bình thường, thích hợp tốt đẹp”.
Thuần nhất chính xác ý nói là “êm hòa tHỏa
đáng loại trừ phức tạp, phối ngũ chặt chẽ, không rơi vào sự nông cạn”
Đương đại “Con đường của lão Trung y nổi
tiếng - Tập 3. Tinh thần học tập và thành tựu y học chữa bệnh của y sư Bồ Phụ
Chu”
Câu này tổng kết kinh nghiệm dùng thuốc
của bản thân danh y Bổ Phụ Chu, thể hiện phong cách dùng thuốc thuần thục của
nhà Trung y lớn đương đại. Họ Bổ dùng thuốc coi trọng nhẹ nhàng linh hoạt,
trong chỗ nhẹ nhàng bình đạm thấy được thần kỳ; hết sức thuần nhất chính xác, từ
chỗ rèn luyện đơn giản để thu hiệu quả, dần dần hình thành phong cách chữa bệnh
“vị thuốc ít, liều lượng nhở, giá phải chăng, hiệu quả tốt, tìm tòi thực tế” đạt
tới mức lò lửa thuần sắc xanh, về nét đặc sắc dùng thuốc của họ Bổ, trong sách
“Bồ Phục Chu y liệu kinh nghiệm” đã quy nạp, xin trích những yếu điểm sau đây để
chứng minh cho danh ngôn này:
Chế phương thuốc phải nghiêm, chọn
phương thuốc phải chuẩn xác, chế phương phải xét phối ngũ, vị thuốc có ranh giới
chủ thứ, thể hiện nắm chắc sự mâu thuẫn. Gia giảm có qui tắc, vận dụng linh hoạt.
Dùng thuốc cần thuần nhất, tối kỵ pha tạp. Trong một phương mà dùng ẩu một vài
vị thuốc không liên can gì đến bệnh thì khó mà công hiệu. Liều lượng vị thuốc
phải thích hợp, không nên quá to, chú ý giữ gìn Vị khí, không dùng thuốc vượt
qua ổ bệnh. Bệnh càng phức tạp, dùng thuốc càng phải tinh vi, phải tìm được trọng
điểm, phòng tránh tác hại. Thuốc không cần vị quý, đùng phải tHỏa đáng. Sự quý
hay rẻ của vị thuốc không quyết định được hiệu quả, chỉ có vận dụng tHỏa đáng mới
chữa được bệnh. Những điều trên đều xuất phát từ phong cách dùng thuốc nhẹ
nhàng thuần nhất và chính xác của Bồ Phụ Chu.
372.
Dùng thuốc quý quý ở thích nghi, phép vận dụng nên ứng biến. Câu nệ xem thường
thì dùng Nhân sâm cũng giết người. Nắm chắc sự ứng biến thì dùng Ô đầu cũng cứu
được mạng.
Minh - Du Biện
“Tục y thuyết - Dược quý quyền biến”
Danh ngôn này nêu việc chữa bệnh dùng
thuốc phải biết lúc thường lúc biến, dứt khoát không câu nệ ở phép thông thường,
bám vào đời xưa mà không biến hoá. Dùng thuốc quý ở chỗ hợp với bệnh tình, phép
chữa phải theo biến hoá của bệnh tình mà có thay đổi, nếu câu nệ vào phép thông
thường, có khi dùng Nhân sâm để bổ nhầm cũng có thể giết người. Nếu linh hoạt
quyền biến, tuy dùng vị mãnh liệt như Ô đầu cũng có thể cứu mạng, thầy thuốc
không thể không biết điều đó.
373.
Gặp bệnh đáng thuốc thì Phụ tử , Đại hoàng, Tỳ sương cũng đều là thuốc rất quý
báu. Gặp bệnh không đáng uống thì Sâm, Kỳ , Lộc nhung, Câu kỷ cũng đều như Tỳ
sương.
Thanh - Trịnh Khâm An
“Y pháp viên thông - Dụng dược tệ đoan
thuyết”
Khuyên răn thầy thuốc phải cẩn thận nắm
chắc bệnh cơ mà biện chứng dùng thuốc. Nếu thuốc không đúng với chứng, tuy dùng
những vị nói là thuốc bổ như Sâm, Kỳ, Lộc nhung. Câu kỷ cũng có thể hại người
như dùng Tỳ sương. Dùng thuốc đúng với chứng cho dù vị thuốc cho dù độc mãnh liệt
như Phụ tử, Đại hoàng, Tỳ sương cũng có thể cứu người.
374.
Thuốc quý ở trúng bệnh không bàn đến quý hay xoàng, cốt ở chỗ khéo dùng mà
thôi.
Thanh - Dư Thính Hồng
“Dư Thính Hồng y án - Thấp tý”
Quan điểm dùng thuốc quý ờ trúng bệnh,
không thể đo lường bằng sự đắt hay rẻ, đều có ý nghĩa giáo dục vô luận là thầy
thuốc hay là bệnh nhân. Thuốc quý ở trúng bệnh, lấy khỏi bệnh làm chuẩn, không
nên đo lường vào trị giá. Như câu danh ngôn trên đã nói: “Bệnh mà không đáng uống,
thì đến Sâm, Kỳ, Lộc nhung, Kỳ tử cũng hại như dùng Tỳ sương”. Có người cho là
thuốc càng quý càng là thuốc tốt, làm thầy thuốc tối kỵ đón ý tâm lý sai lầm của
người bệnh. Lão trung y nổi tiếng đương đại Vi Văn Quý cũng từng nói: “Thuốc
không ở chỗ quý mà chuẩn xác mới là thuốc hay”.
375.
Bệnh không có hình bình thường. Thầy không có phương thuốc bình thường. Thuốc
không có vị bình thường.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Dụng dược tu tri Nội
kinh chi pháp luận”
Tật bệnh biến hoá đa đoan, không biểu hiện
cố định. Thầy thuốc do đó cũng không nên dùng phương thuốc khuôn sáo cố định.
Danh ngôn này không những nói lên tinh thần biện chứng luận trị, dùng thuốc phải
linh hoạt mà còn phản đối thói thường không biến hoá. Nhà Trung y lớn đương đại
Bổ Phụ Chu từng nói: “Phải nên là một thầy thuốc tốt, có một bí quyết riêng, điều
trị mỗi người thích hợp một phương. Có phương làm chết người, có phương cứu sống
người, không được đại khái khi dùng thuốc, lập phương” cũng là ý tứ danh ngôn
trên.
376.
Binh không hướng đạo thì không đến được cõi bờ quân giặc. Thuốc không vị dẫn sứ
cũng không đến ổ bệnh.
Thanh - Vưu Tại Kính
“Y học độc thư ký - Sài hồ mai liên tán
La thị tần giao miết giáp tán phương luận”
Danh ngôn này dùng phương pháp tỉ loại nối
nên tác dụng của thuốc dẫn kỉnh, xác thực là nội dung trong yếu trọng lý luận
phối ngũ chế phương của Đông y. Phàm vị thuốc có thể dẫn đạo các vị thuốc khác
tới bộ vị bệnh biến hoặc đến một kinh mạch nào đó, gọi là “thuốc dẫn kinh”. Ví
dụ bệnh ở thượng chi dùng Quế chi, bệnh ở hạ chi dùng Ngưu tất, bệnh ở yết hầu
dùng Cát cánh; Thái dương kinh dùng Khương hoạt; Dương minh kinh dùng Thăng ma,
Thiếu dương kinh dùng Sài hồ v.v.. Đều là những ví dụ thực tế. Chọn dùng những
thuốc dẫn kinh thích hợp rõ ràng làm cho sức thuốc được tập trung nâng cao hiệu
quả, đó là điều được đông đảo y gia công nhận.
377.
Không biết kinh lạc mà dùng thuốc, sai lầm quá lớn tất sẽ không hiệu quả nhanh.
Cố chấp theo kinh lạc dùng thuốc, sai lầm cũng do câu lệ, trái lại chuốc lấy hại.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên lưu luận - Trị bệnh bất tất
phân kinh lạc”
Danh ngôn này biện chứng về vấn đề cách
nhìn sử dụng thuốc quy kinh như thế nào, lập luận công bằng rất thấm thìa.
Trương Nguyên Tố đời Kim đề xướng lý luận dùng thuốc qui kinh, cho là mỗi loại
thuốc đều có sở trường, tác dụng đều tập trung vào một tạng nào, một kinh nào,
lâm sàng lợi dụng sở trường đó mà phát huy tác dụng đích thực là bộ phận trọng
yếu trong lý luận Đông y đến nay vẫn được ứng dụng. Từ Linh Thai vốn không phản
(lối lý luận quy kinh vị thuốc, ông cho rằng “không biết dùng thuốc theo kinh lạc
là sai lẩm quá lớn, tất sẽ không hiệu quả nhanh”. Nhưng khí huyết người ta
không nơi nào không có đường, công năng của vị thuốc cũng không nơi nào là
không đạt tới, như “các loại Sâm, Kỳ chẳng nơi nào là không bổ, các loại Tỳ, Trậm
(Tỳ là Tỳ sương, Trậm là lông chim Trậm. cả hai vị đều rất độc - ND) chẳng chỗ nào là không độc”, “tựu
trung chẳng qua có chỗ sở trường mà thôi”, vì vậy họ Từ nói: “Lấy vị thuốc này
là có thể chữa được bệnh ở Kinh này thì được, chứ nói lấy vị thuốc này riêng chữa
cho bệnh của Kinh này thì không được.
Nói là bệnh ở Kinh này thì nên dùng vị
thuốc này thì được, còn bảo là vị thuốc này không vào được các Kinh khác là
không được, cho nên nói cố chấp theo Kinh lạc mà dùng thuốc là sai lầm do câu nệ”.
