MẠCH HỌC
MẠCH LÝ ĐÔNG Y
THẤT BIỂU MẠCH
BÁT LÝ MẠCH
CỬU ĐẠO MẠCH
TAM TƯỢNG MẠCH
- Hà Du
- Ngư Tường
- Ốc Lậu
- Phủ Phí
- Trước Tác
- Chuyễn Đậu
- Ma xúc
- Yển đao
MẠCH LÝ Y HỌC CỔ TRUYỀN
PHÂN LOẠI MẠCH
Có nhiều cách phân
chia các loại mạch, tùy quan điểm của các tác giả hoặc các trường phái.Trong
tài liệu này, để rộng đường tham khảo, chúmg tôi trình bày các cách phân chia
mạch theo các trường phái lớn để dễ nghiên cứu:
- Theo ‘Nội Kinh’
(được coi là cổ nhất): Sách ‘Y Nguyên’ ghi: “Tinh xác của phép chẩn mạch không
ai hơn sách ‘Nội Kinh’. Nội Kinh lấy 8 mạch PHÙ, TRẦM, HOÃN, CẤP, ĐẠI, TIỂU,
HOẠT, SÁC để biện về biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực, thuận, nghịch (Vì) mọi mạch
Phù là bệnh ở dương, mọi mạch Trầm là bệnh ở âm, mọi mạch Cấp thì phần nhiều
hàn, mọi mạch Hoãn thì phần nhiều nhiệt. Mạch Đại nhiều khí huyết, mạch Tiểu thì
khí huyết đều ít. Hoạt là dương khí thịnh, Sác là âm huyết bị thiếu. Tức là
trong 8 mạch phân ra làm 3 mức tương phản nhau (như loại Phù, Trầm, Hoạt, Sác),
nhiều ít (như loại hơi Phù, Phù nhiều, hơi Trầm, Trầm nhiều), huyền tuyệt (như
loại thái quá đến cấp 3, cấp 4 hoặc bất cập chỉ 1 chí, 2 chí, mất hẳn... ) để
xét bệnh tiến thoái, thuận nghịch, sống chết, lại không tinh và gọn hay sao?”
- Thiên ‘Bát Mạch
Yếu Chỉ Vi Cương” trong Cảnh Nhạc Toàn Thư chia 28 mạch ra làm 8 loại mạch chính
là Phù, Trầm, Trì, Tế, Sác, Đại, Đoản, Trường còn 20 mạch kia thì quy nạp vào
với 8 mạch chính này, gọi là kiêm mạch.
- Sách ‘Lục Mạch
Cương Lĩnh’ của Hoạt Thọ lại lấy 6 mạch làm gốc: Phù, Trầm, Trì, Sác, Hoạt, Sáp
theo bảng dưới đây:
1- Nhóm Mạch PHÙ: gồm 6 mạch
· Trầm mà rất hữu
lực, như đè vào da trống là mạch CÁCH.
· Phù mà vô lực,
như lụa ngâm trong nước là mạch NHU.
· Phù, Trầm hữu
lực, mạch chắc dưới tay là mạch THỰC.
· Phù, Trầm đều vô
lực. nấp dưới tay thoang thoảng là HƯ.
· Phù, Trầm, Đại,
giữa rỗng ngoài chắc như ống lá hành là mạch KHÂU.
2- Nhóm Mạch TRẦM: gồm 5 mạch
· Trầm mà rất hữu
lực, đè tay sát xương mới thấy là PHỤC.
· Trầm mà rất hữu
lực, ở giữa khoảng Trầm và Phù là mạch LAO.
· Trầm mà rất vô
lực, tìm kỹ mới thấy được là mạch NHƯỢC.
· 1 hơi thở 4 lần
là mạch HOÃN.
3- Nhóm Mạch SÁC: gồm 4 mạch
· Mạch Sác ở bộ
quan, không có đầu đuôi là mạch ĐỘNG.
· Mạch Sác, thường
đứng dừng lại rồi lại đi là mạch XÚC.
· 7 - 8 lần đến là
mạch TẬT.
4- Nhóm Mạch TRÌ: gồm 4 mạch
· Khi Trì, khi
Sác, đứng lại có số nhất định là mạch ĐẠI (Đợi).
· Đến không đều
số, đè tay thấy Phù mà tán loạn là TÁN.
· Mạch Hoãn mà có
khi đứng lại là mạch KẾT.
5- Nhóm Mạch HOẠT: gồm 6 mạch
· Như đè tay vào
dây đàn là mạch HUYỀN.
· Đi lại như xoắn
dây là mạch KHẨN.
· Không to không
nhỏ như vót cần câu dài là mạch TRƯỜNG.
· Đến thịnh đi
suy, đến to đi dài là mạch HỒNG.
· Như hình hột
đậu, đụng tay vào xuống ngay là mạch ĐOẢN.
6- Nhóm Mạch SÁP: gồm 3 mạch
· Rất nhỏ mà mềm,
ấn tay vào muốn tuyệt là mạch VI.
· Như mạch Vi mà
rõ hơn là mạch TẾ.
- Lý Sĩ Tài trong
thiên ‘Tứ Mạch Cương Lĩnh’ lại chỉ quy về 4 mạch chính, gọi là Tứ Đại Mạch: Phù,
Trầm, Trì, Sác.
- Sách ‘Tân Biên
Trung Y Học Khái Yếu’ lại chia mạch ra làm 6 loại gồm:
+ Loại mạch Phù (có
6 mạch): Phù, Hồng, Nhu, Tán, Khâu, Cách.
+ Loại mạch Trầm
(có 5 mạch): Trầm, Phục, Nhược, Lao, Huyền.
+ Loại mạch Sác (4
mạch): Sác, Xúc, Tật, Động.
+ Loại mạch Trì (4
mạch): Trì, Hoãn, Sáp, Kết.
+ Loại mạch Hư (5
mạch): Hư, Tế, Vi, Đại (Đợi), Đoản.
+ Loại mạch Thực (4
mạch): Thực, Hoạt, Khẩn, Trường.
- Lê Hữu Trác trong
tập ‘Y Gia Quan Miện’ (HTYTT. Lĩnh) lại chia mạch theo ÂM DƯƠNG:
+ Nhóm Dương: có 7
mạch: Phù, Hồng, Hoạt, Thực, Huyền, Khẩn, Hồng gọi là THẤT BIỂU MẠCH.
+ Nhóm Âm: có 8
mạch: Vi, Trầm, Trì, Hoãn, Sắc, Phục, Nhu và Nhược gọi là BÁT LÝ MẠCH.
Nhóm còn lại gọi là
CỬU ĐẠO MẠCH (9 mạch) gồm: Trường, Đoản, Hư, Kết, Đại (Đợi), Xúc, Tán, Động, Tế
CÁCH PHÂN BIỆT MẠCH:
MẠCH ĐOẢN VÀ ĐỘNG
· Đoản là mạch âm,
không đầu, không đuôi, mạch đến trì trệ.
Động là mạch dương,
không đầu, không đuôi, mạch đến nhanh và trơn.
MẠCH HỒNG VÀ THỰC
· Mạch Hồng tựa
như nước lụt, to, tràn đầy đầu ngón tay, nặng tay hơi giảm.
· Mạch Thực thì
chắc nịch, ứng dưới tay có lực, nặng nhẹ tay đều vẫn thấy như vậy.
MẠCH HUYỀN VÀ TRƯỜNG
· Huyền giống như
dây cung, căng thẳng, cứng đều mà không dội vào tay.
· Mạch Trường như
cây sào, vượt qua cả vị trí gốc mà lại không dội vào tay.
MẠCH NHU VÀ NHƯỢC
· Mạch Nhu nhỏ mềm
mà Phù.
· Mạch Nhược nhỏ
mềm mà Trầm.
MẠCH LAO VÀ CÁCH
· Mạch Lao có dạng
Trầm Đại mà Huyền, chỉ ở đúng vị trí.
· Mạch Cách có
dạng Hư, Đại mà Phù, Huyền, trong hư ngoài cấp.
MẠCH PHÙ VỚI MẠCH HƯ VÀ KHÂU
· Mạch Phù, nhẹ
tay thì mạnh, nặng tay thì yếu.
· Mạch Hư to mà vô
lực, nhẹ hoặc nặng tay đều như nhau.
· Mạch Khâu nhẹ
hoặc nặng tay đều thấy rỗng ở giữa.
MẠCH SÁC VÀ KHẨN, HOẠT
· Mạch Sác đi lại
gấp rút, 1 hơi thở 6 chí.
· Mạch Khẩn lan ra
2 bên ngón tay, giống như kéo dây thừng.
· Mạch Hoạt đi lại
lưu lợi, trơn tru như con tính chạy trên bàn.
MẠCH TRẦM VỚI PHỤC
· Mạch Trầm đặt
nhẹ tay hình như không thấy, ấn nặng mới thấy.
· Mạch Phục ấn
nặng tay cũng không thấy, đẩy tìm tới gân mới thấy.
MẠCH TRÌ VỚI HOÃN
· Mạch Trì 1 hơi
thở đi 3 chí, hình nhỏ mà yếu.
· Mạch Hoãn 1 hơi
thở đi 4 chí, hình to mà hòa hoãn.
MẠCH VI VỚI TẾ
· Mạch Vi không
bằng Tế, như có, như không, giống như sợi tơ nhện.
· Mạch Tế hơi lớn
hơn mạch Vi, ứng dưới tay rất nhỏ, như sợi chỉ mành.
MẠCH XÚC VỚI MẠCH KẾT, ĐỢI, SẮC
· Mạch Xúc gấp
rút, trong Sác thỉnh thoảng lại ngừng.
· Mạch Kết thì
trong Trì thỉnh thoảng lại ngừng.
· Mạch Đợi thì
Động mà khi ngừng rồi thì khó trở lại, có số ngừng nghỉ nhất định, không phải
ngẫu nhiên.
· Mạch Sắc thì
Trì, Đoản, sít trệ, mạch đến rít như muốn ngừng 3 hoặc 5 chí (trong 1 hơi thở),
không đều.
MẠCH HOẠT VÀ MẠCH SẮC.
Theo sự thông hoặc
trệ của mạch.
· Mạch Hoạt là
huyết nhiều, khí ít. Huyết nhiều cho nên mạch lưu lợi, trơn tròn.
· Sắc là khí nhiều,
huyết ít, vì vậy sít mà tán.
MẠCH HỒNG VÀ MẠCH VI
Theo sự thịnh suy
của mạch.
· Mạch Hồng: huyết
nhiệt mà thịnh, khí theo đó mà bùng lên tràn đầy ở đầu tay, sức mạnh vọt mạnh,
vì vậy Hồng là thịnh.
· Mạch Vi: khí hư
mà hàn, huyết theo đó mà sít lại, ứng với mạch nhỏ, muốn đứt, vì vậy Vi là suy.
MẠCH KẾT VÀ MẠCH XÚC
Theo âm hoặc dương
của mạch.
· Dương cực thì
Xúc, mạch nhanh, gấp mà có lúc ngừng.
· Âm cực thì Kết,
mạch đi chậm mà có lúc ngừng.
MẠCH KHẨN VÀ HOÃN
Dựa theo sức chùng
và căng của mạch.
· Mạch Khẩn là hàn,
làm tổn thương phần vinh, huyết, mạch lạc bị kích bác nhau. Nếu gặp khi phong
thoát khỏi thủy vọt tràn thì lại như cắt dây, kéo thừng.
· Hoãn là phong,
làm tổn thương phần vệ, khí, vinh huyết không thông, mạch không đi nhanh được,
giống như bước đi chậm rãi.
MẠCH PHÙ VÀ TRẦM
Dựa vào sự thăng
giáng của mạch.
· Phù, bắt chước
trời là khinh thanh, mạch nổi ở trên.
· Trầm, bắt chước
đất là trọng trọc, mạch chìm ở dưới.
MẠCH PHỤC VÀ MẠCH ĐỘNG
· Mạch Động: thấy ở
bộ quan, hình như hạt đậu lăn dưới tay, khác với ở các bộ khác.
· Mạch Phục ở sâu
vào trong không thấy hình mà ở dưới gân, xương.
MẠCH THỰC VÀ MẠCH HƯ
Dựa theo sự cương
nhu của mạch.
· Mạch Thực: đường
mạch sung thực, ấn tay nhẹ hoặc nặng cũng đều hữu lực.
· Mạch Hư: đường
mạch đi yếu, không thấy có lức ở dưới tay.
MẠCH TRÌ VÀ MẠCH SÁC
Dựa theo sự nhanh
chậm của mạch.
· Mạch Sác: nhịp
mạch đi nhanh.
· Mạch Trì: nhịp
mạch đi chậm.
MẠCH TRƯỜNG VÀ MẠCH ĐOẢN
Dựa theo sự dài
ngắn của mạch.
· Mạch Trường thấy
ở bộ xích và thốn, có khi thông suốt cả 3 bộ.
· Mạch Đoản chỉ
thấy ở xích hoặc thốn.
Phải xem xét coi
mạch có qua khoảng giữa (quan) hay không. Qua khoảng giữa là Trường, không qua
khoảng giữa là Đoản.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRONG PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH ĐÔNG Y.
1- Thời Gian Xem Mạch
Chẩn mạch
thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì,
kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn, do đó, có thể tìm
thấy mạch bệnh.Tuy nhiên nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch,
không cần phảI chẩn mạch vào lúc sáng sớm.
- Trước khi chẩn
mạch, nên để cho người bệnh nghĩ 1 lát cho khí huyết được điều hòa.
- Không nên xem
mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặc mới uống rượu, đi xa đến mà mệt
mỏi...
- Ngoài ra, ống tay
áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanh ồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến
việc chẩn mạch.
2- Tư Thế Lúc Xem Mạch.
Người bệnh nên
ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên, bàn tay để
ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đến mạch.
Vì nếu người
bệnh nằm nghiêng thì cánh tay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co
tay lại thì bàn tay bị bế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn
xuống làm mạch bị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu
co cơ thể lại thì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị
nhiễu loạn mà mạch chạy nhanh...”
Thầy thuốc nên ngồi
nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái để chẩn mạch ở tay phải người bệnh và
ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ở tay trái.
3- Định Hơi Thở
Phương pháp chẩn
mạch cốt ở tâm hư tĩnh.Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1
hơi thở ra, hít vào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn
này, tập trung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch
tượng và số mạch đếm của người bệnh.
4- Cách Đặt Tay Chẩn Mạch
Khi đặt ngón tay
xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mé trong chỗ xương cao-ngang với
lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và 4 (áp út) phía trước và sau
thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốn khẩu, ngón tay sau (dưới) là
bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặt ngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn
thì đặt các ngón tay khít nhau”.
Khi đặt ngón tay
(xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của da ở đầu
các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vì vậy, khi cần
chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ (chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợi chỉ) để sờ, ấn.
Ba ngón tay của
người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằng nhau, đốt
ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưng da thịt đầu 3 ngón
tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngón thứ 4 lại dầy và kém nhậy
cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngón tay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục
(mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch”.
Điều quan trọng
hơn nữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầm với
mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng có động mạch.
Sau khi đặt
tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biết vận dụng năng lực nặng
nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng.
Chẩn mạch có 3
điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩn mạch gọi
là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm.
Hiện nay các nhà
nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau:
+ Sơ (Khinh) Án:
Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của người bệnh để chẩn bệnh ở phủ.
+ Trung Án: Ấn nhẹ
tay xuống 1 chút để biết về Vị khí.
+ Trầm (Trọng) Án:
Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở tạng.
Cách chung, khi
chẩn (xem) mạch, nên:
· Xem chung cả 3
bộ (Tổng Khán) để nhận định về tình hình chung (thường được dùng nhất).
· Xem riêng từng
bộ phận (Đơn Khán) để đánh gía riêng từng cơ quan, tạng phủ.
Ngoài ra, theo các
nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ý đến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và
Căn.
5- Vị Khí:
· Có Vị khí thì
sống, không có Vị khí thì chết, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc.
· Muốn xét
diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vị khí làm chủ. Cách xét này về vị khí
như sau: “Thí dụ, hôm nay mạch còn hòa hoãn mà ngày mai lại Huyền, Cấp thì biết
rằng tà khí đang tiến triển, tà khí càng tiến, bệnh càng nặng. Hoặc hôm nay mạch
rất Huyền, Cấp nhưng ngày mai lại thấy hòa hoãn thì biết là Vị khí đã đến, Vị
khí đến thì bệnh nhẹ dần. Nếu như trong chốc lát mà mới đầu thấy mạch Cấp mà sau
đó Hoãn là Vị khí đến, lúc đầu Hoãn mà sau đó Cấp là Vị khí mất”.
6- Thần:
Gọi là thần
của mạch tức là mạch đi nhu hòa. Thí dụ như bắt được mạch Vi Nhược thì tuy là Vi
Nhược nhưng không đến mức vô lực là có thần, hoặc bắt được mạch Huyền Thực mà
trong cái Huyền Thực vẫn thấy nhu hòa, là có thần. Tóm lại, mạch có Vị khí, có
Thần đều là có hiện tượng xung hòa. Có Vị khí là có Thần khí, vì vậy, trên lâm
sàng, cách chẩn đoán Vị khí và Thần như nhau”.
7- Căn:
- Mười
hai kinh mạch trong cơ thể đều nhờ ở chỗ động khí của Thận mà phát sinh. Thận
khí còn cũng như cây có gốc (căn) cành lá tuy khô mà gốc chưa khô thì có hy vọng
sống được. Thận khí chưa tuyệt thì mạch nhất định có căn. Mạch Trầm để chẩn tạng
thận, bộ xích để chẩn về Thận, mạch ở bộ xích mà Trầm, có lực là dấu hiệu mạch
có căn.
Khi
chẩn mạch phải chú ý đến sáu yếu tố: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, ông viết:
“Chẩn mạch nên biết sáu chữ: Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ, không hiểu sáu chữ
đó thì không phân biệt được âm dương hư thực. Thượng, Lai, Chí là dương, Hạ, Chỉ
là âm. Thượng là từ bộ xích lên tới thốn khẩu đến bộ xích, âm sinh ở dương, Lai
là từ trong thịt xuất ra chỗ trong da ngoài, sự tăng lên của khí. Khứ là từ chỗ
trong da ngoài thịt đi vào thịt vào xương, sự giáng xuống của khí. Ứng là Chí,
nghỉ là Chỉ. Câu danh ngôn sáu chữ (Thượng, Hạ, Lai, Khứ, Chí, Chỉ) của Hoạt Bá
Nhân, các y gia của các thời đại đều cho rằng đã tìm được điều cốt yếu của việc
chẩn mạch.
· Thượng, Hạ là
chỉ mạch chí thông suốt từ bộ xích đến bộ thốn, chỉ chẩn sát 1 bộ mà phải chú ý
đến tình hình cả ba bộ thốn, quan, xích “Ở bộ thốn, mạch Hạ không đến bộ quan là
dấu hiệu dương tuyệt, ở bộ xích, mạch Thượng không tới bộ quan là âm bị tuyệt”.
· Lai, Khứ là chỉ
sự thăng giáng của mạch. Thăng giáng không cấp bách, nhẹ nhàng, điều hòa là mạch
tượng của mạch không có bệnh. Mạch Lai mà Tật, mạch Khứ mà Từ là dấu hiệu trên
thực dưới hư (hoặc trong hư ngoài thực). Mạch Lai mà Từ, Mạch Khứ mà Tật là dấu
hiệu trên hư dưới thực (hoặc ngoài hư trong thực).
· ‘Chí Chỉ’ là
chỉ vào chí và trong thời gian ngắn hay dài của các bộ mạch. Chí để chẩn mạch
đến, thời gian ngắn hoặc dài của các bộ mạch. Chỉ thời gian ngắn dài ở bộ thượng
có thể xét sự thịnh suy của chân dương để biện về yếu mạch của chân âm. Chỉ thời
gian dài ngắn ở bộ hạ có thể xét sự thịnh suy của chân âm để biện về sự mạch yếu
của chân dương”.
8- Không nên câu nệ về tính chất đặc thù của từng mạch.
Thí dụ: Khi nói đến
biểu là phải quy về mạch Phù, nhiệt là Sác, lý là Trầm, hàn là Trì, mạch Huyền,
Cường là Thực, Tế, Vi là Hư... tuy nhiên, phải cần lưu ý đến các yếu tố chân,
giả.
“Mạch Phù tuy
thuộc về biểu nhưng hễ âm hư, huyết thiếu, khí trung tiêu suy tổn sẽ thấy mạch
Phù mà vô lực, vì vậy, không thể cho rằng mạch Phù hoàn toàn liên hệ với phần
biểu. Mạch Trầm tuy thuộc về phần lý nhưng hễ ngoại tà mới cảm mà đã vào sâu thì
hàn tà bó lấy kinh lạc, mạch khí không thông đạt được, sẽ thấy mạch Trầm, vì
vậy, không thể cho rằng mạch Trầm hoàn toàn thuộc về phần lý. Mạch Sác là nhiệt,
nhưng chân nhiệt chưa hẳn đã là Sác. Chứng hư tổn, âm dương đều bị khốn quẩn,
khí huyết hỗn loạn, hư nhiều, mạch Sác cũng nhiều, vì vậy không thể nói là Sác
hoàn toàn thuộc nhiệt được. Trì là hàn nhưng bệnh thương hàn, tà khí mới lui,
nhiệt chưa hết, mạch phần nhiều là Trì Hoạt, vì vậy đừng cho rằng Trì hoàn toàn
là hàn. Huyền, Cường thuộc Thực nhưng chân âm, vị khí hư quá và các chứng âm
dương quan cách (bị ngăn trở), mạch sẽ Huyền, Cường, vì vậy Huyền cũng không hẳn
là Thực, Mạch Vi, Tế thuộc hư trường hợp bị đau quá, khí bị bế, vinh vệ bị ủng
trệ không thông, mạch sẽ phải ẩn nấp (Phục), vì vậy mạch Phục không phải hoàn
toàn là Hư... từ đó có thể suy ra... trong các mạch đều có vấn đề”.
9- Sự Khác Nhau Lúc Mới Đặt Tay Vào Mạch Và Lúc Xem Mạch Một Lúc Thật Lâu.
Có khi mạch mới xem
và xem một lúc lâu có sự khác biệt. Thí dụ: Lúc mới xem thấy mạch nổi to, xem
một lúc thấy mạch chìm lặng. Hoặc mới xem thấy mạch mềm nhũn, xem lâu lại thấy
bật dưới tay. Có khi lúc đầu thấy mạch Huyền, một lúc sau lại là Hoãn.“Khi chẩn
mạch loại khách tà bạo bệnh mà mạch Phù là đúng. Nếu bệnh đã lâu, sức đã hư tổn,
nên chẩn căn khí làm gốc. Nếu thấy Phù, Đại, ấn tay lâu thấy chìm mất, là hiện
tượng chính khí quá hư, không cần hỏi là bệnh lâu hoặc mới nhiễm, tuy rằng chứng
mà thấy nóng nhiều, phiền nhiễu do chính khí suy không tự chủ được mà hư dương
thoát ra ngoài. Khi mới xem mạch thấy Nhu, Nhuyễn, bắt đầu thấy bật dưới tay là
dấu hiệu bệnh ở phần lý, phần biểu không bệnh. Không phải tạng khí bị thụ thương
thì là kiên tích ẩn phục bên trong, trường hợp này không thể cho đó là mạch Trầm
mà lầm là bị hư hàn. Mới xem thấy mạch hơi Huyền, xem lâu lại thấy hòa hoãn, hễ
bệnh đã lâu thì sắp khỏi, khí huyết tuy kém nhưng tạng khí chưa bại. Cách chung,
mạch của người bệnh lúc mới đặt tay vào tuy thấy vô lực hoặc Huyền Tế, không hòa
hoãn, xem lâu trên mười chí lại thấy điều hòa dần, thì bệnh có thể chữa. Nếu mới
xem mạch thấy hòa hoãn nhưng xem lâu lại thấy Vi, Sác không ứng tay hoặc dần dần
Huyền, cứng (ngạnh) thì bệnh khó chữa”.
