CHÂN KHÍ VẬN HÀNH PHÁP
NGUYỄN DUY CHÍNH
(Dựa theo phương
pháp của Lý Thiếu Ba)
Lời nói đầu
Sau khi đọc và tìm hiểu một số lớn
sách vở về khí công, người viết nhận thấy đây là phương pháp giản dị và dễ tập
nhất phù hợp với cổ thư Trung Hoa. Điểm đáng lưu ý và cũng khác với các sách
dạy Khí Công thông thường là phương pháp này dựa trên căn bản “hậu thăng, tiền
giáng”. Khi hít vào, chân khí chạy từ dưới lên trên theo mạch Đốc (từ đốt xương
cùng theo xương sống chạy lên đầu) còn khi thở ra chân khí chạy theo mạch Nhâm
(từ mặt chạy xuống Đan Điền ở phía trước mặt). Nguyên lý quan trọng này ngược
lại với những sách dạy Khí Công không phân biệt khí trời và chân khí nên thường
là hít vào thì phình bụng ra (thực ra không khí không thể nào đi xuống khỏi
hoành cách mạc được), thở ra thì tóp bụng lại. Người tập chỉ cần nhớ là không
khí (vào phổi) và chân khí chạy ngược chiều nhau, không khí vào ra không phải
cùng theo chân khí (chân khí không ra ngoài chỉ chạy vòng quanh cơ thể). Tập
sách này được viết dựa theo phương pháp của ông Lý Thiếu Ba do nhà xuất bản Cam
Túc (Trung Hoa) ấn hành năm 1979.
CĂN
NGUYÊN CỦA SINH MỆNH
Ngay từ nghìn xưa, người
ta đã quan tâm đến việc phòng
bệnh và trị bệnh, cách sống sao cho phù hợp
với thiên nhiên, và qui luật phát triển của trời đất.
Trong
Hoàng Đế Nội Kinh, cuốn sách vẫn được coi
là một loại kinh điển của Đông y, những thiên viết về Nhiếp Sinh, Âm Dương, Tạng Tượng, Kinh Mạch
đều có đưa ra những phương pháp dưỡng
sinh. Theo cổ nhân, khí được coi như sức mạnh tiềm
tàng của trời, còn huyết là tinh hoa của đất và để khí huyết
được sung thịnh,
con người phải biết
cách hấp thu khí dương
(của trời) và bồi dưỡng khí âm (của đất).
Ngoài ra, theo những điều kiện chủ quan
và hoàn cảnh
của mỗi người,
cổ nhân cũng khuyên nên ăn
uống chừng mực, làm việc, nghỉ ngơi điều độ, tránh gió độc, tùy theo thời tiết mà giữ gìn, trị bệnh từ khi
bệnh chưa phát
(tiết ẩm thực, thích
lao dật, hư tà tặc phong tị chi hữu thời, bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh –Tứ Thời Điều Thần Luận). Như thế, tựu trung con người cần phải chú trong đến cả hai mặt, thích ứng với
ngoại cảnh để có thể sinh tồn, và tự mình làm cho cơ thể khỏe mạnh để đề kháng với
bệnh tật. Đó là những
vấn đề cần chú trọng trong đời sống hàng ngày.
Về phương diện chẩn đoán bệnh, người xưa lưu tâm đến sự liên quan giữa các cơ quan và hệ thống trong
cơ thể, sự ảnh hưởng
hỗ tương giữa tinh thần và vật chất, giữa ngoại vật và nội tâm ngõ hầu có cái nhìn thống nhất giữa con người với vũ trụ. Con người còn phải tuân theo những qui tắc của âm dương, hợp với những nguyên lý của trời đất, đồng thời quan tâm đến bảy điều nên tránh, và tám điều nên theo (thất tổn, bát ích) để thuận theo bốn mùa mà điều nhiếp cơ
thể. Khi đã hòa hợp được với tự nhiên,
chúng ta mới đạt được tình trạng âm dương quân bình và đầy đủ. Phép vận hành chân khí chính là để đạt tới những mục đích đó.
Trước đây, khi đề cập đến tĩnh tọa dưỡng sinh, phần lớn các tác giả chỉ đề cập
đến phép thở lấy bốn tiêu chuẩn sâu, nhẹ, đều và dài (thâm, tế, quân,
trường) để điều
tức nhưng lại
không phân biệt nội khí
và ngoại khí. Có người lại cho rằng phép vận hành
chân khí cũng tương tự như phép vận khí trong
võ thuật. Thực tế, hai bên có hai mục tiêu khác nhau
và phép vận hành chân khí của đạo gia thuần túy chú trọng đến dưỡng
sinh, nghĩa là làm sao cho
cơ thể khỏe mạnh và hợp thiên nhiên chứ không
nhằm mục tiêu tăng gia thể lực, vốn được dùng để chiến đấu.
Theo Đông phương, chân khí là năng lượng cần thiết để cơ thể có thể hoạt động, là động lực chủ yếu để đề kháng bệnh tật, bảo tồn sức khỏe và giúp con người sinh tồn. Nói giản dị, chân khí sung túc
thì thân thể khỏe mạnh, trái lại nếu không đầy đủ sẽ suy nhược, và khi khô
kiệt thì chết.
Theo sinh lý
học hiện đại, tiềm lực uẩn tàng trong cơ thể chúng ta rất nhiều, nếu chúng ta biết cách điều động và vận dụng,
thân thể sẽ kiện khang và có thể sống tới 150 hay 200 tuổi. Nội Kinh, thiên Nhiếp sinh có viết:
Theo
đúng phép âm dương, điều hòa theo thuật số, ăn uống chừng mực, sinh sống
đúng cách, không
làm
việc quá độ, cho nên hình và thần đều đầy đủ, sống đến già ngoài trăm tuổi mới chết.
Não bộ chúng ta có từ 100 đến 150 tỉ tế bào thần kinh (neuron), nhưng chỉ có độ 10 tỉ hoạt động, còn
80-90% ở trong trạng thái đứng yên. Trên mỗi phân vuông vủa biểu bì chúng ta, cũng có
chừng 2000 vi ti huyết
quản và trong tình trạng bình thường, chỉ có khoảng 5 huyết quản có máu lưu thông mà thôi. Khi hoạt động thì cũng chỉ có chừng 200 huyết quản có máu chảy đến, 90% còn lại không hề sử dụng đến. Về phổi thì mặt tiếp xúc với không khí của các phế nang cả thảy chừng 130 m2 nhưng
chúng ta chỉ sử dụng một phần nhỏ. Theo thời gian, những tế bào đó teo lại và vì thế khi chỉ vận động
một chút chúng ta đã thở hổn hển vì cơ thể không đủ dưỡng khí. Nếu có biết phép vận hành chân
khí, người ta chỉ cần thở hút vài lần
là năng lượng trở lại sung vượng
vì đã sử dụng một số lớn tế bào để làm việc.
