LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Thursday, October 13, 2016

PHƯƠNG PHÁP CHẨN ÐOÁN ÐIỀU TRỊ ÐÔNG Y

TRIẾT HỌC ÐÔNG PHƯƠNG


                           ỨNG DỤNG TRONG ÐÔNG Y


I. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :


1.  KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :


Học thuyết âm dương là một bộ phận trọng yếu trong y học cổ truyền.

                        Người xưa nhận thấy sự vật trong thiên nhiên luôn luôn có sự mâu thuẫn, đối lập và thống nhất với nhau, không ngừng vận động đễ phát sinh phát triển và tiêu vong như: sáng tối, ngày đêm, trời đất, nóng lạnh, nước lửa . v.v..gọi là âm dương.
                        Trong y học cổ truyền học  thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị và bào chế đông dược.
2. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG :
a.  Âm dương đối lập : là sự mâu thuẫn giữa hai mặt âm dương như: ngày đêm, ngủ thức, nước lửa, lạnh nóng, hưng phấn và ức chế.
b. Âm dương hổ căn : là sự nương tựa vào nhau giữa hai mặt âm dương như : trong âm có dương, trong dương có âm.
c. Âm dương tiêu trưởng : là quá trình vận động không ngừng của âm dươngmọi sự vật sinh ra, lớn lên, già  cỗi, mất đi rồi lại sinh ra.
d.Âm dương bình hành : là sự thăng bằng giữa hai mặt đối lập.
Bốn mặt trên của sự vật nói lên các qui luật, mâu thuẫn nhưng thống nhất, thăng bằng nhưng vận động không ngừng, nương tựa nhưng chế ước lẫn nhau trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong.
Người xưa tượng trưng học thuyết âm dương bằng hình vẽ như sau :
      
 
 
3.      ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG VÀO TRONG Y HỌC CỔ TRUYỀN
ÂM
TẠNG
HUYẾT
DINH
BỤNG
HÀN
TRÁI
THUỶ
LƯƠNG
DƯƠNG
PHỦ
KHÍ
VỆ
LƯNG
NHIỆT
THỰC
BIỂU
PHẢI
HOẢ
ÔN




Bệnh tật sinh ra do sự mất thăng bằng  về âm dương, biểu hiện dương thắng, âm thắng, dương hư, âm hư. Ðiều trị bệnh là điều hoà lại âm dương. Trong chẩn đoán người ta nương tựa vào các cương lĩnh để xác định bệnh trong hay ngoài (biểu lý) nóng hay lạnh (hàn nhiệt) suy sụp hay hưng thịnh (hư thực) mô tả trạng thái và xu thế chung của bệnh tật thuộc âm hay dương để dùng thuốc âm hay thuốc dương mà điều trị cho thích hợp.

II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :

1. KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :

  Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm  dương được  liên hệ một cách cụ thể hơn trong việc quan sát, quy nạp sự liên quan của các sự vật.

Trong y học người xưa vận dụng ngũ hành để phân tích sự tương quan trong các hoạt sinh lý. Ngoài ra còn dùng để tìm tác dụng của thuốc để áp dụng vào việc bào chế.

2. NỘI DUNG CỦA HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH :

 Người xưa cho rằng trong thiên nhiên có năm loại vật chất chính đó là :Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ (đất).

Mọi hiện tượng trong tự nhiên được xếp theo năm loại vật chất trên gọi là ngũ hành.

3.  BẢNG QUI NẠP THIÊN NHIÊN VÀ CƠ THỂ CON NGƯỜI THEO NGŨ HÀNH :
 
NGŨ HÀNH
HIÊN TƯỢNG
MỘC
HOẢ
THỔ
KIM
THUỶ
VẬT CHẤT
GỖ
LỬA
ÐẤT
KIM LOẠI
NƯỚC
MÀU SẮC
XANH
ÐỎ
VÀNG
TRẮNG
ÐEN
NGŨ VỊ
CHUA
ÐẮNG
NGỌT
CAY
MẶN
THỜI TIẾT
XUÂN
HẠ
TỨ QUÝ
THU
ÐÔNG
P.HƯỚNG
ÐÔNG
NAM
T. ƯƠNG
TÂY
BẮC
NGŨ TẠNG
CAN
TÂM
TỲ
PHẾ
THẬN
LỤC PHỦ
ÐỞM
T.TRƯỜNG
VỊ
Ð.TRƯỜNG
B. QUANG
NGŨ THỂ
CÂN
MẠCH
NHỤC
BÌ PHU
CỐT
NGŨ QUAN
MẮT
LƯỠI
MIỆNG
MŨI
TAI
TÌNH CHÍ
GIẬN
MỪNG
LO NGHĨ
BUỒN
SỢ

