LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Monday, November 14, 2016

CHÂN KHÍ VẬN HÀNH PHÁP







CHÂN KHÍ VẬN HÀNH PHÁP
NGUYỄN  DUY CHÍNH
(Dựa theo phương pháp của Thiếu Ba)

Lời nói đầu
Sau khi đọc và tìm hiểu một số lớn sách vở về khí công, người viết nhận thấy đây là phương pháp giản dị và dễ tập nhất phù hợp với cổ thư Trung Hoa. Điểm đáng lưu ý và cũng khác với các sách dạy Khí Công thông thường là phương pháp này dựa trên căn bản “hậu thăng, tiền giáng”. Khi hít vào, chân khí chạy từ dưới lên trên theo mạch Đốc (từ đốt xương cùng theo xương sống chạy lên đầu) còn khi thở ra chân khí chạy theo mạch Nhâm (từ mặt chạy xuống Đan Điền ở phía trước mặt). Nguyên lý quan trọng này ngược lại với những sách dạy Khí Công không phân biệt khí trời và chân khí nên thường là hít vào thì phình bụng ra (thực ra không khí không thể nào đi xuống khỏi hoành cách mạc được), thở ra thì tóp bụng lại. Người tập chỉ cần nhớ là không khí (vào phổi) và chân khí chạy ngược chiều nhau, không khí vào ra không phải cùng theo chân khí (chân khí không ra ngoài chỉ chạy vòng quanh cơ thể). Tập sách này được viết dựa theo phương pháp của ông Lý Thiếu Ba do nhà xuất bản Cam Túc (Trung Hoa) ấn hành năm 1979.

CĂN NGUYÊN CỦA SINH MỆNH
Ngay từ nghìn xưa, người ta đã quan tâm đến việc phòng bệnh trị bệnh, cách sống sao cho phù hợp với thiên nhiên, và qui luật phát triển của trời đất.
Trong Hoàng Đế Nội Kinh, cuốn sách vẫn được coi là một loại kinh điển của Đông y, những thiên viết về Nhiếp Sinh, Âm Dương, Tạng Tượng, Kinh Mạch đều có đưa ra những phương pháp dưỡng sinh. Theo cổ nhân, khí được coi như sức mạnh tiềm tàng của trời, còn huyết là tinh hoa của đất để khí huyết được sung thịnh, con người phải biết cách hấp thu khí dương (của trời) bồi dưỡng khí âm (của đất).
Ngoài ra, theo những điều kiện chủ quan hoàn cảnh của mỗi người, cổ nhân cũng khuyên nên ăn uống chừng mực, làm việc, nghỉ ngơi điều  độ, tránh gió độc, tùy theo thời tiết giữ gìn, trị bệnh từ khi bệnh chưa phát (tiết ẩm thực, thích lao dật, tặc phong tị chi hữu thời, bất trị bệnh, trị vị bệnh –Tứ Thời Điều Thần Luận). Như thế, tựu trung con người cần phải chú trong đến cả hai mặt, thích ứng với ngoại cảnh để có thể sinh tồn, và tự mình làm cho cơ thể khỏe mạnh để đề kháng với bệnh tật. Đó là những vấn đề cần chú trọng trong đời sống hàng ngày.
Về phương diện chẩn đoán bệnh, người xưa lưu tâm đến sự liên quan giữa các quan hệ thống trong thể, sự ảnh hưởng hỗ tương giữa tinh thần vật chất, giữa ngoại vật nội tâm ngõ hầu có cái nhìn thống nhất giữa con người với vũ trụ. Con người còn phải tuân theo những qui tắc của âm dương, hợp với những nguyên lý của trời đất, đồng thời quan tâm đến bảy điều nên tránh, tám điều nên theo (thất tổn, bát ích) để thuận theo bốn mùa điều nhiếp thể. Khi đã hòa hợp được với tự nhiên, chúng ta mới đạt được tình trạng âm dương quân bình đầy đủ. Phép vận hành chân khí chính để đạt tới những mục đích đó.
Trước đây, khi đề cập đến tĩnh tọa dưỡng sinh, phần lớn các tác giả chỉ đề cập đến phép thở lấy bốn tiêu chuẩn sâu, nhẹ, đều dài (thâm, tế, quân, trường) để điều tức nhưng lại không phân biệt nội khí và ngoại khí. Có người lại cho rằng phép vận hành chân khí cũng tương tự như phép vận khí trong thuật. Thực tế, hai bên hai mục tiêu khác nhau và phép vận hành chân khí của đạo gia thuần túy chú trọng đến dưỡng sinh, nghĩa làm sao cho cơ thể khỏe mạnh và hợp thiên nhiên chứ không nhằm mục tiêu tăng gia thể lực, vốn được dùng để chiến đấu.
Theo Đông phương, chân khí là năng lượng cần thiết để thể thể hoạt động, động lực chủ yếu để đề kháng bệnh tật, bảo tồn sức khỏe giúp con người sinh tồn. Nói giản dị, chân khí sung túc thì thân thể khỏe mạnh, trái lại nếu không đầy đủ sẽ suy nhược, khi khô kiệt thì chết.
Theo sinh lý học hiện đại, tiềm lực uẩn tàng trong cơ thể chúng ta rất nhiều, nếu chúng ta biết cách điều động vận dụng, thân thể sẽ kiện khang thể sống tới 150 hay 200 tuổi. Nội Kinh, thiên Nhiếp sinh viết:
Theo đúng phép âm dương, điều hòa theo thuật số, ăn uống chừng mực, sinh sống đúng cách,  không
làm việc quá độ, cho nên hình và thần đều đầy đủ, sống đến già ngoài trăm tuổi mới chết.
Não bộ chúng ta có từ 100 đến 150 tỉ tế bào thần kinh (neuron), nhưng chỉ độ 10 tỉ hoạt động, còn 80-90% ở trong trạng thái đứng yên. Trên mỗi phân vuông vủa biểu bì chúng ta, cũng có chừng 2000 vi ti huyết quản và trong tình trạng bình thường, chỉ có khoảng 5 huyết quản có máu lưu thông thôi. Khi hoạt động thì cũng chỉ chừng 200 huyết quản máu chảy đến, 90% còn lại không hề sử dụng đến. Về phổi thì mặt tiếp xúc với không khí của các phế nang cả thảy chừng 130 m2 nhưng chúng ta chỉ sử dụng một phần nhỏ. Theo thời gian, những tế bào đó teo lại và vì thế khi chỉ vận động một chút chúng ta đã thở hổn hển vì thể không đủ dưỡng khí. Nếu biết phép vận hành chân khí, người ta chỉ cần thở hút vài lần là năng lượng trở lại sung vượng đã sử dụng một số lớn tế bào để làm việc.
