LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Tuesday, October 25, 2016

4 mạch XUNG NHÂM ĐỐC ĐỚI và sự sinh sản của chị em




ĐẠI CƯƠNG BỆNH PHỤ KHOA



Dù trai hoặc gái tuy khác nhau nhưng cách chung thì cơ thể sinh lý cũng không ngoài sự hoạt động của âm dương, khí huyết, kinh lạc và tạng phủ, sự bẩm thụ cũng giống nhau.

PHỤ KHOA HỌC
 Đại Cương
Dù trai hoặc gái tuy khác nhau nhưng cách chung thì cơ thể sinh lý cũng không ngoài sự hoạt động của âm dương, khí huyết, kinh lạc và tạng phủ, sự bẩm thụ cũng giống nhau. Về nguyên nhân gây bệnh tật cũng không ngoài lục dâm bên ngoài, thất tình bên trong và ăùn uống, làm lụng mệt nhọc, phòng dục. Cho nên nói chung bệnh tật về nội ngoại khoa căn bản giống nhau, vì thế cách chẩn đoán, trị liệu cũng như nhau. Do đó một số bệnh tật phụ nữ, phần lớn đã bao gồm trong các khoa như: Nội khoa, Ngoại khoa, Nhãn khoa, Hầu khoa.
Về sinh lý và giải phẫu, phụ nữ có chỗ khác với nam giới, và tình trạng sinh lý, thai nghén, sinh đẻ, cho con bú có khác nhau, vì thế mà sinh ra một số bệnh tật đặc biệt trong một phạm vi nhất định. Không những có đặc điểm về mặt bệnh lý mà đến chẩn đoán và trị liệu cũng có chỗ cần phải đặc biệt chú ý.
Căn cứ theo sự ghi chép trong các sách y học qua các thời đại thì phạm vi phụ khoa phần nhiều đều chia ra điều kinh, băng lậu, đới hạ, thai nghén, tiền sản, lâm sản, sản hậu và tạp bệnh. Nói chung đều bao gồm trong 5 loại: kinh nguyệt, đới hạ, thai nghén, sản hậu và tạp bệnh.