Cách nhìn nhận cho chính xác, dùng thuốc nên hết sức chiếu cố đến quy Kinh, nếu
không thì chuốc lấy cái lỗi tràn lan; nhưng cũng không nên câu nệ quá đáng,
trái lại mang lấy cái hại cố đấm ăn xôi. Nên nói là nhận thức này của họ Từ bổ
sung chỗ bất túc cho lý luận dược vật qui kinh của Trương Nguyên Tố, mở rộng tầm
nhìn cho y giới về sau.
378.
Khuyên người dùng thuốc thà mắc lỗi vi bất cập chứ đừng mắc lỗi vì thái quá
Minh - Uông Cơ
“Thạch Sơn y án - Vinh Vệ luận”
Câu này nói cho mọi người một nguyên tắc
dùng thuốc quả là có lịch duyệt.
Dùng thuốc thái quá hay bất cập ý nghĩa
chủ yếu là ở mức độ mãnh liệt hay liều lượng dùng vị thuốc nhiều hay ít. Mạng
người rất trọng, giá đáng ngàn vàng, làm thầy thuốc khi dùng thuốc nên cẩn thận
chuẩn xác, dùng thuốc bất cập còn có thể tăng thêm, không đến nỗi tạo nên tai vạ.
Nhưng dùng thuốc thái quá, thuốc lớn hơn ổ bệnh, khắc phạt quá tay thì có thể
chuốc lấy nguy hại rất lớn, đặc biệt là khi công phạt không chỉ như thế há
không cẩn thận hay sao. Dụ Gia Ngôn đời Thanh cũng từng nói: “Phàm dùng thuốc
thái quá hay bất cập, đều là không thích hợp, mà bất cập còn có thể chữa thêm
chứ thái quá thì bệnh rút mà thuốc còn đấy, cái hại càng ác liệt” cũng là nói
lên quan điểm như trên.
379.
Con đường dùng thuốc, nên hạn chế từ liều nhỏ, khi kiến hiệu hãy tăng dần.
Thanh - Lý Quan Tiên
“Tri y tất biện. Luận sơ chẩn dụng dược”
Câu này nêu lên nguyên tắc dùng thuốc đối
với người bệnh mới khám lần đầu, ý nghĩa gần giống với danh ngôn 378, có thể
tham khảo. Lý Quan Tiên nhắc lại: “lập phương khi mới khám bệnh lần đầu, nên hạn
chế từ liều nhở, bất cập còn có thể tăng lên, chứ thái quá thì khó mà cứu vãn”.
Đương nhiên ông còn nêu thêm lý luận: “cái đạo dùng thuốc, chỉ ở ranh giới mất
còn nguy cấp, bệnh nặng mà thuốc nhẹ thì khó cứu vãn, lúc này không dùng phép mạnh
thì không được, trái lại thì theo phép trước nên liều nhở, có hiệu quả mới tăng
dần”... Đó là lý luận chính đáng có thể chấp nhận
380.
Điều tránh khi dùng thuốc ở chỗ cứ muốn cho nhanh.
Kim - Lý Đông Viên
“Chân châu nang chỉ trưởng. Dụng dược tu
tri”
Câu nói này họ Lý chỉ về bệnh biến nội
thương, vì phần nhiều do công năng của tạng phủ bị tổn thương, âm dương khí huyết
mất điều hòa, xu thế bệnh từ từ, khó mà thành công nhanh, vì thế dùng thuốc chữa
bệnh nội thương, quý ở chỗ từ từ, bổ mạnh công mạnh dễ gây hỏng việc. Họ Lý
nói: “Muốn nhanh thì dùng thuốc hàn nhiệt ôn lương hành tán bổ tả khó tránh quá
đáng, công chưa thấy đâu, cái hại đã theo sau”. Câu này đúng là phải tham khảo
khi dùng thuốc điều trị nội thương.
381.
Bệnh nặng mà thuốc nhẹ, chén nước khó dập tắt được xe củi đang cháy. Bệnh nhẹ
mà thuốc nặng, chân khí không vận hành nổi mà thuốc hết thì hóa đàm. Ngạn ngữ
nói keo nhiều thì khó dính” là như thế.
Thanh - Vi Hiệp Mộng
“Y luận tam thập thiên - Dụng bổ pháp tu
thức kỳ kinh, đắc kỳ pháp”
Khuyên
mọi người dùng thuốc nặng nhẹ nên thích nghi, thái quá hay bất cập đều vô ích.
Vi Hiệp Mộng nói câu này khi bàn về phép bổ, thực là có phép chữa thích hợp. Bệnh
nặng mà thuốc nhẹ, thuốc không đủ chống với bệnh cũng giống như chén nước dội
vào xe củi bốc cháy, đương nhiên không chữa được bệnh. Bệnh nhẹ mà thuốc nặng,
nếu là thang công đạt thì hại chính khí người ta, nếu là thang thuốc bổ thì úng
trệ khí huyết, hơn nữa thuốc sẽ hoá đàm làm khó chịu cho người. Nước keo là thứ
làm dính mọi vật, nhưng trái lại nếu dùng nhiều quá sẽ không dính sẽ mất đi tác
dụng làm dính mọi vật. Câu ngạn ngữ hình tượng “keo nhiều thì khó dính” này nói
lên dùng thuốc bổ quá liều lượng có khi không đạt được tác dụng bổ ích đáng để
thức tỉnh mọi người.
382.
Mắc bệnh nặng, dùng thang thuốc liều cao để ức chế thì bệnh khí không còn nữa.
Mắc bệnh nhẹ, dùng thang thuốc nhỏ để tấn công thì chính khí không tổn thương.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên lưu luận - Y đạo thông trị
đạo luận”
Danh ngôn này chỉ việc dùng thuốc tấn
công bệnh phải căn cứ vào bệnh tình nặng nhẹ mà quyết định dùng liều lượng thuốc
lớn hay nhở, miễn là thuốc với bệnh phải tương đương. Mắc bệnh nặng tức là xu
thế bệnh nguy cấp nghiêm trọng, tà khí đang thịnh, nên sử dụng thang thuốc lớn
liều cao khiến cho đủ sức tấn công tà khí mà bệnh khí không còn nữa. Nếu thuốc
dùng liều nhẹ mà bệnh nặng, khác gì đổ một chén nước vào xe củi bốc cháy, vừa
vô bổ vừa mắc sai lầm chiến lược. Người mắc bệnh nhỏ cũng là bệnh tà nhẹ và ở
nông, lúc này dùng thuốc tấn công tà khí, nên dùng thang thuốc nhỏ và nhẹ, đạt
được mục đích khu tà mà không tổn thương chính khí. Nếu dùng thuốc nặng để chữa
bệnh nhẹ thì khó mà tránh khỏi cái lỗi dùng thuốc quá tay vượt qua ổ bệnh, khắc
phạt thái quá, khiến cho tổn thương chính khí. Danh ngôn này tuy nói về đạo lý
tấn công bệnh thực ra là đối với Hư chứng điều trị các bệnh chứng khác cũng đều
mang ý nghĩa chỉ đạo ấy.
383.
Xét bệnh dùng thuốc, thuốc tuy sát đúng, mà lập phương không có pháp đó là có
thuốc mà không có phương. Hoặc bo bo lấy một phương chữa bệnh, tuy phương tốt
mà có một vài vị không liên quan gì đến bệnh đó là có phương mà không có thuốc.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên lưu luận - Phương dược ly hợp luận”
Câu này nêu ra quy củ cho mọi người
trong lâm sàng chế phương điều khiển vị thuốc rất dễ xuất hiện hai điều sai
sót. Từ Linh Thai chế phương điều khiển thuốc có nghiên cứu sát đúng với bệnh
tình, vừa giữ được mức độ khuôn phép vừa không câu nệ.
Có người chế phương không nghĩ đến mức độ
khuôn phép, chỉ biết căn cứ vào bệnh mà dùng thuốc, thấy một chứng thì dùng một
vị thuốc, vừa không có
trọng điểm đáng nói, lại không nghiên cứu
gì vế phối ngũ, tuy vị thuốc có sát hợp với bệnh tình, cuối cùng vì không có
khuôn phép mức độ nên khó thu được hiệu quả tốt, đó là nói có thuốc mà không có
phương”. Một tình huống nữa là dùng phương quá câu nệ, chỉ biết dùng thành
phương trọn vẹn, chẳng nghĩ gì đến vị thuốc thích ứng hay không thích ứng đều
dùng tất cả, không linh hoạt gia giảm theo chứng, đến nỗi “phương tuy khéo chọn”
mà cuối cùng có một vài vị không liên can gì đến bệnh làm ảnh hưởng đến hiệu quả,
đó là nói có phương mà không có thuốc”. Hai loại tồn tại đó đáng để cho hậu học
suy nghĩ, cố danh y đương đại Tiên Long Hữu cũng nói một câu tương tự: “Biện bệnh
lập phương mà không gia giảm là có phương mà không có dược. Dùng vị thuốc xác
đáng, hợp làm thành phương, thế mà lại hoàn toàn không có phương pháp chủ thứ,
đó là có dược mà không có phương”.
384.
Thầy thuốc giỏi, nhìn riêng thì không vị thuốc nào là không thiết thực với bệnh
tình. Nhìn chung thì không có phương nào không có nguồn gốc của phép tắc đời
xưa.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên hậu luận - Phương dược ly
hợp luận”
Câu này nêu lên tiêu chuẩn cân nhắc dùng
vị thuốc trong phương tễ rất có
ngụ ý sâu sắc, phương với dược, có ly có
hợp. Tách ra bàn từng vị thuốc thì thấy mỗi vị thuốc đều sát hợp bệnh tình, mà
nhìn chung thì cả phương thuốc đều có quy củ thích hợp, có cả sự suy tôn phép cổ.
385.
Đánh cờ mà đối chiếu với sách sẽ thua. Câu nệ vào phương mà chữa bệnh, bệnh tất
nguy hiểm.