Một trong những nguyên nhân chính của
sự lão suy là chúng ta đã bỏ phế một số lớn tiềm năng
không sử dụng. Ngay từ năm 25 tuổi trở đi, cơ thể đã bắt đầu lão hóa và mỗi năm lại suy giảm một ít nhất
là hệ thống huyết quản và thần kinh. Để làm chậm lại sự tiêu hao và suy thoái, chúng ta phải tìm được phương thức phát huy các năng lực tiềm ẩn trong cơ thể.
Cơ thể chúng ta là một tập hợp khoảng 75 triệu triệu (75 trillion) tế bào, kết cấu thành những cơ quan khác nhau.
Việc sinh trưởng,
phát dục, suy lão, tử vong chẳng
qua là hiện tượng cộng hợp của những
tế bào mà thành. Muốn thân thể khỏe mạnh thì ngay từ căn bản những
tế bào trong cơ thể chúng ta phải khỏe mạnh. Theo quan niệm của Đông phương, năng lực làm cho các đơn vị nhỏ bé đó sinh tồn và hoạt động chính là chân khí. Linh Khu Thích Tiết Chân
Tà Luận có viết:
Chân khí là do thụ bẩm từ trời, cùng với cốc khí (khí do ăn uống mà sinh ra) mà làm cho cơ thể được sung mãn
Ý nói sức khỏe chúng ta bao
gồm khí trời và đồ ăn được tiêu hóa để thành chất bổ nuôi cơ thể.
Theo lý thuyết Đông Y, chân
khí lưu hành trong theo một lộ trình rõ rệt, đi khắp thân thể để đến tận mọi tế
bào trên một mạng lưới bao gồm 12 kinh, 15 lạc và kỳ kinh bát mạch. Thai nhi
còn trong bụng mẹ không trực tiếp hấp thụ được dưỡng khí thì chân khí do người
mẹ truyền theo đường rốn, và khí tiên thiên của bào thai sẽ vận động, thúc đẩy
để sinh hóa hình thành các bộ phận trong cơ thể.
Tiên thiên chân khí vận chuyển chính yếu trong hai mạch Nhâm và Đốc, được coi như hai lộ tuyến chính của con người, vận chuyển theo một vòng tròn đi
từ sau lưng đi lên, vòng qua đầu, mặt trở
xuống bụng rồi quay lại ra sau lưng (hậu thăng tiền giáng). Trong
lộ trình ấy có ba điểm quan trọng mà cổ nhân gọi là Đan Điền (Thượng,
Trung và Hạ Đan Điền).
Sau khi ra đời, ngoại
hô hấp thay thế khí tiên thiên để đưa chân khí đến mọi nơi trong cơ thể. Chân
khí tiên thiên không còn được nuôi dưỡng sẽ mất dần mòn nhưng khí hậu thiên ngày càng mạnh do
ăn uống, sinh hoạt tinh thần và vật chất. Do đó phép vận hành chân khí là phương
pháp làm gia tăng
khí hậu thiên, bồi bổ khí tiên thiên và nhất
là sử dụng các nguồn chân khí của con người
đạt mức tối đa để thân thể
khỏe mạnh và làm chậm lại sự lão hóa.
CHÂN
KHÍ LÀ GÌ?
Theo Đông y, tinh, tân, huyết, dịch (bốn
thể lỏng trong con
người bao gồm tinh khí, nước dãi, máu, và dịch trấp) cùng với thần và chân khí (thể vô hình) là
cơ sở của sinh mệnh. Ba dạng đó được mệnh danh
là tinh, khí
và thần vẫn
được cổ nhân
coi là “nhân thân tam bảo”. Linh Khu Bản Tạng Thiên có viết:
Khí, huyết, tinh, thần chạy quanh cơ thể để nuôi sống con người
Chính vì thế trong thuật dưỡng sinh, người xưa rất coi trọng việc làm thế nào để chủ động trong việc điều hòa ba loại là căn bản của sinh mệnh. Tố Vấn Thượng Cổ Thiên Chân Luận viết là con
người phải biết hút khí trong lành và giữ cho thần
được vững mạnh (hô hấp tinh khí, độc lập thủ thần) hay súc tích tinh khí, giữ thần cho đầy đủ (tích tinh toàn thần)
để được khỏe mạnh và sống lâu.
Tinh khí thần ba loại có tính năng khác
nhau nhưng lại không thể tách rời. Tinh là nơi cư trú của thần, có tinh là có thần, nên súc tích tinh sẽ làm cho thần thêm toàn vẹn, nếu tinh kiệt thì thần không có chỗ nương tựa. Phần lớn chúng ta nghĩ
đến tinh là tinh dịch nhưng thực tế tinh dịch chỉ là một dạng vật chất
của sinh lý con người, có cơ năng nhất định. Súc tinh không có nghĩa là giữ không để xuất tinh, mặc dầu
phòng sự quá độ sẽ làm cho con người bị suy nhược. Tuy nhiên vì tinh khí có trực tiếp liên hệ đến sức khỏe của người đàn ông nên thường thì cổ nhân khuyên không nên dâm dục, trác táng, việc chăn
gối nên điều độ. Tinh là mẹ của khí, tinh hư thì không có khí và con người không
sống nổi. Tinh thoát, khí
hư, thất thần
đều là một
dạng của suy
kiệt toàn diện để đưa đến cái chết.
Vậy tinh là gì?
Tinh bắt đầu có từ khi sinh mệnh có, nghĩa là gắn
liền với khí tiên thiên, như một cái mầm trong một hạt từ đó tiến hóa để thành một thân cây. Ý niệm đó khá mơ hồ nên tuy nhiều
người đã cố gắng giải thích nhưng không mấy ai đưa ra được một câu trả lời thích đáng.
Linh
Khu Bản Thần
Thiên viết:
Từ khi sinh ra là có tinh, vạn vật muốn sống được đều do
tinh làm đầu
Thần tức thần thái, tri giác chủ động và
điều khiển mọi vận
động của con người. Thần làm chủ các sinh hoạt,
công năng và phản ứng nội tạng hình thành từ tiên thiên khí, được hậu thiên khí bổ sung qua ăn uống, xuống chứa vào đan điền và liên tục được bổ
xung. Thành ra chân khí bao gồm cả tinh, khí và thần là nguyên động lực khiến
cho ngũ tạng, lục phủ hoạt động. Chân
khí cũng tái tục các chu trình sinh lý, nếu không
tinh không tái sinh, thần sẽ suy
kiệt đưa đến cái chết. Để hậu thiên chân khí được
dễ dàng biến hóa, thân thể kiện khang, việc bồi dưỡng chân khí là quan trọng
hơn hết.