10- Bỏ Mạch Theo Chứng-Bỏ Chứng Theo Mạch.
Thông thường thì
mạch và chứng tương ứng với nhau, nhưng có nhiều trường hợp mạch và chứng lại
không đi đôi với nhau như dương chứng mà lại thấy mạch âm hoặc âm chứng mà thấy
mạch dương... Sách ‘Y Biên’ giải thích rõ như sau: “Phàm bệnh mà và chứng không
hợp thì một bên thật, một bên giả, cần phân biệt kỹ. Như bên ngoài tuy phiền
nhiệt mà thấy mạch Vi, Nhược thì hư hỏa, hư tướng, lại chịu được công phạt sao?.
Nên theo mạch mà chữa chứng chân hư chứ không theo chứng là giả tượng. Hoặc
trường hợp bệnh vốn không có phiền nhiệt mà thấy mạch Hồng, Sác thì không phải
là hỏa tà. Bệnh vốn không có trướng đầy, ứ trệ mà thấy mach Huyến, Cường thì
không phải là chứng thực ở bên trong. Không nhiệt, không trướng lại có thể chịu
được phép tả hay sao?. Nên theo chứng hư chứ không theo mạch giả thực... Nếu là
tà làm thương tổn bên trong hoặc thực trệ, khí trệ mà bụng trên đau thắt đến nỗi
mạch Trầm, Phục hoặc Xúc hoặc Kết, đó là tà bế tắc kinh lạc gây ra. Đã có chứng
thực làm căn cứ thì mạch hư tức là gỉa, trường hợp này nên theo chứng chứ không
theo mạch. Hoặc như bệnh thương hàn, tay chân gía lạnh, rét run mà mạch thấy
Hoạt, Sác, đó là do nội nhiệt làm cách âm. Làm sao có thể biết được? Vì bệnh
truyền từ kinh này sang kinh khác chứ không phải trực trúng âm kinh, từ chứng
nhiệt chuyển sang hàn. Đã có mạch Sác, Hoạt làm căn cứ thì ngoại chứng là giả
hư, cũng theo mạch chứ không theo chứng vậy”.
Trường hợp nào nên
bỏ mạch mà theo chứng, Lê Đức Thiếp trong sách ‘Định Ninh Tôi Học Mạch’ đã nhận
định:
Nên bỏ mạch theo
chứng trong các trường hợp sau:
- Những bệnh mà
nhận xét về mạch khó chính xác như những người không thể chỉ căn cứ vào mạch
hoặc những người không có bộ mạch để xem.
- Những người thanh
cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé
nhỏ.
- Những người thanh
cao, 2 tay thường không có mạch, nếu có thì mạch đi rất êm dịu, nhẹ nhàng, bé
nhỏ.
- Những người mạch
tay trái thường rất nhỏ hơn tay phải hoặc ngược lại.
- Những người có
mạch Phản Quan.
- Những người không
may bị cụt một hoặc cả hai tay.
- Những người bị
thương ngay vị trí để xem mạch
11. Mạch phản quan
Có người, không tìm
thấy mạch ở bộ vị thốn khẩu như bình thường mà lại thấy mạch ở phần trên đỉnh
của bờ sau xương quay (ngang huyệt Liệt Khuyết) đi dọc xuống vùng lõm ở hố lào
(huyệt Dương Khê), gọi là mạch PHẢN QUAN. Gặp loại mạch này, khi chẩn mạch, phải
đặt bàn tay sấp xuống mới bắt được mạch. Loại mạch này có thể do bẩm sinh hoặc
do bị chấn thương gây ra.. .
12. Mạch với kỳ kinh bát mạch
¨ Mạch ở tay trái
đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Trầm là mạch ÂM DUY bị bệnh. - Biểu hiện:
đau trong tim (mạch Âm Duy đi vào phần âm, chủ về phần vinh, vinh là huyết,
huyết thuộc về tâm, vì vậy đau trong tim).
¨ Mạch ở bộ xích
thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Trầm Tế là ÂM KIỀU MẠCH bị bệnh. Biểu
hiện: dương khí không đủ mà âm khí vượng, thường hay buồn ngủ, phía ngoài bắp
chân dễ chịu mà phía trong căng thẳng (theo Nan thứ 29: dương hoãn mà âm cấp).
¨ Mạch ở tay bên
phải đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Phù là mạch DƯƠNG DUY bị bệnh. -
Biểu hiện: thấy nóng, rét (lạnh), (mạch Dương Duy đi vào phần dương, chủ về phần
vệ, vệ là khí, khí ở biểu vì vậy thấy nóng lạnh).
¨ Mạch ở 2 bộ thốn
thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Khẩn Tế là mạch DƯƠNG KIỀU bị bệnh. -
Biểu hiện: âm khí suy mà dương khí thịnh sinh ra không ngủ được, phía trong bắp
chân thì dễ chịu nhưng bên ngoài thì lại căng thẳng (Nan thứ 29 (N. Kinh): âm
hoãn mà dương cấp).
¨ Mạch ở 2 bộ quan
thấy lúc thì co vào lúc duỗi ra mà có vẻ Hoạt Khẩn là Mạch ĐỚI bị bệnh. Biểu
hiện: bụng đầy trướng, eo lưng đau tê, ớn lạnh như ngồi trong nước, phụ nữ thì
bụng dưới đau, kinh nguyệt không đều, xích bạch đái.
¨ 6 bộ mạch ở 2
tay để nhẹ mà đều đi Huyền Trường là mạch ĐỐC bị bệnh. Biểu hiện: Sống lưng
cứng, không thể cúi ngưả được, uốn ván.
¨ 6 bộ mạch ở 2
tay đi Khẩn Tế mà Trường, ấn kỹ lại thấy đi như hạt châu chạy liên tiếp là mạch
NHÂM bị bệnh. Biểu hiện: đàn ông thì bị chứng sán khí, đàn bà thì bị xích bạch
đái hoặc tích tụ ở bụng dưới (trưng hà).
¨ 6 bộ mạch ở 2
tay phải ấn thật mạnh mới thấy đi Huyền Trường là mạch XUNG bị bệnh. Biểu hiện:
khí từ bụng dưới xông lên, bụng trướng, đau.
13- Quan Hệ Giữa Mạch Và Ngũ Hành
Dùng ngũ hành áp
dụng vào mạch ta thấy:
Tay Bên TRÁI: Thận
thủy (bộ xích) sinh Can mộc (quan), can mộc sinh Tâm hỏa (thốn).
Tay Bên PHẢI: Mệnh
môn hỏa (bộ xích) sinh Tỳ thổ (quan), tỳ thổ sinh Phế kim (thốn).
14- Mạch Và Khí Huyết
Xét về khí huyết
với mạch ta có:
+ Bên trái thuộc
Huyết: Thận, Can và Tâm. Thận (tàng tinh, tinh sinh huyết ) - Can tàng huyết -
Tâm chủ huyết.
+ Bên phải thuộc
Khí: Mệnh môn (Tam tiêu) Tỳ và Phế. Tỳ là trung khí - Mệnh môn là nơi chứa
nguyên khí - Tam tiêu là đường dẫn khí - Phế chủ khí. Vì vậy, mạch ở bên phải
liên hệ với khí.
15- Quan Hệ Giữa Mạch Và Mùa
Mỗi mùa ứng với một
tạng nhất định, dù mùa đó cũng chi phối toàn thể các mạch khác trong suốt thời
gian đó.
+ Mùa Xuân: Mạch
Huyền
· Cây cối xanh tốt
vào mùa này, màu xanh ứng với màu của Can, do đó có mạch Huyền (mạch của Can).
· Mùa xuân dương
khí bắt đầu phát (thiếu dương) nhưng khí lạnh vẫn chưa hết, khí cơ còn có hiện
tượng ước thúc, vì vậy mạch tượng thấy đầu thẳng mà dài, giống như giây đàn
(Huyền).
+ Mùa Hè: Mạch Hồng
· Cây cối lớn lên,
sức nóng của mùa hè bùng lên, thiêu đốt vạn vật như lửa bùng lên (Hồng).
· Vào mùa này, vạn
vật tươi tốt, thịnh vượng, mạch đến thì thịnh mà đi thì suy, vì vậy sách ‘Nội
Kinh’ gọi là mạch Câu.
+ Mùa Thu: Mạch Mao
· Mọi vật bắt đầu
thu lại, lá cây khô đi và rụng giống như lông, do đó mạch của mùa thu là mạch
Mao.
· Thời điểm này,
dương khí bắt đầu suy, thế mạch đã giảm chỉ thấy Phù. Sách ‘Nội Kinh’ gọi là
mạch Mao là hình dung thể mạch đến ứng dưới tay thấy nhẹ như lông (Mao).
+ Mùa Đông: Mạch
Thạch
· Mọi vật thu giữ
lại, tàng trữ tất cả khả năng mạnh mẽ của mình để sống qua cái lạnh giá, vì vậy,
mạch của mùa đông là mạch Thạch.
· Mùa đông vạn vật
bế tàng, thế đến của mạch khí trầm mà có sức bật vào ngón tay, sách ‘Nội Kinh’
gọi là mạch Thạch là hình dung mạch đến ứng vào tay có lực cứng như cục đá
(Thạch).
+ Tứ Quý: Tứ Quý là
chuyển tiếp giữa các mùa, vì vậy thường mang đặc tính ôn hòa, do đó mạch của Tứ
Quý là mạch Hoãn.
16- Quan Hệ Giữa Mạch Và Lục Dâm. (Ngoại Tà)
· Hàn làm hại
(thương) Thận vì vậy có mạch Khẩn.
· Thử làm hại
(thương) Tâm vì vậy có mạch Hư.
· Táo làm hại
(thương) Phế vì vậy có mạch Sáp.
· Thấp làm hại
(thương) Tỳ vì vậy có mạch Nhu.
· Phong làm hại
(thương) Can vì vậy có mạch Phù.
· Nhiệt làm hại
(thương) Tâm bào vì vậy có mạch Nhược.
17- Mạch Và Thất Tình (Nội Nhân)
· Hỷ thương Tâm
gây nên mạch Hư.
· Tư thương Tỳ gây
nên mạch Kết.
· Ưu thương Phế
gây nên mạch Sáp.
· Nộ thương Can
gây nên mạch Nhu.
· Khủng thương
Thận gây nên mạch Trầm.
· Kinh thương Đởm
gây nên mạch Động.
· Bi thương Tâm
bào gây nên mạch Khẩn.
18. Mạch Và Nam Nữ
“Mạch của phụ
nữ thường nhu nhược (yếu) hơn mạch của nam giới”.Khi
Xem
mạch ‘Nam Tả Nữ Hữu’. Xem mạch, phái nam xem bên tay trái (làm chính), phái nữ
xem bên tay phải (làm chính). “Xem mạch phái nam, mạch tay trái (dương)
mạnh hơn tay phải (âm) là dương nhiều hơn âm là thuận. Ngược lại, mạch tay phải
mà mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương không thuận, tức là người nam đó bị
âm thịnh dương suy. Xem mạch người nữ mạch tay phải (âm) mạnh hơn tay trái
(dương) là âm nhiều hơn dương là thuận. Ngược lại, nếu mạch tay trái mạnh hơn
tay phải là dương nhiều hơn âm không thuận, tức là người nữ đó bị dương thịnh âm
suy. Như vậy, việc xem ‘Nam Tả Nữ Hữu’ chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hoặc
nghịch đối với người đó chứ không nhất thiết phải theo đúng quy cách trên.
Điều chủ yếu trong
câu ‘Nam Tả Nữ Hữu’ là chú ý vào hai bộ xích của cả nam lẫn nữ.
+ ‘Nam dĩ tả xích
nhi tàng tinh’ hoặc ‘Nam dĩ tả xích vi tinh phủ’ (Nam tàng trữ tinh khí ở bộ
xích bên tay trái). Xem mạch người nam, nếu bộ xích tay trái hòa hoãn, có lực
thì biết rằng người đó tinh khí sung mãn, khỏe mạnh. Nếu bộ xích tay trái Trầm,
Vi vô lực thì không khỏe...
+ ‘Nữ dĩ hữu xích
nhi bào hộ’ hoặc ‘Nữ dĩ hữu xích vi huyết hải’ (Nữ liên hệ với bào thai và chứa
huyết ở bộ xích). Xem mạch người nữ, nếu bộ xích tay phải hòa hoãn, có lực thì
biết rằng tử cung và huyết của họ tốt. Nếu bộ xích tay phải Trầm, Vi vô lực thì
không khỏe
A. ĐẠI CƯƠNG
:
Trong lâm
sàng thực nghiệm, đối với các thầy thuốc YHCT, một trong những yếu tố chẩn đoán
được coi là khó nhất, đó là việc xem mạch. Mạch tượng (hình thể của mạch) vừa là
thực tại (sờ, bắt được) nhưng cũng rất trừu tượng. Xét về từng ý nghĩa của mạch,
mỗi loại mạch có thể chủ một loại bệnh khác nhau. Ngoài ra mạch ở các vị trí
khác nhau cũng biểu hiện bệnh lý khác nhau.
Chữ MẠCH theo
nguyên nghĩa có thể hiểu là:
1- Chữ Mạch một
bên là chữ Huyết (血)
một bên là chữ Phái (
派)
là ngành, là chi phái nhánh), ý nói rằng mạch là một nhánh của huyết, ở trong
đó, huyết lưu thông.
2- Một bên là chữ
Huyết (血)
một bên là chữ Vĩnh
( 永 )
là lâu dài, ý nói có mạch thì có thể còn sống lâu dài (mất mạch, mạch không đập
nữa là chết).
3- Một bên là chữ
Nhục (肉
)
một bên là chữ (永
) là
lâu dài, ý nói có mạch thì sống lâu (không còn mạch thì chết).
Như vậy, theo
YHCT, mạch là biểu hiện của Khí, Huyết, lưu hành ngày đêm khắp cả cơ thể con
người.
Theo YHCT, chẩn
mạch là thầy thuốc dùng ngón tay của mình, bắt mạch của người bệnh để phân biệt
mạch tượng rồi kết hợp với các phép Vọng (nhìn), Văn (nghe), Vấn (hỏi), để chẩn
đoán âm dương biểu lý, hàn nhiệt, hư thực của bệnh chứng.
Chẩn đoán
mạch tượng có thể hiểu rõ được sự biến hóa của bệnh, theo đó mà phân biệt chứng
hậu, mặt khác lại có thể dò được sự thường hoặc biến của khí huyết, theo đó mà
suy đoán được sự thịnh suy của chính khí, làm cho thầy thuốc có thể nắm vững
được diễn biến trên lâm sàng”.
B- CƠ CHẾ CỦA MẠCH
Mạch với Tâm có
quan hệ với nhau theo từng nhịp thở. Tâm lại có quan hệ mật thiết với toàn bộ cơ
thể. Vì vậy, cơ thể bị bệnh chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mạch.Mạch là phủ của
huyết, mạch Trường thì khí được trường, mạch Đoản thì khí bị bệnh, mạch Sác thì
tâm phiền, mạch Đại thì bệnh đang tiến triển. Mạch là phủ của huyết, Vinh khí
dựa vào mà đi trong mạch, Vệ khí dựa vào mà đi ở ngoài. Mạch theo khí đi, huyết
theo mạch chạy. Vinh Vệ điều hòa, khí và huyết thông ứng, đó là người bình
thường.
MẠCH TRÌ
Mạch Trì
thuộc âm. Dinh (Vinh) khí hòa là Trì...
MẠCH TƯỢNG
Mạch Trì mỗi hơi thở đập 3 lần, đến
rồi đi rất chậm.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH TRÌ
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ trình bày hình vẽ mạch Trì như sau :
NGUYÊN NHÂN
Hàn khí ngưng trệ, dương khí không vận
hóa được, vì vậy thấy mạch Trì
Tà tụ nhiệt kết làm cho sự lưu hành của huyết
mạch bị trở ngại cũng thấy mạch Trì.
CHỦ BỆNH
Mạch Trì chủ
chứng hàn
Đàn bà bị trúng phong 6-7 ngày thì
phát sốt, sợ lạnh, đến lúc có kinh thì bớt nóng, cơ thể mát mà mạch lại Trì,
ngực sườn đầy tức, giống như chứng kết hung, lại thêm nói cuồng, đó là nhiệt
nhập huyết thất.
Kiết lỵ mà mạch Trầm Trì, sắc mặt nhạt,
cơ thể hơi nóng, đi tiêu ra phân xanh... là vì ở dưới bị hư vậy.
Mạch ở thốn khẩu Trì là
thấy có hàn ở bên trên, tim đau, họng đau, nôn ra nước chua. Mạch bộ quan Trì
là trong Vị có hàn. Mạch bộ xích Trì là hạ tiêu có hàn.
Mạch Trì là bệnh ở tạng, hoặc đờm nhiều, trưng kết. Bộ thốn
Trì là thượng tiêu bị hàn, bộ quan Trì là trung tiêu bị hàn, bụng đau không chịu
nổi, bộ xích Trì là Thận hư, thắt lưng đau, tiểu không tự chủ, dịch hoàn sưng
đau.
Mạch Trì chủ bụng đầy, ho suyễn, tích hàn, đờm ẩm, dương
hư, san tiết, trưng kết, tà nhiệt kết tụ. Trì mà có lực là nhiệt tà ủng kết ở
kinh mạch.
Tả Thốn TRÌ Tim đau.
|
Hữu Thốn TRÌ Phế nuy.
|
Tả Quan TRÌ Can uất, trưng kết.
|
Hữu Quan TRÌ Vị hàn, nuốt chua.
|
Tả Xích TRÌ Tiểu không tự chủ.
|
Hữu Xích TRÌ Mệnh môn hỏa suy, san tiết.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Trầm, Tiểu, Trì gọi
là thoát khí.
Mạch ở thốn khẩu Phù mà Trì... Trì
tức là lao... lao thì dinh khí suy nhược.
Người bệnh ngực đầy, môi bệu, lưỡi
xanh tím, miệng khô ráo, muốn ngậm nước súc miệng nhưng không muốn nuốt, không
nóng lạnh, mạch hơi Đại mà Trì, bụng không đầy là có ứ huyết.
Chứng trường ung thì bụng dưới sưng,
có bỉ khối, ấn thì đau như đứng lâu, tiểu thường hay phát sốt, tự ra mồ hôi lại
sợ lạnh, mạch Trì, Khẩn là đã thành mủ.
- Trì mà Sáp là ở trong có trưng kết, Trì mà
Hoãn là có hàn, Trầm mà Trì là trong bụng có lạnh.
· Mạch Trì
mà Phù là hàn ở phần biểu.
· Trì mà
Trầm là hàn ở phần lý.
· Trì mà Sáp
là huyết hư.
· Trì mà
Hoạt là đờm.
· Trì mà Tế
là chân dương suy.
· Trì mà
Hoạt, Đại là phong đờm.
MẠCH CÁCH
Cách là đầy,
là cấp, Cách là da thuộc, ý nói tượng mạch cố kết không di động.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Cách là
da thuộc, là Phù, Huyền, Đại, Hư, như ấn tay lên da trống, trong hư, ngoài cấp.
Mạch Cách đi
nổi mà dán vào tay, trong rỗng ngoài cứng, như đè lên mặt trống
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH CÁCH.
Sách ‘Mạch
Chẩn’ ghi lại hình vẽ biểu thị mạch Cách:
NGUYÊN NHÂN
Mạch Cách là
sự tương hợp giữa mạch Huyền và Khổng, do tinh huyết bên trong bị hư, Do
khí hư không kiên cố, tinh huyết không tàng được, làm cho khí không có chỗ dựa
mà phù việt ra ngoài
CHỦ BỆNH
Mạch
cách chủ biểu hàn, trung hư,đàn
bà thì xảy thai,rong huyết, băng huyết.đàn
ông thì mất tinh, mất huyết,
Tả Thốn CÁCH Tâm hư, đau.
|
Hữu Thốn CÁCH Phế hư, khí ủng trệ.
|
Tả Quan CÁCH Sán Hà.
|
Hữu Quan CÁCH Tỳ hư, dạ dầy đau.
|
Tả Xích CÁCH Di tinh.
|
Hữu Xích CÁCH Xẩy thai, lậu hạ.
|
KIÊM MẠCH BỆNH
· Cách
mà phù cứng là biểu tà cực thịnh.
· Cách
mà Hoãn, không có thần là âm khí tiêu tan, khó chữa.
C- CÁC BỘ VỊ ĐỂ CHẨN MẠCH
Hiện nay, đa số
các thầy thuốc chọn cách xem mạch theo học thuyết của Lý Đông Viên như sau:
TAY
PHẢI
|
TAY
TRÁI
|
|
THỐN
|
Phế
Đại Trường
|
Tâm
Tiểu Trường
|
QUAN
|
Tỳ
Vị
|
Can
Đởm
|
XÍCH
|
Mệnh Môn Tam
Tiêu
|
Thận
Bàng Quang
|
Sự Liên Hệ Giữa Các Bộ Vị Mạch
Dựa theo đặc
tính sinh khắc của Ngũ Hành, áp dụng vào cách phân định bộ vị của mạch và tạng
phủ theo Lý Đông Viên, ta có:
+ Tương Sinh:
Thận Thủy (bộ
xích tay trái) sinh Can Mộc (Quan), Mộc sinh Hỏa (Thốn) và Hỏa (Mệnh Môn - xích
bên phải) sinh Tỳ Thổ (Quan), Tỳ Thổ sinh Phế Kim (Thốn).
TAY
TRÁI
|
TAY
PHẢI
|
|
THỐN
|
Tâm
Hỏa
|
Phế
Kim
|
QUAN
|
Can
Mộc
|
Tỳ
Thổ
|
XÍCH
|
Thận Thủy
|
Mệnh Môn (Hỏa)
|
+ Tương Khắc:
Nhìn vào hàng
ngang, giữa 2 tay phải và trái, và giữa các bộ vị cùng tên, ta thấy có sự tương
khắc: Tâm Hỏa khắc Phế Kim, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Thận Thủy khắc Mệnh Môn Hỏa.
TAY
TRÁI
|
TAY
PHẢI
|
|
THỐN
|
Tâm
Hỏa
|
Phế
Kim
|
QUAN
|
Can
Mộc
|
Tỳ
Thổ
|
XÍCH
|
Thận Thủy
|
Mệnh Môn Hỏa
|
Nếu nhìn chéo
sẽ thấy: Phế Kim khắc Can Mộc, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy và như vậy sẽ có 1 vòng
liên hợp tương khắc như sau:
Tâm Hỏa khắc
Phế Kim, Phế Kim khắc Can Mộc, Can Mộc khắc Tỳ Thổ, Tỳ Thổ khắc Thận Thủy, Thận
Thủy khắc Mệnh Môn Hỏa, và vòng tương khắc cứ như vậy mà tiếp diễn.
Có lẽ vì vậy
mà hình thái định vị này đươc nhiều người chú ý và chấp nhận.
MẠCH ĐẠI
Đại là to
lớn.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Đại,
rộng và to khác thường, chỉ không cuồn cuộn như mạch Hồng mà thôi
.Mạch tràn đầy, ứng dưới ngón tay lớn .
Mạch Đại...
sức mạnh đi phù án thì như nước nổi lên tràn đầy dưới ngón tay mà trầm án thì
lại lan rộng ra mà mềm yếu đi, tức là phù án thì hữu lực còn trầm án thì vô
lực”.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH ĐẠI.
- Sách ‘Mạch
Chẩn‘ biểu diễn hình vẽ mạch Đại:
CHỦ BỆNH
Mạch Đại là
bệnh nặng thêm. Tượng mạch thô Đại là âm không đủ, dương có dư, sẽ gây nên chứng
nhiệt ở trung tiêu.
Phế khí
thịnh thì mạch Đại, mạch Đại thì không thể nằm ngửa.
Mạch Tâm
đầy, Đại sẽ phát ra chứng giản khiết, gân co quắp.
Mạch Đại là
huyết và khí đều thịnh - Mạch thấy Đại mà cứng là huyết khí đều thực.