ĐẶC ĐIỂM CỦA PHỤ KHOA
Đặc điểm sinh lý
Kinh Nguyệt
Phụ nữ trong tình trạng phát dục bình thường, khoảng trên dưới 14 tuổi thì bắt đầu thấy kinh, thường cứ mỗi tháng 1 lần. Người xưa cho là phụ nữ thuộc về âm nguyên khi ứng với mặt trăng, mặt trăng cứ 3 tuần (30 ngày), một lần tròn, kinh nguyệt cũng 3 tuần 1 lần cho nên tháng nào cũng đúng kỳ, thường xuyên không thay đổi, cho nên gọi là kinh nguyệt, còn gọi là nguyệt tín, ý nói là thường xuyên đúng hẹn.
Cơ chế sinh ra kinh nguyệt, trong Nội kinh đã nêu ra rất sớm như Thiên Thượng Cổ Thiên Chân Luận (Tố Vấn) chép: "Con gái 7 tuổi thân khí thịnh, răng thay, tóc dài; 14 tuổi (2x7) thì có thiên quý, mạch Nhâm thông, mạch Thái xung thịnh, nguyệt sự di thời hạn hữu năng có con; 2 1 tuổi (3x7) Thận  khí cân bằng, cho nên răng khôn mọc; tuổi 28 (4x7) thì gân cốt cứng cáp tóc dài hết sức, thân thể mạnh mẽ; 35 tuổi (5x7) mạch Dương minh suy, da mặt bắt đầu nhăn rám, tóc bắt đầu rụng; 42 tuổi (6x7) ba mạch dương đều suy ở phần trên, mặt nhăn nheo tóc đầu bạc, ' 49 tuổi (7x7)  mạch Nhâm hư, mạch Thái xung suy kém, thiên quý kiệt, đường mạch Túc thiếu âm không thông cho nên hình thể suy tàn mà không sinh đẻ nữa".
Đoạn kinh văn trên đã miêu tả một cách khái quát có hệ thống về đặc điểm sinh lý từ thời kỳ phát dục cho đến lúc mãn kinh của phụ nữ, đồng thời theo đó cũng có thể thấy được lý luận của Đông Y : kinh nguyệt và thai nghén của phụ nữ chủ yếu có quan hệ với 2 mạch Xung, Nhâm.
Mạch Xung thuộc về Dương minh là chỗ các kinh mạch hội tụ, lại là cái bể của huyết mà cốc khí thịnh thì bể huyết đầy, kinh nguyệt mới ra đúng kỳ  hạn, mạch Nhâm chủ về bào thai, thống quản các mạch âm trong nhân thể là cái bể của các mạch âm. Hai mạch ấy giúp đỡ nhau và nương tựa lẫn nhau là nguồn gốc do vậy Vương Băng nói: t'xung là bể huyết, Nhâm chủ về bào thai, (xung vi huyết hải, nhâm chủ bào cung) 2 mạch đó cùng nương tựa lẫn nhau, cho nên mới có con được".
Cơ chế chủ yếu sinh ra kinh nguyệt tuy ở hai mạch Xung và Nhâm, nhưng cũng  quan hệ mật thiết với 5 tạng. Vì kinh là do huyết biến hoá, mà trong 5 tạng thì Tâm chủ về huyết, Can  tàng trữ huyết, Tỳ  thống nhiếp huyết, là nguồn cung cấp cho sự sinh hoá; Thận  chứa tinh, chủ về tuỷ, huyết lại do tinh với tuỷ hoá ra; Phế  chủ về khí trong nhân thể, là nơi các huyết mạch hội tụ và mạch vận chuyển chất tinh vi. Các tạng đều có tác dụng trọng yếu và trực tiếp quan hệ với huyết như sinh hoá huyết, tàng trữ thống nhiếp huyết, điều hoà huyết, vận chuyển huyết, mà huyết của phụ nữ khi đi lên trên biến thành sữa, khi đi xuống thì vào bể huyết như 5 tạng an hoà, huyết mạch lưu thông ra kinh nguyệt đều có tác dụng trọng yếu của nó. Người phụ nữ khoẻ mạnh, bình thường độ 28 ngày thấy kinh nguyệt một lần, trừ những lúc thai nghén và cho con bú, kinh nguyệt cứ theo quy luật đúng kỳ hạn mà có, đó là sinh lý bình thường.
Nhưng cũng có người thân thể vô bệnh mà cứ hai tháng hành kinh một lần thì gọi là ‘Tính Nguyệt’; 3 tháng hành kinh 1 lần gọi là ‘Cư Kinh’; Mỗi năm hành kinh 1 lần thì gọi là ‘Tỵ Niên’; Suốt đời không hành kinh mà vẫn cứ có nghén thì gọi là "Ám kinh"; Sau khi có nghén mà đến kỳ vẫn ra kinh nguyệt chút ít không tổn hại đến thai gọi là ‘Khích kinh', lại gọi là ‘Cấu thai’ hoặc ‘Thịnh thai’ đó đều bình thường trên sinh lý, không phải là bệnh tật.
Ngoài chu kỳ theo quy luật nhất định của kinh nguyệt thì số lượng của kinh cũng có mức nhất định; số lượng bình thường độ 50 - 100 ml.
Tuy vậy số lượng kinh nguyệt của mỗi người đều có khác nhau, mà ngay trong một người cũng tuỳ theo tuổi mà có sự thay đổi, nhưng nói chung số lượng kinh không nhiều quá cũng không ít quá là bình thường. Mỗi lần hành kinh liên tục độ 3 - 7 ngày, kinh lúc đầu thì đỏ nhợt, về sau sẫm hơn thành ra đỏ thẫm, cuối cùng lại đỏ nhợt. Nói chung, kinh không đông lại, không có cục, không loãng không đặc, không có mùi hôi quá tức  là kinh nguyệt bình thường.
Thời kỳ mới bắt đầu hành kinh và thời kỳ đã sắp hết kinh sẽ hiện ra những tình trạng khác thường. Kỳ đầu tiên thường kéo dài hoặc dừng lại 2 - 3 tháng, nếu trong người không có bệnh gì khác thì không cần chữa, trong thời gian ngắn sẽ trở lại bình thường; kỳ cuối cùng hết kinh thường có 1 giai đoạn rối loạn kinh nguyệt và có thể kèm theo những cú phát sốt bất thường, dễ nổi giận, không muốn ăn thì nên điều trị bằng thuốc thích đáng để chứng bệnh giảm nhẹ dần mà nên chú ý xem có bệnh gì tồn tại không (như loại bệnh ung thư vú chẳng hạn).
Trước và trong thời gian hành kinh có thể có những hiện tượng như bụng dưới hơi bị trướng đầy khó chịu, mỏi lưng, váng đầu, mỏi tay chân, ăn không biết ngon, bầu vú hơi căng, tính tình có chút thay đổi, nếu không có dấu hiệu gì nghiêm trọng đặc biệt thì qua kỳ kinh rồi tự nhiên sẽ khỏi, các hiện trạng đó không thuộc vào phạm vi bệnh tật.
Thai Nghén Và Sinh Đẻ
Trai gái khi đến tuổi dậy thì mà hai bên giao hợp thì có thể có thai, Thiên ‘Quyết Khí’(Linh Khu) viết: "Hai thần cấu kết với nhau, hợp lại mà thành hình, trước khi chưa kết thành hình thì còn là tinh'. Câu này nói lên: muôn vật hoá sinh, trước hết tất do ở tinh, tinh của trai gái hợp với nhau sẽ cấu tạo thành thân hình. Như thế là nói rất rõ ràng về nguyên lý của việc thụ thai.
Phụ nữ sau khi thụ thai về sinh lý có một số thay đổi đặc biệt. Nói về dấu hiệu của cơ thể thì trước tiên là không hành kinh nữa, âm đạo tiết nước ra thêm nhiều, vùng ngoài âm đạo màu da sẫm lại, tổ chức chỗ đó dẻo mềm ra, bầu vú dần dần phình to, đầu vú và quầng vú cũng thâm lại và có một số điểm tròn nổi lên, lúc mới thụ thai có thể nặn ra một ít sữa gọi là ‘sữa non’. Phía trước trán và chính giữa đường bụng cũng có mầu sẫm mà hiện ra sắc nâu. Sau lúc có thai, vì thai nhi lớn lên dần, nên tử cung cũng lớn dần, sau 1-3 tháng, vùng bụng dưới dần dần phình to, vách bụng giãn ra, hiện ra sắc  phấn hồng hoặc những đường vằn trắng. Sau 4 tháng người có mang có thể tự thấy thai cử động. Thời kỳ đầu của thai nghén thường biểu hiện ra ăn uống khác thường, như ham ăn của chua, và có thể sinh ra lợm oẹ và nôn mửa nhẹ. Có thai đã đến thời kỳ cuối thì thường có những hiện tượng muốn đi đái luôn và đại tiện bí kết.
Thụ thai được khoảng 280 ngày (độ chín tháng rưỡi) là đẻ, sự sinh đẻ là một hiện tượng bình thường sinh lý nói chung không có gì đáng lo ngại, người xưa đã hình dung sự sinh đẻ như " dưa chín thì cuống rụng" (tróc miệng ớ a) như vậy rất là đúng.
Trong ngày đầu sau lúc sinh, có thể có hiện tượng phát sốt, sợ rét, đổ mồ hôi hột, mạch trì hoãn là do nguyên nhân lúc sinh đẻ hao tán mất nhiều khí huyết. Tình trạng đó nếu như nhanh chóng giảm bớt mà không phát triển nghiêm trọng thì không coi là hiện tượng bệnh lý. Sau lúc đẻ trong 20 ngày, trong âm đạo tất có huyết hôi chảy ra, có một số sản phụ sau khi đẻ vài ngày bụng dưới có đau từng cơn nhẹ nếu không phải đau dữ dội, sau vài ngày tự nhiên khỏi thì cũng không nên coi là hiện tượng bệnh lý Phụ nữ sau khi sinh được nghỉ ngơi trên dưới 40 - 50 ngày ngoài việc cho con bú kinh nguyệt đình chỉ ra thì toàn bộ thân thể đều khôi phục lại trong trạng thái bình thường như trước. Đang trong thời kỳ cho con bú nói chung là khó thụ thai.
Quan Hệ Giữa Kinh Mạch Và Phụ Khoa