Trong điều kiện bình thường, thiên nhiên, vật chất và con người có liên quan mật thiết với nhau, tác động nhau chuyển biến không ngừng bằng thúc đẩy nhau (tương sinh) hoặc chế ước lẫn nhau (tương khắc) để giữ được mối thăng bằng âm dương.

4. CÁC QUI LUẬT HOẠT ÐỘNG CỦA NGŨ HÀNH :

a. Qui luật tương sinh :

  Mộc sinh Hoả      =     Can sinh Tâm

                             Hoả sinh Thổ       =     Tâm sinh Tỳ

                 Thổ sinh Kim       =    Tỳ sinh Phế

                                   Kim sinh Thuỷ     =     Phế sinh Thận

                  Thuỷ sinh Mộc    =    Thận sinh Can.

b. Qui luật tương khắc :

 Mộc khắc Thổ     =    Can khắc Tỳ

  Thổ khắc Thuỷ    =    Tỳ khắc Thận

  Thuỷ khắc Hoả    =   Thận khắc Tâm

   Hoả khắc Kim     =    Tâm khắc Phế

   Kim khắc Mộc   =    Phế khắc Can

                 5.  ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH VÀO TRONG Y HỌC :

Ðể xác định vị trí của một bệnh lý sinh ra từ tạng phủ nào, mà tìm cách điều trị cho thích hợp, người xưa qui định có thể do một trong năm vị trí sau đây :

         Chính tà : do bản thân tạng ấy có bệnh

Hư tà  : do tạng trước không sinh được nó

Thực tà : do tạng sau nó đưa đến

Vi tà : do tạng khắc nó quá mạnh

Tặc tà : do nó không khắc được tạng khác.

Trong điều kiện bất thường về bệnh lý, có nhiều tạng phủ quá mạnh hay quá yếu sẽ xảy ra hiện tượng khắc quá mạnh (tương thừa) hay chống lại cái khắc mình (tương vũ) Ðông y dùng qui luật tương thừa hay  hay tương vũ để giải thích một số cơ chế sinh bệnh và áp dụng điều trị.

III.  HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :

1 KHÁI NIỆM VỀ HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT :

Học thuyết thiên nhân hợp nhất, nói lên giữa con người và hoàn cảnh thiên nhiên xã hội luôn luôn mâu thuẫn nhưng thống nhất, con người luôn luôn chủ động thích ứng với thiên nhiên để sinh tồn, phát triển.

                Thí dụ :

                  Trời đất có sáng tối, con người có thức ngũ.

                  Trời lạnh người co giữ ấm, trời nóng người đổ mồ hôi giải nhiệt.

                  Trời có sáu khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.

                  Ðất có ngũ hành : kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.

                  Người có ngũ tạng ứng với đất, lục phủ ứng với trời và thích nghi theo từng thời tiết bốn mùa.

2. ỨNG DỤNG HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT VÀO Y HỌC

Học thuyết thiên nhân hợp nhất là nội dung của phương pháp phòng bệnh trong y học cổ truyền, nắm được nguyên lý của học thuyết sẽ giúp cho con người :

   - Cải taọ thiên nhiên bắt thiên nhiên phuc vụ đời sống.

                           - Chủ động rèn luyện sức khoẻ.

                           - Cải tạo tập quán củ, gìn giữ mỹ tục.

                           - Rèn luyện ý chí chống dục vọng cá nhân.

                           - Ăn tốt, mặc ấm, giữ vệ sinh cá nhân và hoàn cảnh.

                           - Ðiều độ về ăn uống, sinh hoạt, lao động, tình dục. v..v.

      IV. KẾT LUẬN :

          Từ 3 học thuyết âm dương, ngũ hành, thiên nhân hợp nhất. Y học cổ truyền đi đến một quan niệm toàn diện và thống nhất chỉnh thể trong phương pháp phòng bệnh, chẩn đoán và điều trị bệnh tật.