Mạch ở bộ
quan Phù mà Đại là phong ở Vị, gây ra há miệng, so vai mà thở, vị quản khó chịu,
ăn vào thì muốn ói.
Mạch Đại chủ
tà khí thịnh, chính khí suy. Bệnh thấy mạch Đại là bệnh sắp phát nặng. Bệnh mới
mắc mà thấy Đại là thuộc thực, bệnh lâu ngày thấy mạch Đại thuộc Hư.
Mạch Đại chủ
tà nhiệt cảm nặng, thấp nhiệt, tích khí, ho suyễn, trường tiết, khí đưa nghịch
lên làm mặt bị phù, hư lao nội thương
.
Tả Thốn ĐẠI Tâm phiền, phong nhiệt, kinh sợ.
|
Hữu Thốn ĐẠI Khí nghịch, mặt phù, ho suyễn.
|
Tả Quan ĐẠI Sán khí, phong huyễn.
|
Hữu Quan ĐẠI Tích khí, vị thực, bụng đầy.
|
Tả Xích ĐẠI Thận tý.
|
Hữu Xích ĐẠI Tiểu đỏ, táo bón.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Tỳ hiện
đến thì mạch Đại mà hư là trong bụng có tích khí, nếu có quyết khí thì gọi là
quyết sán. Nam nữ cùng một chứng trạng như nhau, do chân tay đang ra mồ hôi mà
gặp gió. Mạch thận hiện đến thì trên cứng mà Đại, đó là có tích khí ở vùng giữa
bụng dưới với tiền âm gọi là chứng thận tý, bị chứng này là do tắm gội nước lạnh
xong mà đi nằm ngay.
Mạch Huyền
mà Đại. Huyền tức giảm, Đại tức là Hồng. Giảm là hàn, Hồng là hư. Hàn và Hư
tương bác gọi là Cách. Đàn bà gặp mạch này thì lậu hạ, xảy thai, đàn ông thì
vong huyết, thất (mất) tinh. Mạch ở thốn khẩu Phù, Đại... Phù là vô huyết, Đại
là hàn, hàn khí tương bác gây ra bụng sôi.
Mạch ở thốn
khẩu Phù mà Đại. Phù là hư, Đại là thực, (mạch này) thấy ở bộ thốn là chứng
“Cách”, thấy ở bộ xích là chứng ‘Quan’. Quan thì không tiểu được, Cách thì ói
ngược.
Mạch Hồng,
Đại, khẩn cấp là bệnh đang tiến nhanh ở bên ngoài, đầu đau, phát sốt, nhọt sưng.
Mạch bộ thốn Đại mà bộ xích lại Tiểu là đầu đau, mắt hoa. Mạch ở bộ thốn Tiểu mà
ở bộ xích lại Đại là ngực đầy, hụt hơi”.
Mạch ở thốn
khẩu Hồng Đại thì ngực sườn đầy tức.
Mạch Đại,
Phù, Hồng, Trường là chứng phong huyễn, điên tật.
· Mạch Đại
mà Phù là hư hoặc biểu bị nhiệt.
· Mạch Đại
mà Trầm là phần lý bị nhiệt, bệnh ở Thận.
· Mạch Đại
mà Huyền là nóng lạnh.
· Mạch Đại
mà Nhu là hư nhiệt.
· Mạch Đại
mà Hoãn là thấp nhiệt.
· Mạch Đại
mà Hồng là Vị bị thực.
· Mạch Đại
mà Thực là có tích khí.
MẠCH ĐẠI
Là thay đổi
HÌNH DẠNG
Mạch Đại cũng gần như Mạch Sắc Mạch
Nhu . Nhưng Sắc và Nhu thị chỉ dít không nhão, mềm mà không nghỉ, Còn mạch Đại
thì đã dít khó nhãomềm mà chốc chốc lại nghỉ. Mạch Đại gần như Mạch Xúc và Mạch
Kết. Ngưng Xúc và Kết mỗi lần nghỉ thì tới nhiều, ít không nhất định. Còn Đại
thì mỗi lần nghỉ, mạch tới có số nhất định .Thí dụ nhưn: Khi đầu 1o lần động 1
lần nghỉ thì sau đó đều 10 lần động 1 lần nghỉ .
NGUYÊN NHÂN
Khi tạng khí tuyệt thì thấy Mạch
Đại.
CHỦ BỆNH
Đại là tạng khí tuyệt. Người khỏe
thấy Mạch Đại ắt chết, người bệnh thấy Mạch Đại thì may còn chữa được,Bệnh đau
như: Tâm thống, Phúc thống, cảm gió, trúng gió, bệnh đờm, bệnh thấp, và đàn bà
có thai 3 tháng mà thấy Mạch Đại thì không việc gì. Có người khí huyết thình
lình bị tổn , Người khí không được điều hòa thì cũng thấy Mạch Đại,
MẠCH ĐOẢN
Mạch Đoản
thuộc Âm mạch, mức độ ngắn,Mạch
đi dưới tay, thấy không đến vị trí của mạch, gọi là mạch Đoản.
HÌNH TƯỢNG
Mạch
Đoản, ngắn,
mà Sáp, nhỏ,
đầu đuôi như không có, ở giữa nổi lên,
không đến được vị của 3 bộ.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH ĐOẢN
-
Sách ‘Mạch
Chẩn’(M.Kinh) biểu diễn hình vẽ mạch Đoản như sau:
-
NGUYÊN NHÂN
Mạch Đoản...
do khí không được điều hòa, hư thì thuộc Phế, thực thì thuộc về Vị.
Mạch
Đoản...do âm dương không đến bản vị.
Vị khí ủng
tắc không thông đều được các mạch, hoặc do đàm khí, ăn không tiêu làm trở ngại
đường vận hành của khí, vì vậy thấy mạch Đoản. Cũng có khi do dương khí không
thông.
Mạch Đoản là
vì khí bị hư không đủ sức để dẫn huyết. Hoặc do huyết trệ, khí uất hoặc đàm trệ
khí uất, hoặc đàm trệ thực tích làm cho khí đạo và mạch khí không thông cũng
thấy mạch Đoản”
Mạch Đoản mà
có lực, chủ khí thực, do khí bị uất hoặc khí của Tam tiêu bị ứ, hoặc do đờm,
thức ăn ngăn trở ở hoành cách mô gây ra mạch Đoản.
CHỦ BỆNH
Mạch ở thốn
khẩu đụng vào ngón tay là Đoản thì đầu đau.bộ
xích Đoản thì bụng đau
Mạch Đoản
...thuộc Âm trung phục dương, chủ khí của Tam tiêu bị ứ tắc, ăn uống không tiêu.
Mạch Đoản
chủ khí bị hư.Mạch
Đoản thấy ở chứng bất túc, nguyên khí hư suy
Mạch Đoản,
nếu hữu lực thì chủ về khí bị uất, nếu vô lực thì chủ về khí bị tổn thương.
Mạch Đoản
chủ hơi thở ngắn, huyết hư, phế hư, ăn không tiêu, mồ hôi ra nhiều, dương khí bị
vong.
Hữu Thốn ĐOẢN Phế hư, đầu đau.
|
Tả Thốn ĐOẢN Tâm thần, bất túc.
|
Hữu Quan ĐOẢN Vị quản đầy, tức, không thông.
|
Tả Quan ĐOẢN Phế khí, tổn thương.
|
Hữu Xích ĐOẢN Chân dương suy yếu.
|
Tả Xích ĐOẢN Bụng dưới đau.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Phù,
Đoản là Phế bị tổn thương, các khí đều ít, không quá 1 năm thì chết. Mạch Đoản
mà Sác thì tim đau, buồn bực.
Mạch Xúc,
Đoản mà Sác là do độc khí phạm vào tâm, mạch đạo bị quẫn bách mà ra, là chứng
chết.
Phù mà Đoản
thì doanh vệ không hành, Trầm mà Đoản là tạng phủ có bỉ khối, ứ trệ.
· Đoản Sác
là tim đau, buồn bực.
· Đoản,
Hoạt, Sác là do uống rượu làm hại thần trí.
· Phù mà
Đoản là huyết bị sáp trệ hoặc phế bị tổn thương.
· Trầm mà
Đoản là bí kết.
Mạch Đoản mà
Phù là Phế khí bị hư hoặc huyết bị sáp, Đoản mà Sáp là Tâm khí bị hư hoặc Tâm
mạch bị ứ trệ, Đoản mà Trầm là có bỉ khối, Đoản mà Trì là hư hàn.
MẠCH ĐỘNG
Là lăn chuyễn
HÌNH DẠNG
Mạch Động nghĩa là lăn chuyển. Mạch
nhấc tay lên thấy như không có nhưng luôn đó lại có ngay. Khi có thì như hạt đậu
lúc lắc, không ra khỏi không đi cũng không lại.
NGUYÊN NHÂN
Cơ thể bị hư lao thì thấy Mạch
Đại.
CHỦ BỆNH
Mạch Động phần nhiều thấy ở Quan bộ,
Nếu thấy ở Nhân nghênh thì vì lạnh mà đau, Thấy ở Khí Khẩu là có sự kinh
sợ. Mạch Động thường thân thể hư lao hoặc băng huyết , nhiều đờm, lị ra huyết
hay là chân tay co quắp, Phế khô vỵ tuyệt
MẠCH HOÃN
ĐẠI CƯƠNG
Hoãn
là hòa hoãn.Vệ
khí hòa gọi là Hoãn. - Âm mạch và dương mạch điều hòa gọi là Hoãn.Ấn
tay thấy mạch vẫn y nguyên gọi là Hoãn
HÌNH TƯỢNG
Mạch Hoãn, 1
hơi thở 4 chí, như sợi tơ ở dưới tay, không cấp bách, qua lại thong thả, khoan
hòa, đều đặn, số mạch đập không thay đổi mấy.Hoãn
qua lại cũng chậm, nhanh hơn Trì một ít.Mạch
Hoãn thuộc loại tần số trung bình từ 60-80 lần / phút
HÌNH VẼ
BIỂU THỊ MẠCH HOÃN
- Sách
‘Mạch Chẩn’ ghi hình vẽ mạch Hoãn như sau:
NGUYÊN NHÂN
Tỳ thuộc thổ
mà chủ thấp, khí cơ bị thấp tà mà khốn đốn vì vậy thấy mạch Hoãn.
Do khí cơ bị thấp tà dính lại gây nên. Tỳ Vị hư yếu, mà Tỳ Vị là nguồn của khí
huyết, khí huyết bất túc, không vận hành được, kết lại gây nên mạch Hoãn,
Khí huyết
đều hư vì vậy mạch đến thong thả [Hoãn]
CHỦ BỆNH
Mạch ở bộ
xích và thốn mà đều và Hoãn thì bệnh ở quyết âm
Thái Dương
bệnh, mạch bộ thốn Hoãn, bộ quan Phù, bộ xích Thực, phát sốt, ra mồ hôi sợ lạnh,
không nôn mửa, chỉ thấy mạch Vi, Hoãn, đầy tức, đó là do thầy thuốc sử dụng phép
Hạ gây ra.
Thương Hàn,
mạch Phù Hoãn, bì phu mất cảm giác là phong hàn ở cơ nhục, Mạch bộ quan Hoãn,
biếng ăn là do vị khí không điều hòa, Tỳ khí không đủ. Mạch bộ xích Hoãn thì
chân yếu, tiểu tiện không thông.
Mạch thốn
khẩu Hoãn, bì phu mất cảm giác là phong hàn ở cơ nhục,Mạch
Hoãn là hư,Mạch Hoãn là nhiệt nhiều,
Mạch Hoãn là
phong, là hư, là tý, là yếu, là đau, ở trên là gáy cứng, ở dưới là chân yếu.
Mạch bộ thốn bên trái Hoãn là tâm khí không đủ, hồi hộp, hay quên, gáy và lưng
đau cấp - Mạch bộ quan (trái) Hoãn là phong hư, chóng mặt, khí kết ở bụng sườn -
Mạch bộ xích (trái) Hoãn là Thận hư hàn, tiểu khó, kinh nguyệt ra nhiều - Mạch
bộ thốn (phải) Hoãn là Phế khí phù lên, thở ngắn - Mạch bộ quan (phải) Hoãn là
Vị khí hư yếu - Mạch bộ xích (phải) Hoãn là chân lạnh yếu, phong bí, khí trệ
Mạch Hoãn là
phần vinh (huyết) bị suy mà phần vệ (khí) lại dư, là phong hoặc thấp hoặc Tỳ hư,
trên là gáy cứng đau, dưới là chân tê bại.
Mạch Hoãn
chủ về phong thấp, trúng phong, đau nhức, hoa mắt, chóng mặt, hư nhức, ung nhọt,
tiểu khó.
Tả Thốn HOÃN Tâm khí không đủ.
|
Hữu Thốn HOÃN Thương phong.
|
Tả Quan HOÃN Can hư.
|
Hữu Quan HOÃN Tỳ thấp.
|
Tả Xích HOÃN Âm hư.
|
Hữu Xích HOÃN Dương suy.
|
KIÊM MẠCH BỆNH
· Mạch Hoãn
mà Phù là thương phong ở phần biểu.
· Mạch Hoãn
mà Trầm là thấp tý.
· Mạch Hoãn
mà Hoạt là nóng ở trong.
· Mạch Hoãn
mà Sáp là huyết hư.
· Mạch Hoãn
mà Trầm, Tế, vô lực là dương hư.
MẠCH HOẠT
- Hoạt là
trơn tru, sức mạch đi trơn tru như chuỗi hạt châu (viên ngọc) lăn (động) dưới
ngón tay.
Người thường
mạch Hoạt mà xung hòa là dấu hiệu vinh vệ đầy đủ. Phụ nữ không bệnh mà thấy mạch
Hoạt thì nên xét xem có thai hay không
HÌNH TƯỢNG
Mạch Hoạt
qua lại lưu lợi,trơn
tròn
như hạt châu lăn trong mâm, như mưa móc đọng trên lá sen
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH HOẠT
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ ghi lại hình vẽ biểu diễn mạch Hoạt như sau:
NGUYÊN NHÂN
Do tà khí
ủng thịnh bên trong, chính khí bất túc, khí thực, huyết dũng, khiến cho mạch đi
lưu lợi, ứng dưới tay thấy Hoạt, tròn.oặc
đàm thực kết trệ bên trong, tà khí thịnh, thực, cũng gây ra mạch Hoạt.
Nguyên nhân
phát sinh mạch Hoạt có thể do:
· Lượng máu
ở tim tống ra bình thường hoặc tăng cao.
· Thành
mạch co dãn bình thường.
· Tăng vận
tốc tuần hoàn.
· Dòng máu
chảy thông suốt.
D- MẠCH HOẠT CHỦ BỆNH
Mạch Hoạt là
dương khí thịnh chủ bệnh đờm, thực, nhiệt, là thực trệ, nôn mưả, đầy tức
Mạch Hoạt
chủ ói nghịch, ho khạc, phục đờm, thủy ẩm, súc huyết, trung mãn, ăn không tiêu,
kiết lỵ, sán khí - Phụ nữ bộ xích hoạt là khí ủng trệ gây ra kinh nguyệt không
thông. Hoạt mà lưu lợi là có thai
Mạch Tâm...
Hoạt thậm thì khát nước, hơi Hoạt là chứng Tâm sán kéo xuống đến rốn, bụng dưới
sôi. -Mạch Phế... Hoạt thậm thì hắt hơi, khí nghịch lên, hơi Hoạt là trên dưới
đều ra máu. - Mạch Can... Hoạt thậm là chứng đồi sán, hơi Hoạt là chứng đái dầm
- Mạch Tỳ... Hoạt là chứng đồi sán,bí tiểu, dịch hoàn viêm, loét, hơi Hoạt là
chứng cốt nuy (xương mềm yếu), ngồi không dậy được, dậy thì tối mắt không nhìn
thấy gì
Bộ thốn Hoạt
chủ về ói mửa, đờm ẩm. Bộ quan Hoạt chủ về Vị bị nhiệt không ăn uống được, ăn
vào thì ói. Bộ xích Hoạt chủ về tiểu đỏ, tiểu ít, dương vật đau buốt”.
· Nếu huyết
thịnh thì mạch Hoạt là không có bệnh.
· Đàn bà có
thai thì mạch Họat cũng là không bệnh.
· Chứng đờm
và ăn không tiêu thì cũng mạch Hoạt.
· Khi tà
khí nặng thì mạch cũng Hoạt.
· Có bệnh
mà thấy mạch Hoạt thì đều thuận lợi.
Tả Thốn HOẠT Tâm nhiệt, kinh sợ, mất ngủ.
|
Hữu Thốn HOẠT Đờm ẩm, nôn mửa.
|
|
Tả Quan HOẠT Can nhiệt, đầu váng.
|
Hữu Quan HOẠT Tỳ nhiệt, ăn không tiêu.
|
|
Tả Xích HOẠT Lậu, tiểu đỏ, tiểu khó.
|
Hữu Xích HOẠT Bụng sôi, tiêu chảy hoặc tướng hỏa bốc lên.
|
|
KIÊM MẠCH
Mạch Hoạt
Phù mà Tật là mới bệnh”. “Mạch Hoãn mà Hoạt là chứng nhiệt ở trung (bộ)”. - “Bộ
xích Sáp mà mạch lại Hoạt là chứng ra mồ hôi”.
- Thiên
‘Thông Bình Hư Thực Luận’ (T. Vấn 28) ghi: “Hoàng Đế hỏi: Chứng trường tích ra
lẫn mủ, máu thì như thế nào? - Kỳ Bá thưa: mạch Tuyệt thì chết, mạch Hoạt Đại
thì sống. - Hoàng Đế hỏi: chứng trường tích mà cơ thể không nóng, mạch không
Tuyệt thì sao? - Kỳ Bá thưa: mạch khí bật lên, Đại mà Hoạt thì lâu ngày sẽ tự
khỏi, nếu mạch Tiểu Cấp và cứng thì sẽ chết, không chữa được”.
Mạch khí của
Tâm bật lên, Hoạt mà Cấp là chứng Tâm sán
Chứng tiểu
kết hung ngay ở dưới tim, đè vào thì đau, mạch Phù Hoạt, đó là biểu có nhiệt,
lý có hàn. - Thái dương bệnh lại dùng phép hạ... thấy mạch Trầm Hoạt là chứng
nhiệt lỵ, thấy Phù Hoạt sẽ tiểu ra máu.
Mạch bộ thốn
Trầm, Đại mà Hoạt, Trầm là Thực, Hoạt là khí thực, khí tương bác, huyết khí vào
tạng thì chết, vào phủ thì sẽ khỏi, đó là chứng ‘thốt quyết’.
Mạch phu
dương Phù mà Hoạt, Hoạt là cốc khí thực, Phù thì tự nhiên ra mồ hôi
Trong miệng
khô ráo, ho thì đau ở ngực, mạch lại Hoạt Sác, đó là chứng Phế ung, khạc ra mủ
máu.
Mạch Sác mà
Hoạt là thực, có thức ăn tích lại không tiêu.
Mạch Phù mà
Tế Hoạt là chứng thương ẩm.
Mạch ở thốn
khẩu Trầm Hoạt, trong có thủy khí, mắt mặt sưng phù, có nhiệt, gọi là chứng
phong thủy.
Mạch Hoạt mà
hơi Phù là bệnh ở Phế.
Mạch ở thốn
khẩu Hoạt mà Trì, không Trầm, không Phù, không Trường không Đoản là không có
bệnh, bên trái và bên phải giống nhau. Mạch bộ quan Hoạt mà lại Đại, Tiểu không
đều là bệnh đang tiến, không quá 1-2 ngày thì phát. Người bệnh muốn uống nhiều,
uống vào thì đi tả ngay, nếu ngừng thì sống. không ngừng thì chết. Mạch bộ xích
Hoạt mà Tật là huyết hư.
Trì mà Hoạt
là đầy trướng. Hoạt mà Sác là âm kết nhiệt. Hoạt Tật là có nhiệt ở Vị. Hoãn mà
Hoạt là nhiệt ở trung (bộ). Trầm mà Hoạt là mót rặn, lưng đau.
Mạch
Phù Hoạt là phong đờm, Trầm Hoạt là đờm tụ do thức ăn, Hoạt Sác là đờm hỏa, Hoạt
Đoản là không muốn ăn.
- Sách ‘Mạch
Học Giảng Nghĩa’ ghi: “
· Mạch Hoạt
Phù là biểu nhiệt hoặc phong đờm.
· Hoạt Trầm
là lý nhiệt hoặc đờm ẩm.
· Hoạt Sác
là Vị bị nhiệt, ăn không tiêu.
· Hoạt Trì
là tiêu chảy”.
MẠCH HỒNG
Mạch
Câu, mạch Thịnh, mạch Hồng là một
Mạch Câu,
ứng với thời lệnh là mùa hè, ở tạng là Tâm, thuộc hỏa, phương nam, muôn vật nhờ
đó mà thịnh trưởng. vì thế mạch khí lúc đến thì thịnh, lúc đi thì suy, do đó
gọi là Câu.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Hồng là
dương trong dương vì vậy mạch khí lúc đến thì thịnh, lúc đi thì suy .
Mạch Hồng to
mà thực, nhấc tay lên hoặc ấn xuống đều có lực
Mạch Hồng,
mạch tới cuồn cuộn đầy dẫy
như sóng vỗ
dưới ngón tay, khi đến mạch lớn, lúc đi mạch kém dần.
HÌNH VẼ BIỂU
DIỄN MẠCH HỒNG
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Hồng:
NGUYÊN NHÂN
Nhiệt tràn
đầy ở bên trong, đường mạch to ra và đẩy trào lên, gây ra mạch Hồng.
Nhiệt là
thương tổn phần âm, âm khí hư ở bên trong mà dương khí phù việt ra bên ngoài
cũng gây ra mạch Hồng.
Phát
sinh ra mạch Hồng có thể do:
· Lượng máu
ở tim tống (đẩy) ra tăng lên.
· Mạch máu
ngoại biên bị dãn .
· Huyết áp
tâm thu cao .
· Huyết áp
tâm trương thấp .
· Mạch áp
lớn .
· Tốc độ
máu chảy nhanh.
CHỦ BỆNH
Mạch Thịnh
da nóng, bụng trướng, đái tiểu tiện không thông là ngũ thực.
Mạch Hồng
chủ về nhiệt... đó là cả vinh lẫn vệ đều rất nóng, khí huyết bị nung đốt, nóng
cả ở phần biểu và lý.
Bộ thốn Hồng
chủ về thượng tiêu, trong lồng ngực có nhiệt. Bộ quan Hồng chủ về nhiệt ở vị, ói
mửa, phiên vị. Bộ xích Hồng chủ về nhiệt ở nửa người, đại tiện khó, tiêu ra máu.
Mạch Hồng
gặp ở chứng tà khí thịnh, hỏa quá mạnh. Nhưng nếu mạch Hồng mà vô lực đó là hư
Hồng, là hiện chứng của Hỏa bốc lên mà Thủy bị cạn.
Mạch Hồng
chủ đầy, đau, nhiệt, phiền.
Mạch Hồng
chủ phần doanh và lạc có nhiệt nhiều, họng khô, đại tiểu tiện không thông.
Mạch Hồng
chủ bệnh phiền táo, tráng nhiệt, phiền khát, ói ra máu, đầy trướng, ra mồ hôi,
thử nhiệt.
Tả Thốn HỒNG Tâm phiền, lưỡi lở loét.
|
Hữu Thốn HỒNG Ngực đầy, khí nghịch.
|
Tả Quan HỒNG Can Mộc quá vượng.
|
Hữu Quan HỒNG Vị nhiệt, đầy tức.
|
Tả Xích HỒNG Thủy khô kiệt, đái gắt.
|
Hữu Xích HỒNG Long hỏa thiêu đốt.
|
KIÊM MẠCH
Trường ung,
thấy mạch Hồng Sác là đã thành mủ.
Trong bụng
đau thì mạch phải nên Trầm, nếu lại thấy Huyền mà Hồng Sác là có giun đũa.