Do đó, ngày xưa người ta đưa ra quan niệm “luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn
hư” chính là nhằm mục đích kiện khang thân thể. Tuy về sau, một số đạo gia coi việc luyện tinh khí thần là một phương tiện để đạt những
cảnh giới siêu nhiên, hay trường sinh bất tử nhưng mục tiêu đó không phải là mục tiêu đích thực của phép vận hành
chân khí.
Căn nguyên của chân khí
Chân khí có hai loại:
tiên thiên và hậu thiên. Tiên thiên
chân khí do sinh mệnh mà có, do nguyên tinh (tinh
nguyên thủy từ đầu) mà thành nên
còn gọi là nguyên khí. Trong đời sống con người, nguyên tinh không
ngừng tiêu hao, nên luôn luôn cần bổ sung. Hậu thiên chân khí do mũi thở hút khí trời (dương tinh), và do miệng ăn uống thực phẩm (âm tinh) theo máu huyết lưu thông đến mọi tế bào, do phản ứng
của các hóa chất biến dưỡng liệu thành nhiệt năng, nuôi sống cơ thể. Linh Khu Thích Tiết Chân Tà Luận có viết:
Chân khí là do thụ bẩm từ trời, cùng với cốc khí mà làm cho cơ thể được sung mãn
Hậu thiên chân khí bao gồm thiên khí
do mũi hút khí trời (dưỡng khí) vào phổi rồi chu lưu trong cơ thể, và địa khí (hay cốc khí) do miệng đem đồ ăn vào dạ dày, tiêu hóa đưa chất bổ vào trong máu.
Công dụng của chân khí
Nội Kinh cho rằng chân khí (hay nguyên khí) là do tiên thiên nguyên tinh
mà thành, phát nguyên từ thận, tàng trữ tại đan điền, theo đường tam tiêu đi
khắp cơ thể, thúc đẩy các hoạt động của ngũ tạng, lục phủ và các cơ quan khác
trong cơ thể. Chân khí tùy nơi mà có tên khác nhau, vì tại mỗi bộ phận có cơ
năng khác nhau. Trương Cảnh Nhạc viết:
Khí ở mạch dương gọi là dương khí, khí
ở mạch âm gọi là âm khí, ở dạ dày gọi là vị khí, tại tì là tì khí, ở
ngoài da gọi là vệ khí – khí bảo vệ cơ thể, bên trong nội tạng gọi là doanh khí
– khí nuôi dưỡng cơ thể, tại thượng tiêu gọi là tông khí, tại trung tiêu gọi là
trung khí, tại hạ tiêu gọi là nguyên âm nguyên dương khí. 7
Khi khí ở tại các kinh mạch thì gọi là kinh khí. Ly Hợp Chân Tà Luận
trong Tố Vấn có viết:
Chân khí chính là khí chạy trong các kinh mạch
Như vậy chân khí có thể ở nhiều dạng khác nhau, nhiều tên khác nhau.
Doanh khí chạy theo các mạch máu, nuôi lục phủ ngũ tạng, nếu chảy ra được ngoài
da ắt sẽ làm cho da dẻ tươi tốt, hồng hào. Linh Khu Tà Khách Thiên viết:
Doanh khí đi theo tân dịch đi vào các mạch để làm thành máu huyết, làm
tươi nhuận tứ chi rồi lại quay về nằm trong tạng phủ
Vệ khí là dương khí, chưng đốt nơi hoang mạc (phần nằm giữa tim phổi và
hoành cách mạc) rồi tản vào trong các bộ phận của cơ thể làm cho thân thể ấm
áp. Khi chạy ra ngoài, vệ khí theo các bắp thịt làm cho nhiệt độ cơ thể điều
hòa. Linh Khu Bản Tạng Thiên viết:
Vệ khí làm cho cơ thể ấm áp, làm cho da dẻ sung mãn, đóng mở -- theo thời
tiết. Vệ khí hòa thì da dẻ tươi tốt, mềm
mại, các lỗ chân lông dày
Do đó chúng ta thấy rằng vệ khí không những có nhiệm vụ điều hòa nhiệt độ
cơ thể mà còn có nhiệm vụ bảo vệ, chống lại những xâm nhập từ bên
ngoài. Theo y khoa hiện đại, vệ khí chính là chân khí chủ động các hạch
nội tiết, giữ nhiệm vụ duy trì sự quân bằng trong cơ thể.
Tông khí
tích tụ trong ngực, là một tổng hợp của doanh khí và vệ khí, bao gồm kết
quả của cả biến dưỡng đồ ăn lẫn hô hấp
dưỡng khí mà thành. Tông
khí chỉ huy hô hấp, làm nền tảng cho thanh âm, hút thở. Vì thế người nào tông khí sung túc, tiếng nói mạnh mẽ, vang vọng. Còn nếu tông khí yếu, tiếng nói thều thào, hơi thở dồn dập, đứt quãng.
Nhiệm vụ thứ hai của tông khí là chỉ huy tâm
tạng để dẫn máu nuôi cơ thể, khí huyết vận hành đến đâu, cơ thể cảm thấy nóng hay lạnh đều có liên quan đến tông khí.
Trong suốt cuộc
đời, từ khi còn là một thai nhi đến khi già chết, con người đều phải nhờ vào chân khí để sinh sống và hoạt động. Nếu chúng ta luôn luôn giữ cho chân khí sung túc, thân thể sẽ kiện khang, tinh
thần thoải mái. Nếu chân khí tiêu hao mà không được bổ sung, con người sẽ dần dần suy kiệt và nếu
hoàn toàn tiêu kiệt, sẽ chết. Chân khí vốn vô hình, nên một cơ thể khỏe mạnh không phải do việc gầy béo bên ngoài mà chính do nội khí bên trong. Nhiều
người to béo nhưng lại dễ bị bệnh tật, hay yếu đau, kém chịu đựng trong khi nhiều người thân thể gầy nhỏ nhưng lại dẻo dai, mạnh mẽ, bị bệnh cũng
mau khỏi. Chính vì thế, việc quan sát thần khí để định sức khỏe là một điều
quan trọng. Trong phạm vi
bài này, chúng tôi chỉ đề cập sơ
qua đến phép biện khí sắc, luận tinh thần để giúp độc giả hiểu thêm về phương pháp chẩn đoán mà thôi.