Thanh - Triêu Tình Sơ
“Tồn tồn trai y thoại cảo - Y học do học
dịch”
Đem tỉ dụ y học với học đánh cờ để nói lên đạo
lý chữa bệnh không thể câu nệ vào cổ phương. Học đánh cờ trước hết phải thuộc
sách dạy đánh cờ, nhưng không nên đối chiếu vào sách dạy mà ra quân, bởi vì sự
thích ứng trong sách không có nhiều biến hoá phức tạp như cuộc cờ. Học y phải nắm
chắc cổ phương, cổ phương có thể dạy quy củ cho người học nhưng không dạy người
ta khôn khéo.
Triệu Tình Sơ nói: “cố chấp vào bài thuốc
chết để cứu khỏi bệnh, gò bó theo ý muốn của ta thì mạng người chịu sao được”.
La Chi Đê đời Nguyên khi nói với hậu sinh dùng phương thuốc của người xưa từng
có câu: “Ví dụ như dỡ nhà cũ để dựng nhà mới mà không qua tay người thợ, cuối
cùng không thành công”. Tóm lại, vận dụng thành phương của tiền nhân cẩn linh
hoạt gia giảm, không nên câu nệ
386.
Người giỏi dùng phương không cố chấp theo phương mà chưa bao giờ không theo cái
gốc của phương.
Minh - Lý Diên
“Y học nhập môn - Thông dụng cổ phương
thi thoại” dẫn lời của Lý Đông Viên
Đây là giới thiệu kinh nghiệm vận dụng
thành phương, là lời nói có kiến thức uyên bác rất giá trị. Tiền nhân để lại
nhiều phương tễ có hiệu quả, đó là những tổng kết kinh nghiệm quý báu, chúng ta
nên nắm vững và cố gắng học tập. Nhưng khi vận dụng lâm sàng, vừa phải tôn trọng
phương thuốc mà không làm mất đi ý nghĩa (Lý Diên nói là “sử dụng có cốt lõi”)
lại phải căn cứ vào tình huống cụ thể mà linh hoạt gia giảm, tuỳ chứng mà biến
hoá, không nên cố chấp đóng khung vào phương thuốc, như thế mới đạt mục đích
“giỏi dùng phương mà không cố chấp theo phương chưa bao giờ không theo cái gốc
của phương”.
387.
Thành phương không ở nhiều mà ở gia giảm.
Thanh - Lôi Thiếu Quỳ
“Thời bệnh luận - Thành phương tu tổn ích luận”
Một thầy Đông y không ngại ngần gì nắm vững
một số phương tễ để ứng dụng lâm sàng, nhưng bắt đầu từ Trọng Cảnh chế phương,
tiếp đến các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh số thành phương không đếm xuể
làm sao mà ghi nhớ thuộc lòng cho hết? vì vậy một thầy thuốc Đông y ưu tú,
không cầu kỳ phải nắm số lượng thành phương nhiều hay ít mà ở chỗ khéo nắm vững
một số có hiệu quả chính xác, qua sự trùng lặp những phương tễ mà có thể tuỳ cơ
ứng biến gia giảm linh hoạt, đem những phương tễ có hạn để vận dụng, đó là ý
nói thành phương không ở số nhiều mà ở gia giảm”. Trần Thực Công đời Minh cũng
từng nói: “Phương không ở số nhiều, lòng thiết tha thì linh hoạt” cùng một ý
nghĩa với danh ngôn này.
388.
Những thuốc thảo mộc mà khí nhiều hơn thì tác dụng nhanh, lưu hành tốt. Những
thuốc thảo mộc mà vị nhiều hơn thì trệ lại mà phòng ngự tốt.
Thanh - Trương Sơn Lôi
“Dược vật học cương yếu - quyển 1”
Câu này nêu lên một kinh nghiệm, một
phương pháp độc đáo mà phù hợp thực tế về tính năng đông dược. Từ “Khí” ở đây
là chỉ về khí vị chứ không phải là từ “khí” trong “tứ khí” hàn nhiệt ôn lương của
đông dược. “Vị” là chỉ về vị đậm nhạt. Ý của câu danh ngôn này là: trong đông
được, những vị thuốc nào thiên về khí vị ngào ngạt thì tác dụng của nó hay lưu
thông nhanh chóng không phòng ngự ; những vị thuốc nào thiên về vị nồng hậu nặng
nề thì tác dụng của nó đều từ từ hay phòng ngự không lưu thông. Làm thầy thuốc
phải rõ dược lý đó để chỉ đạo dùng thuốc trong lâm sàng.
389.
Âm dược tính nhu mà đi chậm, chậm thì liên tục mà không dứt. Dương dược tính
cương mà đi gấp, gấp thì phát huy nhanh mà không thừa.
Thanh - Trần Tu Viên
“Thời phương diệu dụng - Lao chứng”
Câu này chỉ rõ tính năng dược vật có
phân ra cương nhu và phát huy hiệu quả vị thuốc có hoãn cấp khác nhau, khái
quát xác đáng đặc điểm của hai loại thuốc.
Âm dược còn gọi là Nhu dược, nói chung
chỉ vào các vị ngọt mát tư nhuận, sở trường về bổ âm, tính nó nhu (mềm mại) mà
đi chậm, phát huy tác dụng kéo dài, cho nên nói liên tục mà không dứt”
Dương dược còn gọi là Cương dược, nói
chung chỉ vào các vị ôn nhiệt khô ráo mạnh, sở trường về trợ dương, tính nó
cương (cứng cỏi) mà đi nhanh, phát huy tác dụng nhanh mà tạm thời, cho nên nói
phát huy nhanh mà không thừa”. Nắm vững đặc điểm hai loại dược vật khác nhau
đó, biết cái gì nên dùng cái gì nên tránh, rất ích lợi cho việc chế phương điều
khiển vị thuốc.
390.
Cương mà động thì đi gấp, gấp thì phát huy nhanh mà không thừa, khi phát bệnh
cũng chóng mà sát nhân cũng mạnh. Nhu mà tĩnh thì đi hoãn, hoãn thì thấm dần mà
liên tục, khi phát bệnh cũng chậm mà sát nhân cũng từ từ.
Thanh - Mạc Mai Sĩ
“Nghiên kinh ngôn - Dụng dược luận”
Câu này khái quát đặc điểm tác dụng hai
loại dược tính cương và nhu, tương tự ý nghĩa danh ngôn ở trên có thể tham khảo,
chỉ khác nhau ở chỗ câu này còn vạch ra thiếu sót của hai loại dược vật, làm thầy
thuốc phải nắm vững và rèn luyện về được tính, giữ cái lợi, tránh cái hại, thì
việc dùng thuốc mới bổ ích.
391.
Bệnh có táo thấp, thuốc có táo nhuận; loại thể chất mềm mại có nước có dầu đều
nhuận; loại thể chất khô ròn không có nước không có dầu đều táo.
Thanh - Thạch Thị Nam
“Y nguyên - Dụng dược đại yếu luận”
Nêu lên nhận thức về quy luật thuộc tính
nhuận hay táo của dược vật, chứng minh phù hợp với thực tế. Tiền nhân bàn về dược
tính phần nhiều nhìn nhận tứ khí ngũ vị ít nói đến “thể chất”.
“Thể chất” ở đây là chỉ đặc điểm chất liệu
dược vật, họ Thạch qua nhìn nhận chất liệu để phân biệt nhận thức chỗ độc đáo
nhuận hay táo của dược tính, đây là sự kế thừa phân biệt bệnh lấy táo thấp làm
“đề cương của trăm bệnh” của họ Thạch. Những chất liệu mềm mại có nước có dầu đều
thuộc thuốc nhuận, điển hình như Sinh địa, Thục địa, Thiên đông, Mạch đông,
Hoàng tinh, Bách hợp v.v.. những chất liệu khô ròn không có nước không có dầu đều
có tính táo, điển hình như Xương truật, Bạch truật, Hoàng cầm, Hoàng liên v.v..
rất có ý nghĩa chỉ đạo trong lâm sàng điều khiển vị thuốc để chữa bệnh.
392.
Bệnh táo nên dùng thuốc cao để tư nhuận. Bệnh thấp nên dùng thuốc bột để phát
tán. Bệnh táo kiêm thấp, thuốc nhuận nên đem sao hoặc vẩy nước làm viên. Bệnh
thấp hóa táo, thuốc nên đem chưng hoặc viên với mật.
Thanh – Thạch Thị Nam
“Y nguyên - Dụng dược đại yểu luận”
Danh ngôn này tổng kết việc dùng loại hình thuốc
để điều trị đối với bệnh biến hai loại táo và thấp.
Thuốc cao tư nhuận là sau khi đem vị thuốc
nấu lấy nước bỏ bã, lại đun cho đặc, hòa thêm lượng đường hoặc mật vừa phải chế
biến thành dạng nước lỏng dính. Vì nó có công năng tư nhuận dồi dào cho nên
thích hợp với loại bệnh biến có tính khô ráo. Thuốc hoàn, thuốc tán không như dạng
thuốc sắc có hàm lượng nước lớn có lợi cho táo thấp cho nên có lợi cho bệnh do
thấp tà gây nên. Nhưng đương khi táo bệnh có dấu hiệu kiêm thấp, nên đem sao
các loại thuốc nhuận để giảm bớt thuỷ khí tránh cái hại ràng buộc thấp tà, hoặc
là vẩy nước làm dạng thuốc hoàn chú không dùng mật làm hoàn, cũng là cái ý ngăn
ngừa sự bất lợi do thấp tà gây nên.
Trái lại, nếu bệnh thấp có xu thế hoá
táo, lại nên đem chưng loại thuốc chống táo để giảm bớt tính chất táo, tránh được
sự chuyển hoá táo của tật bệnh” hoặc là dùng mật làm dạng thuốc hoàn để tăng
tính năng tự nhuận.
Vô luận là táo bệnh hay thấp bệnh, những
loại hình ấy nhằm vào bệnh biến mạn tính mà nói, còn đối với bệnh Cấp tính hoặc
bệnh biến nặng thì dùng dạng thuốc sắc lại hay hơn.