Mạch Đại,
Hồng, Khẩn, Sác là bệnh tiến triển nhanh, ở bên ngoài là đầu đau, phát sốt, ung
thủng.
Mạch Phù,
Hồng, Đại, Trường là phong huyễn, điên tật.
Mạch Hồng,
Đại là thương hàn nhiệt bệnh”. “Dương tà xâm nhập thì mạch Phù, Hồng.
· Mạch Hồng
Đại là nhiệt thịnh.
· Hồng Phù
là biểu nhiệt hoặc hư nhiệt.
· Hồng Trầm
là lý nhiệt hoặc nhiệt bị hàn bao bọc.
· Hồng Khẩn
là ngực đầy tức, đại tiện khó mà ra máu.
MẠCH HƯ
Hư là không
Thực,
nghĩa là ở giữa bất túc,nhược mà không lực, vì vậy gọi là Hư.
Mạch Đại như
cũ mà không cứng là hư
HÌNH TƯỢNG
Mạch Hư
là tổng hợp 4 mạch
, ấn vào
không thấy,
Phù,Trì,
Đại mà Nhuyễn, đè tay xuống, nhấc tay lên đều thấy trống không .
Mạch Hư, 3
bộ mạch ấn nhẹ tay thì vô lực, ấn nặng tay thì mất.
HÌNH VẼ BIỂU
DIỄN MẠCH HƯ
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Hư như sau:
NGUYÊN NHÂN
Khí không đủ
để khua động huyết thì mạch đến vô lực (hư)- Huyết không đủ để nuôi dương khí
thì mạch cũng Hư.
Do khí hư
không vận chuyển được huyết, mạch khí hư, huyết hư không thúc đẩy được huyết
mạch, cho nên ấn tay xuống thấy trống rỗng. Do khí hư không thu liễm được nên
mạch khí tràn ra ngoài. Huyết hư, khí không phù trợ được nên phù ra ngoài, vì
vậy bắt mạch thấy lớn mà nhuyễn.
CHỦ BỆNH
Mạch của Can
và Thận đều Hư thì chết
Mạch Thực
thì huyết thực, mạch Hư thì huyết hư, đó là lẽ thường. Trái nghịch như trên là
bệnh.
Mạch Hư mà
cơ thể sốt đó là do thương thử - Mạch ở bộ xích và thốn đều Hư, nóng không bớt
thì chết.
Mạch ở thốn
khẩu Hư ắt sinh hàn ở Tỳ Vị, gây ra ăn không tiêu.
Mạch Hư là
cơ thể sốt (do thương thử ), trống ngực hồi hộp, tự ra mồ hôi, phát nóng, âm hư.
Mạch bộ thốn Hư là huyết không nuôi Tâm - Bộ quan Hư là bụng trướng, ăn không
tiêu - Bộ xích Hư là nóng âm ỉ ở trong xương, chân tê bại, tinh huyết bị tổn
thương”.
Mạch Hư chủ
chính khí hư, không lực.huyết
hư, thương thử,khí huyết đều hư
Phù chẩn
thấy mạch Hư là huyết hư, trầm chẩn thấy mạch Hư là khí hư.
Trẻ nhỏ thấy
mạch Hư là có kinh phong, người mạnh khỏe có mạch Hư là bị thương thử.
Mạch Hư chủ
khí và huyết đều hư, phế nuy, thương thử, mồ hôi ra nhiều, hồi hộp, chân mềm, ăn
không tiêu.
Tả Thốn HƯ Hồi hộp.
|
Hữu Thốn HƯ Khí suy, tự ra mồ hôi.
|
Tả Quan HƯ Huyết không nuôi gân.
|
Hữu Quán HƯ Hư trướng, ăn không tiêu.
|
Tả Xích HƯ Thắt lưng đau, đầu gối tê bại.
|
Hữu Xích HƯ Dương suy hoặc trầm hàn.
|
KIÊM MẠCH
Bệnh do
phong thì mạch phải Phù Hư.
Đàn ông bình
thường mà thấy mạch cực Hư là bị hư lao. Đàn ông mà mạch lại Hư, Trầm, Huyền,
không nóng lạnh... là do hư lao gây ra. Đàn ông bình thường mà mạch Tế, Nhược,
Vi thì thường ra mồ hôi trộm.
Mạch Sác, Hư
là chứng phế nuy.
Mạch chân
tạng của Phế hiện ra thì Phù mà phải Hư, ấn tay xuống thấy mềm rỗng như cọng
hành, ở dưới không có gốc thì chết.
-Mạch Hoạt
mà thịnh là bệnh đang tiến,- Mạch Hư mà Tế là bệnh đã lâu ngày.
· Mạch Hư
mà Phù là khí hư.
· Hư mà Sáp
là huyết hư .
· Hư mà Sác
là âm hư, phế nuy.
· Hư mà Trì
là dương hư .
· Hư mà
Nhuyễn là mồ hôi tự ra.
· Hư mà
Tiểu là chân đau, tê bại .
MẠCH HUYỀN.
- Huyền là
dây (đàn, cung ...) sức mạnh đi trong đường của mạch như có sợi dây cứng thẳng,
nên gọi là Huyền.
Mạch
Huyền là mạch tượng của Can, mùa xuân.Mạch Sác mà Khẩn là mạch Huyền.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Huyền
hình dạng giống dây cung,
ấn vào thấy
căng thẳng như ấn vào dây cung,đè
mạnh tay vào không thay đổi,
thỉnh thoảng
thấy Sác.
HÌNH VẼ BIỂU
DIỄN MẠCH HUYỀN
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ vẽ hình biểu diễn mạch Huyền như sau:
NGUYÊN NHÂN
Mạch
Huyền... do hư lao, nội thương, khí trung tiêu không đủ, thổ (Tỳ Vị) bị mộc
(Can) khắc.
Can chủ sơ
tiết, điều sướng khí cơ, nếu tà khí uất kết ở Can, làm mất chức năng sơ tiết,
khí uất không thông lợi, sẽ sinh ra mạch Huyền. Hoặc các chứng đau, đờm ẩm, khí
cơ ứ trệ, âm dương không hòa, mạch khí do đó bị căng ra, gây nên mạch Huyền.
Nguyên
nhân phát sinh mạch Huyền thường do:
· Lượng máu
ở tim tống ra tăng lên .
· Sức co
của thành mạch máu tăng .
· Huyết áp
cao .
· Động mạch
bị xơ cứng, trương lực của động mạch cao hơn bình thường.
CHỦ BỆNH
Mạch án về
mùa xuân, có vị khí mà mạch hơi Huyền là bình thường, Huyền hơi nhiều mà Vị khí
ít là bệnh ở Can, chỉ thấy mạch Huyền mà không có Vị khí thì sẽ chết.
Thương hàn
mà thấy mạch ở bộ thốn Sáp, bộ xích lại Huyền thì trong bụng đau dữ.
Mạch Song
Huyền là hàn, đều là do sau khi cho xổ mạnh, trong người dễ bị hư. Mạch thiên
Huyền là bệnh ẩm.
Tiêu chảy mà
mạch lại Huyền, phát sốt, ra mồ hôi là bệnh sắp khỏi.
Thốn khẩu
mạch Huyền là dưới hông sườn bị đau nhiều, gai rét, sợ lạnh.
Bộ thốn
Huyền thì nước đọng ở hạ tiêu, đầu đau, bụng đau cấp. Bộ quan Huyền thì mộc khí
bị hại không sinh được nhiệt, bụng đau do Vị bị hàn. Bộ xích Huyền thì thủy khí
đọng hạ tiêu, ruột đau, dưới rốn gò đau.
Mạch Huyền
chủ đờm ẩm, sốt rét lâu ngày. Bộ thốn Huyền là đầu nhức, đờm nhiều. Bộ Quan
Huyền thì nóng lạnh, trưng hà. Bộ xích Huyền chỉ đồi sán, chân bị co rút.
Mạch bộ thốn
Huyền chủ đầu đau, hàn nhiệt (sốt rét). Bộ quan Huyền là Vị bị hàn, ngực bụng
đau. Bộ xích Huyền là trúng âm sán.
Mạch Huyền
chủ mắt đỏ, chóng mặt, huyết áp cao, hồi hộp, hay quên, thần kinh suy nhược.
Mạch Huyền
chủ tà ở Can vượng, Tỳ yếu, bệnh ngược (sốt rét), đờm ẩm, đầy trướng, đau 2 bên
hông sườn, sán khí, tích kết, chứng tý.
Tả Thốn HUYỀN Đầu đau, lo sợ, mồ hôi trộm.
|
Hữu Thốn HUYỀN Phế cảm phong hàn, ho.
|
Tả Quan HUYỀN Sườn đau, sán khí.
|
Hữu Quan HUYỀN Tỳ Vị bị hàn, bụng đau.
|
Tả Xích HUYỀN Bụng dưới đau.
|
Hữu Xich HUYỀN Quanh rốn đau, thủy tích ở hạ tiêu.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Phù mà
Huyền là Thận bất túc.
Thương hàn
mà mạch Huyền Tế, đầu đau, phát sốt là thuộc về Thiếu dương.
Tiêu chảy
mà mạch Trầm Huyền thì phần dưới nặng nề.
Mạch Trầm mà
Huyền là huyền ẩm, đau ở trong. Mạch Huyền Sác mà có huyền ẩm, mùa đông và mùa
hạ khó chữa. Người bệnh ho kinh niên, mạch Huyền là có nước đọng.
Trong bụng
đau thì mạch phải Trầm Huyền, nếu Hồng Đại là có giun.
Đàn ông bình
thường mà mạch Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh là hư lao
Người bệnh
mặt nhợt nhạt, không nóng lạnh, mạch Trầm Huyền thì chảy máu cam. Thốn khẩu mà
mạch Huyền Đại. Huyền là giảm, Đại là khâu. Giảm là hàn, khâu là hư. Hư hàn kích
bác nhau gọi là mạch Cách. Đàn bà có mạch này thì đẻ non, lậu hạ, đàn ông thì
mất máu.
Đàn ông mạch
Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh, hơi thở ngắn, bụng đau nhiều, tiểu không
thông, sắc mặt trắng, thỉnh thoảng hoa mắt, chảy máu cam, bụng dưới đầy, các
chứng này do bệnh lao gây ra.
Mạch Huyền
Tiểu là chứng hàn tiết.
Mạch Đại mà
Huyền là nóng lạnh. Nhuyễn mà Huyền là chóng mặt, hoa mắt, ngón tay tê. Nhược mà
Huyền, Tế là huyết hư, gân teo. Thực mà Huyền là hàn thịnh ở bên trong. Trầm mà
Huyền là thực, chủ về hạ trọng. Tế Huyền là tạng Can bị hư.
Huyền Trầm
là chứng huyền ẩm gây ra đau ở bên trong, Huyền Hư là hoa mắt chóng mặt. Huyền
Trì là quá nhiều hàn. Huyền Tế là co rút cấp (kinh phong cấp ).
Huyền Khẩn
là sợ lạnh, sán khí, tích tụ. Huyền Hồng là hông sườn đau như dùi đâm.
MẠCH KẾT
Mạch
KẾT thuộc loại mạch âm
Mạch đến
Hoãn có lúc ngừng rồi lại tiếp, gọi là mạch KẾT.
HÌNH TƯỢNG
Kết là mạch
qua lại có lúc ngừng, số lần đập không nhất định.Kết
là đá kết tụ, mạch qua lại có lúc ngưng nghỉ gián đoạn như dây có thắt nút. Mạch
Kết...số lần đập không đều, hoặc đập 5-7 lần thì ngưng hoặc đập 10-20 lần mới
ngưng.
HÌNH VẼ BIỂU
DIỄN MẠCH KẾT
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Kết:
NGUYÊN NHÂN
Mạch Kết là
do khí huyết ngưng kết, táo đờm ủng trệ.
Mạch Kết do
phần nhiều khí huyết suy dần, tinh lực sút kém, vì vậy, mạch ngưng rồi lại đập,
đập rồi lại ngưng.
Mạch Kết do
khí bị hư, huyết bị Sáp, tà khí kết tụ ở kinh mạch. Hư suy thì khí lực kém, kết
tụ thì làm cho kinh mạch bị trở ngại, vì vậy mạch khí trôi chảy không được lưu
lợi mà lại có gián đoạn”.
Mạch Kết do
âm thịnh, dương khí không thể điều hòa, vì vậy mà mạch đến từ từ mà thỉnh thoảng
lại ngừng.
CHỦ BỆNH
Mạch Kết ở
bộ quan là trong bụng có tích tụ.
Người bệnh
chân tay quyết lãnh, mạch bất thình lình thấy Kết là tà khí tích tụ ở ngực, vì
vậy mà ngực đầy tức, đói mà không ăn được.
Mạch Kết...
âm thịnh mà dương không vào được, là trưng kết, uất do thất tình.
Mạch Kết...
trong là tích tụ, ngoài là ung nhọt, sán, hà.
Mạch Kết
thấy ở chứng tích trệ, ngừng kết bên trong.
Mạch Kết chủ
âm thịnh, khí kết, khí ủng tắc, đờm trệ, tích tụ, ứ huyết, trưng hà, hàn đàm,
khí uất.
Mạch Kết chủ
khí huyết ngưng trệ, ngoan đờm nội kết, túc thực đình trệ, trưng hà, tích tụ,
sán thống, thất tình uất khí .
Tả Thốn KẾT Tim đau.
|
Hữu Thốn KẾT Khí trệ.
|
Tả Thốn KẾT Sán hà.
|
Hữu Quan KẾT Đờm trệ.
|
Tả Xích KẾT Tiểu không thông.
|
Hữu Xích KẾT Trưng hà.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Phù Kết
là hàn tà trở trệ ở kinh lạc. Trầm Kết là tích tụ ở trong, Hoãn mà Kết là dương
hư, Sác mà Kết là âm hư.
· Mạch Kết
mà Phù là hàn tà ủng trệ ở kinh lạc .
· Kết mà
Trầm là khí tích ở bên trong .
· Kết mà
Sác là nhiệt.
· Kết mà
Hoạt là háo đờm, thủy ẩm.
· Kết mà
Sáp là tích ứ ở trong .
MẠCH KHẨN
-
Mạch
Khẩn
Thuộc loại
mạch Dương, Khẩn
là
gấp,đi có vẻ gấp và rít vì vậy gọi là Khẩn.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Khẩn
tìm ấn dưới ngón tay thấy chạy suốt cả 3 bộ, ấn vào mạch chạy có dư, nhẹ tay
thấy rất Sác, tựa như mạch Hồng, Huyền.Mạch
đi khẩn trương có lực,đi lại như sợi dây bị vặn,Mạch đến gấp dưới tay thấy như
kéo dây thừng.
HÌNH TƯỢNG MẠCH KHẨN
NGUYÊN NHÂN
Do hàn khí
làm ngưng trệ ở trung tiêu không tiết ra ngoài được, gây trở ngại khí dương,
không thông đạt được, dẫn tới hiện tượng chính và tà chống nhau, gây ra mạch
Khẩn.
do sự biến
tính của màng huyết quản, hoặc do sự tống máu ở tim mà sinh ra.
CHỦ BỆNH
Mạch Khẩn
chủ chứng đau, chủ về hàn suyễn, ho, phong giản, đờm lạnh, nôn mửa. Bộ thốn thấy
Khẩn là bụng đau lâm râm. Bộ xích thấy Khẩn là bệnh thuộc âm, bôn đồn, sán khí.
Mạch bộ thốn
Khẩn là đầu đau. Bộ quan thấy Khẩn là bên trong thấy đau. Bộ xích Khẩn là trong
người bứt rứt, quanh rốn đau liên miên.
Mạch Khẩn
thấy ở chứng hàn, đau.thức
ăn ngưng trệ
Mạch Khẩn
chủ hàn bế và biểu hư. Phụ nữ mà thấy mạch Khẩn là kinh nguyệt chậm (thấy sau
kỳ). Trẻ nhỏ thấy mạch Khẩn thường bị kinh phong. Bộ thốn (trái) thấy Khẩn: đầu
nhức, hoa mắt, cổ đau, khí bị nghịch. Bộ thốn (phải) thấy Khẩn: hay sổ mũi, ngực
đầy và đau. Bộ quan (trái) thấy Khẩn: bụng đầy, đau, 2 bên sườn và lưng đau. Bộ
quan (phải) thấy Khẩn: ăn uống không tiêu, bụng đau, nãn mửa. Bộ xích (trái)
thấy Khẩn: lưng và bụng dưới đau, tiểu khó. Bộ xích (phải) thấy Khẩn: hạ tiêu
đau.
KIÊM MẠCH
Mạch Thái âm
đến thì Khẩn, Đại mà Trường.
Mạch thốn
khẩu Phù mà Khẩn. Phù là phong, Khẩn là hàn.
Mạch có
Khẩn, Phù, Huyền, Hoạt, Trầm, Sáp, 6 mạch này gọi là ‘Tàn tặc’, đều là các mạch
bệnh.
Trường hợp
bị kết hung, ăn uống như thường, kiết lỵ, mạch bộ thốn Phù mạch bộ quan Tiểu,
Trầm, Khẩn là chứng tạng bị kết.
Dương minh
bệnh. mạch Phù Khẩn thì sẽ nóng từng cơn, phát tác có lúc.
Thiếu âm
bệnh mạch Khẩn, đến 7-8 ngày sau thì đi lỵ.
Mạch phu
dương Phù mà Sáp gọi là chứng phản vị, mạch Khẩn mà Sáp thì khó chữa.
Bệnh huyết
tý Chỉ căn cứ mạch tự Vi, Sáp tại thốn khẩu và Tiểu Khẩn tại bộ quan thì biết.
Thấy mạch Khâu, Động, Vi, Khẩn, đàn ông thì di tinh, đàn bà thì mộng thấy giao
hợp.
Một bên hông
sườn đau, phát sốt, mạch Khẩn, Huyền là hàn. Bụng đầy mạch Huyền Khẩn. Huyền thì
vệ khí không vận hành tức là sợ lạnh. Khẩn thì không muốn ăn. Tà và chính kích
bác nhau gây ra chứng hàn sán. Gặp mạch Khẩn, Đại mà Trì là dưới tim ắt phải
cứng, Mạch Đại mà Khẩn là trong dương có âm. Mạch Khẩn như sợi dây vặn vẹo vô
thường đó là có thức ăn cũ không tiêu.
Chứng trường
ung thì bụng dưới sưng, có bỉ khối, ấn thì đau như đứng lâu, tiểu thường hay
phát sốt, tự ra mồ hôi mà lại sợ lạnh, mạch Trì Khẩn là đã thành mủ.
Thái dương
bệnh, mạch Phù mà Khẩn, đáng lẽ xương khớp phải đau nhức nhưng lại không đau, cơ
thể lại nặng mà tê buốt, đó là chứng phong thủy. Mạch phu dương đáng lẽ phải
Phục nay lại thấy Khẩn là vốn tự có hàn, là chứng hàn sán, bụng đau.
Mạch ở thốn
khẩu thấy Phù mà Khẩn. Khẩn là hàn, Phù là hư. Hàn và hư tranh nhau, tà ở bì
phu.
Mạch Đại,
Hồng, Khẩn, Sác là bệnh tiến triển, ở bên ngoài là đầu đau, phát sốt, ung thủng.
Mạch ở thốn
khẩu Trầm mà Khẩn là lạnh ở dưới tim, thường hay đau, có tích tụ.
Mạch Sáp mà
Khẩn là chứng tý.
Mạch Phù
Khẩn là phong hàn, mạch Trầm Khẩn là lãnh thống.
Mạch Hồng
Khẩn là ngực đầy tức, đại tiện khó mà ra máu, Phù Khẩn là hàn, Trầm Khẩn là tà
khí thịnh - Tế Khẩn là hàn.
- Mạch Khẩn
mà Phù chủ về ngoại cảm. Khẩn mà Trầm là tim, 2 bên sườn, bụng dưới bị hàn bế và
gây ra nôn mửa, tiêu chảy.
MẠCH KHÂU (Khổng)
Mạch Khâu
Cũng
gọi là mạch Khổng Là 1 loại mạch âm.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Khâu
thì Phù, Đại mà Nhuyễn, ấn tay xuống thấy ở trong rỗng, 2 bên thì thực.
Mạch Khâu
hình tượng
Phù, Đại mà
trong rỗng
giống như
đè lên cọng
hành,
ấn nhẹ, ấn nặng và ấn 2 bên đều có, nhưng ấn vừa vừa thì trống rỗng.
HINH VẼ BIỂU
DIỄN MẠCH KHÂU
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu thị hình vẽ mạch Khâu:
NGUYÊN NHÂN
Mạch Khâu là
khí có thừa mà huyết không đủ, huyết không nhiếp được khí, vì vậy mạch khí hư
mà Đại, giống như cọng hành.
Do mất máu
quá nhiều hoặc do âm huyết hư bên trong, dương khí không được phù trợ mà tán ra
ngoài, vì vậy thấy có mạch Khâu.
CHỦ BỆNH
Khâu là
doanh khí bị tổn thương.máu
bị mất (thất huyết ), âm dịch bị thương tổn
Mạch Khâu là
triệu chứng mất máu ... Bộ thốn (trái) Khâu chủ về tâm huyết bị vọng hành, ói ra
máu, chảy máu mũi. Bộ quan (trái) Khâu chủ đau ở gian sườn hoặc huyết ứ trong
bụng, ói ra máu, hoa mắt. Bộ xích (trái) Khâu là tiểu ra máu, đàn bà thì bệnh về
kinh nguyệt. Bộ thốn (phải ) Khâu là huyết bị tích ở ngực, chảy máu mũi. Bộ quan
(phải) Khâu là trường ung, ứ huyết, nôn ra máu, không ăn được. Bộ xích (phải )
Khâu là đại tiện ra máu.
Tả Thốn KHÂU Hỏa vượng, huyết tán.
|
Hữu Thốn KHÂU Phế huyết thương âm.
|
Tả Quan KHÂU Can không tàng huyết.
|
Hữu Quan KHÂU Tỳ không thống huyết.
|
Tả Xích KHÂU Tiểu ra máu.
|
Hữu Xích KHÂU Di tinh, băng lậu.
|
KIÊM MẠCH
Mạch phu
dương Phù mà Khâu. Phù là vệ khí bị tổn thương. Khâu là doanh khí bị tổn thương.
Thái dương
trúng thử, phát sốt, sợ lạnh, cơ thể nặng, đau, thấy mạch Huyền, Tế, Khâu, Trì.
Các chứng di
tinh mà bụng dưới căng tức, đầu ấm, lạnh, hoa mắt , tóc rụng, mạch cực Hư, Khâu,
Trì là đại tiện lỏng, mất máu di tinh.-Thấy mạch Khâu, Động, Vi, Khẩn : đàn ông
thì di tinh, đàn bà thì mộng thấy giao hợp.
· Mạch bộ
thốn Khâu: phiền muộn, huyết tụ ở ngực.
· Bộ quan
Khâu: trường ung.
· Bộ xích
Khâu: Thận bị hư hàn, tiểu gắt, tiểu ra máu, mủ.
- Sách ‘Mạch
Học Giảng Nghĩa’ ghi:”
· Mạch Khâu
mà Phù là khí huyết đều bị thương tổn .
· Khâu mà
Sác là âm hư .
· Khâu, Hư,
Nhuyễn là huyết bị vong, tinh bị mất .
· Khâu, Kết,
Xúc là dương hư hiệp âm, huyết ứ nội kết .
· Khâu, Trì
là máu bị mất, chính khí hư, nóng ở trong .
MẠCH LAO
Lao là vững
bền.
Ấn tay thấy mạch khí thực mạnh, giống như Trầm, giống như Phục,
rất cứng
gọi là LAO”.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Lao là
Huyền, Đại mà Trường, nhấc tay thấy giảm, ấn xuống thì thực mạnh .cứng,
bền chặt,Trầm mà có lực, chuyển động mà không thay đổi, lớn mà Huyền, Thực, ấn
nặng xuống mới thấy, ấn nhẹ hoặc ấn vừa đều không thấy
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH LAO
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Lao:
NGUYÊN NHÂN
Do bệnh khí
kết tụ lâu ngày, âm hàn tích đọng gây ra mạch Lao.