Một trong những nguyên nhân chính của sự lão suy chúng ta đã bỏ phế một số lớn tiềm năng không sử dụng. Ngay từ năm 25 tuổi trở đi, thể đã bắt đầu lão hóa mỗi năm lại suy giảm một ít nhất là hệ thống huyết quản và thần kinh. Để làm chậm lại sự tiêu hao suy thoái, chúng ta phải tìm được phương thức phát huy các năng lực tiềm ẩn trong thể.
Cơ thể chúng ta là một tập hợp khoảng 75 triệu triệu (75 trillion) tế bào, kết cấu thành những quan khác nhau. Việc sinh trưởng, phát dục, suy lão, tử vong chẳng qua hiện tượng cộng hợp của những tế bào mà thành. Muốn thân thể khỏe mạnh thì ngay từ căn bản những tế bào trong thể chúng ta phải khỏe mạnh. Theo quan niệm của Đông phương, năng lực làm cho các đơn vị nhỏ đó sinh tồn hoạt động chính chân khí. Linh Khu Thích Tiết Chân Luận viết:
Chân khí do thụ bẩm từ trời, cùng với cốc khí (khí do ăn uống sinh ra) làm cho thể được sung mãn
Ý nói sức khỏe chúng ta bao gồm khí trời và đồ ăn được tiêu hóa để thành chất bổ nuôi cơ thể.

Theo lý thuyết Đông Y, chân khí lưu hành trong theo một lộ trình rõ rệt, đi khắp thân thể để đến tận mọi tế bào trên một mạng lưới bao gồm 12 kinh, 15 lạc và kỳ kinh bát mạch. Thai nhi còn trong bụng mẹ không trực tiếp hấp thụ được dưỡng khí thì chân khí do người mẹ truyền theo đường rốn, và khí tiên thiên của bào thai sẽ vận động, thúc đẩy để sinh hóa hình thành các bộ phận trong cơ thể.
Tiên thiên chân khí vận chuyển chính yếu trong hai mạch Nhâm và Đốc, được coi như hai lộ tuyến chính của con người, vận chuyển theo một vòng tròn đi từ sau lưng đi lên, vòng qua đầu, mặt trở xuống bụng rồi quay lại ra sau lưng (hậu thăng tiền giáng). Trong lộ trình ấy ba điểm quan trọng cổ nhân gọi Đan Điền (Thượng, Trung Hạ Đan Điền).
Sau khi ra đời, ngoại hấp thay thế khí tiên thiên để đưa chân khí đến mọi nơi trong thể. Chân khí tiên thiên không còn được nuôi dưỡng sẽ mất dần mòn nhưng khí hậu thiên ngày càng mạnh do ăn uống, sinh hoạt tinh thần vật chất. Do đó phép vận hành chân khí phương pháp làm gia tăng khí hậu thiên, bồi bổ khí tiên thiên và nhất sử dụng các nguồn chân khí của con người đạt mức tối đa để thân thể khỏe mạnh và làm chậm lại sự lão hóa.
CHÂN KHÍ LÀ GÌ?
Theo Đông y, tinh, tân, huyết, dịch (bốn thể lỏng trong con người bao gồm tinh khí, nước dãi, máu, và dịch trấp) cùng với thần và chân khí (thể vô hình) là cơ sở của sinh mệnh. Ba dạng đó được mệnh danh tinh, khí thần vẫn được cổ nhân coi nhân thân tam bảo”. Linh Khu Bản Tạng Thiên viết:
Khí, huyết, tinh, thần chạy quanh cơ thể để nuôi sống con người
Chính vì thế trong thuật dưỡng sinh, người xưa rất coi trọng việc làm thế nào để chủ động trong việc điều hòa ba loại căn bản của sinh mệnh. Tố Vấn Thượng Cổ Thiên Chân Luận viết con người phải biết hút khí trong lành và giữ cho thần được vững mạnh (hô hấp tinh khí, độc lập thủ thần) hay súc tích tinh khí, giữ thần cho đầy đủ (tích tinh toàn thần) để được khỏe mạnh sống lâu.
Tinh khí thần ba loại có tính năng khác nhau nhưng lại không thể tách rời. Tinh nơi trú của thần, tinh thần, nên súc tích tinh sẽ làm cho thần thêm toàn vẹn, nếu tinh kiệt thì thần không chỗ nương tựa. Phần lớn chúng ta nghĩ đến tinh tinh dịch nhưng thực tế tinh dịch chỉ một dạng vật chất của sinh lý con người, có cơ năng nhất định. Súc tinh không có nghĩa là giữ không để xuất tinh, mặc dầu phòng sự quá độ sẽ làm cho con người bị suy nhược. Tuy nhiên tinh khí trực tiếp liên hệ đến sức khỏe của người đàn ông nên thường thì cổ nhân khuyên không nên dâm dục, trác táng, việc chăn gối nên điều độ. Tinh là mẹ của khí, tinh thì không khí con người không sống nổi. Tinh thoát, khí hư, thất thần đều một dạng của suy kiệt toàn diện để đưa đến cái chết.
Vậy tinh gì?
Tinh bắt đầu từ khi sinh mệnh có, nghĩa gắn liền với khí tiên thiên, như một cái mầm trong một hạt từ đó tiến hóa để thành một thân cây. Ý niệm đó khá hồ nên tuy nhiều người đã cố gắng giải thích nhưng không mấy ai đưa ra được một câu trả lời thích đáng.
Linh Khu Bản Thần Thiên viết:
Từ khi sinh ra là có tinh, vạn vật muốn sống được đều do tinh làm đầu
Thần tức thần thái, tri giác chủ động và điều khiển mọi vận động của con người. Thần làm chủ các sinh hoạt, công năng phản ứng nội tạng hình thành từ tiên thiên khí, được hậu thiên khí bổ sung qua ăn uống, xuống chứa vào đan điền liên tục được bổ xung. Thành ra chân khí bao gồm cả tinh, khí thần nguyên động lực khiến cho ngũ tạng, lục phủ hoạt động. Chân khí cũng tái tục các chu trình sinh lý, nếu không tinh không tái sinh, thần sẽ suy kiệt đưa đến cái chết. Để hậu thiên chân khí được dễ dàng biến hóa, thân thể kiện khang, việc bồi dưỡng chân khí quan trọng hơn hết.