Những mạch Xung, Nhâm, Đốc, Đới trong 8 mạch kỳ kinh đều có quan hệ mật thiết với phụ khoa; trong đó trọng yếu nhất là 2 mạch Xung, Nhâm, vì sự thịnh suy của Xung, Nhâm có liên hệ mật thiết đến Kinh, Đới, Thai, Sản của phụ nữ. Ba mạch Xung, Nhâm, Đốc cũng khởi từ huyệt Hội âm, một gốc chia thành 3 nhánh, mà mạch Xung, Nhâm nối liền vào trong tử cung đều chịu sự ràng buộc của mạch Đới. Do đó mà 4 mạch Xung Nhâm, Đốc, Đới cùng liên quan lẫn nhau, cùng ảnh hưởng lẫn nhau, mới gây thành một hệ thống có quan hệ trực tiếp đến sinh lý của phụ nữ. Về tác dụng trọng yếu của 2 mạch Xung, Nhâm nếu Xung, Nhâm mà đầy đủ thịnh vượng thì thân thể khoẻ mạnh, kinh nguyệt điều hoà thụ thai và sinh đẻ được bình thường, nếu mạch Xung, Nhâm bị thương tổn thì có thể gây ra các loại bệnh tật về phụ khoa. Tác dụng của mạch Đốc và  mạch Đới thì mạch Đốc thống đốc các mạch dương trong toàn thân, so với mạch Nhâm thì một bên chủ các mạch dương, một bên chủ các mạch âm để duy trì sự điều hoà của âm dương trong thân thể, mạch Đới thì ràng buộc lấy các mạch, để tăng cường mối liên hệ lẫn nhau giữa các mạch. Nếu công năng của mạch Đới không điều hoà thì làm cho ba mạch Xung, Nhâm, Đốc sinh ra bệnh như các bệnh đới hạ, bệnh không thụ thai, khó sinh đẻ…
Như vậy, bốn mạch Xung, Nhâm, Đốc, Đới chiếm một vị trí trọng yếu trong phụ khoa. Nhưng 4 mạch đó không những có quan hệ trực tiếp đến sinh lý, bệnh lý đặc biệt của phụ nữ, mà đồng thời còn có quan hệ lẫn nhau với các kinh mạch khác và khí huyết tạng phủ của thân thể. Vì thế cần phải dựa vào quan niệm chỉnh thể của Y học cổ truyền để hiểu được tác dụng của 4 mạch Xung, Nhâm, Đốc, Đới.
Đặc Điểm Bệnh Lý
Nguyên nhân sinh bệnh về phụ khoa, tuy giống như nội khoa, không ngoài ngoại cảm lục dâm, nội thương thất tình cùng bị tổn thương về ăn uống làm lụng nhọc mệt, phòng dục... Nhưng trong những nguyên nhân đó phụ khoa vẫn còn có những đặc điểm của nó, nay giới thiệu những điểm mấu chốt như sau:
Về Ngoại Cảm Lục Dâm
Chủ yếu là do hàn, nhiệt, thấp. Phụ nữ lấy huyết làm chủ, huyết gặp nhiệt thì lưu thông, gặp hàn thì ngừng trệ, nhiệt thịnh quá thì làm cho huyết đi sai đường có thể gây nên những bệnh như: Kinh nguyệt đến trước kỳ mà quá nhiều gây băng huyết, rong huyết, hành kinh thì nôn mửa, trước khi hành kinh thì tiện huyết. Hàn thịnh thì huyết ngưng trệ không lưu thông, thường hay thể hiện các bệnh như kinh nguyệt đến sau kỳ, quá ít hành kinh đau bụng, kinh bế, trưng, hà; nếu thấp uất đọng thì thường sinh bệnh đới hạ.
Bị kích thích thất tình cũng là nhân tố chủ yếu về bệnh tật phụ khoa. Thất tình liên quan đến 5 tạng mà ảnh hưởng đến khí huyết, các bệnh về phụ khoa phần nhiều ở phần huyết nhưng khí làm chủ tễ cho huyết, huyết nhờ khí mà vận hành, khí huyết cùng bồi đắp lẫn nhau không thể tách rời được, thất tình mà kích thích, phần nhiều hại cho khí, khí không điều hoà thì huyết cũng không điều hoà, mọi bệnh ở phụ khoa do đó mà sinh ra.
Trong xã hội cũ, phụ nữ bị nhiều từng áp bức nên phần nhiều vì sự kích thích của thất tình mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, kinh mà sinh bệnh. Ngày nay phụ nữ đã được giải phóng triệt để, nhân tố đó căn bản không còn tồn tại nữa, nhưng vì phụ nữ có những đặc điểm sinh lý như kinh nguyệt, thai nghén, sinh đẻ, tinh thần cũng lay động hơn, cho nên bệnh về tình chí .còn thấy nhiều. Thiên ‘Âm Dương Biệt Luận’ ( Tố Vấn) viết: "Bệnh của dương minh phát ra ở Tâm, Tỳ , con gái có sự lo nghĩ uẩn khúc ở trong, nên kinh bế tắc". Thiên ‘Nuy Luận’ (Tố Vấn) viết: “Nghĩ ngợi lan man, không thoả lòng mong muốn, ý muốn trăng hoa, sinh ra chứng bạch dâm".
Những trích dẫn này đã nêu ra cụ thể về quan hệ của thất tình đối với bệnh tật của phụ nữ.
Phòng dục không chừng mực cũng là nhân tố trọng yếu gây ra bệnh tật của phụ nữ. Vì phòng dục không chừng mực, thường tổn đến mạch Xung Nhâm và Can  Thận  , mà mạch Xung Nhâm bị tổn hại, Can  Thận   bị hư yếu, tinh huyết bị tiêu hao thì tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến Kinh, Đới, Thai, Sản. Thiên ‘Phúc Trung Luận’ ( Tố Vấn ) viết: "Bệnh huyết khô là lúc tuổi trẻ bị mất huyết quá nhiều, hoặc sau lúc say rượu nhập phòng làm cho khí kiệt và Can  bị tổn hại, nên kinh nguyệt suy kém không hành được". Sách ‘Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận’ cũng viết: "Nếu hành kinh chưa hết mà giao cấu làm cho mạch máu của phụ nữ bị co, bụng dưới nặng căng và đầy, ngực sườn lưng co rút tay chân đau mỏi, ăn uống thất thường, huyết hôi đóng lại nên kinh nguyệt thất thường, ra trước hoặc sau kỳ, do đó sinh ra tích huyết, giống như hiện trạng có thai'. Chu Đan Khê cũng có chủ trương ‘hạn chế tình dục để phòng bệnh’.
Cơ Chế Của Bệnh
Sự phát sinh về bệnh tật phụ nữ, tuy nhân tố chủ yếu là do lục dâm, thất tình và phòng dục gây ra, nhưng những nhân tố đó lại có ảnh hưởng đến khí huyết không đều, ngũ tạng bất hoà, mạch Xung, mạch Nhâm tổn hại, mới có thể gây ra bệnh tật được.
            Khí Huyết Không Đều: Khí huyết không đều là do một lý do trọng yếu gây ra bệnh tật ở phụ nữ. Vì phụ nữ lấy huyết làm căn bản, các phương diện Kinh, Đới, Thai, Sản, đều có quan hệ mật thiết với phần huyết. Đồng thời trong khi hành kinh, thai nghén, sinh đẻ lại dễ tổn hại đến huyết mà sinh ra bệnh tật. Nhưng huyết lại phối hợp với khí, sự thăng, giáng, hàn, nhiệt, hư, thực của huyết đều do khí. Nếu khí nhiệt thì huyết nhiệt mà sắc bầm, khí hàn thì huyết hàn mà sắc xám, khí thăng thì huyết nghịch lên và vượt ra, khí hãm xuống thì huyết theo xuống gây rà băng huyết rong huyết. Vì thế bất kỳ nhân tố gây bệnh gì, hễ mỗi khi ảnh hưởng đến khí hoặc huyết, làm cho khí huyết mất điều hoà, thì sẽ gây ra bệnh tật về các mặt Kinh, Đới, Thai, Sản.
Năm Tạng Không Điều Hoà: Do lo nghĩ uất giận, hoặc vì lao động nhọc mệt, hoặc vì lục dâm, ăn uống, hoặc vì phòng dục không kiêng cữ, đều có thể làm cho 5 tạng không điều hoà mà sinh ra bệnh tật: Vì phụ nữ lấy huyết làm căn bản, mà nguồn gốc của huyết có liên hệ với ngũ tạng (nhờ sự sinh hoá của Tỳ , thống thuộc của Tâm, tàng trữ của Can , phân bố của Phế , và sự nuôi dưỡng của Thận ), để nhuần tưới khắp toàn thân. Nếu khí của Tâm suy nhược, huyết dịch không đủ, thì dễ sinh ra các  bệnh kinh nguyệt không đều, kinh nguyệt bế tắc, không thụ thai. Uất giận hại Can , khí của Can  uất kết, huyết không trở về tim, sẽ xuất hiện các bệnh rối loạn kinh nguyệt hoặc băng huyết, rong huyết. Ăn uống, làm lụng nhọc mệt hoặc lo nghĩ hại đến Tỳ , không những có ảnh hưởng đến tiêu hoá làm cho thân thể gầy yếu, còn có thể làm cho huyết hư hoặc khí hãm xuống dẫn đến các bệnh bế kinh, băng huyết, rong huyết và đới hạ. Ngoại cảm lục dâm hoặc buồn sầu làm tổn thương Phế , khí của Phế  bị tổn thương, không chuyển vận được huyết, có thể làm cho huyết hư, huyết khô gây nên chứng phong tiêu, tức bôn. Ngồi lâu nơi ẩm ướt hoặc tự nhiên bị kinh khủng hoặc phòng dục quá mệt, Thận  khí hao tổn, có thể dẫn đến các bệnh rối loạn kinh nguyệt, băng huyết, rong huyết, đới hạ, không thụ thai và sinh non. Xét công năng của 5 tạng thì đều có quan hệ với khí huyết. Bất kỳ nhân tố nào mà ảnh hưởng tới công năng của 5 tạng, đều có thể làm cho khí huyết không điều hoà, gây ra những bệnh khác nhau về phụ khoa. Cho nên 5 tạng không điều hoà cũng là một lý do chủ yếu phát sinh ra bệnh tật của phụ nữ.
