Theo chương ‘Thẩm Tượng Luận’ sách ‘Hồi Kê Mạch Học’ thì có thể dùng
2 phương pháp SO SÁNH và ĐỐI LẬP để nêu lên những điểm giống và khác nhau giữa
các mạch:
A- PHÉP SO SÁNH
MẠCH ĐOẢN VÀ ĐỘNG
· Đoản là mạch âm, không đầu,
không đuôi, mạch đến trì trệ.
Động là mạch dương, không đầu, không đuôi, mạch đến nhanh và trơn.
MẠCH HỒNG VÀ THỰC
· Mạch Hồng tựa như nước lụt,
to, tràn đầy đầu ngón tay, nặng tay hơi giảm.
· Mạch Thực thì chắc nịch, ứng
dưới tay có lực, nặng nhẹ tay đều vẫn thấy như vậy.
MẠCH HUYỀN VÀ TRƯỜNG
· Huyền giống như dây cung,
căng thẳng, cứng đều mà không dội vào tay.
· Mạch Trường như cây sào, vượt
qua cả vị trí gốc mà lại không dội vào tay.
MẠCH NHU VÀ NHƯỢC
· Mạch Nhu nhỏ mềm mà Phù.
· Mạch Nhược nhỏ mềm mà Trầm.
MẠCH LAO VÀ CÁCH
· Mạch Lao có dạng Trầm Đại
mà Huyền, chỉ ở đúng vị trí.
· Mạch Cách có dạng Hư, Đại
mà Phù, Huyền, trong hư ngoài cấp.
MẠCH PHÙ VỚI MẠCH HƯ VÀ KHÂU
· Mạch Phù, nhẹ tay thì mạnh,
nặng tay thì yếu.
· Mạch Hư to mà vô lực, nhẹ
hoặc nặng tay đều như nhau.
· Mạch Khâu nhẹ hoặc nặng tay
đều thấy rỗng ở giữa.
MẠCH SÁC VÀ KHẨN, HOẠT
· Mạch Sác đi lại gấp rút, 1
hơi thở 6 chí.
· Mạch Khẩn lan ra 2 bên ngón
tay, giống như kéo dây thừng.
· Mạch Hoạt đi lại lưu lợi,
trơn tru như con tính chạy trên bàn.
MẠCH TRẦM VỚI PHỤC
· Mạch Trầm đặt nhẹ tay hình
như không thấy, ấn nặng mới thấy.
· Mạch Phục ấn nặng tay cũng
không thấy, đẩy tìm tới gân mới thấy.
MẠCH TRÌ VỚI HOÃN
· Mạch Trì 1 hơi thở đi 3
chí, hình nhỏ mà yếu.
· Mạch Hoãn 1 hơi thở đi 4
chí, hình to mà hòa hoãn.
MẠCH VI VỚI TẾ
· Mạch Vi không bằng Tế, như
có, như không, giống như sợi tơ nhện.
· Mạch Tế hơi lớn hơn mạch
Vi, ứng dưới tay rất nhỏ, như sợi chỉ mành.
MẠCH XÚC VỚI MẠCH KẾT, ĐỢI, SẮC
· Mạch Xúc gấp rút, trong Sác
thỉnh thoảng lại ngừng.
· Mạch Kết thì trong Trì thỉnh
thoảng lại ngừng.
· Mạch Đợi thì Động mà khi ngừng
rồi thì khó trở lại, có số ngừng nghỉ nhất định, không phải ngẫu nhiên.
· Mạch Sắc thì Trì, Đoản, sít
trệ, mạch đến rít như muốn ngừng 3 hoặc 5 chí (trong 1 hơi thở), không đều.
MẠCH HOẠT VÀ MẠCH SẮC.
Theo sự thông hoặc trệ của mạch.
· Mạch Hoạt là huyết nhiều, khí ít. Huyết nhiều cho nên mạch lưu lợi,
trơn tròn.
· Sắc là khí nhiều, huyết ít, vì vậy sít mà tán.
B- PHÉP ĐỐI LẬP
MẠCH HỒNG VÀ MẠCH VI
Theo sự thịnh suy của mạch.