           Người thầy thuốc phải thấy con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận, giữa tinh thần và vật chất, giữa cá nhân và hoàn cảnh chung quanh để đi đến các vấn đề

           - Phòng bệnh sống lâu.

            - Chữa người có bệnh chứ không phải chữa bệnh.

           - Nâng cao chính khí con người là chính để thắng được mọi bệnh tật. 



QUAN NIỆM CƠ THỂ HỌC THEO ÐÔNG Y

  I. TẠNG PHỦ 

1. KHÁI NIỆM :

     Căn cứ vào hoạt động của cơ thể con người lúc bình thường và lúc có bệnh  người xưa qui nạp thành những nhóm chức năng khác nhau, rồi đặt tên cho các cơ quan  trong cơ thể gọi là Tạng Tượng ( hiện tượng của tạng ).

     Nhóm chức năng có nhiệm vụ chứa đựng, chuyễn hoá gọi là Tạng, gồm có : Tâm. Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm Bào.

     Nhóm chức năng có nhiệm vụ thu nạp và chuyễn vận gọi là phủ , gồm có : Tiểu Trường, Ðại Trường, Ðởm, Vỵ, Bàng Quang, Tam Tiêu.

      Ngoài ra còn có các hoạt động khác như : Dinh, Vệ, Khí, Huyết, Tinh, Thần, Tân, Dịch.


  2. CÁC TẠNG :

   A/ TÂM :

   Ðứng đầu các tạng phụ trách về các hoạt động thần kinh như : Tư duy, trí nhớ, thông minh, khi có bệnh thường hay hồi hợp, sợ hải, phiền loạn, hay quên .v.v.

  Quan hệ với huyết mạch : Khi có bệnh sẽ sinh hiện tượng bần huyết, tóc khô, mạch yếu.

  Khai khiếu ra lưỡi : Khi sốt cao lưỡi đỏ, Tâm huyết hư lưỡi nhạt màu. Như vậy Tâm bao gồm một so hoạt động về tinh thần và tuần hoàn huyết mạch. Khi có bệnh thường có các hôi chứng sau :

  Tâm dương hư : Kinh khủng, hồi hô?, hay quên, tự hãn.

  Tâm âm hư : Mất ngũ, mộng mị, hồi hô?, lo sợ.

  Tâm nhiệt : Mắt đỏ, miệng khát, họng khô, lưỡi đỏ, nói nhảm.

  Khi nói đến Tạng Tâm vì là tạng đứng đầu mọi tạng nên có một tạng phụ bảo vệ nó gọi là Tâm  Bào Lạc. Các biểu hiện bệnh lý không khác gì Tạng Tâm.


    B/ CAN :

  Thường chia hai loại :

  Can khí : Biểu hiện tình trạng hưng phấn, găng động, cáu gắt, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.

Can huyết : Phụ trách các hoạt động về kinh nguyệt và sự nuôi dưỡng các cân cơ

 Quan hệ với cân: bao gồm các hoạt động vận động, khi có bệnh run tay chân, teo cơ, cứng khớp, vận động đi lại khó khăn.

  Khai khiếu ra mắt: mắt mờ, quáng gà, mắt sưng, nóng đỏ.

  Can âm hư: ( can huyết hư ) kinh nguyệt ít, móng tay, da khô, mắt mờ, gân thịt run giật co quắp.

  Can dương thịnh: nhức đầu, hoa mắt, ù tai, mặt đỏ, mắt đỏ, hay cáu gắt 
 

  C/ TỲ:

Phụ trách việc hấp thu đồ ăn và dinh dưỡng, phản ảnh hoạt động tiêu hoá từ miệng đến hậu môn. Về  sinh lý, bệnh lý 

Quan hệ với cơ nhục : Tỳ hư, ăn kém, sút cân, thịt mềm nhảo, cơ yếu.

Khai khiếu ra môi miệng : Ăn không ngon, nôn mửa.

Chức năng nhiếp huyết :Chảy máu lâu ngày do Tỳ không nhiếp huyết.

Tỳ hư : Ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, tiêu chảy kéo dài, cơ nhục mềm nhảo.

Tỳ hư hàn: đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, ợ hơi, tay chân lạnh.


D/ PHẾ:

Phụ trách về hô hấp và sự khí hoá hoạt động toàn thân.

Quan hệ với bì phu thông ra mũi họng và thanh quản biểu hiện lâm sàng có các triệu chứng:

Phế khí hư : thở nhanh nhỏ, yếu, nói nhỏ dễ ra mồ hôi sắc mặt trắng nhợt.