Hai Mạch Xung, Nhâm Bị Thương Tổn: là một lý do phát bệnh chủ yếu nhất về  phụ khoa. Công năng hai mạch Xung, Nhâm nếu bình thường, kinh hành được đúng kỳ, thì mới có thể sinh đẻ được, nếu bị kích thích bởi những nhân tố không tốt, sẽ sinh ra bệnh, huyết sẽ không đầy đủ mà không thể hành kinh đúng kỳ được, bào thai cũng không có chỗ nương tựa, gây thành các chứng bệnh kinh nguyệt không đều, kinh bế tắc, không thụ thai, có khối u huyết...
Đặc điểm sinh lý và biến hoá bệnh lý của phụ nữ thể hiện ra các mặt Kinh, Đới, Thai, Sản mà hai mạch Xung, Nhâm chủ trì những tác dụng đó, vì thế cho nên tất cả bệnh tật về phụ khoa đều phải ảnh hưởng đến cơ năng của 2 mạch Xung, Nhâm mới phát sinh ra được. Mạch Xung, Nhâm lại cần phải tiếp nhận chất huyết, chất dinh dưỡng của ngũ tạng mới có thể phát huy được tác dụng. Phụ nữ mà khí huyết điều hoà, 5 tạng yên ổn thì bể huyết sẽ tràn đầy, mạch Nhâm được thông lợi. Cho nên tác dụng của khí huyết, ngũ tạng, mạch Xung, mạch Nhâm tuy có khác nhau, nhưng đối với phụ khoa thì giữa những cái đó có quan hệ mật thiết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau không thể tách rời nhau được. Như vậy, bất kỳ nhân tố gây bệnh gì, hễ ảnh hưởng đến một thứ trong đó đều có thể làm cho 2 mạch Xung, Nhâm bị bệnh mà gây nên bệnh.
Nguyên Tắc Chẩn Đoán
Chẩn đoán bệnh của phụ nữ, tuy cũng giống như các khoa khác, là cần phải thông qua tứ chẩn: "Vọng, văn, vấn, thiết" để thu nhận các dữ liệu có quan hệ đến bệnh tình, để giúp cho việc tham khảo về biện chứng luận trị. Nhưng có một số phụ nữ e thẹn, không chịu nói rõ hết bệnh tình, cho nên trong việc chẩn đoán cần đặc biệt chú ý đến vấn đề vấn chẩn và thiết chẩn, mới giúp cho việc hiểu rõ bệnh tình và phân tích chứng hậu để việc chẩn đoán và điều trị được chính xác.
VẤN CHẨN
Hỏi kinh nguyệt
Khi khám bệnh phụ nữ cần phải hỏi xem thấy kinh có đúng kỳ không, có ra trước kỳ hay sau kỳ không, lúc hành kinh có đau nhức ở bụng ở lưng, ở sườn, ở ngực không? Lần hành kinh cuối cùng đến ngày khám bệnh, cách mấy ngày ? Số lượng kinh ra nhiều hay ít, màu kinh đậm hay nhạt, chất lượng đặc hay lỏng, có mùi hôi gì khác không? Nếu kinh ra trước kỳ, lượng nhiều, mầu bầm tím, có khi kèm huyết khối, mặt đỏ, miệng khát, thích mát, sợ nóng, thường là nhiệt. Nếu kinh đến sau kỳ, lượng ít, mầu không tươi, đỏ sẫm hoặc nhạt, thích nóng, sợ lạnh, hoặc bụng dưới lạnh đau, chườm nóng thì đỡ, thường là hàn chứng. Nếu kinh nguyệt khác thường, bụng dưới đau, ấn vào khó chịu, thuộc thực chứng. Đau âm ỉ, ấn vào dễ chịu thuộc về hư chứng? Nếu sắp hành kinh mà đau bụng là khí trệ, hành kinh rồi đau bụng là khí hư. Kinh ra nhiều hoặc kéo dài ngày không hết, máu đỏ hoặc tím mà ra từng khối có mùi tanh hôi, lưng bụng trướng đau, đầu choáng, miệng khô là huyết nhiệt. Nếu kinh ra như nước đậu nóng, thích nóng sợ lạnh, tay chân mát lạnh, bụng dưới lạnh đau, thích chườm nóng, phần nhiều là hư hàn. Nếu tắt kinh hai tháng, và thèm của chua, hay nôn mửa, ăn uống kém, toàn thân hơi mỏi, phần nhiều là mới có thai. Nếu tắt kinh 4 tháng trở lên, đầu vú đen, buồng vú căng lên, vùng bụng lớn, tự cảm thấy hơi động, là có thai đã tới kỳ giữa. Nếu đã có thai mà mỗi tháng vẫn cứ hành kinh gọi là ‘cấu thai’. Nếu kinh nguyệt vài tháng không xuống, sắc mặt xanh nhợt hoặc xanh vàng, đầu mắt xoay xẩm, tim hồi hộp, thở hụt hơi, ăn uống sút kém, nặng thì thân thể gầy ốm, da khô, lại không thấy thai máy động, phần nhiều là kinh bế.
Hỏi Về Đới Hạ
Ngoài việc hỏi về kinh nguyệt, còn phải hỏi xem có chứng đới hạ hay không, và màu sắc, số lượng, trong đục ra sao, có mùi hôi không ? Nếu đới hạ ra nhiều, sắc trắng như đờm mũi, tinh thần uể oải, ăn uống sút kém, thường là Tỳ  hư thấp nhiều. Nếu đới hạ mầu vàng, hoặc máu mầu rau úa, đặc dính, hôi hám mà thấy ngoài âm hộ  ngứa,  đau, phần nhiều thuộc thấp nhiệt. Nếu đới hạ mầu đỏ, giống huyết nhưng không phải huyết, ra dầm dề và hơi có mùi hôi, phần nhiều do Can  kinh bị uất nhiệt. Đới hạ ra máu đen sẫm, chất loãng mà nhiều, hoặc như lòng trắng trứng, bụng dưới thấy lạnh, eo lưng nặng, yếu sức, thích nóng, sợ lạnh, tiểu nhiều, nước tiếu trong phần nhiều thuộc Thận  hư. Đới hạ ra sắc trắng mà trong loãng, phần nhiều thuộc hư, thuộc hàn; sắc vàng hoặc đỏ, đặc dính, mùi hôi, phần nhiều thuộc thực, thuộc nhiệt.
Hỏi Về Thai Nghén
Đã sinh nở được mấy con, có bị sẩy thai hoặc đẻ non không và tình hình sinh đẻ có bình thường không? Nếu cưới đã vài năm mà không thai nghén, hoặc đã đẻ rồi lại mấy năm chưa có nghén mà vùng eo lưng căng nhức luôn luôn, có thai thường bị đẻ non, thì phần nhiều thuộc Thận  hư, mạch Xung, mạch Nhâm hư tổn. Nếu có thai và sinh đẻ nhiều lần, mà sau lúc đẻ lại mất huyết, thì phần nhiều thuộc khí huyết không đầy đủ. Căn cứ vào tình hình thai nghén và sinh đẻ, để hiểu rõ khí huyết người ấy thịnh hay suy, để giúp cho việc phân tích chứng bệnh được nhiều.
Thiết Chẩn
Thiết chẩn cũng có đặc điểm nhất định trong việc chẩn đoán về phụ khoa. Căn cứ vào mạch phối hợp với thân thể và chứng trạng để biện chứng, mới có thể giúp cho sự chẩn đoán được chính xác, cho nên cần phải xem xét kỹ.
Chẩn Mạch Về Kinh Nguyệt
Phụ nữ không có hiện tượng mình nóng miệng đắng, bụng trướng, mà mạch ở bộ thốn bên phải Phù Hồng, là triệu chứng sắp có kinh nguyệt, hoặc đang kỳ hành kinh.
Kinh bế tắc không ra, mạch xích hơi sáp, phần nhiều là chứng hư do huyết kém, nếu mạch xích Hoạt mà đứt nối không đều, lại là chứng thực do huyết thực, khí thịnh.
Chứng băng huyết, mạch phần nhiều Hư, Đại, Huyền, Sác, nếu lâu ngày không dứt, nên thấy mạch Tế, Tiểu, Khâu, Trì, nếu chỉ thấy Hư Sáp, Sác thì sẽ không tốt.
Chẩn Mạch Về Thai Nghén
Tắt kinh 2 - 3 tháng, tượng mạch điều hoà mà mạch không Huyền, kính, Sáp, Phục, hoặc bộ thốn bên phải và 2 bộ xích hoạt lợi hơn là hiện tượng mạch mới có thai; nếu 6 bộ mạch điều hoà mà nôn mửa, kém ăn cũng là mạch có thai, nếu đã có thai mà 6 bộ mạch Trầm, Tề, Đoản, Sáp, hoặc 2 mạch xích yếu thì thường là triệu chứng sẩy thai, cần đề phòng sẩy thai.
Có thai mà cảm phong hàn thì mạch nên Hoãn Hoạt lưu lợi, kỵ mạch Hư, Sáp, táo, cấp. Có thai mà bị kiết lỵ mạch nên nhỏ, hoạt không nên Hồng, Sác.
Thai đủ tháng, mạch hiện ra Phù, Sác, tán loạn hoặc Trầm Tế mà Hoạt thì gọi là mạch ‘Ly kinh’, hoặc 2 bên đốt thứ 3 ngón tay giữa đến đầu ngón ấn vào thấy mạch đập, đồng thời có đau bụng lan ra sau xương sống, đó đều là hiện tượng sắp sinh.
Chẩn Mạch Sau Khi Sinh
Mạch sau khi sinh nên hư hoãn, điều hoa, không nên Hồng, Đại, Huyền, Lao. Nếu ra huyết không dứt, mà mạch bộ xích không lên đến bộ quan thì phần nhiều  sẽ không tốt. Sau khi sinh bị trúng phong, bị bệnh nhiệt thì mạch nên Phù, Nhược, hoà hoãn, không nên có mạch Tiểu, Cấp, Huyền, Tuyệt.
Trên lâm sàng, ngoài việc nắm vững một số đặc trưng đó ra, còn phải kết hợp với tình hình đã nhận xét được ở "vọng, văn, vấn" để phân tích biện chứng toàn diện mới có thể chẩn đoán được chính xác.
Biện Chứng
Bệnh tật của phụ khoa chủ yếu biểu hiện ra ở các mặt Kinh, Đới, Thai, Sản, mà những bệnh đó đều dễ hao tổn khí huyết, đồng thời có một số phụ nữ vốn tính trầm tĩnh, đa sầu đa cảm, thường hay uất ức, hoặc vì ham ăn thức ăn béo bổ dễ sinh ra đờm thấp. Vì vậy chẩn đoán bệnh tật phụ khoa cần phải nắm vững những đặc điểm đó, căn cứ vào tinh thần biện chứng của bát cương, kết hợp với những chứng hậu phản ánh trên lâm sàng để phân biệt bệnh đó là hàn hay nhiệt, hư hay thực, ở khí hay ở huyết, thuộc đờm hay thuộc thấp, mới có thể theo chứng hậu phức tạp mà thấu nhận được những điểm chủ yếu, để tiến hành biện chứng và trị liệu.