393.
Phép sắc thuốc càng nên bàn kỹ, thuốc có hiệu quả hay không toàn là ở đó.
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên hậu luận - Tiễn dược pháp
luận”
Nói lên phương pháp sắc thuốc rất trọng
yếu, người thầy thuốc phải lưu ý coi trọng. Người xưa đối với công việc này dạy
bảo rất kỹ càng, những lời dặn sau cổ phương, phần nhiều không giống nhau. Ví dụ:
Ma hoàng, trước hết phải sắc Ma hoàng gạt bỏ bọt rồi sau mới bỏ các vị thuốc
khác vào cùng sắc, đó là phép sắc chủ dược trước tiên. Lại như Quế chi thang,
sau khi uống thuốc ăn một ít cháo loãng để giúp sức thuốc v.v.. thật là không
giống nhau mà đầy đủ.
Danh ngôn này và những danh ngôn tiếp
theo tập trung bàn về phương pháp sắc thuốc có thể hiểu kỹ càng thêm. Cuối danh
ngôn này họ Từ nhắc lại nhiều lần “Phương dược tuy trúng bệnh mà cách sắc sai
qui cách thì thuốc ấy vô hiệu” dụng tâm như vậy có thể nói là rất công phu.
394.
Muốn lưu thông nhanh thì dùng thuốc sắc lấy ý nghĩa thuốc sắc để quét rửa. Muốn
biến hoá từ từ thì dùng thuốc hoàn mang ý nghĩa thuốc hoàn làm cho thong thả.
Thanh - Thạch Thị Nam
“Y nguyên - Dụng dược đại yếu luận”
Loại hình đông dược truyền thống có các
loại thang, hoàn, tán, cao, đan, mỗi loại hình đều có đặc điểm khác nhau, có chứng
thích ứng riêng.
Danh ngôn này khái quát đặc điểm và chứng
thích ứng hai dạng thuốc hay dùng nhất là thuốc thang, thuốc hoàn. Thang là
quét rửa, có đặc điểm hấp thu nhanh, sức thuốc mạnh phát huy hiệu quả nhanh nhất
là đối với những bệnh cấp tính. Thuốc hoàn thì từ từ có đặc điểm hấp thu chậm,
sức thuốc từ từ, sử dụng tiện, phát huy sức thuốc kéo dài, thích hợp với những bệnh
mạn tính.
395.
Muốn cho bốc lên và đạt ra ngoài, dùng võ Hỏa (ngọn lửa to). Muốn cho giáng xuống
và đi vào trong dùng văn Hỏa (ngọn lửa nhỏ).
Thanh – Thạch Thi Nam
“Y nguyên - Dụng dược đại yếu luận”
Câu này qui nạp những học vấn về chọn lửa
trong khi sắc thuốc. Võ Hỏa tức là ngọn lửa mạnh, lửa bốc to , sức lửa manh, ôn
độ bốc lên và mức độ nước sôi đều nhanh. Các loại thuốc tân tán đều có công dụng
bốc lên và đạt ra ngoài. Có chất huy phát phong phú cho nên thích hợp với ngọn
lửa mạnh sắc nhanh, thời gian sắc thuốc cũng nhanh, tránh được sự thiếu lửa mà
kéo dài thời gian sắc thuốc, làm cho thành phần huy phát bị tổn thất mà ảnh hưởng
đến hiệu quả chữa bệnh.
Văn Hỏa tức là ngọn lửa yếu vừa phải, ngọn
lửa nhỏ, sức lửa phải chăng, ôn độ bốc lên và thuỷ phân sôi lên đều từ từ. Các
loại thuốc tư bổ nói chung đều có công dụng giáng xuống và hướng vào trong, vị
nồng hậu chất nhớt khi sắc khó bài tiết chất có hiệu quả (hoạt chất) nên dùng
văn Hỏa sắc từ từ, làm cho thành phần hoạt chất hữu hiệu bài tiết ra hết. Nếu
dùng võ Hỏa sắc kéo dài sợ do thuỷ phân hun bốc quá sớm mà sức thuốc - hoạt chất
- chua bài tiết ra.
Hiện nay lâm sàng sắc các loại thuốc
thang nói chung trước tiên dùng võ Hỏa cho sôi vài dạo, sau đó dùng văn Hỏa để
duy trì trạng thái sôi nhẹ. Việc chọn lựa ngọn lửa để sắc thuốc như nói trên,
là học vẫn có giá trị tham khảo.
396.
Thuốc phát tán và thuốc phương hương, không nên sắc lâu, để giữ chất tươi có
tác dụng sơ tiết quét tà. Thuốc bổ ích tư nhị nên sắc lâu, để chín nhừ mà tích
đọng
Thanh - Từ Linh Thai
“Y học nguyên lưu luận - Tiễn dược pháp
luận”
Câu này giới thiệu mức độ sắc thuốc, được
họ Từ cho là “toát yếu” việc sắc thuốc. Ông nói: “Phép sắc thuốc cẩn phải dạy kỹ,
thuốc có hiệu quả hay không, toàn ở khâu này”. Lại nối: “Phương thuốc tuy trúng
bệnh mà phép sắc thuốc không đúng, thuốc tất không hiệu quả? Có thể thấy phép sắc
thuốc cũng cần học vấn.
Phần lớn các loại thuốc phát tán và
phương hương, vị bạc khí nhẹ, tính chất đều tân tán nhẹ nhàng, dẻ bốc hơi cho
nên không cẩn sắc lâu để tránh sự bốc hơi của tính thuốc, ảnh hưởng đến hiệu quả
của thuốc. Các loại thuốc bổ ích tư bổ, vị nổng hậu khí nặng, không sắc lâu thì
không ra hết chất thuốc, cũng ảnh hưởng tới hiệu quả của thuốc.
397.
Chế thuốc quý ở chỗ đúng yêu cầu, bất cập thì công hiệu khó đạt, thái quá khí vị
cũng tiêu mất.
Thanh - Cố Tùng Viên
“Cố tùng viên y kính - Cách ngôn vựng
toán”
Danh ngôn này mang tính trọng yếu về
khuôn phép bào chế được vật. Mục đích của bào chế dược vật là đạt được hiệu quả
điều trị. Bào chế không vừa lửa thì tính thuốc không phát huy, không đạt mục
đích điều trị. Bào chế quá mức thì dược tính tiêu mất, hạ thấp hiệu quả.
398.
Vị ngọt đừng dùng trong chứng đầy. Vị đắng chớ dùng trong chứng giả nhiệt. Vị
cay tránh dùng trong bệnh nhiệt táo. Vị mặn đừng dùng trong bệnh huyết tổn
thương.
Thanh - Từ Linh Thai
“Tạp bệnh nguyên lưu - Khí vị”
Thuốc có năm vị chua - đắng - ngọt - cay
- mặn khác nhau. Năm vị có sở trường riêng và cũng có những chỗ không sở trường.
Danh ngôn này khái quát những chỗ “không sở trường” ấy
Ngọt thì sinh đầy, cho nên vị ngọt không nên
dùng trong chứng trung mãn, như Cam thảo tuy có khả năng điều hòa trăm vị thuốc,
nhưng đối với các chứng trung mãn sưng trướng phần nhiều nên kiêng tránh là
theo lý lẽ đó. Vị thuốc đắng lạnh tự nhiên không thể dùng trong chúng giả nhiệt
chân hàn. Vị cay phần nhiều phát tán, không có lợi cho âm huyết, cho nên không
dùng trong chứng nhiệt táo. Vị mặn đi vào huyết, tán kết mềm chất rắn. Cho nên
không dùng trong bệnh huyết bị tổn thương huyết khuy.
399.
Thuốc có khí thơm đều bất lọi cho chứng Khí hư. Thuốc có vị cay, phần nhiều bất
lợi cho Huyết chứng.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Nhiệt lược”
Nói những chứng cấm kỵ khi dùng dược vật
có khí vị cay thơm, có giá trị lưu ý trong lâm sàng. Thuốc có mùi thơm tính hay
bốc hơi, dễ hao khí, cho nên không lợi cho chứng khí hư. Thuốc có vị cay phần
nhiều hay len lỏi di chuyển, dễ xúc động đến huyết phận, cho nên không nên dùng
trong chứng bị mất huyết.
400.
Nhiều mồ hôi kỵ dùng Khương vì Khương hay tán. Mất huyết thì kỵ dùng Quế vì Quế
động huyết.
Minh - Trương Cảnh Nhạc
“Cảnh Nhạc toàn thư - Tân phương bát lược
- Nhiệt lược”
Lý luận câu này cụ thể hoá dẫn chứng câu
danh ngôn nói ở trên. Dùng thuốc cần phải biết chỗ nên dùng chỗ nên tránh.
Khương, Quế vốn là thuốc thường dùng, nhưng dùng không thích đáng cũng chuốc lấy
tai hại.
401.
Bệnh ở trên, đừng ngại uống nhiều lần mà lượng ít. Bệnh ở dưới chớ ngại uống
luôn một lần mà lượng nhiều. Uống ít thì chất thuốc thấm thía lên trên. Uống
nhiều thì bổ mạnh ở phần dưới.
Minh - Mục Trọng Thuần
“Tiêu Tình Trai y học quảng bút ký - Phục
dược thứ tự”
Tổng kết khuôn phép dùng thuốc đối với bệnh
ở Thượng tiêu và Hạ tiêu rất hợp lý “Bệnh ở thượng tiêu không ngại uống nhiều lần
mà lượng ít” bởi vì “chữa
Thượng tiêu nhẹ như lông, không nhẹ nhàng thì
không nâng lên”, đó là một yêu cầu phải uống lượng ít và nhiều lần thật có giá
trị chỉ đạo về chữa bệnh tật ở khoang miệng, yết hầu và các chứng nôn mửa, nấc
nghẹn là những bệnh biến ở Thượng tiêu. “Bệnh ở Hạ tiêu, đừng ngại uống một lần
mà lượng nhiều” đó là vì “chữa Hạ tiêu như nắm đấm, không nặng thì không chìm
xuống”, đó là một yêu cầu uống luôn một lần mà lượng nhiều, đối với bệnh biến ở
Hạ tiêu và những bệnh cấp tính nghiêm trọng, có thể chọn cách này để điều trị.