Sự phân bố và tuần hành của chân khí
Chân khí trong cơ thể cũng không khác
gì những nguyên tử
trong bầu khí quyển, ở khắp mọi nơi, luôn luôn di động. Tuy nhiên, vì chân khí là động lực vô
hình nên việc đo lường rất khó khăn. Tuy nhiên, vì đó là căn bản
của đời sống
nên nếu cơ quan nào không được nuôi dưỡng đầy đủ, cơ quan đó sẽ dần dần suy yếu và đưa đến phế thải.
Chân khí
chu lưu theo một lộ tuyến nhất định theo nhịp hô hấp, thành
một vòng tròn mà người
ta mệnh danh là
tiểu tuần hoàn và đại tuần hoàn
(hay tiểu chu thiên và đại chu thiên). Chỉ có nắm vũng đường đi và nhịp
điệu của vòng chân khí chúng ta mới khỏi rơi vào những sai lầm mà nhiều sách vở mắc phải
khi cho rằng
chân khí cũng
đồng nghĩa với không khí
nên mệnh danh dồn khí xuống đan điền đồng nghĩa với nín hơi, dồn xuống bụng cho phình ra. Thực ra nếu suy nghĩ một cách thấu đáo, không khí không
thể nào đưa xuống bụng được mà chỉ nằm trong phổi. Nếu cố gắng hút hơi, hoành cách mạc dồn xuống, không khí sẽ đi tới được những phế nang ở
phần dưới của lá phổi và đó là ưu điểm duy nhất của phép thở bụng. Thành ra phép thở mà người ta thường mệnh danh là thâm hô hấp hay phúc
tức chỉ thuần túy gia tăng cường lực của việc hút thở không khí mà thôi, không liên quan gì đến vận hành chân khí, nếu không nói rằng đi nghịch lại với lý thuyết về chu lưu của tiểu chu thiên.
Khi thở ra, chân khí theo Nhâm Mạch chạy xuống đan điền,
và khi hút vào, chân khí theo xung mạch chạy lên để thành thế tâm thận tương giao, thủy hỏa ký tế. (lửa và nước giúp đỡ lẫn nhau, tâm và
thận giao thông với nhau) là câu mà chúng ta thường đọc thấy trong truyện kiếm
hiệp. Một thời gian sau khi tập phép vận hành chân khí, hai mạch Nhâm và Đốc nối liền với nhau (đả thông Nhâm Đốc
nhị mạch), khi hút vào khí sẽ theo đốc mạch chạy từ hậu
môn dẫn lên
lưng, cổ và đầu.
Theo Đông phương, mạch đằng trước cơ thể chúng ta là mạch Nhâm là mạch chủ yếu cho các kinh âm,
chạy từ môi
trên xuống ngực,
bụng cho tới hậu môn. Mạch sau lưng là mạch Đốc,
đi từ hậu môn chạy theo xương sống qua cổ, lên trên đầu, đi vòng xuống trán, mũi và ngừng lại ở môi trên. Mạch Đốc là mạch chủ các kinh dương. Theo đạo gia, hai
kinh Nhâm Đốc là hai nửa vòng tròn có hai điểm tiếp giáp tại hai đầu. Thành ra khi luyện khí, người ta phải nối lại cho hai chỗ đứt đó có thể giao tiếp với nhau. Trên đầu người
ta ngậm miệng,
dùng lưỡi đưa lên hàm
ếch gọi là Thượng Thước Kiều (cầu chim quạ, theo tích Ngưu Lang-Chức Nữ) và ở dưới huyệt hội âm nơi hậu môn, người ta nhíu lại khi hút
vào để nối
Hạ Thước Kiều.
Đó là nguyên do tại sao khi tập khí công người ta thường
đòi hỏi phải nâng lưỡi lên
hàm ếch và nhíu hậu
môn.
Sau khi đã quen với vòng tiểu chu thiên, thường thì người ta tiến thêm một bước để vận chân khí chạy
theo vòng đại chu thiên. Khi thở ra, chân khí từ đầu chạy xuống đan điền đồng thời từ ngực cũng chảy vào ba mạch âm ở tay (thủ tam âm kinh). Khi thở ra, chân khí cũng từ mạch Nhâm chảy xuống
ba mạch dương ở chân (túc tam dương kinh). Khi hút vào, chân khí chạy từ bụng lên đầu theo mạch Đốc, đồng
thời từ ba kinh dương ở tay (thủ tam dương kinh) chân khí chảy vào đầu. Trong khi đó, chân khí theo ba kinh âm ở chân
(túc tam âm kinh) từ chân chảy lên bụng. Vòng lớn này người ta gọi là đại chu thiên.
Thời gian và Vận hành
Chân khí vận chuyển không lúc nào ngừng nghỉ trong thân thể chúng ta, từ
ngũ tạng lục phủ ra khắp tứ chi, xương cốt. Tuy nhiên, lưu chuyển của chân khí
cũng có tiết điệu theo sự tuần hoàn của kinh
Dậu: chảy vào Túc thiếu âm Thận kinh - Tuất: chảy vào Thủ quyết âm Bao
tâm kinh - Hợi: chảy vào
Thủ thiếu dương
Tam tiêu - Tí: chảy vào Túc thiếu dương Đảm kinh - Sửu: chảy vào Túc
quyết âm Can kinh - Trở lại giờ Dần, Phế kinh lại bắt đầu và cứ trời đất, ngày đêm, mỗi giờ (giờ Trung
Hoa, bằng hai giờ của phương Tây) có một khu vực mạnh hơn những khu vực khác
theo thứ tự sau đây:
Dần: bắt đầu từ Thủ thái âm Phế kinh
- Mão: chảy vào Thủ Dương Minh Đại trường kinh - Thìn: chảy vào Túc dương minh
Vị kinh Tỵ: chảy vào Túc Thái âm Tì kinh Ngọ: chảy vào Thủ thiếu âm Tâm kinh - Mùi:
chảy vào Thủ Thái Dương Tiểu trường kinh - Thân: chảy vào Túc thái dương Bàng quang kinh
Sự vận hành của chân khí
và vũ trụ có liên quan mật thiết từng giây
từng phút, không sai
lạc. Vì thế chỉ khi nào sống thuận theo lẽ tự nhiên,
chúng ta mới có thể mạnh khỏe và hạnh phúc. Quan
niệm “túc hưng, dạ mị” (ngày
thức đêm ngủ) tuy giản dị như thế nhưng
rất nhiều người trong
chúng ta không theo được, hoặc vì công ăn việc
làm khiến chúng ta phải thay đổi giờ giấc sinh hoạt, hoặc vì thói quen nên nhiều người thích thức khuya và ngủ bù
vào ban ngày. Dù chưa có những hậu quả trực tiếp, trong trường kỳ sinh hoạt trái tự nhiên đó sẽ gây ra những hiệu quả nghiêm
trọng.