Phế nhiệt : ho sốt, mạch nhanh, đờm đặc dính, lưỡi đỏ.

Phế âm hư: ho khan, họng khô, khan tiếng lâu ngày, đạo hản, sốt âm triều nhiệt, khát nước.


Ð/ THẬN:

  Chia làm hai loại chủ đề về Thuỷ và Hoả:  Thận thuỷ hay Thận âm : thường biểu hiện quá trình ức chế.Thường có các triệu chứng: mất ngủ, đau lưng, ù tai, ra mồ hôi trộm, nhức xương, sốt hâm hấp, cầu táo, tiểu đỏ.

Thận hoả hay Thận dương: có những biểu hiện về hưng phấn. Nếu thận dương hư có các triệu chứng chân tay sợ lạnh, tiêu chảy kéo dài, mạch yếu, di tinh, hoạt tinh, liệt dương.

Thận tàng tinh, chủ về sự phát dục cơ thể và hoạt động sinh dục nam: thận hư trẻ con chậm phát triển trí tuệ, chậm biết đi, chậm mọc răng, người lớn hoạt động sinh dục giảm, đau lưng, di tinh, liệt dương.

Quan hệ với xương tuỷ, khai khiếu ra tai: Thận hư thường đau lưng, nhức mỏi, ù tai.

Trên lâm sàng thường có hội chứng sau:

Thận âm hư: họng khô,răng đau nhức lung lay, tai ù, hoa mắt, mất ngủ, nhức xương, đạo hản. Tinh thần ức chế.

Thận dương hư: đau lưng, lạnh cột sống, chân tay lạnh, hoạt tinh, liệt dương, ỉa chảy, tiểu đêm, tinh thần giảm hưng phấn.


3.  CÁC PHỦ:

  A. ÐỞM  :

-  Bài tiết ra chất mật.

-  Chủ về sự quyết đoán và sự dũng cảm.

  B. VỴ :

-  Chứa đựng và nghiền nát thức ăn.

-  Luôn có biểu hiện về bệnh lý ở răng miệng, sâu răng, hôi miệng, loét miệng thường do vị nhiệt.

 C. TIỂU TRƯỜNG :

-   Nhận thức ăn từ vị đưa xuống hấp thụ các chất tinh khiết biến thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, phân thanh giáng trọc, đưa các chất cặn bã xuống Ðại Trường và Bàng Quang.

 D. ÐẠI TRƯỜNG :

 Truyến đạo để bài tiết cặn bã.

  Ð. BÀNG QUANG :

Tiếp với thận để bài tiết nước tiểu.        

 E. TAM TIÊU :

   Là nhóm chức năng quan giữa các tạng,phủ trên và dưới với nhau. Sự khí hoá tam tiêu được chia làm ba phần.

-  Thượng tiêu : từ miệng đến tâm vị có các tạng Phế Tâm.

-  Trung tiêu : Từ tâm vị đến hậu môn vị có tạng Tỳ.

-  Hạ tiêu : Từ môn vị đến hậu môn có các tạng Can và Thận.


5.  CÁC HOẠT ÐỘNG KHÁC : DINH, VỆ, KHÍ, HUYẾT, TINH, THẦN, TÂN, DỊCH :

A.DINH :  là dinh dưỡng, một chất tinh hoa của thuỷ cốc tạo thành tinh khí được vận chuyển bên trong mạch để nuôi ngũ tạng, lục phủ và cung cấp dinh dưỡng toàn thân.

B.VỆ : là phần tinh hoa đi ngoài mạch giữ nhiệm vụ bảo vệ cơ thể.

C. KHÍ : gồm có khí hơi thở và khí nội lực làm nhiệm vụ xúc tiến cho dinh huyết nuôi dưỡng cơ thể.

D.HUYẾT : trung tiêu lấy tinh khí từ dinh dưỡng hoá thành huyết đổ vào trăm mạch để nuôi cơ thể.

E.TINH : gồm có tinh hoa của chất dinh dưỡng và tinh sinh dục, là sự phối hợp của khí huyết trong quan hệ dinh dưỡng cao cấp của cơ thể.

F.THẦN : là sự thể hiện của tư duy, trí tuệ, ý thức làm chủ hết thảy mọi sự hoạt động của sinh mạng con người.