402.
Hành quân lấy lương thực làm trước tiên, dùng thuốc lấy Vị khi làm gốc. Quân
không có lương thì khốn đốn, thuốc không có Vị khí thì không lưu hành.
Thanh - Lưu Sĩ Liêm
“Y học tập thành - Dụng dược như dụng
binh”
Binh mã chưa khỏi động, lương thảo phải
đi trước, có thể thấy lương thảo có ý nghĩa trọng yếu trong hành quân tác chiến.
Câu này lấy binh pháp làm tỉ dụ để nói lên việc dùng thuốc phải coi trọng Vị
khí mang tính tất yếu, bởi vì Vị là bể của thuỷ cốc, nguồn của sự sinh hoá, người
ta phải nhờ Vị khí mới sống được, thuốc cũng phải nhờ Vị khí mới lưu hành. Nếu
không có Vị khí thì thuốc khó phát huy tác dụng.
IX. CHỨNG TRỊ TẬT BỆNH
403.
Bệnh đàm ẩm, nên lấy thuốc ôn để hòa.
Đông Hán - Trương Trọng Cảnh
“Kim quĩ yếu lược - Đàm ẩm khái thấu bệnh
mạch chứng trị”
Nêu lên đại pháp điều bị bệnh đàm ẩm, đời
sau tôn sừng là mẫu mực để trị đàm ẩm. Ẩm là âm tà, gặp lạnh thì tụ, gặp ấm thì
hoá. Thuốc ôn có thể giúp đỡ dương khí, hoá thấp kiện Tỳ, vừa có thể hoá được
cái ngọn của đàm, lại có thể đánh tận gốc cái nguồn của đàm, thực là thuốc đúng
đắn chữa đàm ẩm. Phương thuốc đại biểu là Linh quế truật cam thang. Nói thuốc
ôn” là chỉ dược tính vừa không nóng quá, lại không có xu hướng cương táo, tránh
dược cái khiến cho đàm ẩm hoá nhiệt, thương tân dịch và hao âm: đây tức là ý
nói để hòa”. Cẩn chỉ rõ “Kim quỹ yếu tược” bàn Đàm ẩm, thực tế là chỉ chúng Thuỷ
ẩm chứ không ngụ có chứng Đàm nhiệt.
Không nói mà chỉ ví dụ, đối với chứng
Đàm nhiệt nên dùng phép thanh nhiệt hoá đàm mà chữa, lúc này lại không nên “lấy
thuốc ôn để hòa” nữa.
404.
Người giỏi chữa đàm, không chữa đàm mà chữa khí, khí thuận thì tân dịch toàn
thân cũng thuận theo khí.
Nguyên - Chu Đan Khê “Đan Khê tân pháp -
Đàm - Phụ lục”
Nêu ra một phương pháp trọng yếu để chữa
Đàm Ẩm. Đàm do tân dịch biến hoá ra, mà tân dịch thì theo khí để vận hành, nếu
khí đạo rít tắc tân dịch thì đọng lại mà thành đờm thành ẩm. Cho nên khí đạo ở
con người lấy thuận làm quý, thuận thì tân dịch lưu thông không lo gì Đàm Ẩm
ngưng tụ nữa, đây là lý lẽ chữa Đàm nên chữa Khí.
405.
Phía trên có nhiệt đàm, kiêng dùng thuốc bổ. Phía dưới có hàn thấp, kiêng dùng
thuốc tả.
Thanh - Vương Yến Xương
“Vương thị y tồn - Phục dược cấm kỵ”
Nêu lên việc dùng thuốc cấm kỵ trong hai
chứng Đàm nhiệt và Hàn thấp.
Thượng tiêu có nhiệt đàm, nếu ăn uống thức
bổ, chỉ chuốc lấy đàm vướng mắc và nhiệt tích chứa, so với bệnh tình là bất lợi
theo lý nên kiêng kỵ. Hạ tiêu có hàn thấp, dưỡng khí không mạnh lại ăn uống thức
tả, có thể làm thương dương gấp bội, so với bệnh tình là không lợi, cho nên phải
kiêng kỵ.
406.
Mở quỷ môn, sạch tĩnh phủ, loại trừ rác rưởi uất kết.
“Tố Vấn - Thang dịch giao lễ luận”
Quỷ môn là lỗ mồ hôi, Tĩnh phủ là Bàng
quang. Mở quỷ môn sạch tĩnh phải là ý phát hãn và lợi tiểu tiện, “uyển” cũng
như “uất” có ý uất kết. Rác rưởi là thứ bỏ đi. Nói lên những thuỷ dịch cặn bã uất
trệ trong cơ thể, bỏ rác rưởi tức là trừ được thuỷ thấp tích trệ trong cơ thể,
chỉ sử dụng phép trục thuỷ như Cam toại, Đại kích.
Danh ngôn này nói tóm tắt đại pháp chữa
thuỷ thũng. Phát hãn, lợi niệu, trục thuỷ là những phép chữa thuỷ thũng duy nhất
từ xưa đến nay. Nguyên văn”... tân dịch đầy tràn... chữa như thế nào? Kỳ Bá trả
lời: điều tri thăng bằng, bỏ rác rưởi, khuấy động tay chân, áo ấm, chọn chỗ ấm
kích thích để hồi phục sức khoẻ; mở quỉ môn, sạch tĩnh phủ... “
407.
Nơi có bệnh thuỷ, lưng trở xuống thũng, nên lợi tiểu tiện; lưng trở lên thũng,
nên phát hãn thì khỏi.
Đông Hán - Trương Trọng Cảnh
“Kim quĩ yếu lược. Thuỷ khí bệnh mạch chứng
trị”!
Nêu lên nguyên tắc chữa bệnh Thuỷ thũng.
Do bộ vị thuỷ thũng khác nhau mà nêu ra hai phép Hãn, Lợi, thể hiện tư tưởng
“nhân thế lợi đạo” của Đông y. Lưng trở xuống Thũng, bệnh ở Lý ở dưới dễ tả,
cho nên dùng phép lợi tiểu tiện. Lưng trở lên Thũng, bệnh ở Biểu ở trên dễ tán,
cho nên dùng phép hãn. Nguyên tắc điều trị này đến nay vẩn chỉ đạo lâm sàng có
hiệu quả. Đương nhiên, hãn, lợi là đại pháp chủ
yếu chữa Thuỷ thũng, nhưng không loại trừ
các phép táo thấp, ôn hoá, lý khí, trục thủy. Lâm sàng thường ứng dụng liên hiệp
vài phép chữa với nhau.
408.
Người giỏi chữa thuỷ, không chữa thuỷ mà chữa Khí.
Thanh - Ngô Cúc Thông
“Ôn bệnh điều biện - Tạp thuyết - Trị
huyết luận”
Danh ngôn này nêu điều trị bệnh Thuỷ thấp
cẩn phải điều khí, chúng minh bệnh Thuỷ thấp có liên quan chặt chẽ với Khí. Khí
là dương. Thuỷ là âm. Dương hoá khí. Âm thành hình. Khí là động lực của thuỷ.
Người xưa còn lý luận “Khí là mẹ của Thuỷ” đều nói lên lý lẽ chữa Thuỷ phải nên
điều Khí. Kinh nghiệm qua lâm sàng là đứng.
409.
Tâm pháp chữa ẩm. Phát hãn lấy bốn chữ đầu “đau nhức nặng mình” làm mấu chốt. Lợi
tiểu tiện lấy bốn chữ “chi mãn huyễn mạo” làm mấu chốt.
Thanh - Phần Dư Thị
“Y nguyên”
Nêu các phép biện chứng mấu chốt để chữa
Thuỷ ẩm là Hãn - Lợi - Hạ. Thuỷ ẩm gây bệnh, tuỳ khí thăng giáng, chứng trạng
xuất hiện khá nhiều. Tràn ra ngoài thì thân thể nặng nề đau nhức, tràn ngang ra
thì ngực sườn đầy nghẽn, phạm lên Phế thì gây ho, lấn lên Tâm thì hồi hộp; ở Vị
thì nôn, rót xuống ruột thì đầy, xông lên trên thì huyễn mạo... hàng loạt triệu
chứng xuất hiện không nói hết.
Điều trị thì chia ra ba phép Hãn, Lợi, Hạ.
Hãn pháp thích hợp với chứng Dật ẩm thuỷ
khí tràn ra ngoài, chứng trạng chủ yếu là mình nặng và đau, dùng các phương Đại,
Tiểu thanh long.
Lợi pháp thích hợp với các chứng Đàm ẩm,
chi ẩm, có chứng trạng “chi mãn
huyễn mạo” là chủ yếu, dùng các phương
Linh quế truật cam thang, Trạch tả thang.
Mà phép lợi đại tiện thích hợp với các
chứng thuỷ ẩm kiêm cả chứng Phủ thực, chứng trạng chù yếu là bĩ đầy cứng rắn và
đau, dùng các phương như Hậu phác đại hoàng thang, Kỷ tiêu lịch hoàng hoàn.
410.
Chữa năm chứng Tiết, bình thuỷ Hỏa cho sạch cái nguồn, lấy đất đắp đê để ngăn
dòng chảy.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án. Tiết tả”
dẫn nhận xét của Tưởng Thức Ngọc
Khái quát phép chữa Tiêu Bản chứng bệnh
Tiết tả. Bình thủy Hỏa làm thanh cái nguồn là chữa Bản. Lấy đất đắp đê ngăn
dòng chẩy là chữa Tiêu.