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ
Cách chữa bệnh phụ khoa cũng giống như các khoa khác, quan trọng là ở chỗ điều chỉnh và khôi phục cơ năng toàn thân. Do đó, cần phải căn cứ vào tinh thần biện chứng luận trị mà vận dụng tứ chẩn, bát cương, xem xét cẩn Thận  về hình, khí, sắc, mạch, kết hợp với khí hậu thời tiết, chỗ ở và ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi, tính tình, bệnh cũ, để tìm cho ra nguyên nhân phát bệnh mà phân biệt rõ hàn, nhiệt, hư, thực, khí, huyết, đờm, thấp, rồi sau đó mới xác định cách chữa. Nhưng vì phụ nữ có đặc điểm về sinh lý, nên có tính dễ cảm động và dễ ảnh hưởng đến công năng bình thường của Tâm, Tỳ , Can , Thận , làm cho khí huyết thất thường, Tỳ  Vị  mất điều hoà, Can  Thận   bị hao tổn, Tâm khí không thư thái, đến nỗi mạch Xung, mạch Nhâm bị tổn hại nên mọi bệnh về Kinh, Đới, Thai, Sản đều có thể sinh ra. Do đó mà trong lúc chữa bệnh nên căn cứ vào phép tắc dưới đây, để điều chỉnh và khôi phục cơ năng trong toàn thân.
Điều Khí Huyết
Bệnh tật về phụ khoa chú trọng ở khí huyết vì vậy, bất cứ nhân tố nào ảnh hưởng đến khí hoặc huyết sẽ làm cho khí huyết bị rối loạn gây nên bệnh, cho nên cách chữa bệnh cần lấy việc điều lý khí huyết làm đầu.
Khí huyết điều hoà thì tạng phủ yên ổn, kinh mạch thông sướng, mạch Xung, Nhâm thịnh vượng thì các bệnh về  Kinh, Đới, Thai, Sản sẽ khỏi hết. Muốn điều hoà khí huyết nên kết hợp với chứng trạng trên lâm sàng để phân biệt ra bệnh ở khí hay ở huyết rồi mới nêu ra phép chữa.
Bệnh ở phần khí thì chữa khí là chủ yếu mà chữa huyết là thứ yếu, nếu khí nghịch thì giáng khí; khí uất thì khai uất, hành khí; Khí bị rối loạn thì điều khí, lý khí; Khí hàn thì ôn dương, ích khí; Khí hư thì bổ khí và dùng thứ thuốc dưỡng huyết, hoạt huyết để hỗ trợ.
Bệnh tại huyết nên chữa huyết làm chủ yếu, điều khí là thứ yếu. Nếu huyết hàn thì nên ôn, huyết nhiệt thì nên thanh, huyết hư thì nên bổ, huyết trệ thì nên thông, và căn cứ vào bệnh tình mà dùng thêm các thứ thuốc bổ khí, lý khí, và hành khí. Đó là nguyên tắc chung của việc điều lý khí huyết. Nếu mất huyết quá nhiều sắp thành chứng quyết thoát, nên gấp rút bổ khí để giữ cho khỏi thoát, ngoài ra lúc dùng các cách ôn bổ, thanh bổ, công hạ thì nên chú trọng đến khí huyết, không làm cho quá nê trệ hoặc hao tán, mới có thể thu được hiệu quả tốt.
Hoà Tỳ Vị
Tỳ  Vị  là gốc của hậu thiên là nguồn sinh hoá. Nếu Tỳ  Vị  không điều hoà, nguồn sinh hoá không đủ thì bệnh tật về các mặt kinh nguyệt, thai nghén và sinh đẻ sẽ phát sinh. Trường hợp này nên điều hoà Tỳ  Vị , bồi bổ nguồn sinh hoá thì bệnh tự khỏi. Còn như phép ‘hoà’ nên căn cứ theo bệnh tình, chọn lấy nguyên tắc biện chứng luận trị : nếu hư thì bổ, tích thì tiêu, hàn thì làm cho ấm, nhiệt thì làm cho mát. Nếu bệnh tà chưa hại đến Tỳ  Vị  thì dùng thuốc cũng phải đề phòng, không nên dùng quá thứ thuốc nê trệ hoặc công phạt để khỏi hại đến chính khí của Tỳ  Vị  mà ảnh hưởng đến công năng vận hoá.
Dưỡng Can  Thận
Can  Thận   có tác dụng trên sinh lý của phụ nữ, một chủ chứa huyết, một chủ chứa tinh và tử cung. Can  là con của Thận , Can  chủ sơ tiết, Thận  chủ bế tàng, hai tạng giữ chức đóng mở, lại có liên hệ mật thiết với nhau, cho nên lúc chữa bệnh, thường nói cả Can  Thận  .
Ngoài ra kinh mạch của Can  Thận   lại liên quan với 2 mạch Xung, Nhâm mà mạch Xung thì khởi từ vùng Khí - Xung cùng với kinh mạch Túc thiếu âm đi song song đến rốn rồi đi lên; kinh mạch Túc quyết âm Can , khởi từ đầu ngón chân cái đi lên đến ngực, một chi mạch của nó đi lên mục hệ, cùng hội hợp với mạch Nhâm. Do đó Can  Thận   có bệnh, có thể ảnh hưởng đến mạch Xung, Nhâm. Mạch Xung, Nhâm bị tổn thương cũng có thể ảnh hưởng đến Can  Thận ; nói chung những bệnh tật thường thấy như những bệnh kinh bế, băng huyết, rong huyết, khí hư, sẩy thai, đều do Can  Thận   hư yếu hoặc mạch Xung, Nhâm bị tổn thương gây ra. Cách điều trị thường là bồi dưỡng Can  Thận . Chữa Can  Thận   tức là chữa mạch Xung, Nhâm cho nên bồi dưỡng Can  Thận   cũng là nguyên nhân cơ bản chữa bệnh của phụ khoa. Phần âm của Can  Thận   hư thì phải bổ âm, nên theo phép tư dưỡng; Phần dương của Can  Thận   hư thì phải phù dương, nên theo phép ôn dưỡng, làm cho khí của Can  Thận   đầy đủ thì Xung, Nhâm được bồi dưỡng mà mọi bệnh tự nhiên khỏi.
        Về trị liệu bệnh phụ khoa, ngoài việc nắm vững nguyên tắc cơ bản kể trên, đối với các loại bệnh tật vẫn phải nắm vững đặc điểm chung đó để biện chứng luận trị một cách cụ thể trong lúc chữa bệnh.
Bệnh Kinh Nguyệt
Bệnh phụ khoa trước hết chú trọng về điều kinh mà phép điều kinh có thể chia ra làm các phép: Trị theo căn bản, điều lý phần khí và điều dưỡng Tỳ  Vị. Trị theo căn bản là xét tới tận nguồn gốc, như trước đã có bệnh khác mà làm cho kinh nguyệt không điều hoà thì nên trị bệnh căn bản trước, bệnh căn bản khỏi thì kinh nguyệt tự điều hoà. Nếu trước thấy kinh nguyệt không đều rồi sau mới phát bệnh tật khác thì nên điều hoà kinh nguyệt đã, hễ kinh nguyệt điều hoà thì bệnh khác cũng khỏi.
Điều kinh, lý khí thì lấy hành khí, khai uất làm chủ, nhưng không nên quá dùng thuốc lương táo, cần phải dùng thứ thuốc bổ huyết và phần âm để khỏi tiêu hao khí huyết. Nếu khí loạn, khí nghịch, khí hàn, khí hư, nên căn cứ vào bệnh tình mà chọn dùng các phép như điều, giáng, ôn, bổ để chữa.
Việc điều dưỡng Tỳ  Vị  là bồi bổ nguồn gốc của huyết, về nguyên tắc dùng thuốc thì giống với đoạn trên. Ngoài ra lúc hành kinh dùng thuốc cũng nên cẩn Thận , nói chung không quá hàn, quá nhiệt, quá cay, quá tán, số lượng thuốc cũng không nên quá nhiều.
Bệnh Đới Hạ
Bệnh đới hạ, lấy thấp nhiệt làm chủ, bệnh mới phát phần nhiều do Tỳ  hư, nhiều thấp, tích lại lâu ngày thấp uất hoá ra nhiệt, có kèm cả đờm, phần nhiều do thấp hoá ra.
Cách chữa lấy bổ Tỳ , hoá thấp làm chủ yếu, sơ Can , lý khí, làm thứ yếu. Thiên về thấp nhiệt thì tả thấp nhiệt, thiên về khí hư thì bổ khí và thăng đề, Thận  âm hư thì nhuận bổ Thận  âm; Thận  dương hư thì ôn bổ Thận  dương. Bệnh lâu ngày không khỏi thì nên linh động dùng thuốc cố sáp, không nên dùng những thứ thuốc thanh nhiệt táo thấp để khỏi hại đến âm dịch, lại không nên quá dùng những thứ thuốc nê trệ cố sáp, để phòng thấp trệ.
Nếuthuộc chứng lâm lậu đái đục thì nên thanh nhiệt giải độc, thuộc chứng trưng hà tất phải làm tiêu tán báng cục. Bệnh này cần phải chữa từ gốc mới có thể khỏi hoàn toàn được.
Bệnh Thai Nghén
Khi đã có thai thì trước hết nên chú trọng dưỡng thai. Trong thời kỳ có thai mà bị bệnh thì nên một mặt chữa bệnh và một mặt bảo vệ lấy thai. Khi sử dụng thuốc nên chú ý đến thuốc kỵ thai. Những thứ thuốc hạ mạch, hoạt lợi, hành huyết, phá huyết. hao khí, tán khí và tất cả các thuốc có độc khi dùng cần hết sức cẩn Thận . Những trường hợp cần thiết cũng nên chọn dùng cho thích hợp, thiên ‘Lục Nguyên Chính Kỷ Đại Luận’ (Tố Vấn) viết: "Có bệnh mà dùng thuốc thích đáng thì không hại thai cũng không hại mẹ". Đó chính là nguyên tắc sử dụng thứ thuốc kiêng kỵ trong lúc có thai.