Do đó, ngày xưa người ta đưa ra quan niệm luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn ” chính nhằm mục đích kiện khang thân thể. Tuy về sau, một số đạo gia coi việc luyện tinh khí thần một phương tiện để đạt những cảnh giới siêu nhiên, hay trường sinh bất tử nhưng mục tiêu đó không phải mục tiêu đích thực của phép vận hành chân khí.
Căn nguyên của chân khí
Chân khí hai loại: tiên thiên hậu thiên. Tiên thiên chân khí do sinh mệnh có, do nguyên tinh (tinh nguyên thủy từ đầu) thành nên còn gọi nguyên khí. Trong đời sống con người, nguyên tinh không ngừng tiêu hao, nên luôn luôn cần bổ sung. Hậu thiên chân khí do mũi thở hút khí trời (dương tinh), và do miệng ăn uống thực phẩm (âm tinh) theo máu huyết lưu thông đến mọi tế bào, do phản ứng của các hóa chất biến dưỡng liệu thành nhiệt năng, nuôi sống cơ thể. Linh Khu Thích Tiết Chân Luận viết:
Chân khí do thụ bẩm từ trời, cùng với cốc khí làm cho thể được sung mãn
Hậu thiên chân khí bao gồm thiên khí do mũi hút khí trời (dưỡng khí) vào phổi rồi chu lưu trong thể, địa khí (hay cốc khí) do miệng đem đồ ăn vào dạ dày, tiêu hóa đưa chất bổ vào trong máu.
Công dụng của chân khí
Nội Kinh cho rằng chân khí (hay nguyên khí) là do tiên thiên nguyên tinh mà thành, phát nguyên từ thận, tàng trữ tại đan điền, theo đường tam tiêu đi khắp cơ thể, thúc đẩy các hoạt động của ngũ tạng, lục phủ và các cơ quan khác trong cơ thể. Chân khí tùy nơi mà có tên khác nhau, vì tại mỗi bộ phận có cơ năng khác nhau. Trương Cảnh Nhạc viết:
Khí ở mạch dương gọi là dương khí, khí  ở mạch âm gọi là âm khí, ở dạ dày gọi là vị khí, tại tì là tì khí, ở ngoài da gọi là vệ khí – khí bảo vệ cơ thể, bên trong nội tạng gọi là doanh khí – khí nuôi dưỡng cơ thể, tại thượng tiêu gọi là tông khí, tại trung tiêu gọi là trung khí, tại hạ tiêu gọi là nguyên âm nguyên dương khí. 7
Khi khí ở tại các kinh mạch thì gọi là kinh khí. Ly Hợp Chân Tà Luận trong Tố Vấn có viết:
Chân khí chính là khí chạy trong các kinh mạch
Như vậy chân khí có thể ở nhiều dạng khác nhau, nhiều tên khác nhau. Doanh khí chạy theo các mạch máu, nuôi lục phủ ngũ tạng, nếu chảy ra được ngoài da ắt sẽ làm cho da dẻ tươi tốt, hồng hào. Linh Khu Tà Khách Thiên viết:
Doanh khí đi theo tân dịch đi vào các mạch để làm thành máu huyết, làm tươi nhuận tứ chi rồi lại quay về nằm trong tạng phủ
Vệ khí là dương khí, chưng đốt nơi hoang mạc (phần nằm giữa tim phổi và hoành cách mạc) rồi tản vào trong các bộ phận của cơ thể làm cho thân thể ấm áp. Khi chạy ra ngoài, vệ khí theo các bắp thịt làm cho nhiệt độ cơ thể điều hòa. Linh Khu Bản Tạng Thiên viết:
Vệ khí làm cho cơ thể ấm áp, làm cho da dẻ sung mãn, đóng mở -- theo thời tiết. Vệ khí hòa  thì da dẻ tươi tốt, mềm mại, các lỗ chân lông dày 
Do đó chúng ta thấy rằng vệ khí không những có nhiệm vụ điều hòa nhiệt độ cơ thể mà còn có nhiệm vụ bảo vệ, chống lại những xâm nhập từ bên
ngoài. Theo y khoa hiện đại, vệ khí chính là chân khí chủ động các hạch nội tiết, giữ nhiệm vụ duy trì sự quân bằng trong cơ thể.
Tông khí tích tụ trong ngực, một tổng hợp của doanh khí và vệ khí, bao gồm kết quả của cả biến dưỡng đồ ăn lẫn hấp dưỡng khí mà thành. Tông khí chỉ huy hô hấp, làm nền tảng cho thanh âm, hút thở. thế người nào tông khí sung túc, tiếng nói mạnh mẽ, vang vọng. Còn nếu tông khí yếu, tiếng nói thều thào, hơi thở dồn dập, đứt quãng. Nhiệm vụ thứ hai của tông khí là chỉ huy tâm tạng để dẫn máu nuôi cơ thể, khí huyết vận hành đến đâu, cơ thể cảm thấy nóng hay lạnh đều liên quan đến tông khí.
Trong suốt cuộc đời, từ khi còn một thai nhi đến khi già chết, con người đều phải nhờ vào chân khí để sinh sống hoạt động. Nếu chúng ta luôn luôn giữ cho chân khí sung túc, thân thể sẽ kiện khang, tinh thần thoải mái. Nếu chân khí tiêu hao mà không được bổ sung, con người sẽ dần dần suy kiệt và nếu hoàn toàn tiêu kiệt, sẽ chết. Chân khí vốn hình, nên một thể khỏe mạnh không phải do việc gầy béo bên ngoài chính do nội khí bên trong. Nhiều người to béo nhưng lại dễ bị bệnh tật, hay yếu đau, kém chịu đựng trong khi nhiều người thân thể gầy nhỏ nhưng lại dẻo dai, mạnh mẽ, bị bệnh cũng mau khỏi. Chính vì thế, việc quan sát thần khí để định sức khỏe là một điều quan trọng. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập qua đến phép biện khí sắc, luận tinh thần để giúp độc giả hiểu thêm về phương pháp chẩn đoán thôi.