· Mạch Hồng: huyết nhiệt mà thịnh, khí theo đó mà bùng lên tràn đầy ở đầu
tay, sức mạnh vọt mạnh, vì vậy Hồng là thịnh.
· Mạch Vi: khí hư mà hàn, huyết theo đó mà sít lại, ứng với mạch nhỏ,
muốn đứt, vì vậy Vi là suy.
MẠCH KẾT VÀ MẠCH XÚC
Theo âm hoặc dương của mạch.
· Dương cực thì Xúc, mạch nhanh, gấp mà có lúc ngừng.
· Âm cực thì Kết, mạch đi chậm mà có lúc ngừng.
MẠCH KHẨN VÀ HOÃN
Dựa theo sức chùng và căng của mạch.
· Mạch Khẩn là hàn, làm tổn thương phần vinh, huyết, mạch lạc bị
kích bác nhau. Nếu gặp khi phong thoát khỏi thủy vọt tràn thì lại như cắt dây,
kéo thừng.
· Hoãn là phong, làm tổn thương phần vệ, khí, vinh huyết không thông, mạch không đi nhanh
được, giống như bước đi chậm rãi.
MẠCH PHÙ VÀ TRẦM
Dựa vào sự thăng giáng của mạch.
· Phù, bắt chước trời là khinh thanh, mạch nổi ở trên.
· Trầm, bắt chước đất là trọng trọc, mạch chìm ở dưới.
MẠCH PHỤC VÀ MẠCH ĐỘNG
· Mạch Động: thấy ở bộ quan, hình như hạt đậu lăn dưới tay, khác với
ở các bộ khác.
· Mạch Phục ở sâu vào trong không thấy hình mà ở dưới gân, xương.
MẠCH THỰC VÀ MẠCH HƯ
Dựa theo sự cương nhu của mạch.
· Mạch Thực: đường mạch sung thực, ấn tay nhẹ hoặc nặng cũng đều hữu
lực.
· Mạch Hư: đường mạch đi yếu, không thấy có lức ở dưới tay.
MẠCH TRÌ VÀ MẠCH SÁC
Dựa theo sự nhanh chậm của mạch.
· Mạch Sác: nhịp mạch đi nhanh.
· Mạch Trì: nhịp mạch đi chậm.
MẠCH TRƯỜNG VÀ MẠCH ĐOẢN
Dựa theo sự dài ngắn của mạch.
· Mạch Trường thấy ở bộ xích và thốn, có khi thông suốt cả 3 bộ.
· Mạch Đoản chỉ thấy ở xích hoặc thốn.
Phải xem xét coi mạch có qua khoảng giữa (quan) hay không. Qua khoảng
giữa là Trường, không qua khoảng giữa là Đoản.
C- QUAN HỆ GIỮA MẠCH VỚI NHÂN TỐ TRONG NGOÀI
1- Quan Hệ Giữa Mạch Và Ngũ
Hành
Dùng ngũ hành áp dụng vào mạch
ta thấy:
Tay Bên TRÁI: Thận thủy (bộ xích) sinh Can mộc (quan), can mộc sinh
Tâm hỏa (thốn).
Tay Bên PHẢI: Mệnh môn hỏa (bộ xích) sinh Tỳ thổ (quan), tỳ thổ sinh
Phế kim (thốn).
2- Mạch Và Khí Huyết
Xét về khí huyết với mạch ta
có:
+ Bên trái thuộc Huyết: Thận, Can và Tâm. Thận (tàng tinh, tinh sinh huyết ) - Can tàng huyết - Tâm chủ huyết.
+ Bên phải thuộc Khí: Mệnh môn (Tam tiêu) Tỳ và Phế. Tỳ là trung khí
- Mệnh môn là nơi chứa nguyên khí - Tam tiêu là đường dẫn khí - Phế chủ khí. Vì
vậy, mạch ở bên phải liên hệ với khí.
3- Quan Hệ Giữa Mạch Và Mùa
Mỗi mùa ứng với một tạng nhất
định, dù mùa đó cũng chi phối toàn thể các mạch khác trong suốt thời gian đó.