Dùng thuốc trong lúc mang thai, có người chủ trương dưỡng huyết thanh nhiệt, cho rằng khi có thai nên dùng thuốc mát mà thanh nhiệt thì huyết không đến nỗi đi sai đường và có thể dưỡng được thai. Thực ra nguyên tắc đó, dùng cho người khí thịnh có nhiệt thì được, chứ dùng cho trường hợp khí hư mà thiên về hàn thì lại không được, mà cần phải căn cứ vào hàn, nhiệt, hư, thực mà biện chứng điều trị, đồng thời còn chiếu cố đến Can  Tỳ , Thận  để đạt được mục đích "bảo vệ thai, dưỡng thai".
Bệnh Sản Hậu
Bệnh tật sau lúc đẻ, có hư có thực, có hàn, có nhiệt, phép chữa nên theo nguyên tắc "không câu nệ vào sản hậu, cũng không quên sản hậu'.  Hư thì nên bổ, thực thì nên công, hàn thì nên ôn, nhiệt thì nên thanh; nhưng dùng thuốc lại nên chiếu cố đến khí huyết, là khai uất chớ nên quá chuyên về mặt thuốc hao tán, tiêu thực tất phải kiêm giúp đỡ Tỳ , nhiệt nhiều không nên quá dùng thuốc hàn lương, để khỏi làm ngưng trệ lại, hàn nhiều không nên quá dùng thuốc lương táo, sợ dẫn đến chỗ huyết băng, đó đều là cách dùng thuốc sau lúc đẻ cần phải chú ý.
Các Tạp Bệnh
Nguyên nhân các bệnh của phụ nữ, rất phức tạp nguyên nhân chữa bệnh cần phải căn cứ vào nguyên nhân và bệnh tình khác nhau, sự mạnh yếu của thể chất, sự thịnh suy của khí huyết, có thấp đàm uất kết hay không để tiến hành biện chứng dùng thuốc.
VỆ SINH
Bệnh tật về phụ khoa, do đặc điểm sinh lý của phụ nữ, nên nguyên nhân bệnh và bệnh lý phần nhiều thuộc về thất tình, ăn uống và phòng dục tổn hại đến mạch Xung, mạch Nhâm mà gây ra. Vì thế về phòng bệnh không những phải đề phòng sự xâm phạm của lục dâm mà trọng yếu hơn là tránh sự kích thích về thất tình, tiết chế sự ăn uống và tình dục, không làm tổn hại đến chính khí, để đề phòng sự phát sinh ra bệnh tật.
VỆ SINH TRONG KỲ HÀNH KINH
Kinh nguyệt tuy thuộc về hiện tượng sinh lý của phụ nữ, nhưng trong kỳ hành kinh, sinh lý cũng có s~ thay đổi nhất định, cho nên cần phải chú ý đến vệ sinh trong khi hành kinh, thì mới có thể giảm bớt và phòng ngừa bệnh tật của kinh nguyệt.
Sách Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương vi?t: "Gặp lúc hành kinh, rất nên cẩn thận , nếu không thì cũng sẽ bị sinh bệnh như các chứng sản hậu. Nếu bị kinh sợ, làm lụng nhọc mệt thì khí huyết rối loạn, kinh mạch không lưu thông, phần nhiều sinh bệnh lao trái, nếu huyết nghịch ra đầu mặt thân thể chân tay, thì đau đớn nặng nề không yên; nếu giận dữ hại đến Can , thì đầu choáng sườn đau, thổ huyết mà sinh ra tràng nhạc, ung nhọt; nếu kinh nguyệt thấm vào trong thì huyết ra dầm dề không dứt đoạn này đã nêu ra rằng: "Nếu không coi trọng vệ sinh trong lúc hành kinh thì ảnh hưởng đến toàn thân mà sinh ra bệnh tật, và còn có khi lại nghiêm trọng hơn, vì trong thời gian hành kinh, sức đề kháng của thân thể hơi yếu, tinh thần cũng dễ kích động, cần phải đề ý tránh phong hàn, kiêng tắm rửa nước lạnh, về mặt ăn uống thì kiêng ăn những đồ sống lạnh, chua cay và đồ có tính kích thích, mà nên ăn không đồ dễ tiêu hoá và nhiều chất dinh dưỡng; về mặt sinh hoạt làm việc, nghỉ ngơi, nên tránh những công tác quá nặng, làm quá sức và ở những nơi bùn nước. Việc giao hợp nên kiêng hẳn. Lúc hành kinh có dùng băng vệ sinh thì phải nên sạch sẽ, tinh thần nên thường vui vẻ, không nên để bị căng thẳng quá chừng, hoặc uất ức, tức giận.
VỆ SINH TRONG THỜI KỲ CÓ THAI
Phụ nữ sau khi có thai, về sinh lý có một số thay đổi khác cũng phải nên chú ý đến việc dưỡng sinh, thì khi sinh đẻ mới khỏi bị bệnh và giữ gìn được sự phát dục trưởng thành của thai nhi. Trong kỳ thai nghén, bên ngoài cần tránh phong hàn, để khỏi bị khí lục dâm xâm lấn; bên trong cần điều hoà thất tình, tránh sự kích thích về tinh thần; sau khi đã thụ thai, nên kiêng giao hợp, nhất là 2 - 3 tháng thời kỳ đầu và cuối, để khỏi dẫn tới sẩy thai hoặc đẻ non; sự ăn uống không nên đói quá, no quá, chớ nên ăn đồ khô khan, ít ăn đồ chiên xào béo quá và có tính kích thích, chỉ nên ăn những thứ có nhiều chất dinh dưỡng và dễ tiêu, cần làm cho đại tiện thông sướng, Tỳ  Vị  điều hoà, sinh hoạt làm việc nghỉ ngơi nên có chừng mực, nên làm lao động nhẹ, không nên mang nặng trèo cao mà nguy hiểm; ngủ phải đầy đủ, nhưng chớ ham ngủ quá. Năng tắm rửa, đọc sách vệ sinh. Mặc quần áo không nên chật quá, không có bệnh không nên uống thuốc, hoặc châm cứu bừa bãi. Ngoài ra, tốt nhất là đến phòng khám sức khoẻ mà kiểm tra có kỳ hạn nhất định, để giữ gìn bào thai được bình thường.
Như thế, đã có thể đảm bảo sức khoẻ cho phụ nữ trong lúc có thai, mà cũng là điều kiện để chuẩn bị cho lúc ở cữ sinh đẻ được dễ dàng.
PHÉP HỘ SINH
Lúc có thai đã đầy tháng sản phụ và cả người nhà, đều nên chuẩn bị tinh thần cho khi đẻ, cách chuẩn bị này tức là phép hộ sinh. Về mặt sản phụ, đối với việc sinh đẻ, nên có nhận thức chính xác, trước tiên phải hiểu rõ sinh đẻ là một hiện tượng tự nhiên, như câu tục ngữ có nói: "dưa chín thì cuống rụng" không có gì đau khổ. Nên gạt bỏ hết tất cả mọi sự kinh, sự nghi hoặc, lại không nên trăn trở vật vã, ăn uống nên ăn ít mà ăn nhiều bữa, không nên uống thuốc bừa bãi. Về việc chuẩn bị cho khi sắp đẻ thì trong Thiên Đạt sinh đã biến thành câu cửa miệng ra 6 chữ: "ngủ, nhịn đau, chớ vội răn", để dạy người ta phải giữ gìn Thận  trọng khi sắp đẻ. Yù nghĩa về 3 phép trọng yếu đó, tức là bắt đầu cảm thấy sắp đẻ thì phải bình tĩnh, lên giường nằm ngủ, để bồi dưỡng sức lực, nếu chưa đúng là thật s~ đẻ, không nên vội răn phí sức khi đến lúc đẻ lại bị mất sức thành ra đẻ chậm. Trong phòng đẻ ấm lạnh vừa phải giữ gìn yên lặng, không nên bàn tán xì xào làm cho tinh thần sản phụ không an mà sinh ra khó đẻ. Đồng thời còn phải đỡ đẻ theo phương pháp mới, chú ý tiêu độc để phòng nhiễm trùng. Nhất là hiện nay, vì Công xã nhân dân đã xây dựng nhà hộ sinh khắp nơi, nên đảm bảo chắc chắn an toàn cho sản phụ và thai nhi.
VỆ SINH SAU KHI SINH
Sau khi sinh là giai đoạn kết thúc cả thời kỳ thai nghén, vì trong sinh đẻ có sự thương tổn và ra huyết cũng như phải dùng sức trong lúc đẻ, đã làm hao tổn đến nguyên khí, do đó mà khí huyết bị thiếu thốn, kinh lạc bị trống rỗng, tay chân rũ mỏi, thớ thịt thưa hở, da lông không chắc chắn, vinh vệ không củng cố, đường huyết dễ bế tắc, đường khí dễ trở trệ, cho nên có câu nói: "sản hậu trăm mạch trống không " lúc ấy nếu không cẩn Thận  một chút, rất dễ dẫn tới bệnh hậu sản, vì thế trong khi thân thể chưa thật trở lại lành mạnh như trước thì cần phải đặc biệt chú ý việc dưỡng sinh.
Sau khi sinh được 1 tháng, tục gọi là đầy tháng (tiểu mãn nguyệt), 2 tháng thì gọi là đầy 2 tháng (đại mãn nguyệt). Trong thời gian này thân thể chưa hoàn toàn được khôi phục, nhà ở nên tránh phong hàn, áo quần nên dày mỏng tuỳ từng mùa, không quá nóng quá lạnh, để bệnh tà khỏi xâm phạm vào; ăn uống nên thanh đạm mà nhiều chất dinh dưỡng, không nên ăn đồ sống lạnh hoặc quá nhiều đồ béo mỡ chiên xào, để khỏi tổn hại đến Tỳ  Vị ; không nên làm lao động quá mệt, cần phải nghỉ ngơi đầy đủ, tránh phòng dục, tính tình phải êm ái, không nên quá mừng, quá giận, buồn sợ, lo phiền để tránh khí nghịch lên huyết trệ xuống, mà gây nên các tật bệnh đau bụng, hoặc xây xẩm . . . Ngoài ra cần chú ý giữ vệ sinh vú, trước khi cho trẻ em bú, cần để ý tiêu độc đầu núm vú, khi trẻ bú rồi cũng cần giữ gìn đầu vú cho sạch sẽ và khô ráo, để phòng đầu vú nứt nẻ hoặc sinh ra bệnh sưng vú.