Sự phân bố tuần hành của chân khí
Chân khí trong cơ thể cũng không khác những nguyên tử trong bầu khí quyển, ở khắp mọi nơi, luôn luôn di động. Tuy nhiên, vì chân khí động lực vô hình nên việc đo lường rất khó khăn. Tuy nhiên, đó căn bản của đời sống nên nếu quan nào không được nuôi dưỡng đầy đủ, cơ quan đó sẽ dần dần suy yếu đưa đến phế thải.
Chân khí chu lưu theo một lộ tuyến nhất định theo nhịp hấp, thành một vòng tròn người ta mệnh danh là tiểu tuần hoàn và đại tuần hoàn (hay tiểu chu thiên và đại chu thiên). Chỉ có nắm vũng đường đi và nhịp điệu của vòng chân khí chúng ta mới khỏi rơi vào những sai lầm mà nhiều sách vở mắc phải khi cho rằng chân khí cũng đồng nghĩa với không khí nên mệnh danh dồn khí xuống đan điền đồng nghĩa với nín hơi, dồn xuống bụng cho phình ra. Thực ra nếu suy nghĩ một cách thấu đáo, không khí không thể nào đưa xuống bụng được chỉ nằm trong phổi. Nếu cố gắng hút hơi, hoành cách mạc dồn xuống, không khí sẽ đi tới được những phế nang phần dưới của phổi và đó là ưu điểm duy nhất của phép thở bụng. Thành ra phép thở người ta thường mệnh danh thâm hấp hay phúc tức chỉ thuần túy gia tăng cường lực của việc hút thở không khí mà thôi, không liên quan đến vận hành chân khí, nếu không nói rằng đi nghịch lại với thuyết về chu lưu của tiểu chu thiên.
Khi thở ra, chân khí theo Nhâm Mạch chạy xuống đan điền, khi hút vào, chân khí theo xung mạch chạy lên để thành thế tâm thận tương giao, thủy hỏa tế. (lửa nước giúp đỡ lẫn nhau, tâm và thận giao thông với nhau) là câu mà chúng ta thường đọc thấy trong truyện kiếm hiệp. Một thời gian sau khi tập phép vận hành chân khí, hai mạch Nhâm và Đốc nối liền với nhau (đả thông Nhâm Đốc nhị mạch), khi hút vào khí sẽ theo đốc mạch chạy từ hậu môn dẫn lên lưng, cổ đầu.
Theo Đông phương, mạch đằng trước cơ thể chúng ta là mạch Nhâm là mạch chủ yếu cho các kinh âm, chạy từ môi trên xuống ngực, bụng cho tới hậu môn. Mạch sau lưng là mạch Đốc, đi từ hậu môn chạy theo xương sống qua cổ, lên trên đầu, đi vòng xuống trán, mũi ngừng lại môi trên. Mạch Đốc là mạch chủ các kinh dương. Theo đạo gia, hai kinh Nhâm Đốc là hai nửa vòng tròn hai điểm tiếp giáp tại hai đầu. Thành ra khi luyện khí, người ta phải nối lại cho hai chỗ đứt đó thể giao tiếp với nhau. Trên đầu người ta ngậm miệng, dùng lưỡi đưa lên hàm ếch gọi là Thượng Thước Kiều (cầu chim quạ, theo tích Ngưu Lang-Chức Nữ) và dưới huyệt hội âm nơi hậu môn, người ta nhíu lại khi hút vào để nối Hạ Thước Kiều. Đó nguyên do tại sao khi tập khí công người ta thường đòi hỏi phải nâng lưỡi lên hàm ếch nhíu hậu môn.
Sau khi đã quen với vòng tiểu chu thiên, thường thì người ta tiến thêm một bước để vận chân khí chạy theo vòng đại chu thiên. Khi thở ra, chân khí từ đầu chạy xuống đan điền đồng thời từ ngực cũng chảy vào ba mạch âm tay (thủ tam âm kinh). Khi thở ra, chân khí cũng từ mạch Nhâm chảy xuống ba mạch dương chân (túc tam dương kinh). Khi hút vào, chân khí chạy từ bụng lên đầu theo mạch Đốc, đồng thời từ ba kinh dương ở tay (thủ tam dương kinh) chân khí chảy vào đầu. Trong  khi đó, chân khí theo ba kinh âm ở chân (túc tam âm kinh) từ chân chảy lên bụng. Vòng lớn này người ta gọi đại chu thiên.
Thời gian và Vận hành
Chân khí vận chuyển không lúc nào ngừng nghỉ trong thân thể chúng ta, từ ngũ tạng lục phủ ra khắp tứ chi, xương cốt. Tuy nhiên, lưu chuyển của chân khí cũng có tiết điệu theo sự tuần hoàn của kinh
Dậu: chảy vào Túc thiếu âm Thận kinh - Tuất: chảy vào Thủ quyết âm Bao tâm kinh - Hợi:  chảy  vào  Thủ  thiếu  dương  Tam tiêu - Tí: chảy vào Túc thiếu dương Đảm kinh - Sửu: chảy vào Túc quyết âm Can kinh - Trở lại giờ Dần, Phế kinh lại bắt đầu và  cứ trời đất, ngày đêm, mỗi giờ (giờ Trung Hoa, bằng hai giờ của phương Tây) có một khu vực mạnh hơn những khu vực khác theo thứ tự sau đây:
Dần: bắt đầu từ Thủ thái âm Phế  kinh - Mão: chảy vào Thủ Dương Minh Đại trường kinh - Thìn: chảy vào Túc dương minh Vị kinh Tỵ: chảy vào Túc Thái âm Tì kinh Ngọ: chảy vào Thủ thiếu âm Tâm kinh - Mùi: chảy vào Thủ Thái Dương Tiểu trường kinh - Thân: chảy vào Túc thái dương  Bàng quang kinh

Sự vận hành của chân khí và vũ trụ có liên quan mật thiết từng giây từng phút, không sai lạc. Vì thế chỉ khi nào sống thuận theo lẽ tự nhiên, chúng ta mới thể mạnh khỏe hạnh phúc. Quan niệm túc hưng, dạ mị (ngày thức đêm ngủ) tuy giản dị như thế nhưng rất nhiều người trong chúng ta không theo được, hoặc vì công ăn việc làm khiến chúng ta phải thay đổi giờ giấc sinh hoạt, hoặc vì thói quen nên nhiều người thích thức khuya và ngủ bù vào ban ngày. Dù chưa có những hậu quả trực tiếp, trong trường kỳ sinh hoạt trái tự nhiên đó sẽ gây ra những hiệu quả nghiêm trọng.