+ Mùa Xuân: Mạch Huyền
·Cây cối xanh tốt vào mùa này, màu xanh ứng với màu của Can, do đó
có mạch Huyền (mạch của Can).
·Mùa xuân dương khí bắt đầu phát (thiếu dương) nhưng khí lạnh vẫn
chưa hết, khí cơ còn có hiện tượng ước thúc, vì vậy mạch tượng thấy đầu thẳng
mà dài, giống như giây đàn (Huyền).
+ Mùa Hè: Mạch Hồng
·Cây cối lớn lên, sức nóng của mùa hè bùng lên, thiêu đốt vạn vật
như lửa bùng lên (Hồng).
·Vào mùa này, vạn vật tươi tốt, thịnh vượng, mạch đến thì thịnh mà
đi thì suy, vì vậy sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Câu.
+ Mùa Thu: Mạch Mao
·Mọi vật bắt đầu thu lại, lá cây khô đi và rụng giống như lông, do
đó mạch của mùa thu là mạch Mao.
·Thời điểm này, dương khí bắt đầu suy, thế mạch đã giảm chỉ thấy
Phù. Sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Mao là hình dung thể mạch đến ứng dưới tay thấy nhẹ như lông (Mao).
+ Mùa Đông: Mạch Thạch
·Mọi vật thu giữ lại, tàng trữ tất cả khả năng mạnh mẽ của mình để sống
qua cái lạnh giá, vì vậy, mạch của mùa đông là mạch Thạch.
·Mùa đông vạn vật bế tàng, thế đến của mạch khí trầm mà có sức bật
vào ngón tay, sách ‘Nội Kinh’ gọi là mạch Thạch là hình dung mạch đến ứng vào
tay có lực cứng như cục đá (Thạch).
+ Tứ Quý: Tứ Quý là chuyển tiếp giữa các mùa, vì vậy thường mang đặc
tính ôn hòa, do đó mạch của Tứ Quý là mạch Hoãn.
4- Quan Hệ Giữa Mạch Và Lục
Dâm. (Ngoại Tà)
·Hàn làm hại (thương) Thận vì
vậy có mạch Khẩn.
·Thử làm hại (thương) Tâm vì vậy có mạch Hư.
·Táo làm hại (thương) Phế vì vậy có mạch Sáp.
·Thấp làm hại (thương) Tỳ vì vậy có mạch Nhu.
·Phong làm hại (thương) Can vì vậy có mạch Phù.
·Nhiệt làm hại (thương) Tâm bào vì vậy có mạch Nhược.
5- Mạch Và Thất Tình (Nội
Nhân)
·Hỷ thương Tâm gây nên mạch
Hư.
·Tư thương Tỳ gây nên mạch Kết.
·Ưu thương Phế gây nên mạch Sáp.
·Nộ thương Can gây nên mạch Nhu.
·Khủng thương Thận gây nên mạch Trầm.
·Kinh thương Đởm gây nên mạch Động.
·Bi thương Tâm bào gây nên mạch Khẩn.
6- Mạch Và Nam Nữ
- Sách ‘Thiên Kim Phương’
ghi: “Mạch của phụ nữ thường nhu nhược (yếu) hơn mạch của nam giới”.
- Sách ‘Y Học Nhập Môn’ ghi: “Xem mạch ‘Nam Tả Nữ Hữu’. Xem mạch,
phái nam xem bên tay trái (làm chính), phái nữ xem bên tay phải (làm chính).
Sách ‘Định Ninh Tôi Học Mạch’ giải thích ý của câu này như sau: “Xem mạch phái
nam, mạch tay trái (dương) mạnh hơn tay phải (âm) là dương nhiều hơn âm là thuận.
Ngược lại, mạch tay phải mà mạnh hơn tay trái là âm nhiều hơn dương không thuận,
tức là người nam đó bị âm thịnh dương suy. Xem mạch người nữ mạch tay phải (âm)
mạnh hơn tay trái (dương) là âm nhiều
hơn dương là thuận. Ngược lại, nếu mạch tay trái mạnh hơn tay phải là dương nhiều
hơn âm không thuận, tức là người nữ đó bị dương thịnh âm suy. Như vậy, việc xem
‘Nam Tả Nữ Hữu’ chủ yếu chỉ để xem âm dương thuận hoặc nghịch đối với người đó
chứ không nhất thiết phải theo đúng quy cách trên.