Mạch Lao
phát sinh do khí bị kết lâu ngày, âm hàn tích bên trong, dương khí bị trầm xuống
dưới vì vậy mà mạch mới Trầm mà Thực, Đại, Huyền, Trường, cứng, không xê
dịch.
CHỦ BỆNH
Mạch ở bộ
quan Lao là khí của Tỳ Vị bị bế tắc”.-”Mạch ở bộ xích Lao là bụng đầy.
Mạch ở bộ
xích và thốn đều Lao, thẳng lên thẳng xuống, đó là mạch Xung bị bệnh, trong ngực
có hàn. là chứng sán.
Mạch Lao là
hàn ở lý có thừa, ngực bụng lạnh đau, Mộc khắc Tỳ, là sán khí, trưng hà.
Mạch Lao chủ
các bệnh thuộc âm hàn, kiên tích.
Mạch Lao chủ
về đầy (trướng).
Mạch Lao chủ
âm hàn thực ở trong, sán khí, trưng hà.
Mạch Lao chủ
5 chứng tích, hàn nhiệt ngưng kết, ngực bụng đau, sán khí, trưng hà, kinh phong
.
Tả Thốn LAO Chứng phục lương.
|
Hữu Thốn LAO Chứng tức phần.
|
Tả Quan LAO Huyết bị tích tụ.
|
Hữu Quan LAO Chứng bỉ tích.
|
Tả Xích LAO Chứng bôn đồn.
|
Hữu Xích LAO Chứng sán khí, trưng hà.
|
· Thốn bộ
Lao : ho, kéo suyễn.
· Quan bộ
Lao : bụng đau, tiết tả do hàn tà phạm Vị.
· Xích bộ
Lao : sán khí.
Mạch Lao gặp
trong các bệnh động mạch bị xơ cứng : Thận viêm mạn tính, động mạch xơ cứng,
huyết áp cao lâu ngày.
KIÊM MẠCH
· Lao mà
cứng thì hàn thủy đình trệ.
· Lao mà Trì
là lạnh lâu ngày.
· Lao mà Sác
là nhiệt tích.
MẠCH NHU
Chữ Nhu về ý
nghĩa cũng như chữ Nhuyễn, vì vậy mạch Nhuyễn tức là mạch Nhu. Thuộc loại mạch
âm. Ấn tay như không có, nhấc tay lên thì có thừa hoặc như áo gấm trong nước ,
để tay nhẹ lên thịt thì thấy ngay mà mềm, gọi là mạch NHU
HÌNH TƯỢNG
Mạch Nhu đi
phù mà rất nhỏ, rất mềm, nhẹ tay thì thấy ngay, ấn nặng tay thì không thấy.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH NHU
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ ghi lại hình vẽ mạch Nhu như sau :
NGUYÊN NHÂN
Nhu là vị
khí không đủ.
Nhu là do
khí huyết không đủ hoặc do thấp khí đè lên làm nghẽn dương mạch gây ra.
CHỦ BỆNH
Mạch ở bộ
thốn khẩu mà Nhuyễn là vong huyết.
Mạch ở thốn
khẩu Nhu là dương khí suy yếu, tự ra mồ hôi, hư tổn. Mạch ở bộ quan Nhu là Tỳ
khí suy yếu hư lạnh, mót rặn. Mạch ở bộ xích mà Nhu thì tiểu khó.
Mạch bộ thốn
Nhu: mồ hôi tự ra (tự hãn), dương hư. Mạch bộ quan Nhu: khí bị hư. Bộ xích Nhu:
tinh huyết bị tổn thương, hư hàn.
Mạch Nhu là
thấp ở trung tiêu, mồ hôi tự ra, lạnh, chứng tý. Bộ thốn Nhu là dương hư. Bộ
quan Nhu là trung khí bị hư. Bộ xích Nhu là thấp nhiều, tiêu chảy.
Mạch Nhu
thấy ở chứng âm hư, Thận hư, tủy bị kiệt, tinh bị tổn thương.
Mạch Nhu chủ
về mọi chứng hư, về thấp.
Tả Thốn NHU Hồi hộp, hay quên.
|
Hữu Thốn NHU Khí bị hư, mồ hôi tự ra.
|
Tả Quan NHU Huyết không đủ nuôi gân.
|
Hữu Quan NHU Tỳ hư, thấp tim.
|
Tả Xích NHU Tinh huyết không đủ.
|
Hữu Xích NHU Mệnh môn hỏa suy.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Tâm,
nếu Nhuyễn mà Tán thì sẽ sinh ra chứng tiêu khát, trong vòng 10 ngày sẽ khỏi.
Mạch Phế... nếu Nhuyễn mà Tán thì mồ hôi ra nhiều. Mạch Can... nếu Nhuyễn mà
Tán, sắc mặt bóng nhuận đó là chứng ‘Dật ẩm’, do khi khát mà uống quá nhiều
nước, nước tràn ra bì phu, trường vị. Mạch Tỳ... nếu Nhuyễn mà Tán, sắc mặt
không bóng, đầu gối trở xuống sẽ bị sưng phù như có nước. Mạch Thận... nếu
Nhuyễn mà Tán là bệnh thiếu máu, khó lòng hồi phục.
Can bệnh mà
thấy mạch Nhu Nhược thì sẽ khỏi.
· Mạch Nhu
mà Huyền là chóng mặt, hoa mắt, ngón tay tê.
· Nhu mà Tế
là Tỳ hư, thấp tim.
· Nhu mà Sáp
là vong huyết.
· Nhu mà Phù
là phần vệ, dương hư.
· Nhu mà
Trầm, Tiểu là Thận hư, di tinh.
MẠCH NHƯỢC
-
Mạch Nhược
thuộc Âm.
Nhược là yếu ớt.Phù
mà Tế gọi là Nhu, Trầm Tế mà mềm gọi là Nhược. Ấn tay mới thấy, nhấc lên thì
không, Nhu mà Tế, gọi là Nhược.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Nhược
thì cực Nhuyễn mà Trầm, Tế,
nhỏ mềm mà
chìm sâu,
ấn tay thấy muốn tuyệt,
nhấc tay lên
thì không thấy
HÌNH VẼ BIỂU
DIỄN MẠCH NHƯỢC
NGUYÊN NHÂN
Mạch
Nhược... là do tinh khí không đủ, vì vậy khí suy yếu không nhấc lên nổi.
Mạch Nhược
là âm hư mà dương khí suy.
Mạch Nhược
là dương khí bị hãm, chân khí suy nhược.
Mạch Nhược
là triệu chứng của dương khí suy yếu.
Âm huyết bất
túc, không khua động được mạch đạo, dương suy, khí thiếu, khó làm cho huyết lưu
thông, khiến cho mạch thấy Trầm Tế mà mềm, sinh ra mạch Nhược.
CHỦ BỆNH
Mạch chân
tạng của Tỳ hiện ra Nhược mà lúc nhanh (Sác) lúc sơ, sắc mặt vàng xanh, không
bóng, lông tóc rụng là chết.
Các mạch
Trầm, Sáp, Nhược, Huyền, Vi là các mạch âm... bệnh thuộc dương mà thấy mạch âm
thì chết. Nếu mạch bộ xích Nhược là âm không đủ, dương khí hạ hãm vào âm phận vì
vậy mà phát sốt. Mạch dương Phù mà mạch âm Nhược là huyết hư, huyết hư thì gân
co rút.
Mạch ở thốn
khẩu Nhược thì phát sốt.
Tiêu chảy mà
cơ thể hơi sốt lại khát, mạch Nhược sẽ khỏi.
Ho đã nhiều
năm mà thấy mạch Nhược thì có thể chữa được.
Mạch ở thốn
khẩu Nhược là dương khí hư, mồ hôi tự ra, hụt hơi. Mạch ở bộ quan Nhược là Vị
khí thiếu. Mạch ở bộ xích Nhược là dương khí thiếu, phát sốt, bứt rứt trong
xương.
Bộ thốn tay
trái Nhược là dương hư, hồi hộp, mồ hôi tự ra. Bộ quan bên trái Nhược là gân cơ
teo, không có sức, đàn bà thì chủ sinh xong bị phong tà xâm nhập làm cho mạch bị
sưng. Bộ xích tay trái Nhược là Thận hư, tai ù, đau nhức trong xương, tiểu gắt.
Bộ thốn tay phải Nhược thì cơ thể lạnh, da lạnh, ngắn hơi. Bộ xích (phải) Nhược
là Tỳ Vị hư, ăn không tiêu. Bộ xích (phải) Nhược là hạ tiêu lạnh đau, đại tiện
lỏng.
Mạch Nhược
là âm hư mà dương khí suy vì vậy sợ lạnh, phát sốt, đau trong xương, gân cơ teo,
thường ra mồ hôi nhiều, tinh thần suy kém... Bộ thốn Nhược là dương hư, bộ quan
Nhược là Tỳ Vị suy yếu, bộ xích Nhược là âm hư, dương khí bị hãm.
Mạch Nhược
chủ hư, phong nhiệt, mồ hôi tự ra.
Mạch Nhược
chủ dương bị hãm, chân khí suy nhược.
Mạch Nhược
là triệu chứng của dương khí suy vi.
Mạch Nhược
thấy ở chứng dương khí bị suy.
Mạch Nhược
chủ nguyên khí hư yếu, dương khí suy vi, di tinh, hư hàn, huyết hư, gân cơ bại,
lạnh lâu năm, tráng nhiệt.
Tả Thốn NHƯỢC Hồi hộp, hay quên.
|
Hữu Thốn NHƯỢC Tự ra mồ hôi, hơi thở ngắn.
|
Tả Quan NHƯỢC Gân cơ co rút.
|
Hữu Quan NHƯỢC Tiêu chảy.
|
Tả Xích NHƯỢC Âm dịch khô kiệt.
|
Hữu Xích NHƯỢC Dương khí bị hãm.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Tiểu,
Nhược mà Sáp là bệnh đã lâu ngày.
Mạch Nhược
mà Hoạt là có Vị khí, vì vậy dễ chữa.
Can bệnh mà
thấy mạch Nhu, Nhược là sắp khỏi.
Mạch ở thốn
khẩu Trầm mà Nhược, Trầm chủ về xương, Nhược chủ về gân. Trầm tức làThận, Nhược
tức là Can. Đang khi ra mồ hôi mà lại tắm nước lạnh, hàn thủy hại Tâm, các khớp
đau, ra mồ hôi màu vàng vàng gọi là Lịch Tiết Phong ,Thiếu âm mạch Phù mà Nhược,
Nhược là huyết không đủ, Phù là do phong, phong huyết tương bác vì vậy các khớp
đau như bị co kéo.
Đàn ông mạch
Phù, Nhược mà Sáp thì không có con, tinh khí trong mà lỏng”.-”Đàn ông bình
thường mà mạch lại Hư, Nhược, Tế,Vi thì thường ra mồ hôi trộm.
Mạch chân
tạng của Phế hiện ra thì Phù mà Hư, ấn tay xuống thấy Nhược, mềm rỗng như cọng
hành, ở dưới không có gốc thì chết
Mạch chân
tạng của Can hiện ra thì Phù mà Nhược, ấn tay xuống thấy như dây tơ, không đến
hoặc cong như rắn bò thì chết.
Mạch ở thốn
khẩu Động mà Nhược. Động thì kinh sợ, Nhược thì hồi hộp”.-”Người bệnh mặt không
có huyết sắc, không nóng lạnh mạch Phù, Nhược, ấn tay thấy tuyệt thì đại tiện
ra máu.
Sản phụ bị
chóng mặt, choáng váng, mạch Vi, Nhược, nôn mửa không ăn được, đại tiện cứng,
đầu ra mồ hôi, đó là do huyết bị hư.
Mạch ở thốn
khẩu mà Nhược, Trì là đầy hư, không ăn được. Mạch ở thốn khẩu Nhược mà Hoãn thì
ăn không xuống, khí bị nghẹn ở ngực
Các chứng hư
hoặc chứng huyết mà thấy mạch Nhược kiêm Sáp là khí và huyết đều hư
· Mạch Nhược
mà Phù là hàn ở biểu hoặc khí bị hư.
· Nhược mà
Sáp là huyết hư.
· Nhược mà
Tế là âm hư.
· Nhược mà
Trầm Sáp là di tinh (nam), băng lậu (nữ).
· Nhược mà
Huyền Tế là huyết hư, gân teo.
· Nhược mà
Nhuyễn là mồ hôi tự ra.
Nhược Sáp
chủ
huyết hư, Nhược mà Hoạt chủ Vị khí suy, Nhược mà Vi chủ dương khí suy, Nhược mà
Sác chủ di tinh , băng huyết.
MẠCH PHÙ
-Mạch
Phù cũng là mạch Mao.
Mạch mùa Thu tức là mạch của Phế, thuộc phương tây, muôn vật nhờ đó tới kỳ thu
thành, vì vậy khi đến thì nhẹ, hư mà Phù, khi đến thì gấp, lúc đi thì tan
tác,.Phù là nổi, Mạch lúc nào cũng nổi sát ở da vì vậy gọi là mạch Phù.
MẠCH TƯỢNG
Mạch Phù
là
mạch dương,
là mạch đi ở trên thịt,
nhấc tay lên thì có dư, ấn tay xuống thì không đủ, đè xuống thì hơi giảm nhưng
không rỗng, nhấc lên thì nổi phù lên mà đi lưu lợi.Mạch Phù đi nổi ở ngoài mặt
da, ấn nhẹ thấy ứng ngay ở ngón tay
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH PHÙ
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ vẽ như sau:
NGUYÊN NHÂN
Phù là ứng
với kinh lạc, cơ biểu, do tà khí xâm nhập vào 3 kinh dương, bức bách mạch khí ra
ngoài, vì vậy tượng mạch nổi đầy lên (phuø) dưới ngón tay.
Mạch
Phù phát sinh có thể do:
· Lượng
máu ở tim tống ra được tăng lên.
· Sức co
bóp của thành mạch kém.
Tà khí xâm
nhập vào cơ biểu, tấu lý, vệ dương chống nhau với ngoại tà thì mạch khí biểu
hiện ở ngoài ứng vào trong mà Phù.
.Âm hư huyết
thiếu, khí trung tiêu hư tổn ắt sinh ra Phù (vô lực).
CHỦ BỆNH
Phù mà tán
là chứng chóng mặt, đi đứng không vững. Các mạch Phù mà người bệnh không nóng
nẩy đều thuộc về dương, là bệnh nhiệt.
Thái dương
bệnh thì mạch Phù. Mạch Phù là bệnh ở phần biểu.
Mạch ở bộ
xích Phù: mắt vàng, chảy máu mũi.
Mạch thốn
khẩu Phù là trúng phong, phát sốt, đầu đau... Mạch bộ quan Phù thì bụng đầy
không muốn ăn... Mạch bộ xích Phù là nhiệt phong tụ ở dưới, tiểu khó...
Mạch ở bộ
quan hơi Phù là nhiệt tích tụ ở Vị, nôn ra giun, hay quên.
\Bộ
thốn mà Phù là đầu đau, chóng mặt hoặc phong đàm tụ ở ngực. Bộ quan Phù là Tỳ
suy, Can vượng. Bộ xích Phù (ở trung ấn) là tiểu không thông.
Bộ Tâm (tả
thốn) Phù thì thần không yên, nói cuồng, kinh sợ . Bộ Can (tả quan) Phù thì tê
liệt, co quắp, tức ngực, cơ thể đau nhức. Bộ Thận (tả xích) Phù thì ói ra máu,
lưng đau, răng đau. Phù mà vô lực là có nhọt ở đầu gối chân . Bộ Tỳ (hữu quan)
Phù thì bị lỵ, suyễn, tiêu chảy, ăn kém . Bộ Phế (hữu thốn) Phù thì suyễn,
trường phong, mặt nặng, Phế ung .
Mạch Phù
phần nhiều thấy ở chứng biểu, phong tà còn ở bên ngoài. Nếu như mạch Phù vô lực
thì thuộc về hư chứng.
Mạch Phù chỉ
chứng ở biểu, có lực là biểu thực, không lực là biểu hư.
Mạch Phù chủ
bệnh nhiệt, đầu đau, gáy cứng, sợ lạnh, gió, ra mồ hôi, mũi nghẹt, ho khan, khát
nước, suyễn, nôn, bỉ khối, phong thủy, bì thủy, khí nghịch lên, huyết hư.
Tả Thốn PHÙ Tâm Dương bốc lên, mất ngủ, buồn bực.
|
Hữu Thốn PHÙ Thương phong, cảm mạo, Phế khí nghịch , suyễn, ho
khan.
|
Tả Quan PHÙ Can khí thống.
|
Hữu Quan PHÙ Tỳ khí trướng, nôn mửa.
|
Xích PHÙ Thận khí không đủ, thắt lưng đau, chóng mặt, tiểu
khó, kinh nguyệt không đều.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Phù mà
Huyền là Thận bất túc.
Tâm và Phế
đều Phù làm sao mà phân biệt? -Thưa: Phù mà Đại, Tán là Tâm bệnh, Phù mà Đoản,
Sáp là Phế bệnh.
Mạch thốn
khẩu Phù mà Khẩn. Phù là phong, Khẩn là hàn -
Mạch Phù mà
Hồng, mình đổ mồ hôi ra như dầu, suyễn, không nuốt nước miếng được, cơ thể mất
cảm giác, khi tỉnh khi loạn, mạch sống tuyệt vậy
Mạch Phù
Trì, mặt nóng đỏ mà run sợ, trong 6-7 ngày phải ra mồ hôi mà giải, nếu không sẽ
phát sốt mà mạch càng Trì. Trì là vô dương, vì vậy không cho ra mồ hôi được,
thân mình người bệnh sẽ sinh ra ngứa.
Dương minh
bệnh, mạch Phù Khẩn thì nóng từng cơn mà phát tác có lúc.
Tam dương
cùng bệnh, mạch Phù Đại, chỉ có muốn nằm ngủ, mắt vừa nhắm thì ra mồ hôi.
Kiết lỵ mà
mạch lại Phù Sác ở bộ thốn, xích thì Sáp, đại tiện ắt phải có máu mủ.
Đàn ông thấy
mạch Phù Nhược mà Sáp thì tinh khí trong, lỏng, vì vậy mà không có con được.
Mạch thốn
khẩu Phù mà Đại, ấn tay lại thấy Sáp, nên biết là ăn không tiêu.
Các mạch Phù
Sác thì phát sốt, nếu lại sợ lạnh mà có chỗ đau thì phải phát ra mụt nhọt.
Mạch Phù mà
Đại là trúng phong, đầu nặng, mũi nghẹt
3 bộ mạch
Phù mà Hoãn là bì phu mất cảm giác
Phù, Hồng,
Đại, Trường là chóng mặt, điên .
Phù mà Hoạt
là ăn không tiêu, Tỳ không vận hóa .
Phù mà Tế
Hoạt là thương thực
Phù mà Đoản
là Phế bị tổn thương.
· Mạch Phù
Trì là trúng phong.
· Phù Sác
là phong nhiệt.
· Phù Hồng
là hư nhiệt.
· Phù Khẩn
là phong hàn.
· Phù Tán
là hư lao.
· Phù Hư là
thương thử.
· Phù Khổng
là mất máu.
· Phù Hoãn
là phong thấp.
·· Phù Sáp
là thấp.
· Phù Hoạt
là đàm hỏa, ăn uống không tiêu.
Mạch Phù Sác
là cảm nhiệt nhưng nếu thấy Phù Vi là bệnh sắp hết vì nhiệt tà không truyền
sang kinh khác. Phù Trì là cảm hàn. Phù Khẩn là ngoại cảm thương hàn. Phù Đại là
bệnh đang tiến triển. Phù Hoạt là cảm thấp khí sinh ra nhiều đàm nhớt . Phù Nhu
là thương thấp, khí huyết hao mòn. Phù Huyền là bị ngoại cảm lại kèm khí huyết
suy nhược.
MẠCH PHỤC
- Phục có
nghĩa là ẩn nấp.
Mạch Phục là
mạch đi ở dưới gânThuộc
loại mạch âm
.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Phục
thì trầm trọng núp lặn bên trong
để nhẹ tay không thấy,
phải
ấn tay xuống
đẩy gân sát xương mới tìm thấy
được mạch
.
thậm chí có khi ẩn Phục mà không thấy.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH PHỤC
- Sách
‘Mạch Chẩn’ biểu thị hình vẽ mạch Phục như sau:
NGUYÊN NHÂN
Mạch Phục do
khí nghịch ở kinh lạc, mạch đạo không thông, hoặc khí thoát không tương tiếp...
gây ra.
Do tà khí bế
tắc mà chính khí không tuyên thông được, vì vậy mạch ẩn phục không hiện rõ.
CHỦ BỆNH
Mạch đến Tế
mà nép vào xương (Phục) là chứng tích.
Người mắc
bệnh thủy thì mi mắt dưới sưng phù, sắc mặt bóng láng, mạch Phục
Mạch phu
dương Phục, thủy cốc không tiêu hóa, Tỳ khí suy thì đại tiện lỏng, Vị khí suy
thì phù thủng.
Mạch thốn
khẩu Phục, khí nghịch ở ngực, tắc nghẽn không thông, đó là do lãnh khí ở vị xông
lên ngực
Mạch bộ quan
Phục là trung tiêu có thủy khí, đại tiện lỏng. Mạch bộ xích Phục thì bụng dưới
đau, trưng, sán (khí) thủy cốc không tiêu hóa.
Mạch Phục là
hoắc loạn, ói mửa, bụng đau do ăn không tiêu, các chứng đờm ẩm, tích tụ.bí
tắc, đờm ứ đọng, đau nhiều, thủy khí, hoắc loạn, sán khí, quyết nghịch
Tả Thốn PHỤC Huyết uất.
|
Hữu Thốn PHỤC Khí uất.
|
Tả Quan PHỤC Can huyết ngưng do hàn.
|
Hữu Quan PHỤC Thủy cốc tích trệ.
|
Tả Xích PHỤC Sán hà.
|
Hữu Xích PHỤC Thận hàn, tinh bị hư.
|
· Mạch ở
thốn bộ (trái) Phục là tim suy yếu, hay hoảng sợ. Thốn bộ (phải) Phục là hàn khí
kết ở ngực vì vậy thường bị ho và khi ho thường kéo đàm.
· Mạch bộ
quan (trái) thấy Phục là huyết suy yếu, lưng đau, chân đau, 2 bên sườn đau. Mạch
bộ quan (phải) thấy Phục là bao tử bị khí tích vì vậy ăn uống không tiêu.
· Mạch bộ
xích bên trái thấy Phục là thận tinh kém, hay bị sán khí. Mạch bộ xích bên phải
thấy Phục là bụng dưới đau và có hàn khí ngưng kết ở hạ tiêu.
MẠCH SÁC
- Sác nguyên
nghĩa là nhanh, nhiều lần, Mạch Sác là mạch thuộc dương, đi nhanh, nhiều lần
(tính theo hơi thở hoặc nhịp đập của mạch ).
HÌNH TƯỢNG
Mạch Sác là thái
quá, Mạch đến rồi đi cấp bách,cứ lấy 1 hơi thở của thầy thuốc bình thường
thì mạch người bệnh chạy 6 lần đến hơn mạch bình thường 2 lần đập.tương đương
với 90 đập /phút.
CÁC HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH SÁC
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ như sau:
NGUYÊN NHÂN
Sác là dương
thịnh, tà nhiệt kích động, mạch vận hành nhanh hơn, vì vậy mạch đi Sác
Bệnh lâu ngày âm
hư, dương thiên thắng cũng gây ra mạch Sác
CHỦ BỆNH
Mồ hôi đã ra rồi
mà mạch vẫn còn táo thịnh (Sác) thì sẽ chết.
Mỗi hơi thở mạch
đập 10 lần trở lên, đó là kinh khí bất túc, nếu thấy mạch đó, trong vòng 9-10
ngày thì chết.