Năm loại tiết (sôn, đường, vụ, nha, hoạt)
không loại nào là không do thấp khí quá thịnh, đấy là hiện tượng Tiêu. Xét đến
nguyên nhân, tác giả cho rằng: “phải tìm đến thuỷ Hỏa”. Vì nghĩ đến thuỷ Hỏa của
con người cũng như cái cân, bên này nặng thì bên kia nhẹ. Hỏa thắng thì thuỷ
thua, thuỷ thắng thì Hỏa thua”.
Nói thuỷ Hỏa là chỉ Hàn Nhiệt. Nếu Hàn
thắng thì thành Hàn thấp tiết tả, nhiệt thắng thì thành Hiệp nhiệt hạ lợi. Hàn
thì phải ôn. Nhiệt thì phải thanh, đó tức là “bình thuỷ Hỏa cho thanh cái nguồn”.
Thuỷ chỉ sợ Thổ lại hay thắng thấp. Bổ Tỳ
thổ là phép chính chữa Tiết tả, cho nên nói lấy đất đắp đê lấp dòng chẩy”.
Nhưng không nên bổ lẻ loi, mà phải trong Bổ kiêm Lợi để tránh cái vạ làm bền chắc
tà khí.
411.
“Ly tật” hành huyết thì đại tiện ra mủ tự khỏi. Điều khí thì hậu trọng tự trừ.
Kim - Lưu Hoàn Tố
“Tố Vấn bệnh cơ khí nghi bảo mệnh tập -
Tả luận”
Tổng kết kinh nghiệm chữa Lỵ tật, đến
nay vẫn được các y gia tin phục. Đại tiện ra mủ máu trắng đỏ và lý cấp hậu trọng
là hai chủ chứng lớn. Loại trên là do huyết phận sáp trệ, huyết nát hoá mủ, điều
trị nên dùng các loại hành huyết điều doanh, huyết hòa thì mủ sẽ dứt. Hậu trọng
là do khí cơ ngăn trệ, điều trị nên hành khí đạo trệ. Khí điều thì lý cấp hậu
trọng tự nhiên tiêu trừ. Lưu Hoàn Tố chế ra bài thuốc nổi tiếng Thược dược
thang, vị Thược dược, Đương qui trong bài là thuốc hành huyết, các vị Mộc
hương, Tân lang tà thuốc điều khí, thật là mẫu mực.
412.
Mới bị Lỵ thì nên thông. Lỵ đã lâu thì nên sáp.
Thanh - Trình Hạnh Hiên
“Hạnh Hiên y án tập lục - Hội Tân Cốc Trung -
Chủng lỵ tật án”
Bao quát quy luật chung chữa chứng Lỵ tật,
đến nay vẫn được ưa dùng trong lâm sàng.
Khi mới bị lỵ, phần nhiều thấy đau bụng,
lý cấp hậu trọng đại tiện ra mủ máu trắng đỏ, rêu lưỡi nhớt, mạch Huyền Hoạt,
đa số là Thực chúng. Thực thì phải thông. Điều trị nên thanh nhiệt hoá thấp đạo
trệ, tránh dùng những thuốc thu sáp chỉ tả để tránh sai lầm đóng cửa giữ giặc
trong nhà. Hạ lỵ đã lâu, phần nhiều là Hư chứng, Hư thì phải Bổ phải Sáp, kỵ
dùng thuốc công phạt cho khỏi tổn thương chính khí.
Diệp Thiên Sĩ đời Thanh từng nói: “Đại
pháp chữa Lỵ chẳng qua có hai nghĩa Thông và Tắc”, ý nghĩa cơ bản nhất trí với
danh ngôn này.
413.
“Háo suyễn” chưa phát lấy phù chính làm chủ yếu. Khi đã phát lấy công là làm cấp
thiết.
Nguyên - Chu Đan Khê
“Đan Khê tâm pháp - Háo suyễn”
Bệnh danh Háo suyễn, Chu Đan Khê là người
đầu tiên nêu tên. Danh ngôn này nêu ra nguyên tắc chữa bệnh này đến bây giờ vẫn
được ca tụng
Phát cơn Háo suyễn là do túc đàm ẩn náu ở
Phế, cảm thì dụ phát, thuộc chứng bản hư tiêu thực. Điều trị nên xử lý theo
nguyên tắc “Cấp trị tiêu. Hoãn trị bản”.
Khi chưa phát cơn, lấy Phế - Tỳ - Thận,
chính khí ba tạng này hư yếu là chủ yếu, nên điều trị theo phương pháp phù
chính, lấy kiện Tỳ, ích Phế, bổ Thận cố bản, ngăn chặn nguồn gốc sinh ra đờm.
Đó tức là “Hoãn thì chữa bản”.
Cơn Háo suyễn tất do nhiễm tà khí gây
nên, phải đuổi tà khí ngay, điều trị nên tuyên Phế hoá đàm, giáng khí bình suyễn,
hàn tà nên ôn, nhiệt tà nên thanh, lúc này lấy tiêu thực làm trọng, cho nên lấy
“công tà làm gấp”.
414.
Đại tích đại tụ cũng có thể dùng thuốc mạnh, bệnh giảm quá nửa thì ngừng, quá
tay thì chết.
“Tố Vấn - Lục nguyên chính kỷ đại luận”
Nêu nguyên tắc điều trị chứng đại tích đại
tụ ở người có thai rất được lưu ý trong lâm sàng.
Phụ nữ mang thai, dùng thuốc như thế
nào, trong “Lục nguyên chính kỷ đại luận - sách Tố Vấn “ có một câu trứ danh
“Có lý do thì không tổn hại, và cũng không tổn hại gì”(Hữu cố vô tổn, diệc vô tổn
dã) ý nói người có thai bị bệnh mà uống
thuốc thì cái bệnh chịu dụng, tuy có dừng thuốc mạnh cũng không hại đến
người mẹ và đứa con. Nhung khi người có thai mắc thực chúng đại tích đại tụ nếu
quả như lời nói dùng thuốc mạnh để công phạt, phải lưu ý đến khi bệnh đã giảm
quá nửa thì ngừng thuốc. Nếu dùng quá tay sẽ nguy hiểm đến tính mệnh.
Câu này, về nguyên tắc nhát trí với câu
nói ở “Ngũ thường chính đại luận - sách Tố vấn”: “thuốc đại độc chữa bệnh, mười
phần bớt sáu thì ngừng”
Nói một cách khác, tinh thần câu văn này
hoàn toàn thích hợp với chứng đại tích đại tụ ở người bệnh có sức khoẻ thông
thường.
415.
Chữa bệnh Tích chia 3 phép Sơ – Trung – Mạt: Thời kỳ đầu, bệnh tà mới phát,
chính khí còn mạnh, tà khí còn nông, chịu nổi phép tấn công.
Thời kỳ giữa, bệnh đã lâu dần, tà khí
khá sâu, điều trị vừa công vừa bổ.
Thời kỳ cuối, bệnh độc đã nặng, tà khí xâm
lăng, chính khí tàn tạ, chỉ chịu nổi phép bổ.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Tích tụ”
Danh ngôn này qui nạp phép điều trị chứng bệnh
Tích tụ chia ba thời kỳ sơ, trung, mạt, phù hợp với thực tế lâm sàng. Tích tụ
thời kỳ đầu, chính khí chưa hư lấy phép công làm chủ yếu; thời kỳ giữa chính
khí với tà khí đang cầm cự, nên áp dụng phép vừa công vừa bổ; thời kỳ cuối
chính khí hư, tà khí thực, chủ yếu dùng phép bổ. Hiện đại dùng thuốc Đông y để
chữa u bướu, dựa vào kinh nghiệm trên đây rất có giá trị.
416.
Nuôi chính khí thì trừ được chứng Tích Kim - Trương Nguyên Tố
“Y học khải nguyên - Dụng dược lược chỉ - Ngũ
hành chế phương sinh khắc pháp”
Khái quát sự coi trọng Tỳ Vị của Trương
Nguyên Tố (Khiết Cổ) về quan điểm học thuật phù chính để khu tà. Họ Trương là tỵ
tổ mở đầu cho học phái Dịch thuỷ, đối với điều trị bệnh Tỳ Vị chủ yếu phải theo
phép nuôi dưỡng chính khí là chính, khu tà là phụ. Đối với chứng Tích ông cho
là “người khoẻ thì không bị Tích, chỉ có người yếu mới bị”, cho nên mới đề xướng
“nuôi chính khí thì trừ được Tích”.
Ông nói: “Cũng như khắp nhà đều là quân tử, nếu
lọt vào một kẻ tiểu nhân tự nó sẽ không có chỗ dung thân, bây giờ làm cho chính
khí dồi dào, Vị khí khoẻ, thì Tích phải tiêu”. Quan điểm này đối với điều trị
chứng u bướu vẫn có ý nghĩa chỉ dạo.
417.
Những điều chủ yếu để chữa chứng Trưng Hà : Dùng phép công, nên từ từ, nên len
lỏi. Dùng phép bổ, kiêng dùng thuốc rít, kiêng bổ không có mục tiêu.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Trưng Hà”
theo lời nhận xét của Củng Thương Niên
Tổng kết kinh nghiệm điều trị chứng bệnh
Trưng Hà của Diệp Thiên Sĩ. Trưng là chứng hữu hình thuộc huyết; Hà là chứng vô
hình thuộc khí. Hình thành chứng Trưng Hà hoàn toàn do khí - huyết - đàm - thực
- thấp tích luỹ năm tháng mà hình thành. Nó đến thời gian đã dài, nó rút cũng
khá chậm chạp, cho nên phải làm tiêu mòn dần dà, kiên trì lâu dài mới thành
công. Nếu tấn công gấp gáp quá, chỉ làm hại chính khí, đố tức là cái ý “muốn
dùng phép công phải nên từ từ, nên len lỏi”. Len lỏi ở đây là liều lượng dùng
thuốc nên ít. Dùng phép Bổ thì phải nghiên cứu linh hoạt, xen kẽ những loại điều
khí hoạt lạc, nếu lại dùng vị bổ không cần thiết hoặc bổ mà nhớt trệ, dễ níu
kéo tàng khí lại, cần phải kiêng tránh. Danh ngôn này cũng có ý nghĩa chỉ đạo
thực tiễn đối với điều trị chứng bệnh u bướu.