Chỉ có
sống hợp với thiên nhiên, khí âm dương
trong cơ thể chúng ta mới được tái phục hồi, bổ xung
đúng mức. Ngày
thuộc dương nên
việc thức giấc, sinh hoạt là chính yếu. Đêm thuộc âm nên nghỉ ngơi, an dưỡng để bồi bổ
những mất mát ban ngày. Nếu
không theo được qui luật ấy, chúng ta phải biết
khai thác những giờ phút ngắn ngủi để điều tức, vận chân khí ngõ hầu khôi phục được phần nào sức khỏe.
Theo chu trình lưu chuyển chân khí, nhiều y gia có thể chẩn đoán bệnh. Chẳng hạn như chứng “kê minh tả”, cứ sáng sớm là phải dậy đi bài tiết, là một chứng bệnh thuộc thận khí bất túc nên mệnh môn hỏa suy, không thể chưng đốt các đồ
ăn. Nhưng tại sao
lại bài tiết vào buổi sớm? Vì phế là mẫu tạng của thận (phế thuộc kim, thận thuộc
thủy, theo lý ngũ hành kim sinh thủy),
thận thương tổn lâu năm phế bị ảnh hưởng. Theo nguyên tắc vận hành của chân khí, thời gian từ 3-5 giờ
sáng là giờ dần, mão từ 5-7 giờ. Dần thuộc
phổi, mão thuộc
ruột già nên những giờ phú đó hai cơ quan phổi và ruột hoạt động mạnh vì phế và đại trường
một biểu, một lý.
SỰ VẬN HÀNH CỦA CHÂN KHÍ VÀ CÁC KINH LẠC
Học thuyết về
kinh lạc là căn bản của Đông Y,
là một hệ thống mà người ta cho rằng đường đi của chân khí chẳng khác gì hệ thống xa lộ trên nước Mỹ này. KINH
là các đường
chính, LẠC là phân chi liên hệ
giữa các kinh với nhau. Dưới nữa là các đường nhỏ hơn gọi là TÔN LẠC, là một mạng lưới hết
sức chặt chẽ trên toàn cơ thể, chuyển chân khí cho từng cơ quan,
tùy nhiệm vụ. Vì thế kinh lạc chính là hệ thống liên lạc, vừa giao thông,
vừa truyền đạt
lẫn nhau của
chân khí.
Nghiên cứu về kinh lạc là đề tài phức tạp nhất và cũng quan trọng
nhất trong Đông y, và đây cũng chính là sở đắc độc đáo mà hệ thống y khoa Trung Hoa
đã hình thành được. Trong hơn một nửa thế kỷ nay, nhiều
học giả, khoa học gia đã bỏ nhiều công sức nghiên
cứu để cốt đưa ra những trả lời thỏa đáng cho vấn đề này nhưng
kết quả cũng chưa được mỹ mãn. Có người cho rằng đó chỉ là hệ thần kinh ở cấp cao, lẫn vào với huyết quản. Thế nhưng không
ai đã giải đáp được các tác dụng trọng yếucủa
hệ thống kinh mạch mà chỉ có những hành giả (người thực tập vận hành chân khí) mới có thể ý thức được về
đường đi và cơ năng mà người ngoài cảm thấy là mơ hồ hay khó hiểu. Những kết quả đó lại khó có thể đo lường bằng máy móc (hoặc chưa đo lường được) nên lại càng khó kiểm chứng.
Cơ cấu
Kinh lạc theo Nội Kinh là một tập hợp các đường lớn nhỏ đóng một trong
những vai trò chủ yếu của cơ thể. Trong con người chúng ta có nhiều hệ thống khác nhau, mỗi hệ thống
có những tổ chức riêng rẽ nhưng tất cả đều liên quan mật thiết lẫn nhau chẳng hạn như hệ thống bắp thịt, hệ thống gân cốt, huyết quản … Các cơ quan sở dĩ vận hành một cách nhịp nhàng chính là do sự vận chuyển không ngừng của các đường
chân khí, vừa bồi dưỡng,
vừa chỉ huy, vừa liên hệ với nhau. Trên mỗi đường
chân khí có những điểm hội tụ, nhưng những điểm đó lại không giống
nhau về cường
độ, về nhiệm vụ gọi là huyệt đạo. Vì thế tùy từng huyệt, người ta phải dùng
nhiều cách để hỗ trợ hay khai thông, có khi phải dùng kim, có khi dùng ngải cứu, hay
xoa bóp để khôi phục hoạt động của những đường
kinh này.
Mỗi cơ quan, mỗi bộ phận khi được châm hay kích
thích lại có những phản ứng, và cơ thể cũng phát sinh những hiện tượng khác nhau như
sưng, ngứa, đau … tùy tr ường hợp. Thường thường, khi
nào châm sai
chỗ, châm nhằm gân thì bắp thịt sưng lên, nếu nhằm hệ thần kinh thì hay bị ngứa, còn nếu thấy đau thì là trúng nhằm những hệ giao cảm.
Danh xưng
Kinh là
tên gọi của 12 đường trực hành, lên hệ trực tiếp đến tạng phủ.
Thủ thái âm PHẾ kinh, thủ quyết âm TÂM BAO kinh và thủ thiếu âm TÂM kinh là ba đường kinh ÂM nằm ở bên trong cánh tay, gọi là THỦ TAM ÂM thuộc lý (bên trong) dẫn chân khí từ ngực chạy vào
tay.
Thủ dương minh ĐẠI TRƯỜNG kinh, thủ thiếu dương
TAM TIÊU kinh,
và thủ thái dương TIỂU TRƯỜNG kinh nằm ở mặt ngoài
cánh tay gọi là
THỦ TAM DƯƠNG, thuộc biểu (bên ngoài) từ tay chạy lên
đầu.
Túc dương minh VỊ kinh,
túc thiếu dương ĐẢM
kinh, túc thái dương BÀNG QUANG kinh ở
bên ngoài và đằng sau đùi, gọi là TÚC TAM DƯƠNG, thuộc biểu chạy từ đầu xuống chân.
Túc thái âm TÌ kinh, túc quyết âm CAN kinh, túc thiếu âm THẬN kinh nằm ở mặt trong
đùi, gọi là TÚC TAM ÂM, thuộc lý từ chân chạy lên bụng.
Đó là mười hai đường kinh lớn nên gọi là chính kinh.
Ngoài ra còn tám đường kỳ kinh gọi là
bát mạch, là nơi mười hai đường
chính kinh đổ chân khí vào. Tám đường mạch này là ĐỐC, NHÂM, XUNG, ĐỚI, ÂM DUY, DƯƠNG DUY, ÂM KIỀU, DƯƠNG KIỀU.