Điều chủ yếu trong câu ‘Nam Tả Nữ Hữu’ là chú ý vào hai bộ xích của
cả nam lẫn nữ.
+ ‘Nam dĩ tả xích nhi tàng tinh’ hoặc ‘Nam dĩ tả xích vi tinh phủ’
(Nam tàng trữ tinh khí ở bộ xích bên tay trái). Xem mạch người nam, nếu bộ xích
tay trái hòa hoãn, có lực thì biết rằng người đó tinh khí sung mãn, khỏe mạnh.
Nếu bộ xích tay trái Trầm, Vi vô lực thì không khỏe...
+ ‘Nữ dĩ hữu xích nhi bào hộ’ hoặc ‘Nữ dĩ hữu xích vi huyết hải’ (Nữ
liên hệ với bào thai và chứa huyết ở bộ xích). Xem mạch người nữ, nếu bộ xích
tay phải hòa hoãn, có lực thì biết rằng tử cung và huyết của họ tốt. Nếu bộ
xích tay phải Trầm, Vi vô lực thì không khỏe.
D- PHÂN LOẠI MẠCH
Có nhiều cách phân chia các loại mạch, tùy quan điểm của các tác giả
hoặc các trường phái.Trong tài liệu này,
để rộng đường tham khảo, chúmg tôi trình bày các cách phân chia mạch theo các
trường phái lớn để dễ nghiên cứu:
- Theo ‘Nội Kinh’ (được coi là cổ nhất): Sách ‘Y Nguyên’ ghi: “Tinh
xác của phép chẩn mạch không ai hơn sách ‘Nội Kinh’. Nội Kinh lấy 8 mạch PHÙ,
TRẦM, HOÃN, CẤP, ĐẠI, TIỂU, HOẠT, SÁC để biện về biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thực,
thuận, nghịch (Vì) mọi mạch Phù là bệnh ở dương, mọi mạch Trầm là bệnh ở âm, mọi
mạch Cấp thì phần nhiều hàn, mọi mạch Hoãn thì phần nhiều nhiệt. Mạch Đại nhiều
khí huyết, mạch Tiểu thì khí huyết đều ít. Hoạt là dương khí thịnh, Sác là âm
huyết bị thiếu. Tức là trong 8 mạch phân ra làm 3 mức tương phản nhau (như loại
Phù, Trầm, Hoạt, Sác), nhiều ít (như loại hơi Phù, Phù nhiều, hơi Trầm, Trầm
nhiều), huyền tuyệt (như loại thái quá đến cấp 3, cấp 4 hoặc bất cập chỉ 1 chí,
2 chí, mất hẳn... ) để xét bệnh tiến thoái, thuận nghịch, sống chết, lại không
tinh và gọn hay sao?”
- Thiên ‘Bát Mạch Yếu Chỉ Vi Cương” trong Cảnh Nhạc Toàn Thư chia 28
mạch ra làm 8 loại mạch chính là Phù, Trầm, Trì, Tế, Sác, Đại, Đoản, Trường còn
20 mạch kia thì quy nạp vào với 8 mạch chính này, gọi là kiêm mạch.
- Sách ‘Lục Mạch Cương Lĩnh’ của Hoạt Thọ lại lấy 6 mạch làm gốc: Phù, Trầm, Trì, Sác, Hoạt,
Sáp theo bảng dưới đây:
1- Nhóm Mạch PHÙ: gồm 6 mạch
·Trầm mà rất hữu lực, như đè vào da trống là mạch CÁCH.
·Phù mà vô lực, như lụa ngâm trong nước là mạch NHU.
·Phù, Trầm hữu lực, mạch chắc dưới tay là mạch THỰC.
·Phù, Trầm đều vô lực. nấp dưới tay thoang thoảng là HƯ.
·Phù, Trầm, Đại, giữa rỗng ngoài chắc như ống lá hành là mạch KHÂU.