Chỉ có sống hợp với thiên nhiên, khí âm dương trong thể chúng ta mới được tái phục hồi, bổ xung đúng mức. Ngày thuộc dương nên việc thức giấc, sinh hoạt chính yếu. Đêm thuộc âm nên nghỉ ngơi, an dưỡng để bồi bổ những mất mát ban ngày. Nếu không theo được qui luật ấy, chúng ta phải biết khai thác những giờ phút ngắn ngủi để điều tức, vận chân khí ngõ hầu khôi phục được phần nào sức khỏe.
Theo chu trình lưu chuyển chân khí, nhiều y gia có thể chẩn đoán bệnh. Chẳng hạn như chứng minh tả”, cứ sáng sớm phải dậy đi bài tiết, một chứng bệnh thuộc thận khí bất túc nên mệnh môn hỏa suy, không thể chưng đốt các đồ ăn. Nhưng tại sao lại bài tiết vào buổi sớm? Vì phế mẫu tạng của thận (phế thuộc kim, thận thuộc thủy, theo ngũ hành kim sinh thủy), thận thương tổn lâu năm phế bị ảnh hưởng. Theo nguyên tắc vận hành của chân khí, thời gian từ 3-5 giờ sáng là giờ dần, mão từ 5-7 giờ. Dần thuộc phổi, mão thuộc ruột già nên những giờ phú đó hai quan phổi ruột hoạt động mạnh phế đại trường một biểu, một lý.

SỰ VẬN HÀNH CỦA CHÂN KHÍ CÁC  KINH LẠC
Học thuyết về kinh lạc căn bản của Đông Y, là một hệ thống mà người ta cho rằng đường đi của chân khí chẳng khác hệ thống xa lộ trên nước Mỹ này. KINH các đường chính, LẠC phân chi liên hệ giữa các kinh với nhau. Dưới nữa các đường nhỏ hơn gọi TÔN LẠC, một mạng lưới hết sức chặt chẽ trên toàn cơ thể, chuyển chân khí cho từng quan, tùy nhiệm vụ. thế kinh lạc chính hệ thống liên lạc, vừa giao thông, vừa truyền đạt lẫn nhau của chân khí.
Nghiên cứu về kinh lạc đề tài phức tạp nhất cũng quan trọng nhất trong Đông y, đây cũng chính là sở đắc độc đáo mà hệ thống y khoa Trung Hoa đã hình thành được. Trong hơn một nửa thế kỷ nay, nhiều học giả, khoa học gia đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu để cốt đưa ra những trả lời thỏa đáng cho vấn đề này nhưng kết quả cũng chưa được mỹ mãn. người cho rằng đó chỉ hệ thần kinh cấp cao, lẫn vào với huyết quản. Thế nhưng không ai đã giải đáp được các tác dụng trọng yếucủa hệ thống kinh mạch mà chỉ có những hành giả (người thực tập vận hành chân khí) mới có thể ý thức được về đường đi và cơ năng mà người ngoài cảm thấy hồ hay khó hiểu. Những kết quả đó lại khó thể đo lường bằng máy móc (hoặc chưa đo lường được) nên lại càng khó kiểm chứng.
cấu
Kinh lạc theo Nội Kinh là một tập hợp các đường lớn nhỏ đóng một trong những vai trò chủ yếu của thể. Trong con người chúng ta nhiều hệ thống khác nhau, mỗi hệ thống những tổ chức riêng rẽ nhưng tất cả đều liên quan mật thiết lẫn nhau chẳng hạn như hệ thống bắp thịt, hệ thống gân cốt, huyết quản Các quan sở vận hành một cách nhịp nhàng chính là do sự vận chuyển không ngừng của các đường chân khí, vừa bồi dưỡng, vừa chỉ huy, vừa liên hệ với nhau. Trên mỗi đường chân khí có những điểm hội tụ, nhưng những điểm đó lại không giống nhau về cường độ, về nhiệm vụ gọi huyệt đạo. thế tùy từng huyệt, người ta phải dùng nhiều cách để hỗ trợ hay khai thông, có khi phải dùng kim, có khi dùng ngải cứu, hay xoa bóp để khôi phục hoạt động của những đường kinh này.
Mỗi quan, mỗi bộ phận khi được châm hay kích thích lại có những phản ứng, và cơ thể cũng phát sinh những hiện tượng khác nhau như sưng, ngứa, đau tùy tr ường hợp. Thường thường, khi nào châm sai chỗ, châm nhằm gân thì bắp thịt sưng lên, nếu nhằm hệ thần kinh thì hay bị ngứa, còn nếu thấy đau thì trúng nhằm những hệ giao cảm.
 Danh xưng
Kinh là tên gọi của 12 đường trực hành, lên hệ trực tiếp đến tạng phủ.
Thủ thái âm PHẾ kinh, thủ quyết âm TÂM BAO kinh thủ thiếu âm TÂM kinh là ba đường kinh ÂM nằm bên trong cánh tay, gọi THỦ TAM ÂM thuộc (bên trong) dẫn chân khí từ ngực chạy vào tay.
Thủ dương minh ĐẠI TRƯỜNG kinh, thủ thiếu dương TAM TIÊU kinh, thủ thái dương TIỂU TRƯỜNG kinh nằm mặt ngoài cánh tay gọi là THỦ TAM DƯƠNG, thuộc biểu (bên ngoài) từ tay chạy lên đầu.
Túc dương minh VỊ kinh, túc thiếu dương ĐẢM kinh, túc thái dương BÀNG QUANG kinh ở bên ngoài và đằng sau đùi, gọi là TÚC TAM DƯƠNG, thuộc biểu chạy từ đầu xuống chân.
Túc thái âm kinh, túc quyết âm CAN kinh, túc thiếu âm THẬN kinh nằm ở mặt trong đùi, gọi TÚC TAM ÂM, thuộc từ chân chạy lên bụng.
Đó mười hai đường kinh lớn nên gọi chính kinh.