4 mạch XUNG NHÂM ĐỐC ĐỚI và sự sinh sản của chị em

Đường đi
- Mạch xung: từ bào cung (dạ con) vào cột sống, nhánh nông đi từ huyệt Hội âm ra huyệt Khí xung, cùng kinh Thiếu âm thận lên rốn, lên phân bố ở ngực, tụ lại ở họng, cuối cùng là vòng quanh môi.
- Mạch nhâm: từ huyệt Hội âm qua huyệt Mao tế, Quan nguyên, lên thanh quản, cằm, mặt rồi đi vào trong mắt.
- Mạch đốc: từ huyệt Hội âm, qua huyệt Trường cường, dọc theo cột sống lên huyệt Phong phủ, vào não, lên đỉnh đầu (huyệt Bách hội), sang trán, lên mũi rồi kết thúc ở chân răng hàm trên (huyệt Nhân trung).
- Mạch đới: Bắt đầu từ dưới bờ sườn, đi chếch xuống huyệt Đới mạch, rồi vòng quanh bụng.

Theo lý luận của Đông y, 4 mạch xung, nhâm, đốc và đới có quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp chỉ đạo các hoạt động trong suốt quá trình phát dục, phát triển cơ thể, thai nghén, sinh sản, tạo sữa nuôi con, hành kinh, tắt kinh...

Sinh lý học của cơ thể con người theo Đông y không ngoài sự hoạt động của âm dương, nhưng do chức năng sinh sản mà có sự khác biệt về giới tính. Để đảm bảo được nhiệm vụ đặc thù đó, cấu tạo cơ thể của nam và nữ có sự khác biệt về cơ quan sinh sản để đáp ứng phù hợp với từng thời kỳ trong quá trình phát dục, kinh nguyệt, thụ thai, sinh sản và nuôi con.

Sách nội kinh viết: "Con gái 7 tuổi, thận khí thịnh, răng thay tóc dài; 14 tuổi mạch nhâm thông, mạch xung thịnh, kinh nguyệt bắt đầu ra, có thể sinh con...; 21 tuổi thận khí thịnh, cơ thể phát triển hoàn thiện sung sức, răng mọc đủ, tóc dài...; 35 tuổi mạch dương minh suy, da mặt bắt đầu thay đổi, sạm da, tóc kém mượt và bắt đầu rụng...; 42 tuổi ba mạch dương đều suy, da mặt sạm khô, tóc bắt đầu bạc...; 49 tuổi mạch nhâm hư, mạch xung suy, kinh túc thiếu âm thận giảm, mạch xung và mạch nhâm không thông, kinh nguyệt hết, không còn khả năng chửa, đẻ".
 
 Mạch xung là bể của 12 kinh mạch, quản lý khí huyết của các cơ quan nội tạng (Nội kinh viết: "Xung vi huyết hải"). Mạch xung cùng với mạch nhâm điều hành quá trình duy trì, phát triển thai, sản của phụ nữ. Những biểu hiện bệnh lý của mạch xung gồm kinh nguyệt không đều, khí hư, đái dầm, không sinh đẻ được, thoát vị, khí từ bụng dưới thông lên ngực làm đau vùng tim, tiểu tiện bí. Mạch xung có liên quan nhiều đến các bệnh bụng, ngực đau cấp, suyễn.

Mạch nhâm có nhiệm vụ điều hòa phần âm của toàn thân, cùng với mạch xung điều hành quá trình duy trì, phát triển thai, sản của phụ nữ, và có liên quan trực tiếp đến việc sinh đẻ. Mạch nhâm có liên quan nhiều đến các bệnh thoát vị (ở nam giới), khí hư, tích báng (u nang), khó hoặc không chửa đẻ được.

Mạch đốc có tác dụng điều chỉnh và gây phấn chấn dương khí toàn thân, đảm bảo sự liên hệ giữa thận với huyệt Mệnh môn để duy trì dương khí của cơ thể. Mạch đốc còn có nhiệm vụ liên lạc với kinh Can (Gan). Những biểu hiện bệnh lý của mạch đốc gồm cột sống cứng hoặc mềm yếu quá, vận động khó khăn, nếu bệnh nặng thì co cứng như uốn ván, hoặc đầu váng, lưng đau.

Mạch đới có tác dụng điều phối hoạt động của các đường kinh, làm cho chúng đi đúng đường. Đường mạch này cũng có quan hệ với kinh nguyệt. Những biểu hiện bệnh lý của mạch đới gồm bụng đầy chướng, lưng lạnh, có liên quan đến khí hư, hoặc chân teo liệt.

Các huyệt vị trên 4 mạch xung, nhâm, đốc, đới liên quan nhiều đến sinh lý, bệnh lý của phụ nữ, đặc biệt là quá trình phát dục, thai nghén và sinh sản. Do đó, trong quá trình phát triển phát dục đến lúc trưởng thành (từ 7 đến 21 tuổi), nữ giới cần chú ý trong lao động, luyện tập không tác động quá mức đến đường đi của các mạch này, làm ảnh hưởng đến chúng và đến mối liên quan giữa các kinh mạch trên cơ thể, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc về thể lực, vóc dáng, thẩm mỹ và quá trình thai sản.