Mạch Sác là
phiền nhiệt .Sau 3 ngày lại thấy mạch Sác mà nhiệt không giảm, đó là nhiệt khí
có dư, ắt sinh ra nhọt mủ”-”Kiết lỵ mạch Sác mà lại khát nước, bệnh tự khỏi.
Người bệnh ho,
mạch ở thốn khẩu Sác trong miệng lại có nước miếng dơ là là bệnh phế nuy
Chứng trường
ung, ấn tay thấy mềm như bị sưng, bụng không có tích tụ, cơ thể không nóng, mạch
Sác, đó là trong ruột có ung mủ.
Mạch Sác là ói
ra máu.Mạch Sác là bệnh ở phủ
Mạch ở thốn khẩu
mà Sác thì muốn nôn vì có nhiệt ở Vị quản, nung nấu trong ngực. Mạch bộ quan mà
Sác là trong vị có tà nhiệt -Mạch bộ xích Sác thì sợ lạnh, dưới rốn nóng đau,
tiểu tiện vàng đỏ.
Sác... là phiền
mãn. Bộ thốn Sác là đầu đau, nóng ở trên, Bộ quan Sác là Tỳ nhiệt, miệng hôi,
nôn mửa. Bộ quan bên trái Sác là Can bị nhiệt, mắt đỏ. Bộ xích tay phải Sác thì
tiểu vàng đỏ, táo bón.
Vào mùa thu,
bệnh ở phế mà thấy mạch Sác thì rất đáng sợ. Bộ thốn mạch Sác thì họng và miệng
lưỡi lở loét, Phế sinh ung nhọt. Bộ Can Sác là can hỏa, vị hỏa.
Mạch Sác... là
hàn nhiệt, là hư lao, là ngoại tà, ung nhọt.
Mạch Sác chủ
bệnh ở phủ, nhiệt. Bộ thốn Sác là ho suyễn, miệng lở, phế ung. Bộ quan Sác là vị
nhiệt, tà hỏa công lên trên. Bộ xích Sác là do tướng hỏa gây bệnh, vì thế, thấy
các chứng trọc khí ở vị, tiểu buốt, tiểu bí.
Mạch Sác vô lực
là hư nhiệt, Sác có lực là thực nhiệt. Nếu mạch Nhân Nghinh cũng Sác có lực thì
đó là ngoại cảm nhiệt tà.
Tả
Thốn SÁC Hỏa thịnh, tâm phiền.
|
Hữu
Thốn SÁC Ho suyễn, phế nuy.
|
Tả
Quan SÁC Can Đởm hỏa vượng.
|
Hữu
Quan SÁC Tỳ Vị thực nhiệt.
|
Tả
Xích SÁC Đái gắt, bí, di tinh, xích bạch trọc.
|
Hữu
Xích SÁC Đại tiện ra máu.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Huyền Sác
là có đờm ẩm, vào mùa đông, mùa hạ thì khó chữa.
Mạch Thiếu âm
Hoạt mà Sác là lở loét ở âm bộ.
Phù Sác là biểu
nhiệt, Trầm Sác là lý nhiệt. Mạch ở khí khẩu Sác Thực là phế ung.
· Mạch Sác mà
Phù là nhiệt ở biểu.
· Sác mà Trầm
là nhiệt ở lý.
· Sác mà Thực
là phế ung.
· Sác mà Hư là
phế nuy.
· Sác mà Tế là
âm hư lao nhiệt.
· Sác mà Hồng,
Trường là ung nhọt.
· Sác mà Hoạt
Thực là đờm hỏa.
· Sác mà Hồng
là vong huyết.
· Sác mà thịnh,
Đại, ấn tay thấy Sáp thì bên ngoài tuy có chứng nhiệt nhưng bên trong lại hàn.
Sác + Trầm là
nhiệt ở phần lý, nhiệt từ trong bốc ra. Bốc lên thượng tiêu thì đầu đau, nóng
nẩy, nhiệt này xông vào trung tiêu sẽ gây ra ợ chua, miệng hôi, nôn mửa. Nếu
nhiệt bốc sang bên trái thì Can hỏa xông lên gây ra mắt đỏ. Nhiệt bốc sang bên
phải thì tiểu đỏ, táo bón.
16. MẠCH SÁP (SẮC)
Mạch
Sáp còn gọi là mạch Sắc .
HÌNH TƯỢNG
Mạch Sáp thì
Tế mà Trì, qua lại khó khăn,
không lưu
lợi
tán loạn hoặc có khi ngưng rồi lại tiếp.Có
hình dạng giống như dao chẻ tre
Đặc điểm của
mạch luôn thay đổi dạng, tính chất không đều nhau giữa các nhát bóp tim liên
tiếp với tần số trung bình không nhanh nói lên mạch Sáp thuộc loại loạn nhịp ở
tần số bình thường hoặc tần số chậm.Mạch
đi lại sít như dao cạo nhẹ lên cành tre
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH SÁP
-
Sách ‘Mạch Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Sáp:
NGUYÊN NHÂN
phong hàn
thấp xâm nhập vào làm cho khí vận hành bị trở ngại gây ra mạch Sáp.
Mạch Sáp là
do tân dịch hao tổn, huyết thiếu, không nhu nhuận được kinh lạc.
Mạch Sáp do
huyết ít, tinh bị tổn thương.
Huyết khí
suy yếu không nhu nhuận được kinh lạc vì vậy mạch đi lại sít chặt. Đờm với thức
ăn quyện kết hoặc có ứ huyết, uất kết, trưng hà, làm kinh mạch bị trở ngại cũng
thấy mạch Sắc.
CHỦ BỆNH
Mạch Sáp là
dương khí có thừa ... dương khí có thừa thì cơ thể nóng, không ra mồ hôi.
Mạch Sáp là
mắc chứng tý ... Bệnh ở ngoài, mạch Sáp, cứng thì khó chữa.
Chứng trường
tích mà cơ thể không nóng, mạch không tuyệt thì sao?-Kỳ Bá đáp : Nếu mạch Hoạt
Đại thì sống, mạch Sáp thì chết.
Quyết âm...
thấy mạch Sáp là bị chứng tích khí ở vùng bụng dưới . Thiếu âm... thấy mạch Sáp
là bị chứng tích (tụ) và đái ra máu .-Thái âm... thấy mạch Sáp là mắc chứng
tích, hay kinh sợ. Thái dương... thấy mạch Sáp là mắc chứng tích, thỉnh thoảng
phát điên. Thiếu dương... thấy mạch Sáp là mắc chứng tích, gân hay bị rút và đau
mắt.
Mạch đến Sáp
là bệnh hàn thấp -Mạch Sáp là huyết ít mà nhiều khí.
Mạch ở bộ
xích mà Sáp là kiết lỵ có lẫn máu, mồ hôi nhiều.
Mạch Sáp chủ
huyết tý, hàn thấp, phiên vị, vong dương . Đàn bà mạch Sáp thì nếu không có
thai thì kinh nguyệt không hành .-Bộ thốn Sáp : ngực đau, tâm hư, - bộ quan Sáp
: hông sườn đau, vị bị hư .- bộ xích Sáp : tinh huyết bị tổn thương, kiết lỵ,
tiểu ra máu.
Mạch Sắc chủ
về huyết bị hao, tinh bị tổn, đàn bà có bệnh về thai hoặc có chứng xích bạch đái
hoặc huyết bị bại.-Bộ thốn mà Sắc : vị khí tràn lên trên gây ra ói - bộ quan mà
Sắc : huyết bị bại không ngừng - bộ xích Sắc : chân lạnh, bụng sôi.
Mạch Sáp
thấy ở chứng huyết ít, tinh bị tổn thương, chứng khí trệ hoặc hàn thấp.
Mạch Sáp chủ
khí bị trệ, tinh bị tổn thương, huyết thiếu, đờm, thực tích, huyết ứ.
Mạch Sáp chủ
tâm huyết hao thiếu, thiếu hơi, hàn thấp, tê đau, kiết lỵ, co rút, sán hà, đờm
tích, thức ăn không tiêu . Đàn ông thì tinh bị tổn thương, đàn bà thì huyết mất.
KIÊM MẠCH BỆNH
Mạch Tiểu,
Nhược mà Sáp là bệnh đã lâu ngày.
Chứng trường
tích ra lẫn mủ máu thì sao? - Kỳ Bá đáp: Mạch tuyệt thì chết, Hoạt Đại thì sống.
Lại hỏi: chứng trường tích mà cơ thể không sốt mạch không tuyệt thì sao? Kỳ Bá
đáp: Mạch Hoạt Đại thì sống, mạch Sáp thì chết.
Tạng tâm và
can bị chứng trường tích cũng ra máu, nhưng nếu 2 tạng cùng mắc bệnh thì còn
chữa được. Phàm mạch Tiểu, Trầm, Sáp là chứng trường tích, nếu cơ thể nóng thì
chết, nóng luôn 7 ngày cũng chết.
Âm thịnh
sinh ra nội hàn là như thế nào? Kỳ Bá đáp: Quyết khí nghịch hàn khí tích ở trong
ngực mà không tả ra được, không tả ra được thì ôn khí sẽ bị tan đi, chỉ còn hàn
khí ở lại, vì vậy huyết bị ngưng đọng, ngưng đọng thì mạch không thông, thấy
mạch Thịnh Đại mà Sáp, do đó. lạnh ở trong.
Các mạch
Trầm, Sáp, Nhược, Huyền, Vi là các mạch âm... bệnh thuộc dương mà thấy mạch âm
thì chết
Người bệnh
thấy mạch Vi mà Sáp là do thầy thuốc gây ra. Dùng phép phát hãn cho ra nhiều mồ
hôi, lại dùng phép hạ nhiều lần, giữa. bệnh sẽ bị vong huyết, sợ lạnh rồi sau đó
phát sốt không ngừng. Sở dĩ như vậy là vì dương suy thì sợ lạnh, âm nhược thì
phát sốt, đó là do thầy thuốc dùng phép phát hãn làm dương khí suy, lại dùng
phép đại hạ làm cho âm khí bị nhược... Lại thấy bộ xích Trì Sáp, vì vậy biết
rằng đó là dấu hiệu vong huyết.
Mạch có
Huyền, Phù, Khẩn, Hoạt, Trầm, Sáp, 6 mạch này gọi là tàn tặc, đều là mạch có
bệnh. Mạch Phu (xung) dương Phục mà Sáp. Phục thì ói nghịch, không tiêu hóa, Sáp
thì ăn vào không được, gọi là chứng quan cách. - Mạch ở thốn khẩu Vi mà Sáp. Vi
là vệ khí không vận hành, Sáp là vinh huyết không theo kịp... Các mạch dương
như Phù, Sáp là bệnh ở Phủ, các mạch âm như Trì Sáp là bệnh ở tạng.
Đàn ông mạch
Phù, Nhược mà Sáp thì không thể có con, tinh khí (dịch) trong và lỏng.
Mạch phu
dương Phù mà Sáp. Phù là hư, Sáp là tỳ bị tổn thương vì vậy không vận hóa được,
sáng ăn vào, chiều ói ra, thủy cốc ứ lại không tiêu hóa được, gọi là chứng phản
vị. Mạch Khẩn mà Sáp thì khó chữa.
Sáp mà Khẩn
là chứng tý.- Đoản mà Sáp là bên trong lạnh, trưng kết.
MẠCH TẾ
Tế hoặc Tiểu
là dựa theo hình tượng mà nói, tự nghĩa của nó không khác biệt nhiều.Tiểu
tương phản với Đại, gọi là Tế thì mạch Tiểu tức là mạch Tế.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Tế thì
nhỏ, thẳng mà mềm, ứng dưới tay như sợi tơ, chỉ.Lớn
hơn mạch Vi, mạch Vi thì lờ mờ khó thấy còn Tế thì rõ ràng, dễ thấy.
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH TẾ.
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ ghi: “Hình vẽ mạch Tế dưới đây (so sánh với mạch Đại cho dễ thấy):
NGUYÊN NHÂN
Mạch Tế do
khí huyết đều hư, không đủ để thúc đẩy mạch hoặc do thấp tà ngăn trở mạch đạo
gây ra.
CHỦ BỆNH.
Mạch ở bộ
xích lạnh mà Tế là chứng ăn xong thì đi tả ngay.
Mạch Tế, da
lạnh, hơi thở ngắn, đại tiểu tiện đều tiết lợi, không ăn uống được là chứng Ngũ
Hư.
Thương hàn
đã 5-6 ngày, đầu ra mồ hôi, hơi sợ lạnh, tay chân lạnh, vị quản đầy, miệng không
muốn ăn, đại tiện bón, mạch Tế, đó là dương hơi bị kết.
Mạch đến Tế
mà nép vào xương là chứng tích.
Mạch Thiếu
dương Tiểu, mạch Thiếu âm Tế, nam thì tiểu khó, nữ thì kinh nguyệt không thông”
Mạch ở thốn
khẩu mà Tế thì phát sốt, nôn mửa.
Mạch ở bộ
quan dao động mà ở bộ xích và thốn lại Tế là có tích lãnh ở ngực, bụng, trưng
hà, tích tụ, muốn ăn thức ăn nóng.
Mạch Tế chủ
huyết hư, thiếu hơi, tiêu chảy, kiết lỵ, thấp tý, xương đau, bụng và dạ dầy đau,
nôn mửa, sán hà, tích lãnh, hồi hộp
Tả Thốn TẾ Hồi hộp, mất ngủ.
|
Hữu Thốn TẾ Nôn mửa
|
Tả Quan TẾ Can âm khô kiệt.
|
Hữu Quan TẾ Tỳ hư, đầy trướng.
|
Tả Xích TẾ Tiêu chảy, kiết lỵ, di tinh.
|
Hữu Xích TẾ Hạ tiêu lạnh, suy.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Tiểu,
Thực mà cứng là bệnh ở bên trong . Mạch Tiểu Nhược mà Sáp là bệnh đã lâu ngày.
Mạch của
Thận thấy Tiểu mà Cấp, mạch của Tâm thấy Tiểu mà Cấp, không bật lên, đều là
chứng hà. Mạch của Thận thấy Tiểu, bật lên tay mà lại Trầm là chứng trường tiết
có máu. Mạch của Can thấy Tiểu và Cấp sẽ phát ra chứng giản khiết và co quắp.
Tâm và Can... thấy mạch Tiểu, Trầm, Sáp là chứng trường tiết.
Mạch ở 2 bộ
xích và thốn đều Trầm Tế là kinh Thái âm bị bệnh. Nói xàm, cơ thể hơi sốt, mạch
Phù Đại, tay chân nóng thì sống, tay chân lạnh thì chết.
Thái dương
bệnh phát sốt, mạch Trầm mà Tế là chứng kính (co rút). Thái dương bệnh, các khớp
đau nhức mà phiền táo, mạch Trầm Tế là chứng thấp tý.
Thái dương
bệnh thì phải sợ lạnh, phát sốt, nay lại tự ra mồ hôi mà không sợ lạnh, phát
sốt, mạch ở bộ quan lại Tế Sác, đó là do thầy thuốc dùng phép thổ (làm cho ói)
mà gây ra. Trường hợp bị kết hung, ăn uống như thường, kiết lỵ, mạch thốn Phù,
mạch quan Tiểu (Tế) Trầm, Khẩn là chứng tạng bị kết, trên lưỡi có rêu trắng trơn
thì khó chữa. Thái dương bệnh, dùng phép hạ để chữa... nếu thấy mạch Tế Sác thì
đầu chưa hết đau.
Thương hàn
mà mạch Huyền Tế, đầu đau, phát sốt là thuộc về Thiếu dương.
Thiếu âm mắc
bệnh, thấy mạch Trầm, Tế, Sác là bệnh ở lưng, vì vậy, không thể phát hãn. Thiếu
âm mạch Vi, Tế, Trầm chỉ muốn nằm, ra mồ hôi, không phiền táo, 5-6 ngày sau lại
đi lỵ, phiền táo mà không ngủ được thì chết.
Thái dương
bệnh, các khớp đau nhức mà phiền táo, mạch Trầm mà Tế là chứng thấp tý.
Đàn ông bình
thường mà thấy mạch Hư, Nhược, Tế, Vi thì thường ra mồ hôi trộm.
Mạch Thiếu
dương Tiểu, mạch Thiếu âm Tế, đàn ông thì tiểu khó, đàn bà thì kinh nguyệt không
thông.
Mạch Tế chủ
bệnh khí suy, hư lao, - Tả thốn Tế thì hồi hộp, mất ngủ .- Tả quan Tế là Can âm
bị hao mòn .- Tả xích Tế là tiết tả, kiết lỵ, di tinh. Hữu thốn Tế là khí suy,
nôn mửa - Hữu quan Tế thì Vị bị hư, đầy trướng. Hữu xích Tế là hạ nguyên bị
lạnh.
MẠCH THỰC
Dưới tay
thấy rõ ràng mà hòa hoãn là nguyên khí Thực, dưới tay thấy mạch khí bật lên mà
không rõ tà khí Thực.
Nếu tà khí
thịnh, mạch khí đến thấy cứng, có lực, 3 bộ đều như vậy, cũng là mạch Thực.
Vì vậy,Mạch
Thực chỉ chủ về thực nhiệt, không chủ về hư hàn.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Thực
thì Đại mà Trường, hơi mạnh, ấn tay xuống thấy bật lên.Mạch đi dầy chắc, hữu
lực, dài lớn, và cứng chắc
Mạch Thực
thường Phù Đại mà cứng,
3 bộ mạch ấn
nhẹ hoặc nặng tay đều thấy có lực
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH THỰC
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Thực:
NGUYÊN NHÂN
Mạch Thực là
do dương hỏa uất kết.
Mạch Thực là
do tà khí thịnh.
Tà khí và
chính khí chống nhau, vì vậy đường mạch đầy chắc, ứng vào tay hữu lực (Thực).
CHỦ BỆNH
Mạch của Vị
mà Thực thì bụng trướng.
Mạch của
chứng điên thì như thế nào? Kỳ Bá đáp: Hư thì có thể chữa khỏi, Thực thì chết.
Chứng Tiêu
Đản Hư Thực thế nào? Kỳ Bá đáp: Mạch thực mà Đại thì dù bệnh đã lâu vẫn chữa
được.
Mạch ở thốn
khẩu Thực ắt sinh nhiệt, ở Tỳ Phế thì nôn ngược, hơi thở nhanh (dồn dập). Mạch
bộ quan Thực thì dạ dầy đau. Mạch ở bộ xích Thực thì bụng dưới đau, tiểu tiện
không tự chủ.
Thủy cốc vào
thì thấy mạch cứng, Thực.
Mạch Thực
chủ huyết thực nhiệt kết, hỏa tà thịnh. Tả thốn Thực chủ chứng tâm lao, lưỡi
cứng, ngực đầy tức. tả quan Thực thì cạnh sườn đau (do Can hỏa vượng). Tả xích
Thực thì bụng dưới đau, tiểu tiện bí, Hữu thốn Thực thì Phế bị bệnh, nôn ngược,
họng đau, Hữu quan Thực thì bụng đầy trướng, đau. Hữu xích Thực thì tướng hỏa
vượng.
Mạch ở tả
thốn Thực thì trong ngực nóng phiền. Mạch bộ quan Thực thì trong vị có hư nhiệt
gây đau ở trung tiêu. Mạch bộ xích Thực thì bụng dưới đầy tức, tiểu nhiều.
Mạch Thực
thấy ở các chứng tà khí thịnh, hỏa chứng tà thịnh hoặc tà Thực ủng kết.
Mạch Thực
chủ khí tắc, ứ tích, phế ung, ăn không tiêu, bụng sưng, sán trướng, nhiệt thịnh,
họng đau, đại tiện khó.
Tả Thốn THỰC Lưỡi cứng.
|
Hữu Thốn THỰC Họng đau.
|
Tả Quan THỰC Can hỏa vượng, sườn đau.
|
Hữu Quan THỰC Bụng trướng đầy do khí thấp.
|
Tả Xích THỰC Đại tiện bí, bụng đau.
|
Hữu Xích THỰC Tướng hỏa kháng nghịch.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Tiểu,
Thực mà cứng là bệnh ở trong.
Thực Khẩn là
hàn tích đã lâu. Thực Hoạt là đờm ngưng trệ.
· Mạch Thực
mà Phù, Đại có lực là ngoại cảm phong, hàn, thử, thấp.
· Thực mà
Trầm có lực là nội thương do ăn uống thất thường.
· Thực Trầm
mà Huyền là hàn thịnh ở trong.
· Thực mà
Sác là chứng phế ung (áp xe phổi).
· Thực Hồng
là hỏa tà quá vượng.
MẠCH TRẦM
- Trầm là
chìm, mạch luôn chìm sâu dưới da, vì vậy gọi là Trầm.Mạch Trầm là mạch của mùa
đông, tức là mạch của Thận, thuộc phương Bắc, hành thủy, muôn vật nhờ đó mà bế
tàng, vì vậy mạch khí lúc đến thì Trầm mà bật mạnh lên,
mạch Thận
Trầm vì vậy mạch Trầm cũng gọi là mạch Thạch
MẠCH TƯỢNG
Mạch Trầm ấn
tay xuống thì không đủ, nhấc lên thì có dư.
đi chìm ở khoảng gân xương, đặt nhẹ tay không thấy, nặng tay mới thấy,
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH TRẦM
- Sách ‘Tam
Tài Đồ Hội’ và sách ‘Đồ Chú Nan Kinh Mạch Quyết’ diễn tả mạch Trầm như sau:
NGUYÊN NHÂN
Hàn khí bên
ngoài xâm nhập vào sâu, bó lấy kinh lạc, làm cho mạch khí không thông đạt, sẽ
xuất hiện mạch Trầm.
Mạch Trầm là
âm khí quyết nghịch dương khí không được thư sướng... Mạch Trầm là âm tà quá dư
làm cho huyết khí ngưng đọng không phấn chấn...
Nếu bệnh tụ
ở dưới, ở phần lý, ắt sẽ thấy mạch Trầm.
Tà uất ở
phần lý, khí huyết ngưng trệ thì mạch Trầm mà có lực. Dương khí hư hãm xuống
không thăng lên được thì mạch Trầm mà không có lực.
CHỦ BỆNH
Mạch của
Can, Thận đều Trầm là chứng thạch thủy.
Mạch của Phế
Trầm mà bật lên là chứng Phế sán.
Mạch của Tỳ,
bên ngoài bật lên ngón tay mà bên trong Trầm là chứng trường tiết, lâu ngày cũng
tự khỏi.
Mạch Trầm mà
Thạch là do Thận khí bị ngừng tắc ở trong.
Mạch ở thốn
khẩu Trầm là bệnh ở lý.
Trong ngực
có lưu ẩm, ắt ngắn hơi mà khát. Các khớp tay chân đau nhức, mạch Trầm là có lưu
ẩm.
Mạch Trầm,
khát nước, tiểu khó đều là phát hoàng đản.
Mạch ở thốn
khẩu Trầm: trong ngực đau lan ra 2 bên sườn, có ngực có thủy khí. Mạch ở bộ quan
Trầm là dưới tim có hơi lạnh, nuốt chua, mạch bộ xích Trầm là lưng và thắt lưng
đau.
Mạch Trầm
phân nhiều thấy ở lý chứng, có tà khí phục ở bên trong, tuy nhiên chứng khí trệ
hoặc khí hư cũng có thể thấy mạch Trầm.
· Thốn
TRẦM:đờm uất, thủy đình trệ ở ngực.
· Quan
TRẦM:trúng hàn, đau không thông.
· Xích
TRẦM: tiêu chảy, kiết kỵ, thận hư, lưng và hạ nguyên đau.
Mạch Trầm
chủ bệnh hàn, cơ thể đau, chân tay lạnh, xương khớp đau, thủy khí lưu ẩm, sưng
phù, tay chân không nhấc lên được, đái hạ, huyết ứ, trưng hà, tiêu chảy, di
tinh.