Ngoài ra còn tám đường kỳ kinh gọi là bát mạch, nơi mười hai đường chính kinh đổ chân khí vào. Tám đường mạch này là ĐỐC, NHÂM, XUNG, ĐỚI, ÂM DUY, DƯƠNG DUY, ÂM KIỀU, DƯƠNG KIỀU. Nếu 12 chính kinh như sông ngòi, thì tám mạch mày như đầm ao. Chân khí trong chính kinh thịnh hay suy cũng do tám mạch đó điều hòa hay không. Sự quân bình chân khí trong cơ thể là do tám mạch này, và hai mạch nhâm đốc quan trọng hơn cả.
Nhâm mạch thuộc âm, cai quản các kinh âm, nằm trước ngực bụng. Đốc mạch thuộc dương, cai quản các kinh dương nằm sau lưng. Khi tập luyện vận hành chân khí, khi đã đẫn được chân khí lưu thông trong hai mạch này – mà sách vở và các tiểu thuyết kiếm hiệp vẫn thường đề cập đến gọi là đả thông nhâm đốc nhị mạch thì lần lược các kinh mạch còn lại cũng từ từ được thông suốt. Như trên đã đề cập, trên hệ thống kinh mạch còn những điểm chủ yếu gọi huyệt.
Lạc có mười lăm đường, chạy lẫn trong các kinh âm dương, các hệ nối lẫn 12 kinh với nhau. Những lạc nhỏ gọi tôn lạc, phù lạc chạy khắp thân thể. Sau đây khái lược về vị trí đường đi của mỗi kinh:
Thủ thái âm phế kinh bắt đầu trung tiêu, đi vòng xuống ruột già rồi chạy lên ngực, yết hầu đi ra cánh tay chấm dứt đầu ngón tay cái.
Thủ dương minh đại trường kinh bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ chạy lên vai rồi chia thành hai nhánh, một nhánh xuống ruột già, một nhánh lên đầu chấm dứt cạnh mũi.
Túc dương minh vị kinh bắt đầu từ cạnh mũi, một đằng chạy lên đầu, một đằng chạy xuống ngực, bụng, đùi chân rồi chấm dứt ngón chân cái.
Túc thái âm kinh từ ngón chân cái chạy lên bụng, chia thành hai nhánh, một nhánh chạy lên vai, qua cổ tới lưỡi. Nhánh thứ hai chạy từ dạ dày lên qua hoành cách mạc chấm dứt tim.
Thủ thiếu âm tâm kinh bắt đầu từ tim chia ra ba nhánh, một nhánh qua hoành cách mạc xuống ruột non, một nhánh theo thực quản lên mắt, một nhánh đi qua phổi, sang tay tới ngón tay út.
Thủ thái dương tiểu trường kinh bắt đầu từ ngoài ngón tay út chạy theo tay lên vai gặp đốc mạch huyệt đại truy chi thành hai nhánh, một nhánh đi xuống ruột non, một nhánh chạy lên mặt đi vào tai.
Túc thái dương bàng quang kinh bắt đầu từ mi tâm chạy lên đỉnh đầu rồi vòng xuống cổ đi cạnh đường xương sống chia thành hai nhánh chạy xuống chân kết thúc cạnh bàn chân.
Túc thiếu âm thận kinh bắt đầu từ ngón chân út chạy theo chân qua gót chân rồi lên đùi chia thành hai nhánh một nhánh chạy lên phổi, một nhánh chạy lên lưỡi.
Thủ quyết âm bao tâm kinh bắt đầu từ ngực nối liền tam tiêu rồi chạy ra cánh tay tới ngón tay giữa.
Thủ thiếu dương tam tiêu kinh khởi đầu từ ngón tay đeo nhẫn chạy theo tay lên vai chia thành hai nhánh một nhánh nối liền tam tiêu, một nhánh chạy lên cổ vòng qua tai rồi ngừng lại tại mắt.
Túc thiếu dương đảm kinh bắt đầu từ mang tai chạy vòng vèo trên mặt đi xuống qua bụng tới chân ngừng lại ngón chân út.
Túc quyết âm can kinh bắt đầu từ ngón chân cái chạy lên theo chân lên bụng đến ngực rồi quay lại bụng. Một nhánh chạy lên cổ đến mắt, vòng qua đầu để gặp đốc mạch .
Tám mạch (bát mạch) bao gồm:
Đốc mạch sau lưng, quản trị các kinh dương bắt đầu từ bộ phận sinh dục chạy theo xương sống lên đỉnh đầu rồi vòng xuống tới nhân trung.
Nhâm mạch phía trước, chịu trách nhiệm các kinh âm đi từ môi xuống ngực bụng rồi tới bộ phận sinh dục.
Xung mạch còn gọi huyết hải kiểm soát khí huyết toàn thể đưa đến mười hai chính kinh, bắt đầu từ bộ phận sinh dục chia làm ba nhánh một nhánh chạy lên đầu, một nhánh chạy theo xương sống một nhánh xuống tới bàn chân.
Đới mạch chạy vòng quanh bụng như thắt lưng nối liền các kinh âm dương.
Âm kiều mạch bắt đầu từ gót chân chạy lên chân bụng ngực tới miệng.
Dương kiều mạch bắt đầu từ gót chân chạy lên theo phía sau vòng qua trước mặt rồi ngừng lại sau ót.
Âm duy mạch từ bắp chân chạy lên qua bụng ngừng lại cổ.
Dương duy mạch từ gót chân lên theo chân qua người vòng qua đỉnh đầu ra trước mặt.
Công dụng
Phép vận hành chân khí phải theo một trình tự nhất định để đưa chân khí đến khắp các kinh mạch, tạng phủ, đem sinh lực cho mọi quan trong cơ thể. Sinh lực đầy đủ tự nhiên thân thể sẽ khỏe mạnh, ít ốm đau. Linh Khu Kinh Mạch Thiên viết:
Kinh mạch quyết định việc sống chết, liên quan đến mọi loại bệnh tật, làm thành các chứng thực và hư, không thể không thông
Đình trong Y Học Nhập Môn cũng viết:
Nghề thuốc mà không biết kinh mạch thì chẳng khác đi đêm không đèn đuốc
Các y gia Trung Hoa từ xưa đến nay, trong việc chẩn đoán bệnh, bào chế dược phẩm, xoa bóp, châm cứu đều phải dựa vào thuyết về kinh lạc để suy luận giải. thể nói rằng thuyết về kinh lạc sở chính yếu của Trung Y vận hành chân khí chính là hình thức thực nghiệm học thuyết này. Chân khí là điện năng còn kinh lạc những đường dây dẫn điện đến từng nhà, hai bên liên hệ mật thiết với nhau. Nếu chúng ta không am tường kinh lạc, việc điều vận chân khí trở nên hồ do đó kết quả cũng không ràng.