2- Nhóm Mạch TRẦM: gồm 5 mạch
·Trầm mà rất hữu lực, đè tay sát xương mới thấy là PHỤC.
·Trầm mà rất hữu lực, ở giữa khoảng Trầm và Phù là mạch LAO.
·Trầm mà rất vô lực, tìm kỹ mới thấy được là mạch NHƯỢC.
·1 hơi thở 4 lần là mạch HOÃN.
3- Nhóm Mạch SÁC: gồm 4 mạch
·Mạch Sác ở bộ quan, không có đầu đuôi là mạch ĐỘNG.
·Mạch Sác, thường đứng dừng lại rồi lại đi là mạch XÚC.
·7 - 8 lần đến là mạch TẬT.
4- Nhóm Mạch TRÌ: gồm 4 mạch
·Khi Trì, khi Sác, đứng lại có số nhất định là mạch ĐẠI (Đợi).
·Đến không đều số, đè tay thấy
Phù mà tán loạn là TÁN.
·Mạch Hoãn mà có khi đứng lại là mạch KẾT.
5- Nhóm Mạch HOẠT: gồm 6 mạch
·Như đè tay vào dây đàn là mạch HUYỀN.
·Đi lại như xoắn dây là mạch KHẨN.
·Không to không nhỏ như vót cần câu dài là mạch TRƯỜNG.
·Đến thịnh đi suy, đến to đi dài là mạch HỒNG.
·Như hình hột đậu, đụng tay vào xuống ngay là mạch ĐOẢN.
6- Nhóm Mạch SÁP: gồm 3 mạch
·Rất nhỏ mà mềm, ấn tay vào muốn tuyệt là mạch VI.
·Như mạch Vi mà rõ hơn là mạch TẾ.
- Lý Sĩ Tài trong thiên ‘Tứ Mạch Cương Lĩnh’ lại chỉ quy về 4 mạch
chính, gọi là Tứ Đại Mạch: Phù, Trầm, Trì, Sác.
- Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ lại chia mạch ra làm 6 loại gồm:
+ Loại mạch Phù (có 6 mạch): Phù, Hồng, Nhu, Tán, Khâu, Cách.
+ Loại mạch Trầm (có 5 mạch): Trầm, Phục, Nhược, Lao, Huyền.
+ Loại mạch Sác (4 mạch): Sác, Xúc, Tật, Động.
+ Loại mạch Trì (4 mạch): Trì, Hoãn, Sáp, Kết.
+ Loại mạch Hư (5 mạch): Hư, Tế, Vi, Đại (Đợi), Đoản.
+ Loại mạch Thực (4 mạch): Thực, Hoạt, Khẩn, Trường.
- Lê Hữu Trác trong tập ‘Y Gia Quan Miện’ (HTYTT. Lĩnh) lại chia mạch
theo ÂM DƯƠNG:
+ Nhóm Dương: có 7 mạch: Phù, Hồng, Hoạt, Thực, Huyền, Khẩn, Hồng gọi
là THẤT BIỂU MẠCH.
+ Nhóm Âm: có 8 mạch: Vi, Trầm, Trì, Hoãn, Sắc, Phục, Nhu và Nhược gọi
là BÁT LÝ MẠCH.
Nhóm còn lại gọi là CỬU ĐẠO MẠCH (9 mạch) gồm: Trường, Đoản, Hư, Kết,
Đại (Đợi), Xúc, Tán, Động, Tế.
BẢNG PHÂN LOẠI TÍNH CHẤT
MẠCH YHCT
(Theo sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’)
Hình Thức
|
Tính Chất
|
Loại Mạch
|
Ý Nghĩa
|
Cách Phân Biệt
|
Về vị trí nông sâu.
|
Sóng mạch nổi lên trên
hoặc chìm.
|
Phù
Trầm
|
Để phân biệt bệnh ở
biểu hoặc lý.
|
Ấn khẽ, vừa, mạnh mới
thấy.
|
Về cường độ đập.
|
Xem chấn động mạch
mạnh, yếu.
|
Hư
Thực
|
Để nhận ra sự thịnh
suy của tà và chính khí.