418.
Chữa chứng Hoàng phải chữa huyết, huyết lưu thông thì Hoàng dễ lui.
Chữa chứng Hoàng cần giải độc, giải độc thì
Hoàng dễ trừ.
Chữa chứng Hoàng phải chữa đàm, hóa được
đàm thì Hoàng dễ tiêu tan.
Hiện đại - Quan Ấu Ba
“Quan Ấu Ba lâm sàng kinh nghiệm tuyển”
Quan Ấu Ba là chuyên gia nổi tiếng đương đại về
chữa Can bệnh, ông tổng kết kinh nghiệm chữa Hoàng đản so với tiền nhân có chỗ
sáng tạo mới.
Họ Quan cho rằng Hoàng đản ngoài cơ chế
bệnh do thấp nhiệt, còn có nhân tố ứ huyết vì vậy mới đề ra phép chữa kết hợp cả
hoạt huyết. Hoàng đản phần nhiều do dịch độc truyền nhiễm gây nên cho nên cần
tham gia phép chữa thanh nhiệt giải độc. Thấp nhiệt uất trệ câu kết thành đàm,
vậy đàm cũng là nhân tố bệnh cơ gây nên Hoàng đản, đề xướng dùng cả thuốc hoá
đàm, đó là kinh nghiệm quý báu chính xác chữa Hoàng đản đủ để lâm sàng xem xét.
419.
Có 3 phép chữa Đơn phúc trướng.Một là phép bồi dưỡng, tức là bổ ích nguyên khí.
Hai là chiêu nạp, nâng đỡ dương khí. Ba là giải tán, mở quỷ môn sạch tĩnh phủ.
Thanh - Dụ Gia Ngôn
“Ngụ ý thảo - Diện nghị Hà mậu Thanh
lình thoá bệnh Đan
phúc trướng Tỳ hư tương tuyệt chi hậu”
Đơn phúc trướng tức cổ trướng. Danh ngôn
này nêu lên kinh nghiệm điều trị cổ trướng của họ Dụ, có hướng mở rộng cho đời
sau. Y gia nhiều đời đều coi cổ trướng là loại bệnh hiểm nghèo, điều trị thường
theo nguyên tắc “trừ khử bụi bậm”, vận dụng phép công. Họ Dụ lại có kiến giải
riêng ông cho rằng “phương pháp công phá diệt độc” làm hao thương nguyên khí, tổn
hại Tỳ Vị, chỉ có thể dùng thuốc một lần chứ không dùng được nhiều lần”. Phàm
dùng các loại thuốc cướp đoạt, lúc đầu không tiêu vội mà sau công thì lại không
tiêu, sau nữa lại công thì như vướng sắt đá”, thật là kinh nghiệm đáng bàn. Vì
thế ông sáng tạo ra phép chữa Cổ trướng để nhắc nhở sự phiến diện của nhiều y
gia. “Ba phép tuy không nói đến Tả, mà lại có Tả ở trong “. Xem xét những
phương họ Dụ chữa cổ trướng như Nhân sâm khung quy thang, Hóa trệ điều trung
thang, Nhân sâm hoàn v.v.. thực là dung hòa cả ba phép công, bổ và tiêu trong một
lúc, mà vị thuốc sử dụng lại không loạn xạ. Nghiên cứu bệnh cổ trướng tất cả đều
thuốc thể bản hư tiêu thực, họ Dụ sáng lập ra ba phép bám sát với cơ chế bệnh,
thực là biện pháp đáng học tập.
420.
Chữa bệnh ở thượng tiêu, nên nhuận Phế kiêm thanh Vị. Chữa bệnh ở trung tiêu,
nên thanh Vị tư Thận. Chữa bệnh ở hạ tiêu nên tư Thận kiêm bổ Phế.
Thanh - Trình Chung Linh
“Y học tâm ngộ - Tam tiêu”
Khái quát yếu điểm điều trị Thượng -
Trung - Hạ tam tiêu, đối với bệnh Tiêu khát có ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc. Nguyên
văn còn nêu ra những phương tễ thí dụ, ở đây lược bớt. Bệnh biến của chứng Tam
tiêu chủ yếu ở Phế - Vị - Thận, cơ chế bệnh không ngoài âm hư nhiệt tác hại.
Thượng tiêu biểu hiện là khát mà uống
nhiều, chủ yếu là do Phế táo, cho nên lấy nhuận Phế làm chính, còn như “Kiêm
thanh Vị”, họ Trình giải thích rằng “Khiến cho Vị Hỏa không làm hại Phế nữa”
dùng các phương như Nhị đông thang, Tiêu khát phương.
Trung tiêu biểu hiện là dễ tiêu hay đói,
nguyên nhân chủ yếu do Vị nhiệt, điều trị lấy thanh Vị làm chính, còn như “kiêm
tư Thận”, họ Trình cho rằng “làm cho Tướng Hỏa không công lên Vị”, dùng phương
Ngọc nữ tiễn.
Hạ tiêu biểu hiện tiểu tiện nhiều, nước
tiểu như keo mỡ, nguyên nhân chủ yếu do Thận hư, điều trị chủ yếu phải tư Thận,
còn như “kiêm bổ Phế”, họ Trình giải thích là “tư thượng nguồn để sinh thuỷ”
dùng phương Lục vị địa hoàng hoàn.
Cũng nên nói rõ chứng trạng của Thượng,
Trung, Hạ tam tiêu tuy có chỗ thiên một bên nhưng thường ảnh hưởng lẫn nhau mà
chứng Tam tiêu cùng xuất hiện, khi điều trị nên suy xét chung mới đúng. Ngoài
ra, Thận là cái gốc của các kinh Âm, vô luận Thượng - Trung - Hạ tam tiêu đều
phải coi tư dưỡng Thận âm là chủ yếu, cho nên nói năm tạng bị tổn thương, tất
liên luỵ đến Thận” là như thế. Đây là một luận điểm rất trọng yếu.
421.
Chữa bệnh hư có 3 tạng gốc là: Phế là thiên của ngũ tạng, Tỳ là mẹ của bách
hài, Thận là rễ của tính mạng. Chữa Phế, chữa Tỳ, chữa Thận là trọn vẹn các
phép chữa bệnh Hư.
Minh - Kỳ Thạch
“Lý hư nguyên giám - Trị hư hữu tam bản”
Câu này nêu ra đại pháp điều trị và bệnh
cơ của bệnh Hư lao, kiến giải khá độc đáo, trở thành phát ngôn của một nhà. Kỳ
Thạch rất giỏi về chữa bệnh Hư lao, tác giả cuốn “Lý hư nguyên giám” có nhiều lập
luận trụ cột mà cốt lõi về lý luận chính là bàn về “chữa bệnh hư có ba tạng gốc”
này, tập trung vào ba tạng Phế, Tỳ, Thận để chữa Hư lao. “Phế là thiên của ngũ
tạng” nói lên vị trí của Phế ở trên năm Tạng, chủ về tuyên phát túc giáng. Tinh
vi của thủy cốc đưa lên Phế, từ Phế phân bố ra toàn thân, vả lại Hư lao trước hết
phần nhiều do trùng lao xâm lấn Phế mà phát bệnh, tác dụng sinh lý, bệnh lý của
nó rất trọng yếu, cho nên được coi là cái gốc để chữa bệnh Hư.
Tỳ là mẹ của bách hài, do Tỳ là cái gốc
của hậu thiên, là nguồn của sinh hoá,
có tác dụng dinh dưỡng năm tạng sáu phủ,
tứ chi bách hài. Chứng Hư lao cái lý chữa Tỳ là cái lý chữa từ gốc bệnh. Thận
là rễ của tính mạng là do Thận là gốc của tiên thiên, bên trong chứa chân âm
chân dương, là cái căn bản của năm tạng sáu phủ. Hư lao ở thời kỳ cuối thế tất
liên lụy đến tạng Thận, đấy cũng là chữa từ gốc bệnh không còn nghi ngờ gì nữa.
422.
Chữa Lao có 3 điều cấm : một, cấm dùng thuốc khô mạnh, hai cầm không được phạt
khí, ba cấm dùng thuốc đắng lạnh.
Minh - Kỳ Thạch
“Lý hư nguyên giám - Tri Cấm”
Quy nạp những cấm kỵ khi dùng thuốc điều
trị bệnh Hư lao, phù hợp với thực tế lâm sàng, đáng để tham khảo.Cái đàm do hư
lao là do hư Hỏa nghịch lên nung nấu mà ra, khác hẳn với cái đàm nói chung do Tỳ
hư thấp thịnh nung nấu mà có.
Cho nên cấm dùng hết thẩy các thuốc khô
mạnh (táo liệt).
Cái suyễn thở do Hư lao là do Phế khí hư
gây nên, khác hẳn với loại suyễn thở do tà thịnh nói chung, cho nên không được
phạt khí.
Cái Hỏa của Hư lao là Hỏa do âm hư chứ
không phải là thực Hỏa, cho nên cấm dùng thuốc đắng lạnh sợ trở thành hoá táo
thương âm.
423.
Mửa mà dùng nhiều thuốc không hiệu quả, phải mượn các loại nặng nề mà kéo xuống.
Mửa mà trung khí hư đã lâu, phải nhờ cơm gạo mới hòa được.
Minh - Lý Trung Tử
“Y tôn tất độc - Ẩu thổ uế”
Danh ngôn này nêu đặc điểm dùng thuốc chữa
chứng nôn mửa thuộc hư
thuộc thực khác nhau có ý nghĩa chí lý.