ĐỘNG LỰC VẬN HÀNH CHÂN  KHÍ
Chân khí tuy không phải nhờ động lực của hấp nhưng lại liên quan rất tiết điệu với việc hút thở khí trời. Hành giả tập phép vận hành chân khí phải sử dụng hấp như một lực dẫn để theo dõi thúc đẩy chân khí lưu chuyển, giữ cho cơ thể được nhịp nhàng. Điều chỉnh hấp cũng còn một phương tiện để thư dãn và làm chủ cơ thể ngõ hầu theo dõi tập trung được sức mạnh tinh thần.
Khi đề cập đến phép thở, nhiều sách vở về khí công và yoga đã đưa ra những phép thở khác nhau, mỗi phép có công hiệu riêng, có mục đích riêng. Tuy nhiên vì có quá nhiều cách, lắm khi lại trái tự nhiên, khiến nhiều người hoang mang e ngại, nhất lại thêm một câu cảnh cáo nếu không minh chỉ dạy thể tẩu hỏa nhập ma. Thực ra, những người thường như chúng ta chỉ coi việc vận hành chân khí như một phương pháp thể dục nhẹ, nếu không mong đạt đến moạt cảnh giới siêu phàm mà chỉ cầu khỏe mạnh thì phép thở cũng thật giản dị dễ dàng.
Sinh lý vận hành hô hấp
hấp sự co dãn của lồng ngực, lên xuống của hoành cách mạc làm cho phổi nở ra co vào đem khí trời vào nuôi dưỡng các tế bào trong thể. Hô hấp một hoạt động không thể thiếu của con người. Người bình thường chúng ta mỗi phút thở ra hút vào trung bình 18 lần. Có hai loại hô hấp: nội hấp ngoại hấp.
Nội hô hấp là hoạt động của chân khí, là sự tiếp thu dưỡng khí, các chất bổ đưa đến từng tế bào biến chuyển các dạng năng lượng. Thai nhi còn trong bụng mẹ không thể tự mình thở hút khí trời hay ăn uống nên mọi chất cần thiết đều do người mẹ truyền cho qua cuống rốn nhau (thai bàn). Tiến trình biến chuyển hấp thu đó cổ nhân gọi “thai tức” (lối thở của bào thai) là hình thức rõ rệt nhất của nội hấp.
Khi luyện phép vận hành chân khí, cứu cánh đạt đến làm sao cho việc ngoại hấp (thở bằng mũi) trở nên hết sức nhẹ nhàng, như như không, tưởng như ngoại hô hấp đã ngưng lại chỉ để nội hấp làm việc. Khi đó hành giả cảm thấy đan diền đóng mở, hơi ấm chảy vào hai mạch nhâm đốc, toàn thân ấm áp như gió xuân thổi đến làm cho trăm hoa đua nở. Trình độ đó cũng không khác thai nhi còn trong bụng mẹ, chỉ thuần nhờ vào nội hô hấp, tâm hồn thư thái, yên tĩnh nên còn gọi là “thai tức pháp”.
Ngoại hấp phép thở chúng ta dùng để hút thở khí trời hàng ngày chỉ xuất hiện sau khi ra khỏi bụng mẹ. Người tập chân khí làm thế nào để hai tiến trình ngoại hấp nội hấp ăn khớp với nhau, tiết điệu để việc dẫn chân khí đến các cơ quan được đều đặn, làm đúng với cơ năng, toàn diện. Nội Kinh Tạng Tượng Thiên viết:
Phổi là cơ quan dùng để truyền dẫn tiết điệu của cơ thể
Ảnh hưởng của sự vận động chân khí và  
hấp
hấp một vận động tự nhiên tính chất máy móc. Khi hút vào, ngực nở ra, hoành cách mạc đè xuống, bụng thóp vào tạo áp lực đè xuống bụng dưới. Sự thu dãn của ngực bụng làm cho chân khí khởi động. Túc tam âm kinh theo sự hút không khí vào dẫn chân khí từ dưới đi lên. Thận kinh chân khí, khi chúng ta hút vào, di theo túc thiếu âm kinh chạy lên bụng, vào đan điền nhập với xung mạch, theo rốn chạy lên ngực, chảy vào tâm bao kinh giao với tâm khí. Hiện tượng này sách vở gọi "thận thủy thượng triều dĩ tế tâm hỏa" (nước từ thận  chảy ngược lên dập tắt lửa của tim). Cũng khi đó, can kinh chân khí chạy lên chảy vào phế kinh, kinh chân khí chảy ngược lên tâm kinh nên được gọi can chi khí nghi thăng (khí khí can chạy lên). Trong khi hút vào, chân khí từ thủ tam dương kinh chạy lên đầu, mặt, tiếp với khí từ túc tam dương nên cũng gọi tam dương vinh ư diện (khí tam dương làm cho mặt được tươi tốt).
Khi thở ra, lồng ngực hóp vào, hoành cách mạc nâng lên, ngực thu nhỏ nhưng bụng to ra, chân khí trong lồng ngực bị áp lực theo nhâm mạch chạy xuống đan điền nên được gọi tâm thận tương giao dĩ bổ mệnh hỏa”. Đây là một phần rất quan trọng trong phép vận hành chân khí. Cũng khi đó, chân khí theo thủ tam âm kinh chạy từ ngực xuống các đầu ngón tay, nối tiếp với thủ tam dương kinh, chân khí từ túc tam dương kinh từ đầu chạy xuống chân, tiếp với túc tam âm kinh. Chu trình này gọi đại tuần hoàn của kinh khí.