Nếu 12 chính kinh ví như sông ngòi, thì tám mạch mày ví như đầm ao. Chân khí trong chính kinh thịnh hay suy cũng do tám mạch đó có điều hòa hay không.
Sự quân bình
chân khí trong cơ
thể là do tám mạch này, và hai mạch nhâm đốc là quan trọng
hơn cả.
Nhâm mạch thuộc
âm, cai quản các kinh âm, nằm ở trước ngực và bụng. Đốc mạch thuộc
dương, cai quản các kinh dương nằm ở sau lưng. Khi tập luyện vận hành chân khí, khi đã đẫn được chân khí lưu
thông trong hai mạch này – mà sách vở và các tiểu thuyết kiếm hiệp vẫn thường đề cập đến gọi là đả thông nhâm đốc nhị mạch – thì lần lược các kinh mạch còn lại cũng từ từ được thông suốt. Như trên đã đề cập, trên hệ thống kinh
mạch còn những
điểm chủ yếu gọi là huyệt.
Lạc có mười lăm đường, chạy lẫn trong các kinh âm và dương, là các hệ nối lẫn 12 kinh với nhau. Những
lạc nhỏ gọi là tôn lạc, phù lạc chạy khắp thân thể. Sau đây là khái lược về vị trí và đường đi của mỗi kinh:
Thủ thái âm phế kinh bắt đầu ở trung tiêu, đi vòng xuống
ruột già rồi
chạy lên ngực,
yết hầu đi ra cánh tay và chấm
dứt ở đầu ngón tay
cái.
Thủ dương minh đại trường kinh bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ chạy lên vai rồi chia thành hai nhánh,
một nhánh xuống ruột già, một nhánh lên đầu chấm dứt
ở cạnh mũi.
Túc dương minh vị kinh bắt đầu từ
cạnh mũi, một đằng chạy
lên đầu, một
đằng chạy xuống
ngực, bụng, đùi
chân rồi chấm
dứt ở ngón chân cái.
Túc thái âm tì kinh từ ngón chân cái chạy lên bụng, chia thành hai nhánh, một nhánh chạy lên vai, qua cổ tới lưỡi. Nhánh thứ hai chạy từ dạ dày lên qua hoành
cách mạc và chấm dứt ở tim.
Thủ thiếu âm tâm kinh bắt đầu từ tim chia ra ba
nhánh, một nhánh qua hoành cách mạc xuống ruột non, một nhánh theo thực quản lên mắt, và một nhánh đi qua
phổi, sang tay
tới ngón tay
út.
Thủ thái dương tiểu trường kinh bắt đầu
từ ngoài ngón tay út chạy theo tay lên vai gặp đốc mạch ở huyệt đại truy chi thành hai nhánh, một nhánh đi xuống ruột non, một nhánh chạy lên mặt đi vào tai.
Túc thái dương
bàng quang kinh
bắt đầu từ mi tâm chạy lên đỉnh đầu rồi vòng xuống cổ đi cạnh đường xương
sống chia thành
hai nhánh chạy
xuống chân và kết thúc
ở cạnh bàn
chân.
Túc thiếu âm thận kinh bắt đầu
từ ngón chân út chạy theo chân qua gót chân rồi lên đùi chia thành hai nhánh một nhánh chạy lên phổi, một nhánh chạy lên
lưỡi.
Thủ quyết
âm bao tâm kinh bắt đầu từ ngực nối liền
tam tiêu rồi chạy ra cánh tay tới ngón
tay giữa.
Thủ thiếu dương tam tiêu kinh khởi đầu từ ngón
tay đeo nhẫn chạy theo tay lên vai chia thành hai nhánh
một nhánh nối liền tam tiêu, một nhánh chạy lên cổ vòng qua tai rồi ngừng lại tại mắt.
Túc thiếu
dương đảm kinh bắt đầu từ mang tai chạy
vòng vèo trên mặt đi xuống qua bụng tới chân và ngừng
lại ở ngón chân út.
Túc quyết âm can kinh bắt đầu từ ngón
chân cái chạy lên theo chân lên bụng đến ngực rồi quay lại bụng. Một nhánh chạy lên cổ đến mắt, vòng qua đầu để gặp đốc mạch
.
Tám mạch (bát mạch) bao gồm:
Đốc mạch ở sau lưng,
quản trị các kinh dương bắt đầu từ
bộ phận sinh dục chạy theo xương sống lên đỉnh đầu
rồi vòng xuống
tới nhân trung.
Nhâm mạch ở phía trước, chịu trách nhiệm các kinh âm đi từ môi xuống ngực bụng rồi tới bộ phận sinh dục.
Xung mạch còn gọi là huyết hải kiểm soát khí và
huyết toàn cơ thể đưa đến
mười hai chính kinh, bắt đầu từ bộ phận sinh dục chia làm ba
nhánh một nhánh chạy lên đầu, một nhánh chạy theo
xương sống và một nhánh
xuống tới bàn
chân.
Đới mạch chạy vòng quanh bụng như thắt lưng nối
liền các kinh
âm và dương.
Âm kiều
mạch bắt đầu từ gót chân chạy lên chân bụng ngực tới miệng.
Dương kiều mạch bắt đầu từ gót chân chạy lên theo phía
sau vòng qua
trước mặt rồi
ngừng lại ở sau ót.
Âm duy mạch từ bắp chân chạy lên qua bụng ngừng
lại ở cổ.
Dương duy mạch từ gót chân lên theo chân qua người vòng qua đỉnh đầu ra trước mặt.
Công dụng
Phép vận hành chân khí phải theo một trình tự nhất định để đưa chân khí đến khắp các kinh mạch, tạng phủ, đem sinh lực cho mọi cơ quan trong cơ
thể. Sinh lực đầy đủ tự nhiên thân thể sẽ khỏe mạnh, ít ốm đau. Linh
Khu Kinh Mạch
Thiên viết:
Kinh
mạch quyết định việc sống chết, liên quan đến mọi loại bệnh tật, làm thành
các chứng thực và hư, không thể không thông
Lý Đình trong Y Học Nhập Môn cũng viết:
Nghề thuốc mà không biết kinh mạch thì chẳng khác gì đi đêm mà không đèn đuốc
Các y gia Trung Hoa từ xưa đến nay, dù trong việc chẩn đoán bệnh, bào chế dược phẩm, xoa bóp, châm cứu … đều phải dựa vào lý thuyết về kinh lạc để suy luận và lý giải.