Chứng nôn mửa nói chung do Vị khí nghịch
nên gây nên, giáng nghịch Hỏa Vị là thượng sách chữa gốc bệnh. Nếu đã dùng nhiều
thuốc không hiệu quả có thể thêm vào các thuốc trọng trấn nặng nề như Đại giả
thạch, vì chất những loại thuốc ấy có tính nặng kéo xuống, sở trường về giáng Vị
mạnh, dùng cho chứng nôn mửa nhất là thể Thực chứng, góp công lớn để chữa ngọn
của bệnh. Nôn mửa lâu ngày, trung khí tất tổn thương, Vị khí cũng bị hại lúc
này phải có cơm gạo mới khôi phục lợi Vị khí, từ tác dụng thuốc bổ có lợi mà
phát huy. Cơm gạo tức là mang ý nghĩa Thực liệu thực bổ.
424.
Di tinh dùng thuốc sáp không thể thu công hiệu, tất phải dùng thuốc hoạt để dẫn
đạo theo ý đồng khí tương cầu, phép xưa để lại khá nhiều.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Di tinh”
Câu này nói lên tính tất yếu về dùng thuốc
phản tá, thể hiện đặc điểm lập phương điều khiển thuốc của họ Diệp, tuy chỉ là
nói điều trị chứng di tinh mà thực ra đối với việc dùng thuốc cho các loại bệnh
khác cũng nhờ vào giá trị đó.
Tinh quan đã hoạt, nếu dùng các loại thuốc
cố sáp mà chưa công hiệu, có thể nghĩ tới việc tham gia các vị thuốc hoạt lợi
như Sa nhân, Phục linh, Dương cốt tuỷ, Trư tích tuỷ làm phản tá phụ trợ, vận dụng
theo lời họ Diệp nói đó là “đồng khí tương cầu” thực là dùng thuốc mang cái ý
phản tá. Suy rộng ra, lâm sàng dùng thuốc của họ Diệp còn hay dùng chung cả hai
phép thông và bổ, hàn và nhiệt cũng dùng, nhuận và táo cũng dùng. Tóm lại linh
hoạt vận dụng thủ thuật phản tá được đời sau coi là bậc thầy.
425.
Các chứng đau không được dùng thuốc bổ khí.
Nguyên - Chu Đan Khê
“Đan Khê tâm pháp - Tâm Tỳ thống môn”
Nêu lên những điều cấm kỵ trong điều trị
các chứng đau, nhưng cần lý giải đây là chứng đau thuộc Thực chứng, chứ không
phải bất cứ chúng đau nào cũng không được bổ khí, đây là điều nên chú ý đó hiểu
danh ngôn này. Bởi vì các chứng đau thuộc Thực chứng tất cả đều do tạng phủ,
khí huyết kinh lạc lưu thông bị trở ngại gây nên, theo ý nói bất thông tắc thống”,
về điều trị, phải lấy hành khí hoạt huyết làm chủ yếu “thông tắc bất thống”, nếu
lại áp dụng phương pháp bổ khí, tất phạm vào điều răn “thực thực”, bệnh thuộc
Thực lai làm Thực thêm.
Trên lâm sàng, còn loại đau do Hư chứng,
đó là do khí huyết bất túc, tạng phủ kinh lạc không được ôn dưỡng gây nên, tức
như nói không tươi tốt thì đau”. Gặp trường hợp này nên bổ dưỡng khí huyết làm
cho phát huy công năng bình thường. Nếu lại cố chấp điều trị bằng phép thông
thì phạm vào điều răn “hư hư” đã Hư lại làm Hư thêm, làm hao thương khí huyết nặng
thêm mà đau càng tăng.
Như vậy thì thấy “các bệnh đau không được
bổ khí” câu nói này nên phân tích
cụ thể. Đau do Thực thì kỵ bổ khí, đau
do Hư (do Khí hư gây nên) lại nên bổ khí chứ không nên bàn bạc cố chấp. Chỉ
riêng nói loại đau do Thực câu nói này hoàn toàn chính xác.
426.
Cái lý chữa bên ngoài tức là cái lý chữa bên trong. Thuốc chữa bên ngoài tức là
thuốc chữa bên trong. Chỗ khác nhau là ở phép chữa mà thôi.
Thanh - Ngô Sư Cơ
“Lý thược biền văn - Lược ngôn”
Câu này nói lên căn cứ lý luận về phép bệnh
ở bên trong chữa ở bên ngoài; cả đời Ngô Sư Cơ nghiên cứu phép chữa bên ngoài,
là chuyên gia ngoại trị nổi tiếng trong lịch sử Trung y. Ông cho rằng thuốc
dùng chữa bên ngoài thông qua kinh lạc mà thông vào trong, cũng như dùng thuốc
chữa bên trong vốn không chia đôi ngả.
Chữa bên ngoài cũng là căn cứ vào nguyên
nhân cơ chế bệnh mà biện chứng luận trị, cũng giống như dùng thuốc để chữa bệnh
bên trong. Chỗ khác nhau chỉ là con đường cấp thuốc có phân biệt mà thôi.
Phương thuốc cao theo phép để chữa bên
ngoài, cũng đều lấy phép dùng thuốc sắc thuốc viên chữa bên trong. Thuốc sắc
thuốc hoàn đối chiếu với biện chứng luân
trị mà đặt ra, phép chữa bằng phương thuốc cao cũng thể hiện tinh thần ấy. Vì vậy
phép chữa bên ngoài tức là có hiệu quả chữa từ bên trong. Danh ngôn này nêu ra
cho chúng ta cố gắng khai phá phương pháp chữa bên ngoài quý giá của Đông y.
427.
Những bệnh thuộc hình thể nên ngoại trị. Không hiểu rõ phép ngoại trị, uống thuốc
tuy trúng bệnh, mới chỉ đạt được một nữa y thuật mà thôi.
Thanh - Diệp Thiên Sĩ
“Lâm chứng chỉ nam y án - Tý”
lời bình của Từ Linh Thai
Nói bệnh ở hình thể là chỉ bệnh biến
phát sinh ở các bộ vị chân tay, mình
mẩy, cơ nhục ở thể biểu. Những bệnh thuộc
hình thể bộc lộ ra bên ngoài phép ngoại trị có thể khiến cho vị thuốc trực tiếp
đến bộ vị mắc bệnh, tự nhiên dễ thu được hiệu quả. Vì thế có thể là một phép
giá trị. Nếu chỉ toàn dựa vào thuốc nội trị để chữa bệnh, “uống thuốc tuy trúng
bệnh, mới chỉ đạt một nửa y thuật mà thôi”. Câu nói này của họ Từ nói lên phép
ngoại trị đối với điều trị bệnh ở hình thể có tính trọng yếu.
428.
Sáu chữ bí quyết khi dùng thuốc chữa cho trẻ em: khinh - sảo - giản - hoạt -
liêm - hiệu.
Đương đại - Đổng Đình Giao
“Ấu khoa xô ngôn”
Đây là tổng kết kinh nghiệm dùng thuốc
chữa bệnh cho tiểu nhi của danh y
đương đại Đổng Đình Giao, có thể nối là
tinh vi xác đáng rất thấm thìa.
- Khinh: có hai ý, một là sử phương dừng
thuốc nhẹ nhàng với ngụ ý “khinh có thể khử thực” hai là liều lượng nên ít, trẻ
em Trường vị non yếu, lượng thuốc quá nhiều dễ thương Vị khí.
- Sảo: khéo léo, người thợ giỏi chỉ dùng
một loại dụng cụ gọi là sảo, đó là nói theo tương đối kiểu cố chấp nguyên dạng.
Trường hợp đã dùng phương pháp bình thường mà không thu được hiệu quả, cần phải
suy nghĩ sáng suốt, hoặc tìm ra đường đi nhanh, hoặc thay đổi phép bình thường,
đem bất ngờ thu thắng lợi.
- Giản: sử phương phải đơn giản, chọn
thuốc cần tinh vi tránh sự pha tạp phòng ngừa sức thuốc phân tán, ảnh hưởng đến
hiệu quả.
- Hoạt: phải biết lúc thường hiểu lúc biến,
thấy nhỏ biết rõ, bệnh biến thuốc cũng biến, kiêng tránh thấy bệnh thì chữa bệnh,
không biết sự biến hoá mà tay trong bị, thậm chí theo tranh tìm ngựa, nghe còi
vào chỗ.
- Liêm: dùng thuốc chỉ cần hiệu quả, quyết
không lạm dụng những thứ quý hiếm đắt đỏ.
- Hiệu: chữa bệnh lấy hiệu quả làm
nguyên tắc, làm gấp cái gấp của bệnh nhãn, đau cái đau của bệnh nhân, đối với bệnh
nhân phải có trách nhiệm cao.
Thật ra sáu chữ bí quyết dùng thuốc của
họ Đổng không chỉ thích hợp với tật bệnh của trẻ em, đối với việc chữa bệnh cho
người lớn cũng có ý nghĩa chỉ đạo.
429.
Dùng thuốc cho trẻ em không được quá mạnh, công mạnh bổ mạnh, mang cái lụy vì
dùng thuốc, đó là yếu quyết của Ấu khoa.
Thanh - Lục Dĩ Khoát
“Lãnh lô y thoại - Chẩn pháp”Câu này nêu
lên nguyên tắc cơ bản dùng thuốc cho trẻ em, có thể nói là “Ấu khoa yếu quyết”.
Tiểu nhi tạng phủ non yếu, dễ hàn dễ nhiệt, dễ
hư dễ thực, truyền biến nhanh chóng, thuốc dùng quá tay tý chút là sinh biến
hoá ngay. Vả lại tiểu nhi tạng khí nhạy bén, ứng phó rất nhanh, chỉ cần thuốc
nhẹ nhàng là có thể khỏi bệnh. Công mạnh
bổ mạnh lại mang cái lụy vì dùng thuốc, nên nêu ra để làm răn.
No comments:
Post a Comment