Tả Thốn TRẦM Tâm dương bất túc.
|
Hữu Thốn TRẦM Phế khí bất túc, ho, đàm ẩm, hụt hơi.
|
Tả Quan TRẦM Can uất, khí thống.
|
Hữu Quan TRẦM Tỳ hư, tiêu chảy, ăn không tiêu.
|
Xích TRẦM Bụng dưới đau, thắt lưng đau. đầu gối đau, liệt dương,
đái hạ, bụng đau, đàn bà thì huyết hải không đủ.
|
KIÊM MẠCH
Các mạch
Trầm Tế đều thuộc về phần âm, là chứng đau ở xương.
Mạch ở thốn
khẩu Trầm mà cứng là bệnh ở trong, Trầm mà Nhược thuộc về bệnh hàn, nhiệt, sán,
hà, bụng dưới đau.
- Chương ‘
Biện Mạch Pháp’ (TH. Luận) ghi: “Hỏi mạch có dương kết và âm kết, lấy gì để
phân biệt? Thưa: mạch Trầm mà Trì, không ăn được, cơ thể nặng nề, đại tiện lại
cứng gọi là âm kết”.
Đàn ông mà
mạch Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh, hơi thở ngắn, tiểu không thông, sắc mặt
trắng, thường hay tối mắt, chảy máu mũi, bụng dưới đầy là do hư lao gây ra.
Mạch Trầm mà
Huyền là bị chứng huyền ẩm gây đau ở trong. Mạch Trầm mà Trì là trong bụng bị
lạnh. Mạch Trầm mà Hoạt là hạ trọng, là sống lưng đau “. ”Âm tà xâm nhập thì
thấy mạch Trầm mà Tế.
· Trầm Trì :
cảm lãnh.
· Trầm Hoạt:
đờm thực.
· Trầm Khẩn:
lạnh, đau.
· Trầm Sác:
nội nhiệt .
· Trầm Lao:
lãnh tích .
· Trầm Sắc:
khí uất.
Trầm Trì là
có lạnh, Trầm Sác là nhiệt ở phần lý, Trầm Huyền là thực, chủ hạ trọng, Trầm Hư
là hư, chủ tiết lợi, Trầm Hoạt là đờm ẩm túc thực, Trầm Sáp là khí trệ, huyết
không đủ, Trầm Khẩn là tà khí thịnh, chính khí hư, chủ lạnh, đau. Trầm Đại là
táo ở phần lý. Trầm Lao là hàn tích ở trong.
MẠCH TRƯỜNG
Mạch l
Trường thì khí vượng.Mạch Trường mà hòa hoãn, phù hợp với khí sinh trưởng của
mùa xuân, vì vậy là tượng mạch của người khỏe mạnh.
HÌNH TƯỢNG
Tượng mạch
của mạch Trường giống như cành cây dài,
không lớn
không nhỏ,
mạch khí thẳng lên thẳng xuống, đầu đuôi tương ứng.
đi lại vượt
quá bộ vị.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH TRƯỜNG
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Trường như sau:
CHỦ BỆNH
Mạch của Can
đến thì Trường mà bật sang bên trái, bên phải, là có khí tích ở vị quản và 2 bên
sườn, gọi là chứng Can Tý.
Mạch Tâm bật
lên tay thấy cứng mà Trường thì lưỡi sẽ cong lên không nói được.
Mạch Phế bật
lên tay thấy cứng mà Trường thì sẽ khạc ra máu.
Mạch Can bật
lên tay thấy cứng mà Trường, sắc mặt không tái xanh, sẽ đau như bị ngã vì có
huyết tích ở 2 bên sườn, làm cho suyễn nghịch.
Mạch của Vị
bật lên tay, cứng mà Trường, sắc mật đỏ, 2 đùi sẽ đau như gẫy.
Mạch của Tỳ
bật lên tay cứng mà Trường, sắc mặt đỏ, sắc mặt vàng sẽ bị chứng thiếu (hụt)
hơi. Mạch của Thận bật lên tay cứng mà Trường, sắc mặt vàng đỏ, lưng sẽ bị đau
như gẫy.
Mạch ở thốn
khẩu đụng vào ngón tay mà Trường là cẳng chân bị đau.
Mạch ở 2 bộ
Xích và Thốn đều Trường là Dương minh bị bệnh.
Mạch Trường
chủ các bệnh về hữu dư.
Mạch Trường
chủ về nhiệt cao (kháng), tam tiêu phiền nhiệt, dương độc uất kết bên trong,
nhiệt kết ở Dương minh, động kinh, sán khí.
Tả Thốn TRƯỜNG Tâm vượng.
|
Hữu Thốn TRƯỜNG Ngực đầy, khí nghịch.
|
Tả Quan TRƯỜNG Can khí thực.
|
Hữu Quan TRƯỜNG Tỳ khí thực.
|
Tả Xích TRƯỜNG Tướng hỏa bốc lên.
|
Hữu Xích TRƯỜNG Bôn đồn, sán khí.
|
KIÊM MẠCH
Mạch Trường
mà Huyền là bệnh ở Can.
Mạch Phù,
Hồng, Đại, Trường là chứng chóng mặt do phong (phong huyễn), điên tật.
Can bệnh thì
sắc mặt xanh, tay chân co quắp, 2 bên sườn đầy tức hoặc thường bị chóng mặt,
(nếu thấy) Mạch Huyền Trường là dễ chữa.
Mạch Trường,
nếu Kiêm Đại mà Sác là dương thịnh, nhiệt ở trong.
- Sách ‘Mạch
Học Giảng Nghĩa’ ghi:
· Mạch Phù
Trường là ngoại cảm hoặc âm khí không đủ.
· Trường
Hồng là tráng nhiệt, điên cuồng.
· Trường Cấp
là bụng đau.
· Trường,
Trầm, Tế là chứng tích.
· Trường
Hoạt là đờm nhiệt.
· Trường
Huyền là bệnh ở Can.
· Trường mà
Vi Sáp là bệnh sắp khỏi.
MẠCH VI
-
Thuộc loại
mạch âm,Vi
là nhỏ, mạch đi chập chờn như có như không.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Vi là
cực Tế mà Nhuyễn hoặc muốn tuyệt.
Mạch lờ mờ, rất nhỏ như có, như không, muốn tuyệt mà không phải tuyệt.lúc
ẩn lúc hiện
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH VI
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Vi:
NGUYÊN NHÂN
Mạch Vi...
do dương khí suy.do
khí và huyết đều hư
CHỦ BỆNH
Mạch Vi là
khí huyết suy vi, gây ra sợ lạnh, phát sốt, mồ hôi ra nhiều. Nam là hư lao nữ
thì băng huyết. Mạch bộ thốn Vi thì thở ngắn hoặc kinh sợ. - Bộ quan Vi thì bụng
đầy trướng, bộ xích Vi là tinh huyết khí thiếu, sợ lạnh, đau rên rỉ.
Mạch Vi chủ
có bại huyết chảy ra không ngớt, sắc mặt không tươi nhuận. Mạch bộ thốn Vi là
khí xông ngược lên, bộ quan Vi là Tâm khí bị uất kết, mạch bộ xích Vi là dưới
rốn có khí tích bôn đồn.
Mạch Vi thấy
trong chứng vong dương, khí huyết quá suy.
Mạch Vi chủ
dương khí suy, các chứng hư của âm dương, khí huyết ở tình trạng nghiêm trọng.
Mạch Vi chủ
khí hư, mất máu, mồ hôi tự ra, kiết lỵ, họng đau, tay chân tê lạnh, co quắp.
Tả Thốn VI Khí huyết đều suy.
|
Hữu Thốn VI Thở gấp, đàm ngừng tụ.
|
Tả Quan VI Ngực đầy tức, tay chân co quắp.
|
Hữu Quan VI Vị hàn, ăn không tiêu.
|
Tả Xích VI Đàn ông thì thương tinh. Đàn bà thì băng lậu.
|
Hữu Xích VI Tiêu chảy, đau dưới rốn.
|
KIÊM MẠCH
Thiếu âm
bệnh thì mạch Vi, Tế, chỉ muốn ngủ, - Thiếu âm bệnh mạch Khẩn, đến 7-8 ngày sau
thì đi lỵ, mạch Vi thậm, tay chân lại ấm, mạch không còn Khẩn nữa là bệnh sắp
giải”. Thiếu âm trúng phong, mạch bộ thốn Vi, mạch bộ xích Phù là bệnh sắp giải.
Thiếu âm bệnh, mạch Vi, Tế, Trầm, chỉ muốn nằm, mồ hôi mà không ra mà không
phiền táo, muốn ói, đến 5-6 ngày lại muốn đi kỵ mà phiền táo không nằm được thì
chết.
Quyết âm
trúng phong, thấy mạch Vi, Phù là sắp giải, không Phù là chưa giải.
Thương hàn
mà mạch Vi Sác là chứng hắc loạn.
Mạch ở thốn
khẩu Vi mà Sác. Vi là không có khí, không có khí thì mạch Vi Hư, Vi Hư thì huyết
không đủ, huyết không đủ thì lạnh ở ngực.
Sản phụ bị
chóng mặt, choáng váng, mạch Vi Nhược, nôn mửa, không ăn được, đại tiện cứng,
đầu ra mồ hôi. Sở dĩ như thế là do huyết bị hư.
MẠCH XÚC
Xúc là gấp
rút, mau, nhanh. Mạch chí đi rất nhanh, cùng ở thốn khẩu,
Mạch Sác mà
thỉnh thoảng ngừng 1 cái cũng gọi là mạch Xúc.
HÌNH TƯỢNG
Mạch Xúc
đập
gấp rút ở thốn khẩu ra đến ngư tế,
đến rồi đi nhanh vội, có khi ngừng rồi lại tiếp tục.đập
rất nhanh dưới ngón tay, có lúc giống như ngừng không có số nhất định, cấp bách,
trong nhanh có thấy cả đập nho nhỏ”.
HÌNH VẼ
BIỂU DIỄN MẠCH XÚC
- Sách ‘Mạch
Chẩn’ biểu thị hình vẽ mạch Xúc như sau:
NGUYÊN NHÂN
Dương thịnh
mà âm không hòa được, hoặc nộ khí nghịch lên... gây ra mạch Xúc.
Do vinh vệ
bị rối loạn không còn độ số, âm khí thúc dương... gây ra mạch Xúc.
Mạch Xúc do
lo lắng nghĩ ngợi, khí trệ uất kết, tích tụ gây ra, hoặc do nóng sốt quá mà
không hạ xuống được... cũng gây ra mạch Xúc.
CHỦ BỆNH
Thái Dương
bệnh mà thầy thuốc lại dùng phép hạ, gây ra đi lỵ không ngừng, mạch Xúc
Thương hàn
mà mạch Xúc, tay chân quyết nghịch, nên dùng phép cứu (bằng ngải nhung)”.
Mạch Xúc đập
dồn dập trên thốn khẩu là đau ở vùng bả vai sau lưng.
Giận dữ làm
cho khí xông ngược lên gây ra mạch Xúc, khí thô, người bệnh sinh ra nóng nảy,
buồn bực, có khi trong người máu dồn lại phát cuồng.
Mạch Xúc chủ
dương thịnh nhiệt thực, huyết khí, đờm ẩm, thức ăn ngừng trệ, sưng đau.
Mạch Xúc chủ
khí nghịch lên, suyễn thở, vai lưng đau, kết hung, di tinh, kiết lỵ, nhiệt cao,
đờm ứ, thương thực, vong dương.
Tả Thốn XÚC Nhiệt hỏa bốc lên cao.
|
Hữu Thốn XÚC Khí nghịch, suyễn, phế khò khè.
|
Tả Quan XÚC Huyết táo.
|
Hữu Quan XÚC Thương thực.
|
Tả Xích XÚC Di tinh.
|
Hữu Xích XÚC Vong dương.
|
KIÊM MẠCH
· Xúc mà
Hồng, Thực, có lực là nhiệt, là tà trệ ở kinh lạc.
· Xúc mà
Tiểu, vô lực là hư thoát.
MẠCH PHỤ NỮ
Sinh lý của
người phụ nữ, được chia ra 3 thời kỳ: Thời kỳ kinh nguyệt, Thời kỳ có thai, Thời
kỳ sau khi sinh..
I- MẠCH THỜI KỲ KINH NGUYỆT
HÀNH KINH:
Phụ nữ mạch ở
2 bộ quan và xích bên trái bỗng nhiên thấy mạch Hồng Đại hơn bên phải, miệng
không đắng, cơ thể không sốt, bụng không trướng là sắp sửa hành kinh.
Mạch ở 2 bộ
thốn và quan đều hoạt mà mạch ở bộ xích không đến, phần nhiều là kinh nguyệt
không thông.
Mạch bộ thốn
và quan bình thường mà mạch bộ xích tuyệt hoặc không tuyệt mà Nhược, Tiểu thì
kinh nguyệt không thông
Mạch 3 bộ Trầm
Hoản là hạ bộ hư nhược thì hẳn là kinh nguyệt tháng đó quá nhiều.
Mạch Hư Vi mà
không có mồ hôi thì 2 tháng mới hành kinh 1 lần.
Mạch cả 3 bộ
đều Phù hoặc Trầm mà trong khi Phù hoặc Trầm đó đôi khi lại ngừng hoặc mạch bộ
thốn và quan Vi Sáp,
Mạch bộ xích
Vi Trì đó là mạch 3 tháng mới hành kinh 1 lần.
Mạch 3 bộ thấy
Hư Vi thì kinh nguyệt không thông.
KINH BẾ:
Mạch ở bộ xích
mà Vi, Sắc là chứng bế kinh do hư (hư bế), mạch ở bộ xích mà Hoạt là chứng bế
kinh do thực .
Tam Tiêu và
Đởm thấy mạch Trầm, Tâm và Thận thấy mạch Tế là kinh nguyệt không thông, huyết
ngưng lại làm cho kinh không vận hành.
Kinh bế do:
· Huyết Khô
: mạch Hư Tế.
· Huyết ứ :
mạch Trầm Kết mà Sắc.
· Hàn ngưng
: mạch Trầm Trì hoặc Khẩn.
· Nhiệt :
mạch Huyền Tế Sác.
· Nhiệt uất
: mạch Hư Tế Sác hoặc Hư Huyền.
· Đờm ngăn :
mạch Huyền Hoạt.
· Khí uất :
mạch Huyền Sác.
· Tỳ Hư :
mạch Hư Trì.
THẬP QUÁI MẠCH
Ngoài các mạch
chính đã trình bày ở trên, các nhà nghiên cứu về mạch còn nêu ra 1 số mạch gọi
là ‘Mạch Lạ’ (Quái Mạch).
Từ đời nhà Nguyên
(1277-1368), trong sách ‘Thế Y Đắc Hiệu Phương’ Ngụy-Diệc-Lâm đã nêu lên 10 loại
mạch lạ gọi là ‘Thập Quái Mạch’ nhưng sau này, các nhà mạch học đã bỏ bớt 3 loại
(Chuyển Đậu, Ma Xúc, Yển Đao) đi, còn lại 7 loại mạch lạ (Thất Quái Mạch) và
hiện nay, đa số các sách đều chỉ nhắc đến 7 loại mạch lạ này mà thôi.
1- ĐẠN THẠCH
Sóng mạch đi như
đập vào đá (thạch), chỉ thấy đập vài cái rồi thôi không thấy nữa.
Biểu hiện của mạch
Phế bị tuyệt. Nếu thấy ở bộ xích bên trái (tả xích) là dấu hiệu Thận sắp bị
tuyệt.
2- GIẢI SÁCH
Sóng mạch đi rối
loạn, tản mác giống như mớ dây (giải) bị rối (sách).
Biểu hiện của Ngũ
Tạng bị tuyệt. Nếu thấy ở bộ xích bên trái (tả xích) là dấu hiệu thổ khắc thủy.
3- HÀ DU
Sóng mạch đi không
đều, lúc thì im lìm không động đậy, rồi thấy vụt mạnh 1 cái rồi lại ngừng lại,
giống như con tôm (haø) đang bơi (du).
Biểu hiện của Tỳ Vị
bị tuyệt.
4- NGƯ TƯỜNG (DƯỢC)
Sóng mạch đi như
dáng con cá (ngư) đang bơi lội (tường - dược): phần trên (sát da) thấy rung động
nhưng phía dưới lại yên.
Biểu hiện của Thận
bị tuyệt.
5- ỐC LẬU
Sóng mạch chạy trơn
tuột 1 cái, 1 lát sau lại thấy 1 cái, giống như nước từ trên mái nhà (ốc) bị dột
(lậu), theo lỗ hổng chảy xuống.
Biểu hiện của Tâm,
Phế, Tỳ và Vị bị tuyệt.
6- PHỦ PHÍ
Sóng mạch đi lúc
nhúc như nước trong nồi (phuû) đang sôi (phí).
Biểu hiện của mạch
chết.
7- TƯỚC TRÁC
Sóng mạch nhảy 3-5
cái liên tục, ngưng lại rồi đập tiếp 3-5 cái, như con chim sẻ (tước) đang mổ
(trước) thức ăn.
Biểu hiện của Tâm,
Phế, Tỳ và Vị bị tuyệt.
8- CHUYỂN ĐẬU
Mạch đến liên tục,
như lăn (chuyển) trên hạt đậu (đậu).
Biểu hiện mạch của
Tâm bị tuyệt.
9- MA XÚC
Mạch chạy không thứ
tự, bé nhỏ như hột mè (ma).
Biểu hiện của vệ
khí bị khô, vinh huyết bị rít (sít) lại. Nếu nặng thì khoảng 1 ngày sẽ chết.
10- YỂN ĐAO
Sóng mạch đi, có
cảm giác như sờ trên sống (yển) dao (đao). Mạch Phù mà nhỏ gấp, ấn vào thấy
cứng, to mà đi gấp.
Biểu hiện mạch của
Can bị tuyệt.
Nhóm mạch lạ
(Quái Mạch) này, có biểu hiện khác thường, hay gặp nơi những người bệnh có biểu
hiện sắp chết, vì thế còn được gọi là Mạch Chết (Tử Mạch).
Tuy các mạch trên
đây (Thất Quái hoặc Thập Quái Mạch), theo kinh nghiệm của người xưa đều là các
mạch chết (tử mạch) tuy nhiên hiện nay, với sự phát triển của y học và khoa học
kỹ thuật hiện đại, với những trang thiết bị cấp cứu tốt, phối hợp thêm sự kết
hợp Đông - Tây y, nếu được tích cực cứu chữa đúng mức, có thể lướt được qua 1 số
bệnh hiểm nghèo (dù đã và đang gặp các loại mạch tử trên), vì vậy, không nên cho
rằng gặp những loại mạch trên là chắc chắn phải chết rồi không tích cực lo cứu
chữa cho người bệnh, dẫn đến diễn biến xấu.
TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG
ỨNG DỤNG TRONGÐÔNG Y
I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
1. KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
Học thuyết âm dương là một bộ phận trọng yếu trong y học cổ truyền.
Người xưa nhận
thấy sự vật trong thiên nhiên luôn luôn có sự mâu thuẫn,
đối lập và thống nhất với nhau, không ngừng vận động đễ
phát sinh phát triển và tiêu vong như: sáng tối, ngày đêm,
trời đất, nóng lạnh, nước lửa . v.v..gọi là âm dương.
Trong y học cổ
truyền học thuyết âm dương
quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp
trong suốt quá trình sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị và
bào chế đông dược.
2.
CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
a.
Âm dương đối lập : là sự mâu thuẫn giữa hai mặt
âm dương như: ngày đêm, ngủ thức, nước lửa, lạnh nóng,
hưng phấn và ức chế.
b.
Âm dương hổ căn : là sự nương tựa vào nhau giữa
hai mặt âm dương như : trong âm có dương, trong dương có âm.
c.
Âm dương tiêu trưởng : là quá trình vận động không
ngừng của âm dươngmọi sự vật sinh ra, lớn lên, già
cỗi, mất đi rồi lại sinh ra.
d.Âm
dương bình hành : là sự thăng bằng giữa hai mặt đối lập.
Bốn
mặt trên của sự vật nói lên các qui luật, mâu thuẫn nhưng
thống nhất, thăng bằng nhưng vận động không ngừng, nương tựa
nhưng chế ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh, phát triển
và tiêu vong.
Người
xưa tượng trưng học thuyết âm dương bằng hình vẽ như sau :
3.
ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG VÀO TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN
ÂM
|
TẠNG
|
HUYẾT
|
DINH
|
BỤNG
|
HÀN
|
HƯ
|
LÝ
|
TRÁI
|
THUỶ
|
LƯƠNG
|
DƯƠNG
|
PHỦ
|
KHÍ
|
VỆ
|
LƯNG
|
NHIỆT
|
THỰC
|
BIỂU
|
PHẢI
|
HOẢ
|
ÔN
|
Bệnh
tật sinh ra do sự mất thăng bằng
về âm dương, biểu hiện dương thắng, âm thắng, dương hư,
âm hư. Ðiều trị bệnh là điều hoà lại âm dương. Trong chẩn
đoán người ta nương tựa vào các cương lĩnh để xác định
bệnh trong hay ngoài (biểu lý) nóng hay lạnh (hàn nhiệt) suy sụp
hay hưng thịnh (hư thực) mô tả trạng thái và xu thế chung của
bệnh tật thuộc âm hay dương để dùng thuốc âm hay thuốc dương
mà điều trị cho thích hợp.
II.
HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :
1.
KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :
Học thuyết ngũ
hành là học thuyết âm dương
được liên hệ một cách
cụ thể hơn trong việc quan sát, quy nạp sự liên quan của các
sự vật.
Trong
y học người xưa vận dụng ngũ hành để phân tích sự tương
quan trong các hoạt sinh lý. Ngoài ra còn dùng để tìm tác dụng
của thuốc để áp dụng vào việc bào chế.
2.
NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :
Người
xưa cho rằng trong thiên nhiên có năm loại vật chất chính đó
là :Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ (đất).
Mọi
hiện tượng trong tự nhiên được xếp theo năm loại vật chất
trên gọi là ngũ hành.
3.
BẢNG QUI NẠP THIÊN NHIÊN VÀ CƠ THỂ CON NGƯỜI THEO NGŨ
HÀNH :
NGŨ
HÀNH
HIÊN
TƯỢNG
|
MỘC
|
HOẢ
|
THỔ
|
KIM
|
THUỶ
|
VẬT
CHẤT
|
GỖ
|
LỬA
|
ÐẤT
|
KIM
LOẠI
|
NƯỚC
|
MÀU
SẮC
|
XANH
|
ÐỎ
|
VÀNG
|
TRẮNG
|
ÐEN
|
NGŨ
VỊ
|
CHUA
|
ÐẮNG
|
NGỌT
|
CAY
|
MẶN
|
THỜI
TIẾT
|
XUÂN
|
HẠ
|
TỨ
QUÝ
|
THU
|
ÐÔNG
|
P.HƯỚNG
|
ÐÔNG
|
NAM
|
T.
ƯƠNG
|
TÂY
|
BẮC
|
NGŨ
TẠNG
|
CAN
|
TÂM
|
TỲ
|
PHẾ
|
THẬN
|
LỤC
PHỦ
|
ÐỞM
|
T.TRƯỜNG
|
VỊ
|
Ð.TRƯỜNG
|
B.
QUANG
|
NGŨ
THỂ
|
CÂN
|
MẠCH
|
NHỤC
|
BÌ
PHU
|
CỐT
|
NGŨ
QUAN
|
MẮT
|
LƯỠI
|
MIỆNG
|
MŨI
|
TAI
|
TÌNH
CHÍ
|
GIẬN
|
MỪNG
|
LO
NGHĨ
|
BUỒN
|
SỢ
|
Trong
điều kiện bình thường, thiên nhiên, vật chất và con người
có liên quan mật thiết với nhau, tác động nhau chuyển biến
không ngừng bằng thúc đẩy nhau (tương sinh) hoặc chế ước
lẫn nhau (tương khắc) để giữ được mối thăng bằng âm dương.
4.
CÁC QUI LUẬT HOẠT ÐỘNG CỦA NGŨ HÀNH :
a.