Đặc biệt, đối với phụ nữ, những biến động theo chu kỳ kinh nguyệt hoặc trong quá trình chửa, đẻ, nuôi con... luôn có tác động và ảnh hưởng nhiều đến khí, huyết, tinh thần. Nếu gặp một trong những yếu tố tâm sinh lý bất thường, như thất tình hoặc phòng dục quá độ, sẽ khiến khí huyết suy tổn, gây ra bệnh tật và cũng tạo cơ hội thuận lợi cho các nguồn bệnh bên ngoài xâm nhập vào cơ thể.




Đặc điểm sinh lý của phụ nữ

Kinh nguyệt

Phụ nữ trên dưới 14 tuổi thì bắt đầu thấy kinh, một tháng thấy 1 lần.

Người xưa cho rằng phụ nữ thuộc về âm nhưng nguyên khí ứng với mặt trăng. Mặt trăng cứ 30 ngày có một lần tròn, do vậy kinh nguyệt cũng 1 tháng thấy 1 lần và thường xuyên đúng hẹn nên gọi là kinh nguyệt hay còn gọi là nguyệt tín (đúng hẹn).

Sách Tố vấn:

Con gái 7 tuổi thận khí thịnh, thay răng, tóc dài.

14 tuổi có thiên quý, nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, nguyệt sự di thời hạn, hữu năng có tử (kinh nguyệt đến đúng hẹn và có khả năng có con).

21 tuổi thận khí thăng bằng, mọc răng khôn.

28 tuổi gân xương cứng cáp, tóc dài hết sức, thân thể khoẻ mạnh.

35 tuổi mạch dương minh suy, da mặt bắt đầu nám, tóc bắt đầu rụng.

42 tuổi tam dương mạch suy ở phần trên, da mặt nhăn, tóc bắt đầu bạc.

49 tuổi mạch nhâm hư, mạch xung suy kém, thiên quý kiệt, mạch túc thiếu âm thận không thông nữa, hình thể suy tàn, hết khả năng sinh đẻ.

Thận khí

Thận khí là gốc của tiên thiên, là nguồn của sinh hoá. Đó là bẩm thụ của tiên thiên tạo thành bởi sự kết hợp tinh huyết của bố mẹ, có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng và phát dục của cơ thể.

Thiên quý

Thiên quý là loại vật chất mới sinh ra khi chức năng sinh lý của con người đã hoàn thiện. Chức năng của thiên quý là làm cho nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, tạo ra kinh nguyệt ở nữ, làm tinh khí tràn đầy ở nam.

Tiếp đó lý luận y học cổ truyền cho rằng kinh nguyệt và thai sản liên quan đến hai mạch xung - nhâm.

Mạch xung

Mạch xung thuộc kinh dương minh vị, là chỗ các kinh mạch hội tụ, là bể chứa huyết. Khi bể huyết tràn đầy kinh sẽ ra đúng hẹn.

Mạch nhâm

Mạch nhâm chủ bào cung, thống quản các mạch âm trong cơ thể con người.

Vương Băng nói: “Mạch xung là bể chứa huyết, mạch nhâm chủ về bào thai. Hai mạch xung - nhâm nương tựa hỗ trợ cho nhau tốt thì đấy là nguồn suối của kinh nguyệt và thai sản”.

Có kinh nguyệt chủ yếu do hai mạch xung - nhâm, song cũng có liên quan đến 5 tạng. Vì: kinh nguyệt do huyết biến hoá mà tâm chủ huyết, can tàng huyết, tỳ thống nhiếp huyết, thận tàng tinh chủ tuỷ, huyết lại do tinh tuỷ hoá ra. Như vậy khi 5 tạng điều hoà, huyết mạch lưu thông thì bể huyết luôn đầy đủ làm cho kinh nguyệt điều hoà.

Người phụ nữ khoẻ mạnh bình thường thì cứ 28 ngày có kinh 1 lần (trừ khi có thai và cho con bú) đó gọi là sinh lý bình thường. Có trường hợp 2 tháng có kinh 1 lần (tính nguyệt), 3 tháng có kinh 1 lần (cự kinh), một năm thấy kinh 1 lần (tỵ niên), suốt đời không có kinh mà vẫn có thai (ám kinh), sau khi có thai đến kỳ kinh vẫn ra chút ít (khích kinh), đó là sự khác thường về sinh lý, không phải bệnh tật.

Về lượng kinh mỗi kỳ khoảng 50-100ml, cũng có người nhiều hơn người ít hơn song không quá nhiều hoặc quá ít gọi là bình thường. Thời gian thấy kinh thường 3-7 ngày. Máu kinh lúc đầu đỏ nhạt sau đậm hơn, cuối cùng lại đỏ nhạt, không đông.

Phụ nữ mới bắt đầu thấy kinh và thời kỳ tiền mãn kinh có những biểu hiện khác thường như sau:

Lúc đầu mới thấy kinh có thể không đều về chu kỳ, nếu trong người không có bệnh gì khác thì không cần chữa.

Thời gian tiền mãn kinh có giai đoạn rối loạn kinh nguyệt kèm theo tính tình cáu gắt, mất ngủ, đau đầu, đau lưng, nhức mỏi chân tay…Nếu không có gì nghiêm trọng thì không cần phải chữa.

Thai sản

Sách Linh khu có ghi: “Lưỡng thần tương tác, hợp nhị thành hình”. Nghĩa là hai thần chung đúc nhau hợp lại mà nên con người, vật chất để chung đúc ấy là tinh cha và huyết mẹ. Phụ nữ sau khi thụ thai, về sinh lý có một số thay đổi đặc biệt:

Trước hết là tắt kinh.

Âm đạo tiết ra nhiều chất dịch.

Màu da bờ ngoài âm đạo sẫm lại.

Bầu vú dần dần to lên, núm vú thâm lại, có một số hạt nổi lên.

Thời gian đó có hiện tượng ốm nghén: thích ăn của chua, buồn nôn…; sau 4 tháng sản phụ thấy thai máy động; đến cuối thời kỳ hay có hiện tượng đái dắt và bí đại tiện; sau 280 ngày là đến thời kỳ khai hoa nở nhụy. Sinh đẻ là hiện tượng sinh lý bình thường. Cổ nhân đã hình dung sự sinh đẻ là “dưa chín thì tróc miệng đĩa”.

Ngày đầu sau khi sinh thường có phát sốt, sợ rét, đổ mồ hôi, mạch trì hoãn là do khi sinh hao tổn nhiều khí huyết, nếu không phát triển nặng hơn thì không coi là hiện tượng bệnh lý.

Sau khi sinh vài ngày trong âm đạo có chảy ra chất dịch gọi là huyết hôi (ác huyết, ác lộ), có người đau bụng dưới từng cơn nhẹ, nếu không phải đau dữ dội thì sau vài ngày sẽ khỏi, cũng không coi là hiện tượng bệnh lý.

Sau khi sinh được nằm nghỉ tại chỗ (nằm chỗ, ở cữ) đúng 100 ngày. Ngoài việc cho con bú và không thấy hành kinh, toàn bộ thân thể sẽ hồi phục lại bình thường.

Các mạch Xung, Nhâm, Đốc, Đới có quan hệ với phụ khoa

Trọng yếu nhất là hai mạch xung và nhâm vì hai mạch này là nguồn suối của kinh nguyệt và thai sản.

Các mạch xung, nhâm, đốc, đới đều khởi đầu từ huyệt hội âm rồi chia ra 3 nhánh. Mạch Xung nhâm nối liền vào dạ con chịu sự ràng buộc của mạch đới. Vì thế bốn mạch xung, nhâm, đốc, đới cùng liên quan ảnh hưởng với nhau gây thành hệ thống có quan hệ trực tiếp đến sinh lý của phụ nữ.

Mạch xung - nhâm đầy đủ, thịnh vượng thì thân thể khoẻ mạnh, kinh nguyệt điều hoà, thụ thai và sinh nở bình thường. Nếu mạch xung - nhâm bị tổn thương có thể gây ra bệnh phụ khoa.

Mạch đới thì ràng buộc lấy các mạch để gìn giữ lấy mối quan hệ lẫn nhau. Nếu công năng ấy không điều hoà thì 3 mạch xung, nhâm, đốc bị ảnh hưởng sinh ra bệnh đới hạ, vô sinh.





No comments:

Post a Comment