Có thể nói rằng lý thuyết về kinh lạc là cơ sở chính
yếu của Trung
Y và vận hành chân khí chính là hình thức thực nghiệm học thuyết
này. Chân khí là điện năng còn kinh
lạc là những đường dây dẫn điện đến từng nhà, hai bên liên hệ mật thiết với nhau. Nếu chúng ta không am tường kinh lạc, việc điều vận chân khí trở nên mơ hồ và do đó kết quả cũng không rõ ràng.
ĐỘNG
LỰC VẬN HÀNH CHÂN KHÍ
Chân khí tuy không phải nhờ động lực của hô hấp nhưng lại có liên quan rất tiết điệu với việc hút thở khí trời. Hành giả tập phép vận hành chân khí phải sử dụng hô hấp như một lực dẫn để theo dõi và thúc đẩy chân khí lưu chuyển, giữ cho cơ thể được nhịp nhàng.
Điều chỉnh hô hấp cũng còn là một phương tiện để thư dãn và làm chủ cơ thể ngõ hầu theo dõi và tập trung được sức mạnh tinh thần.
Khi đề cập đến phép thở, nhiều
sách vở về khí công và yoga đã đưa ra những phép thở khác nhau, mỗi
phép có công hiệu riêng, có mục đích riêng. Tuy nhiên vì có quá nhiều cách, lắm khi lại trái tự nhiên,
khiến nhiều người hoang mang và e ngại, nhất là lại thêm một câu cảnh cáo nếu không có minh sư chỉ dạy có thể tẩu hỏa nhập ma. Thực ra, những người thường như chúng ta chỉ coi việc vận hành chân khí
như một phương pháp thể dục nhẹ, nếu không mong đạt đến moạt cảnh giới siêu phàm mà chỉ cầu khỏe mạnh thì phép thở cũng thật giản dị dễ dàng.
Sinh lý vận hành hô hấp
Hô hấp là sự co dãn của lồng ngực,
lên xuống của hoành cách mạc làm cho phổi nở ra co vào đem khí trời vào nuôi dưỡng các tế
bào trong cơ thể. Hô hấp là một hoạt động không thể thiếu của con người. Người bình thường chúng ta mỗi phút thở ra hút vào trung bình 18 lần. Có hai loại hô hấp: nội hô hấp
và ngoại hô hấp.
Nội hô hấp là hoạt động của chân khí, là
sự tiếp thu dưỡng
khí, các chất bổ đưa đến từng tế bào và biến chuyển các dạng năng lượng. Thai nhi còn trong
bụng mẹ không thể tự mình thở hút khí trời hay ăn uống nên mọi chất cần thiết đều do người mẹ truyền cho qua cuống rốn và lá nhau (thai bàn). Tiến trình biến chuyển và hấp thu đó cổ nhân gọi là “thai tức” (lối thở của bào thai) là hình thức rõ rệt nhất của nội hô hấp.
Khi luyện phép vận hành chân khí, cứu cánh đạt đến là làm sao cho việc ngoại hô hấp (thở bằng mũi) trở nên hết sức nhẹ nhàng,
như có như không, tưởng như ngoại hô hấp đã ngưng lại chỉ để nội hô hấp làm
việc. Khi đó hành giả cảm thấy đan diền đóng mở, hơi ấm chảy vào hai mạch nhâm đốc, toàn thân ấm áp như gió xuân thổi đến làm cho trăm hoa đua
nở. Trình độ đó cũng
không khác gì thai nhi
còn trong bụng mẹ,
chỉ thuần nhờ vào nội hô hấp, tâm hồn thư thái, yên tĩnh nên còn
gọi là “thai tức pháp”.
Ngoại hô
hấp là phép thở mà chúng ta dùng để hút thở khí trời hàng ngày chỉ xuất hiện sau khi ra khỏi bụng mẹ. Người tập chân khí làm thế nào để hai tiến trình
ngoại hô hấp và nội hô hấp ăn khớp với nhau, tiết điệu để việc dẫn chân khí đến các cơ quan
được đều đặn, làm đúng với cơ năng, và toàn diện. Nội Kinh Tạng Tượng Thiên
viết:
Phổi là cơ quan dùng để truyền dẫn
tiết điệu của cơ thể
Ảnh hưởng của sự vận động chân khí và hô
hấp
Hô hấp là một vận động tự nhiên có tính chất máy móc. Khi hút vào, ngực nở ra, hoành cách mạc đè xuống, bụng thóp vào tạo áp lực đè xuống bụng dưới. Sự thu dãn của ngực
và bụng làm cho chân khí khởi
động. Túc tam âm kinh theo sự hút không khí vào dẫn chân khí từ dưới đi lên. Thận kinh chân khí, khi chúng
ta hút vào,
di theo túc
thiếu âm kinh
chạy lên
bụng, vào đan điền nhập với xung mạch, theo rốn chạy lên ngực, chảy vào tâm bao kinh giao với tâm khí. Hiện tượng này sách vở gọi là "thận thủy thượng
triều dĩ tế tâm hỏa" (nước từ thận chảy ngược lên dập tắt lửa của tim). Cũng khi đó, can kinh chân khí chạy lên chảy vào phế kinh, tì kinh chân khí chảy ngược
lên tâm kinh nên được gọi là “can tì chi khí nghi thăng” (khí tì khí can chạy lên). Trong
khi hút vào, chân khí từ thủ tam dương
kinh chạy lên đầu, mặt, tiếp với khí từ túc tam dương nên cũng gọi là “tam dương vinh ư diện” (khí tam dương làm cho mặt được tươi tốt).
Khi thở ra, lồng ngực hóp vào, hoành cách mạc nâng lên, ngực thu nhỏ nhưng bụng to ra, chân khí trong lồng ngực bị áp lực theo nhâm mạch chạy xuống đan điền nên được gọi là “tâm thận tương giao
dĩ bổ mệnh hỏa”. Đây là một phần rất
quan trọng trong phép
vận hành chân khí. Cũng khi đó, chân khí theo thủ tam âm kinh chạy từ ngực xuống các đầu
ngón tay, nối tiếp với thủ tam dương kinh, chân khí từ túc tam dương kinh từ đầu chạy xuống chân, tiếp với túc tam âm kinh.
Chu trình này gọi là đại tuần hoàn của kinh khí.