Qui luật tương sinh :
Mộc
sinh Hoả =
Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ
= Tâm
sinh Tỳ
Thổ sinh Kim =
Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ =
Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc =
Thận sinh Can.
b. Qui luật tương khắc :
Mộc
khắc Thổ =
Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ
= Tỳ khắc
Thận
Thuỷ khắc Hoả
= Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim
= Tâm khắc
Phế
Kim khắc Mộc =
Phế khắc Can
5. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT
NGŨ HÀNH VÀO TRONG Y HỌC :
Ðể
xác định vị trí của một bệnh lý sinh ra từ tạng phủ nào,
mà tìm cách điều trị cho thích hợp, người xưa qui định có
thể do một trong năm vị trí sau đây :
Chính tà :
do
bản thân tạng ấy có bệnh
Hư
tà : do tạng trước không
sinh được nó
Thực
tà : do tạng sau nó đưa đến
Vi
tà : do tạng khắc nó quá mạnh
Tặc
tà : do nó không khắc được tạng khác.
Trong
điều kiện bất thường về bệnh lý, có nhiều tạng phủ quá
mạnh hay quá yếu sẽ xảy ra hiện tượng khắc quá mạnh (tương
thừa) hay chống lại cái khắc mình (tương vũ) Ðông y dùng
qui luật tương thừa hay hay
tương vũ để giải thích một số cơ chế sinh bệnh và áp dụng
điều trị.
III.
HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :
1
KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :
Học
thuyết thiên nhân hợp nhất, nói lên giữa con người và
hoàn cảnh thiên nhiên xã hội luôn luôn mâu thuẫn nhưng thống
nhất, con người luôn luôn chủ động thích ứng với thiên
nhiên để sinh tồn, phát triển.
Thí dụ :
Trời đất có sáng tối, con người có thức ngũ.
Trời lạnh người co giữ ấm, trời nóng người đổ
mồ hôi giải nhiệt.
Trời có sáu khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.
Ðất có ngũ hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Người có ngũ tạng ứng với đất, lục phủ ứng với
trời và thích nghi theo từng thời tiết bốn mùa.
2.
ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT VÀO Y HỌC
Học
thuyết thiên nhân hợp nhất là nội dung của phương pháp phòng
bệnh trong y học cổ truyền, nắm được nguyên lý của học
thuyết sẽ giúp cho con người :
- Cải taọ thiên
nhiên bắt thiên nhiên phuc vụ đời sống.
- Chủ động rèn luyện sức khoẻ.
- Cải tạo tập quán củ, gìn giữ mỹ tục.
- Rèn luyện ý chí chống dục vọng cá nhân.
- Ăn tốt, mặc ấm, giữ vệ sinh cá nhân và hoàn cảnh.
- Ðiều độ về ăn uống, sinh hoạt, lao động, tình dục.
v..v.
IV.
KẾT LUẬN :
Từ 3 học thuyết âm dương, ngũ hành, thiên nhân hợp
nhất. Y học cổ truyền đi đến một quan niệm toàn diện và
thống nhất chỉnh thể trong phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán
và điều trị bệnh tật.
Người thầy thuốc phải thấy con người ở thể thống
nhất toàn vẹn giữa các chức phận, giữa tinh thần và vật
chất, giữa cá nhân và hoàn cảnh chung quanh để đi đến các
vấn đề
- Phòng bệnh sống lâu.
- Chữa người có bệnh chứ không phải chữa bệnh.
- Nâng cao chính khí con người là chính để thắng được
mọi bệnh tật.
I.
TẠNG PHỦ
1.
KHÁI NIỆM :
Căn cứ vào hoạt động của cơ thể con người lúc bình
thường và lúc có bệnh người xưa qui nạp thành những nhóm chức năng
khác nhau, rồi đặt tên cho các cơ quan trong cơ thể gọi là Tạng Tượng ( hiện tượng
của tạng ).
Nhóm chức năng
có nhiệm vụ chứa đựng, chuyễn hoá gọi là Tạng, gồm có
: Tâm. Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm Bào.
Nhóm chức năng
có nhiệm vụ thu nạp và chuyễn vận gọi là phủ , gồm có :
Tiểu Trường, Ðại Trường, Ðởm, Vỵ, Bàng Quang, Tam Tiêu.
Ngoài ra còn
có các hoạt động khác như : Dinh, Vệ, Khí, Huyết, Tinh, Thần,
Tân, Dịch.
2. CÁC TẠNG :
A/ TÂM :
Ðứng đầu các
tạng phụ trách về các hoạt động thần kinh như : Tư duy, trí
nhớ, thông minh, khi có bệnh thường hay hồi hợp, sợ hải, phiền loạn, hay quên
.v.v.
Quan hệ với huyết mạch : Khi có bệnh sẽ sinh hiện tượng
bần huyết, tóc khô, mạch yếu.
Khai khiếu ra lưỡi : Khi sốt cao lưỡi đỏ, Tâm huyết hư
lưỡi nhạt màu. Như vậy Tâm bao gồm một so
hoạt động về tinh thần và tuần hoàn huyết mạch. Khi có bệnh
thường có các hôi chứng sau :
Tâm dương hư
: Kinh khủng, hồi hô?, hay quên, tự hãn.
Tâm âm hư : Mất ngũ, mộng
mị, hồi hô?, lo sợ.
Tâm nhiệt : Mắt đỏ, miệng khát, họng khô, lưỡi đỏ,
nói nhảm.
Khi nói đến
Tạng Tâm vì là tạng đứng đầu mọi tạng nên có một tạng
phụ bảo vệ nó gọi là Tâm Bào Lạc. Các biểu hiện
bệnh lý không khác gì Tạng Tâm.
B/
CAN :
Thường chia hai loại
:
Can khí : Biểu hiện tình trạng hưng phấn, găng động, cáu
gắt, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.
Can huyết : Phụ
trách các hoạt động về kinh nguyệt và sự nuôi dưỡng các
cân cơ
Quan hệ với cân: bao
gồm các hoạt động vận động, khi có bệnh run tay chân, teo cơ,
cứng khớp, vận động đi lại khó khăn.
Khai khiếu ra mắt: mắt mờ, quáng gà, mắt sưng, nóng đỏ.
Can âm hư: ( can huyết hư ) kinh nguyệt ít, móng tay, da khô,
mắt mờ, gân thịt run giật co quắp.
Can dương thịnh: nhức đầu, hoa mắt, ù tai, mặt đỏ, mắt
đỏ, hay cáu gắt
C/
TỲ:
Phụ
trách việc hấp thu đồ ăn và dinh dưỡng, phản ảnh hoạt động
tiêu hoá từ miệng đến hậu môn. Về sinh lý, bệnh
lý
Quan
hệ với cơ nhục : Tỳ hư, ăn kém, sút cân, thịt mềm nhảo,
cơ yếu.
Khai
khiếu ra môi miệng : Ăn không ngon, nôn mửa.
Chức
năng nhiếp huyết :Chảy máu lâu ngày do Tỳ không nhiếp huyết.
Tỳ
hư : Ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, tiêu chảy kéo dài, cơ nhục
mềm nhảo.
Tỳ
hư hàn: đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, ợ hơi, tay chân lạnh.
D/
PHẾ:
Phụ trách về
hô hấp và sự khí hoá hoạt động toàn thân.
Quan
hệ với bì phu thông ra mũi họng và thanh quản biểu hiện lâm
sàng có các triệu chứng:
Phế
khí hư : thở nhanh nhỏ, yếu, nói nhỏ dễ ra mồ hôi sắc mặt
trắng nhợt.
Phế
nhiệt : ho sốt, mạch nhanh, đờm đặc dính, lưỡi đỏ.
Phế
âm hư: ho khan, họng khô, khan tiếng lâu ngày, đạo hản, sốt
âm triều nhiệt, khát nước.
Ð/
THẬN:
Chia làm hai loại
chủ đề về Thuỷ và Hoả:
Thận thuỷ hay Thận âm : thường biểu hiện quá trình
ức chế.Thường có các triệu chứng: mất ngủ, đau lưng, ù
tai, ra mồ hôi trộm, nhức xương, sốt hâm hấp, cầu táo, tiểu
đỏ.
Thận
hoả hay Thận dương: có những biểu hiện về hưng phấn. Nếu
thận dương hư có các triệu chứng chân tay sợ lạnh, tiêu
chảy kéo dài, mạch yếu, di tinh, hoạt tinh, liệt dương.
Thận
tàng tinh, chủ về sự phát dục cơ thể và hoạt động sinh dục
nam: thận hư trẻ con chậm phát triển trí tuệ, chậm biết đi,
chậm mọc răng, người lớn hoạt động sinh dục giảm, đau lưng,
di tinh, liệt dương.
Quan
hệ với xương tuỷ, khai khiếu ra tai: Thận hư thường đau lưng,
nhức mỏi, ù tai.
Trên
lâm sàng thường có hội chứng sau:
Thận
âm hư: họng khô,răng đau nhức lung lay, tai ù, hoa mắt, mất
ngủ, nhức xương, đạo hản. Tinh thần ức chế.
Thận
dương hư: đau lưng, lạnh cột sống, chân tay lạnh, hoạt tinh,
liệt dương, ỉa chảy, tiểu đêm, tinh thần giảm hưng phấn.
3.
CÁC PHỦ:
A.
ÐỞM :
-
Bài tiết ra chất mật.
-
Chủ về sự quyết đoán và sự dũng cảm.
B. VỴ :
-
Chứa đựng và nghiền nát thức ăn.
-
Luôn có biểu hiện về bệnh lý ở răng miệng, sâu răng,
hôi miệng, loét miệng thường do vị nhiệt.
C. TIỂU TRƯỜNG
:
-
Nhận thức ăn từ vị đưa xuống hấp thụ các chất tinh khiết
biến thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, phân
thanh giáng trọc, đưa các chất cặn bã xuống Ðại Trường và
Bàng Quang.
D.
ÐẠI TRƯỜNG :
Truyến
đạo để bài tiết cặn bã.
Ð. BÀNG QUANG :
Tiếp
với thận để bài tiết nước tiểu.
E.
TAM TIÊU :
Là nhóm chức năng
quan giữa các tạng,phủ trên và dưới với nhau. Sự khí
hoá tam tiêu được chia làm ba phần.
-
Thượng tiêu : từ miệng đến tâm vị có các tạng
Phế Tâm.
-
Trung tiêu : Từ tâm vị đến hậu môn vị có tạng Tỳ.
-
Hạ tiêu : Từ môn vị đến hậu môn có các tạng Can
và Thận.
5. CÁC HOẠT ÐỘNG KHÁC : DINH, VỆ, KHÍ, HUYẾT, TINH, THẦN, TÂN,
DỊCH :
A.DINH
: là dinh dưỡng, một chất tinh hoa của thuỷ cốc tạo thành
tinh khí được vận chuyển bên trong mạch để nuôi ngũ tạng,
lục phủ và cung cấp dinh dưỡng toàn thân.
B.VỆ
: là phần tinh
hoa đi ngoài mạch giữ nhiệm vụ bảo vệ cơ thể.
C.
KHÍ : gồm
có khí hơi thở và khí nội lực làm nhiệm vụ xúc tiến cho
dinh huyết nuôi dưỡng cơ thể.
D.HUYẾT
: trung tiêu lấy
tinh khí từ dinh dưỡng hoá thành huyết đổ vào trăm mạch
để nuôi cơ thể.
E.TINH
: gồm có tinh hoa
của chất dinh dưỡng và tinh sinh dục, là sự phối hợp của
khí huyết trong quan hệ dinh dưỡng cao cấp của cơ thể.
F.THẦN
: là sự thể
hiện của tư duy, trí tuệ, ý thức làm chủ hết thảy mọi sự
hoạt động của sinh mạng con người.
G. TÂN DỊCH :
là các chất nước có quan hệ đến quá trình tiêu hoá như
: nước tiểu, mồ hôi, nước mắt, nước mũi .v.v..
PHỦ
KỲ HẰNG : ngoài tạng phủ ra trong cơ thể còn có phủ kỳ
hằng là những phủ khác thường gồm có :
A. NÃO TUỶ :
thận sinh ra xương tuỷ, não là chỗ hội họp của tuỷ.
B. TỬ CUNG
:
chủ về kinh nguyệt, chủ về bào thai.
II.
KINH LẠC :
Kinh là những
đường vận hành của khí chạy thẳng dọc theo cơ thể . lạc
là những đường chạy ngang nối các kinh với nhau.
Hệ
kinh lạc gồm các đường kinh khí nối liền từ trong tạng phủ
ra ngoài được liên kết bắng các lạc nối với nhau, tạo
thành một màng lưới chằng chịt khắp cơ thể. Kinh khí vận hành
giúp cho cơ thể thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài. Trên những
đường kinh có những nơi khí tụ lại gọi là huyệt. Có tất
cả 12 đường kinh chính và 8 đường kinh phụ và khoảng 870
huyệt trên cơ thể.
QUAN NIỆM VỀ BỆNH TẬT & PHƯƠNG
PHÁP CHẨN ÐOÁN ÐIỀU TRỊ ÐÔNG Y
A.
NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH :
Trong
y học cổ truyền chia làm 3 nguyên nhân gây bệnh :
- Nội nhân : do thất tình : vui, giận, buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ.
- Ngoại nhân : do lục khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.
- Bất nội ngoại nhân : do té ngã, đả thương, trùng thú
cắn.
1.Nội nhân :
-
Hỉ : (vui mừng)
- Hại đến tâm khí.
- Nộ : (giận)
- Hại đến can khí.
- Ưu, bi : (sầu, muộn) -
Hại đến phế khí.
-
Tư : (lo lắng)
- Hại đến tỳ khí.
-
Khủng, kinh : (hoảng, sợ) - Hại đến thận khí.
Bảy thứ tinh chí nói
trên thực chất là những rối loạn về tâm lý xã hội đưa
đến rối loạn chức phận
của tinh thần, gây ảnh hưởng đến công năng hoạt động của
các tạng phủ.
2. Ngoại nhân :
- Phong : gió chủ khí mùa xuân , thường kết
hợp với các khí khác như : phong hàn, phong nhiệt, phong
thấp.
- Hàn : lạnh chủ khí của mùa đông , hay làm tắc lại
không ra mồ hôi, thường có phong hàn, hàn thấp.
- Thử : nắng chủ khí về mùa hạ có đặc tính làm
sốt cao, thường có : thương thử, trúng thử và thấp thử.
- Thấp : độ ẩm thấp trong không khí, có các triệu
chứng về tiêu hoá, thường có phong thấp, thấp thử và hàn
thấp.
-
Táo : chủ khí của mùa thu, độ khô của không khí,
thường gây những bệnh sốt cao, táo nhiệt.
-
Hoả : nhiệt, đặc tính của các bệnh dịch khí, lệ
khí, truyền nhiễm. Thường có thấp nhiệt, phong nhiệt, thử
nhiệt.
3.Bâ? nội ngoại nhân :
Do
sang chấn té ngã, đâm, chém, tai nạn, ăn uống, lao động, tình
dục là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến sức khoẻ.
B. BÁT CƯƠNG, BÁT PHÁP
:
I. BÁT CƯƠNG
: (8 cương lĩnh).
Trước tình trạng diễn
biến phức tạp của triệu chứng bệnh, người thầy thuốc cần
phải dựa vào 8 cương lĩnh chung nhất để đánh giá tình trạng,
phân tích và qui nạp giúp cho việc chẩn đoán được chính xác.
Tám cương lĩnh gồm : Âm , Dương, Biểu , Lý, Hàn, Nhiệt,
Hư, Thực.
1.
BIỂU LÝ :
Là
hai cương lĩnh phân tích và đánh giá về mức độ nông sâu
của bệnh.
Biểu
: bệnh còn ở bên ngoài,
ngoại cảm, còn ở kinh lạc biệu hiện sự viêm long khởi phát
sốt có mồ hôi hoặc không mồ hôi, đau đầu cứng gáy tuỳ
mức độ hư thực. Chưa có những rối loạn cơ năng trầm trọng.
Lý
: bệnh đã vào bên trong cơ thểcác triệu chứng diễn biến
toàn phát có kèm theo những biến loạn cơ năng về tạng phủ,
cũng như về tinh thần. Trong thực tế có những bệnh diễn biến
vẫn còn bên ngoài nhưng nguyên nhân bệnh đã có từ bên
trong.
Giữa
biểu lý lại có triệu chứng bán biểu, bán lý như lúc nóng,
lúc lạnh, ngực sườn đầy tức, buồn nôn, miệng đắng không
thể giải biểu, không thể thanh lý, thanh nhiệt, mà phải dùng
phương pháp hoà giải.
2.
HÀN NHIỆT :
Là hai cương lĩnh biểu
hiện trạng thái khác nhau của bệnh tật.
Trên lâm sàng thường
có những triệu chứng hàn
nhiệt lẫn lộn. Nên khi xét những biểu hiện ta cần chú ý
đến các mặt sau đây :
Hàn : sắc mặt
trắng, rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhạt, người ít nói,
co ro, không khát thích ấm, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng
nhão, tay chân lạnh.
Nhiệt : sắc mặt
đỏ, rêu lưỡi dày vàng, chất lưỡi đỏ, hay nói, miệng hôi,
khát, thích uống mát, tiểu tiện sẻn, đỏ, rắt, táo bón, tay
chân nóng.
2.
HƯ THỰC :
Là
hai cương lĩnh đánh giá về chính khí và tà khícủa cơ thểđể
xem lại tác nhân gây bệnhvà sức chống lại của cơ thể.
Về
hư ta nhận xét âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư.
Về
thực ta đánh giá mức độ khí trệ huyết ứ, thực nhiệt,
thực hàn.
3
.ÂM DƯƠNG :
Là hai cương lĩnh tổng
quát, gọi là tổng cương dùng để đánh giá xu thế chung nhất
của bệnh tật. Vì những triệu chứng biểu lý, hàn nhiệt, hư
thực thường hay lẫn lộn. Biểu hiện lâm sàng của bệnh tật
có thể âm thắng hay dương thắng.
II. BÁT PHÁP
:
Là 8 phương pháp dùng
thuốc uống trong y học cổ truyền gồm : Hản, Thổ, Hạ, Hoà,
Thanh, Ôn, Tiêu, Bổ.
1.HẢN PHÁP : (Làm cho ra mồ hôi).
Là
phương pháp dùng các vị thuốc có tác dụng làm cho ra mồ hôi
đưa các tác nhân gây bệnh ra ngoài, khi bệnh còn ở biểu
phận. Trên lâm sàng hay dùng để chữa các bệnh ngoại cảm
do phong hàn thấp nhiệt.
- phát tán phong hàn
- Phát tán phong nhiệt
- Phát tán phong thấp.
Chống
chỉ định : khi bệnh nhân tiêu chảy, nôn, mất máu, mùa hè
không nên cho ra mồ hôi nhiều.
2. THỔ PHÁP : (Gây nôn).
Dùng
các vị thuốc để gây nôn khi ngộ độc thức ăn, thức uống,
thuốc độc.v.v.. Lúc bệnh còn ở thượng tiêu. Phương pháp
này ít dùng trên lâm sàng.
3.
HẠ PHÁP : (Tẩy xổ, nhuận trường).
Dùng
các loại thuốc có tác dụng tẩy xổ và nhuận trường để
đưa các chất ứ động ra ngoài bằng đường đại tiện như
: phân táo, huyết ứ, đàm ứ.v.v..
Chỉ
dùng phương này khi bệnh thuộc về thực chứng. Gồm có các
cách :
- Ôn hạ : Dùng các vị thuốc xổ có tính cay ấm như
bả đậu để tẩy hàn tích.
-
Nhuận hạ : Dùng các vị thuốc có tính chất xổ nhẹ
nhuận trường như : mồng tơi, rau muống.
-
Hàn hạ : Dùng các vị thuốc có tính
lạnh như : Ðại hoàng, phát tiêu để tẩy nhiệt tích.
- Công hạ : Dùng các vị thuốc có tính chất xổ mạnh
như : lư hội, tả diệo để trừ thực tích hạ tiêu.
- Phù chính công hạ : Cũng dùng thuốc xổ mạnh nhưng
vì tỳ vị hư yếu nên phai phối hợp với thuốc kiện tỳ.
Chống
chỉ định : khi bệnh còn ở biểu, sốt mà không táo, người
già yếu, phụ nữ có thai hay sản hậu.
4.
HOÀ PHÁP (Hoà hoãn)
Dùng
chữa các bệnh ngoại cảm còn bán biểu bán lý. Hàn nhiệt
vãng lai không giải biểu được không thanh lý được, các
bệnh rối loạn sự tương sinh tương khắc của Tạng Phủ, một
số bệnh do sang chấn tinh thần.
Trên lâm sàng thường
dùng chữa một số bệnh như : Cảm mạo, lúc nóng lúc lạnh,
rối loạn chức năng Can Tỳ, rối loạn kinh nguyệt.
Chống
chỉ định : Không dùng khi bệnh còn ở biểu hay vào lý.
5/ THANH PHÁP : ( Làm
cho mát ).
Dùng các vị thuốc mát
để làm hạ sốt khi tà khí đã vào lý phận. Trên lâm sàng
thường dùng 3 cách:
- Thanh nhiệt lương huyết : Dùng các vị thuốc mát
huyết như : Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm.
- Thanh nhiệt Tả hoả : Dùng
các vị thuốc để trừ hoả nhiệt như : Huyền sâm, sinh địa,
thạch cao.
- Thanh nhiệt giải độc : Dùng các vị thuốc để giải
nhiệt độc như : Kim ngân hoa, Bồ công anh, Chi tử, Nhân Trần.
-
Chú ý : Dùng thận trọng trong trường hợp Tỳ Vị hư hàn,
tiêu chảy kéo dài.
6/ ÔN
PHÁP: (
Làm ấm nóng )
Dùng các loại
thuốc ấm nóng để chữa các chứng hư hàn, quyết lảnh hồi
dương cứu nghịch. Trên lâm sàng thường dùng các vị thuốc
như: Nhân sâm,Phụ tử, Nhục quế, Sanh cương.
7/ TIÊU
PHÁP : ( Làm
cho tan )
Dùng để phá tan các
chứng ngưng trệ, ứ đọng do hiện tượng ứ huyết,. Ứ nước
do khí trệ gây ra. Trên lâm sàng thường dùng các cách như
:
- Tiêu đạo : Dùng Hương phụ, Sa nhân để chữa đầy
hơi, khí uất.
-Tiêu thũng : Dùng các vị như :Ý dỉ, Phục linh, Mã
đề, Mộc thông để lợi tiểu khi bị thuỷ thũng .
- Tiêu ứ : Dùng các vị thuốc như : Ðơn sâm, Hồng
hoa, Tô mộc, Ðào nhơn để trị các chứng ứ huyết.
- Tiêu tích : : Dùng
các vị thuốc như : Miết giáp, Tạo giác thích, để trị các chứng
ung nhọt, kết hạch.
Chống
chỉ định : Không nên dùng
trong trường hợp người có thai. Vì đây là phương pháp chữa
triệu chứng nên cần phối hợp với các vị thuốc chữa
nguyên nhân.
8/ BỔ PHÁP : ( Bồi dưỡng
cơ thể )
Dùng các vị thuốc chữa
các chứng bệnh do công năng hoạt động của cơ thể bị giảm
sút gọi là chính khí hư. Nhằm mục đích nâng cao thể trạng
và giúp cho cơ thể thắng được tác nhân gây bệnh.
Trên lâm sàng thường
sử dung 4 nhóm chính :
- Bổ Âm : Thường dùng thang Lục vị hoàn để chữa chứng
Thận âm hư.
- Bổ dương : Thường
dùng thang Bát vị hoàn để chữa chứng Thận dương hư.
- Bổ Khí : Thường
dùng thang Tứ quân để chữa hội chứng suy nhược toàn thân.
- Bổ huyết : Thường dùng thang Tứ vật để chữa
các chứng : Bần huyết, mất huyết.
Ngoài
bốn phương thức trên người ta còn dùng phép bổ trực tiếp
các tạng phủ như : Phế hư
bổ Phế, Tỳ hư bổ Tỳ hoặc Tâm hư bổ Tâm hoặc theo phương
thức bổ mẹ sinh con .
No comments:
Post a Comment