Tập luyện vận hành chân khí khi đã đả thông được đốc mạch, lúc thở ra chân khí theo nhâm mạch chạy xuống đan điền, khi hút vào chân khí theo đốc mạch chạy lên huyệt bách hội, gọi tiểu tuần hoàn. Chung qui, vận hành chân khí không ngoài mục tiêu đả thông hai mạch nhâm đốc. Tuy nhiên, chính vì hô hấp là động lực vận chuyển chân khí nên tập luyện chân khí chính để điều chỉnh dẫn chân khí chạy đến các đầu ngón tay. Dẫu hấp một hiện tượng tự nhiên của con người, nhưng sau khi sinh ra, sinh hoạt hàng ngày đã khiến cho chúng ta mất đi cái bản tính nguyên thủy, làm sai lạc các hoạt động tiên thiên, mất tiết điệu sẵn có, làm cho chân khí không còn đầy đủ, kinh lạc không còn thông suốt, chưa già đã suy, trong người mang số bệnh tật. Phương pháp điều tức chính cách hay nhất để bồi bổ lại chân khí đã hao hụt, đả thông các kinh mạch bị tắc nghẽn, khôi phục các năng tiên thiên.
Điều chỉnh bồi dưỡng chân khí chủ yếu làm sao đưa được khí trở về đan điền. Mỗi khi thở ra, chúng ta phải điều động chân khí chạy theo nhâm mạch quay trở về đan điền là để cho khí đi đúng hướng. Vấn đề điều tức thế quan trọng nhất là khi thở ra, mỗi lần thở ra chân khí lại vào đan điền thêm một chút. Thở ra cũng là cách để tống không khí đã trong phổi ra ngoài để chuẩn bị thay bằng khí mới, cho nên điều tức cũng là vận chuyển chân khí.
Cũng nên nói thêm, nhiều người chủ trương thở sâu (thâm hô hấp), cho là muốn cho khí trầm đan điền cần cố gắng hút vào thật nhiều, giữ hơi cho thật lâu. Thực tế như thế đi ngược với năng sinh lý bình thường của con người, và cũng mang ảo tưởng chân khí chính không khí. Khi hút vào, không khí chỉ vào đến lồng ngực chứ không chạy xuống được dưới bụng, nếu bụng phình ra hoành cách mạc bị ép xuống. Những ai tập theo phương pháp này sẽ bị hiện tượng gọi trệ khí. Áp lực càng mạnh thì phản áp lực càng nhiều, đến một lúc nào đó, chân khí sẽ thượng xung gây ra hoa mắt, nhức đầu thể gây ra bệnh cao áp huyết. Phương pháp nhịn hơi chỉ có tác dụng vào các bắp thịt bụng ngực, nhưng không ảnh hưởng đến việc điều dẫn chân khí, chắc chắn không thể nào đả thông được hai mạch nhâm đốc.


ĐAN ĐIỀN
thể nói trong phương pháp tập luyện chân khí, tất cả các dưỡng sinh gia đều quan tâm đến một bộ phận tên đan điền. Đây một vị trí thần không những người tập võ hết sức coi trọng mà cả đến người tập nói, tập hát cũng phải giữ cho đan điền được sung mãn ngõ hầu không mệt, không đứt hơi.
Tuy nhiên, quan niệm về huyệt này không đồng nhất, mỗi môn phái một khác. Nhiều người còn giữ mật, không truyền ra ngoài. Cho đến nay người ta cho rằng đan điền không phải một huyệt ba khu vực trọng yếu trên thể, gồm thượng đan điền ở trên đầu, trung đan điền ở ngực và hạ đan điền bụng dưới. Thượng đan điền vị trí quan yếu nhất không những đối với sinh mệnh đối với người luyện tiên đan và vi trí của nó ngày nay nhiều học giả xác định là tại não thất thứ ba, chiếu điểm của hai huyệt bách hội (từ đỉnh đầu đâm xuống) mi tâm (từ giữa hai lông mày đâm vào). Có lẽ vì thế mà các tôn giáo đều coi là những bậc tiên thánh vòng hào quang tại trên đầu, lấy tâm điểm thượng đan điền. Trung đan điền nằm tại tâm oa, nhưng cũng có thuyết nói là ở gần rốn. Hạ đan điền ở dưới rốn chừng ba phân (tuy nhiên khoảng cách này mỗi nơi nói một khác, chỗ viết là 1 tấc rưỡi, có chỗ lại nói ở ngay huyệt hội âm). Những vị trí của đan điền nhiều điểm tương đồng với những luân xa (chakras) mà những người tập yoga thường dùng để tập trung tưởng, thượng đan điền tương ứng với ajna, trung đan điền tương ứng với anahata còn hạ đan điền có lẽ là muladhara. Một cách tổng quát, ba vị trí này là ba vị trí quan yếu của thể, những nơi chân khí hội tụ lưu động.
Theo Trung Quốc Y Học Đại Từ Điển thì đan điền tinh thất của con trai, bào cung của con gái, là nơi tu luyện nội đan, ở dưới rốn ba tấc”. Theo định nghĩa thông thường nhất, đan điền ngay giữa bụng dưới, khoảng ba tấc dưới rốn. Theo nguyên nghĩa, điền ruộng, đan là viên thuốc, tinh chất của dược liệu, có công dụng cường thần trị bệnh. Chân khí lưu chuyển trong thân thể chúng ta làm cho khỏe mạnh, gia tăng tuổi thọ nên được gọi đan. Đan diền nơi tập trung chân khí nên đặt tên như vậy.


Đan điền nguyên động lực của đời sống, một bộ vị cực kỳ trọng yếu, khởi điểm của nhâm, đốc xung mạch, nơi hội tụ của mọi kinh mạch trong con người. Người ta tin rằng đan điền cũng như một cánh cửa, mở ra khi khí, đóng lại khi không có khí, đóng vai trò của một biển cả để tích tụ chân khí nên còn gọi là biển khí (khí hải nhưng không phải huyệt khí hải cũng gần nơi đó).
Về phương diện sinh lý, đan điền là nơi tàng tinh của nam giới, nơi thụ thai của nữ giới, nhờ đó mà sinh trưởng, phát dục nên còn gọi là sinh môn hay mệnh môn. Sau khi đan điền sung mãn chân khí, nên từ eo trở lên trở nên có sức lực, Nạn Kinh gọi sức này là thận gian động khí. Tron phép vận hành chân khí, khi thở ra, chân khí chạy xuống đan điền, nên giai đoạn này phải tập trung ý chí vào đan điền thủ đan điền) chờ hội tiến thêm bước kế tiếp là đưa chân khí khai thông mạch đốc (tích khí xung quan). Đây giai đoạn chủ yếu trong việc tăng cường bảo vệ sức khỏe.  

--- CÒN TIẾP ---

No comments:

Post a Comment