Tập luyện vận hành chân khí khi đã đả thông được đốc mạch,
lúc thở ra chân khí theo nhâm mạch chạy xuống đan điền, khi hút vào chân khí theo đốc mạch chạy lên huyệt
bách hội, gọi là tiểu tuần hoàn. Chung qui, vận hành chân khí không
ngoài mục tiêu đả thông hai mạch nhâm đốc. Tuy
nhiên, chính vì hô hấp là động lực vận chuyển chân khí nên tập luyện chân khí chính là để điều chỉnh và dẫn chân khí chạy đến các đầu ngón tay. Dẫu hô hấp là một hiện tượng tự nhiên của con người, nhưng sau khi sinh ra, sinh hoạt hàng ngày đã khiến cho
chúng ta mất đi cái bản tính nguyên
thủy, làm sai lạc các
hoạt động tiên thiên, mất tiết điệu sẵn có, làm cho chân khí không còn đầy đủ, kinh lạc không còn thông suốt,
chưa già đã suy, trong
người mang vô số bệnh tật. Phương pháp điều tức chính là cách hay nhất để bồi bổ lại chân khí đã hao hụt, đả thông các kinh mạch bị tắc nghẽn, khôi phục các cơ năng tiên thiên.
Điều chỉnh và bồi dưỡng
chân khí chủ yếu là làm sao đưa được khí trở về đan điền. Mỗi khi thở ra, chúng ta phải điều động chân khí chạy theo nhâm
mạch quay trở về đan điền là để cho khí đi đúng hướng. Vấn đề điều tức vì thế quan trọng nhất là
khi thở ra, và mỗi lần thở ra chân khí lại vào đan điền
thêm một chút. Thở ra cũng là cách để tống không khí đã dơ trong
phổi ra ngoài
để chuẩn bị thay
bằng khí mới, cho nên điều tức cũng là vận chuyển chân khí.
Cũng nên nói thêm, nhiều người chủ trương thở sâu (thâm hô hấp), cho là muốn cho khí trầm đan điền cần cố
gắng hút vào thật nhiều, giữ hơi cho thật lâu. Thực tế như thế là đi ngược với cơ năng
sinh lý bình thường của con người, và cũng mang ảo tưởng
chân khí chính
là không khí. Khi hút vào,
không khí chỉ vào đến lồng ngực chứ không chạy xuống
được dưới bụng,
nếu bụng phình
ra là vì hoành cách mạc bị ép xuống. Những ai tập theo phương pháp này sẽ bị hiện tượng gọi là trệ khí. Áp lực càng mạnh thì
phản áp lực càng nhiều, đến một lúc nào
đó, chân khí
sẽ thượng xung
gây ra hoa
mắt, nhức đầu và có thể gây ra bệnh cao áp huyết. Phương pháp
nhịn hơi chỉ có tác dụng vào các bắp thịt bụng và ngực, nhưng không có ảnh hưởng gì đến việc điều dẫn chân khí, và chắc chắn không thể nào đả thông được hai mạch nhâm đốc.
ĐAN ĐIỀN
Có thể nói trong phương
pháp tập luyện
chân khí, tất cả các dưỡng sinh gia đều quan tâm đến một bộ phận có tên là đan điền.
Đây là một vị trí thần bí không
những người tập võ hết sức coi trọng mà cả đến người tập nói, tập hát cũng phải giữ cho đan điền được sung mãn ngõ hầu không mệt, không đứt hơi.
Tuy
nhiên, quan niệm về huyệt này không đồng
nhất, mỗi môn phái một khác. Nhiều người còn giữ bí mật, không truyền
ra ngoài. Cho đến nay người ta cho rằng đan điền không phải là một huyệt mà là ba khu vực trọng yếu trên cơ thể, gồm thượng đan
điền ở trên đầu, trung đan điền ở ngực và hạ đan điền ở bụng dưới. Thượng đan điền là vị trí quan yếu nhất không những đối với sinh mệnh mà đối với
người luyện tiên đan và vi trí của nó ngày nay nhiều học giả xác định là tại não thất thứ ba, chiếu điểm của hai huyệt bách hội (từ đỉnh đầu đâm xuống) và mi tâm (từ giữa hai lông mày đâm vào). Có
lẽ vì thế mà các tôn giáo đều coi là những bậc tiên thánh có vòng hào quang tại trên đầu, lấy tâm điểm là thượng
đan điền. Trung đan điền nằm tại tâm oa, nhưng cũng có thuyết nói là ở gần rốn. Hạ đan điền ở dưới rốn chừng ba phân (tuy
nhiên khoảng cách này mỗi nơi nói một khác,
có chỗ viết là
1 tấc rưỡi, có chỗ lại nói ở ngay huyệt hội âm). Những vị trí của đan điền có nhiều điểm tương đồng với
những luân xa (chakras) mà những người tập yoga thường dùng để tập trung tư tưởng, thượng
đan điền tương ứng với
ajna, trung đan điền tương ứng với anahata còn hạ đan điền có lẽ là muladhara. Một cách tổng quát, ba vị trí này là ba vị trí quan yếu của cơ thể, là những nơi chân khí hội tụ và lưu động.
Theo Trung Quốc
Y Học Đại Từ Điển thì
đan điền là “tinh thất của con trai, bào cung của con gái, là
nơi tu luyện nội đan, ở dưới rốn ba
tấc”. Theo định nghĩa thông thường nhất, đan điền ngay giữa bụng dưới, khoảng ba tấc dưới rốn. Theo nguyên nghĩa,
điền là ruộng, đan là viên thuốc, là
tinh chất của dược liệu, có công dụng cường thần trị bệnh. Chân khí lưu chuyển trong thân thể chúng ta làm cho khỏe mạnh,
gia tăng tuổi thọ nên được gọi là đan. Đan diền là nơi tập trung chân khí nên đặt tên như vậy.
Đan điền là nguyên động lực của đời sống, là một bộ vị cực kỳ trọng yếu, là khởi điểm của nhâm, đốc và xung mạch, nơi hội tụ của mọi kinh mạch trong con người. Người ta tin rằng đan điền cũng như một cánh cửa, mở ra khi có khí, đóng lại khi không có khí, đóng vai trò của một biển cả để tích tụ chân khí
nên còn gọi là biển khí (khí hải nhưng không phải là huyệt khí
hải cũng gần
nơi đó).
Về phương diện sinh lý, đan điền là nơi
tàng tinh của nam giới, nơi thụ thai của nữ giới, nhờ đó mà sinh trưởng, phát dục nên còn gọi là sinh môn hay mệnh
môn. Sau khi đan điền sung mãn chân khí, nên từ eo trở lên trở nên có sức lực, Nạn Kinh gọi sức này là
thận gian động khí. Tron phép vận hành chân khí, khi thở ra, chân khí chạy xuống đan điền, nên giai
đoạn này phải
tập trung ý chí vào
đan điền (ý thủ đan điền)
và chờ cơ hội tiến thêm bước kế
tiếp là đưa chân khí khai thông mạch
đốc (tích khí xung quan).
Đây là giai
đoạn chủ yếu
trong việc tăng cường và bảo vệ sức khỏe.
--- CÒN TIẾP ---
No comments:
Post a Comment