|
Mạch đập có lực hoặc
không có lực.
|
Về tốc độ mạch đập.
|
Tần số mạch nhanh hoặc
chậm.
|
Trì
Sác
|
Để nhận ra chứng hàn
hoặc nhiệt.
|
Phân biệt theo hơi thở
thầy thuốc hoặc đồng hồ.
|
Về nhịp đập.
|
Mạch đập đều hay
không.
|
Kết
Xúc
Đại (Đợi)
|
Để nhận ra khí có lưu
thông hoặc không.
|
Theo mức độ đập đều
hoặc không đều.
|
Về thể tích mạch.
|
Sóng mạch lớn hay nhỏ.
|
Hồng (Đại)
Tế (Tiểu)
|
Để nhận ra khí huyết
suy hoặc thịnh.
|
Theo thể to hoặc nhỏ
của mạch.
|
Về hình thái song mạch.
|
a- Độ đập lưu loát,
sóng mạch rõ, đều.
|
Hoạt
Sáp
|
Để nhận ra từng trạng
thái bệnh lý của tạng phủ khí huyết , đờm trệ.
|
Qua cảm giác về từng
hình thù của các sóng mạch.
|
b- Độ dài, yếu.
c- Độ căng, cứng.
|
Trường, Đoản, Huyền,
Khẩn,
Tán.
|
Theo sách ‘Kỳ Kinh Bát Mạch
Thảo’ của Lý Thời Trân:
¨ Mạch ở tay trái đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Trầm là mạch
ÂM DUY bị bệnh. - Biểu hiện: đau trong tim (mạch Âm Duy đi vào phần âm, chủ về
phần vinh, vinh là huyết, huyết thuộc về tâm, vì vậy đau trong tim).
¨ Mạch ở bộ xích thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Trầm Tế
là ÂM KIỀU MẠCH bị bệnh. Biểu hiện: dương khí không đủ mà âm khí vượng, thường
hay buồn ngủ, phía ngoài bắp chân dễ chịu mà phía trong căng thẳng (theo Nan thứ
29: dương hoãn mà âm cấp).
¨ Mạch ở tay bên phải đi từ bộ xích hơi chếch lên bộ thốn và Phù là
mạch DƯƠNG DUY bị bệnh. - Biểu hiện: thấy nóng, rét (lạnh), (mạch Dương Duy đi
vào phần dương, chủ về phần vệ, vệ là khí,
khí ở biểu vì vậy thấy nóng lạnh).
¨ Mạch ở 2 bộ thốn thấy lúc thì co vào, lúc duỗi ra và có vẻ Khẩn Tế
là mạch DƯƠNG KIỀU bị bệnh. - Biểu hiện: âm khí suy mà dương khí thịnh sinh ra
không ngủ được, phía trong bắp chân thì dễ chịu nhưng bên ngoài thì lại căng thẳng
(Nan thứ 29 (N. Kinh): âm hoãn mà dương cấp).
¨ Mạch ở 2 bộ quan thấy lúc thì co vào lúc duỗi ra mà có vẻ Hoạt Khẩn
là Mạch ĐỚI bị bệnh. Biểu hiện: bụng đầy trướng, eo lưng đau tê, ớn lạnh như ngồi
trong nước, phụ nữ thì bụng dưới đau, kinh nguyệt không đều, xích bạch đái.
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay để nhẹ mà đều đi Huyền Trường là mạch ĐỐC bị bệnh.
Biểu hiện: Sống lưng cứng, không thể cúi ngưả được, uốn ván.
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay đi Khẩn Tế mà Trường, ấn kỹ lại thấy đi như hạt
châu chạy liên tiếp là mạch NHÂM bị bệnh. Biểu hiện: đàn ông thì bị chứng sán
khí, đàn bà thì bị xích bạch đái hoặc tích tụ ở bụng dưới (trưng hà).
¨ 6 bộ mạch ở 2 tay phải ấn
thật mạnh mới thấy đi Huyền Trường là mạch XUNG bị bệnh. Biểu hiện: khí từ bụng
dưới xông lên, bụng trướng, đau.
No comments:
Post a Comment