G. TÂN DỊCH : là các chất nước có quan hệ đến quá trình tiêu hoá như : nước tiểu, mồ hôi, nước mắt, nước mũi .v.v..

PHỦ KỲ HẰNG : ngoài tạng phủ ra trong cơ thể còn có phủ kỳ hằng là những phủ khác thường gồm có :

A. NÃO TUỶ : thận sinh ra xương tuỷ, não là chỗ hội họp của tuỷ.

B. TỬ CUNG : chủ về kinh nguyệt, chủ về bào thai.


II. KINH LẠC :

  Kinh là những đường vận hành của khí chạy thẳng dọc theo cơ thể . lạc là những đường chạy ngang nối các kinh với nhau.

Hệ kinh lạc gồm các đường kinh khí nối liền từ trong tạng phủ ra ngoài được liên kết bắng các lạc nối với nhau, tạo thành một màng lưới chằng chịt khắp cơ thể. Kinh khí vận hành giúp cho cơ thể thích nghi với hoàn cảnh bên ngoài. Trên những đường kinh có những nơi khí tụ lại gọi là huyệt. Có tất cả 12 đường kinh chính và 8 đường kinh phụ và khoảng 870 huyệt trên cơ thể.




QUAN NIỆM VỀ BỆNH TẬT & PHƯƠNG PHÁP CHẨN ÐOÁN ÐIỀU TRỊ ÐÔNG Y


A.    NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH :

Trong y học cổ truyền chia làm 3 nguyên nhân gây bệnh :

-  Nội nhân : do thất tình : vui, giận, buồn, lo, nghĩ, kinh, sợ.

-  Ngoại nhân : do lục khí : phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả.

-  Bất nội ngoại nhân : do té ngã, đả thương, trùng thú cắn.


1.Nội nhân :

-  Hỉ : (vui mừng)                     -   Hại đến tâm khí.

-  Nộ : (giận)                            -  Hại đến can khí.

-  Ưu, bi : (sầu, muộn)            -  Hại đến phế khí.

-  Tư : (lo lắng)                        -  Hại đến tỳ khí.

-  Khủng, kinh : (hoảng, sợ)   -  Hại đến thận khí.

           Bảy thứ tinh chí nói trên thực chất là những rối loạn về tâm lý xã hội đưa đến rối loạn chức  phận của tinh thần, gây ảnh hưởng đến công năng hoạt động của các tạng phủ.


2. Ngoại nhân :

-  Phong : gió chủ khí mùa xuân , thường kết  hợp với các khí khác như : phong hàn, phong nhiệt, phong thấp.

-  Hàn : lạnh chủ khí của mùa đông , hay làm tắc lại không ra mồ hôi, thường có phong hàn, hàn thấp.

-  Thử : nắng chủ khí về mùa hạ có đặc tính làm sốt cao, thường có : thương thử, trúng thử và thấp thử.

-  Thấp : độ ẩm thấp trong không khí, có các triệu chứng về tiêu hoá, thường có phong thấp, thấp thử và hàn thấp.

-  Táo : chủ khí của mùa thu, độ khô của không khí, thường gây những bệnh sốt cao, táo nhiệt.

-  Hoả : nhiệt, đặc tính của các bệnh dịch khí, lệ khí, truyền nhiễm. Thường có thấp nhiệt, phong nhiệt, thử nhiệt.


3.Bâ? nội ngoại nhân :

 Do sang chấn té ngã, đâm, chém, tai nạn, ăn uống, lao động, tình dục là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến sức khoẻ.


 B. BÁT CƯƠNG, BÁT PHÁP :

  I. BÁT CƯƠNG : (8 cương lĩnh).

      Trước tình trạng diễn biến phức tạp của triệu chứng bệnh, người thầy thuốc cần phải dựa vào 8 cương lĩnh chung nhất để đánh giá tình trạng, phân tích và qui nạp giúp cho việc chẩn đoán được chính xác.

      Tám cương lĩnh gồm : Âm , Dương, Biểu , Lý, Hàn, Nhiệt, Hư, Thực.


1. BIỂU LÝ :

 Là hai cương lĩnh phân tích và đánh giá về mức độ nông sâu của bệnh.

 Biểu : bệnh còn ở bên ngoài, ngoại cảm, còn ở kinh lạc biệu hiện sự viêm long khởi phát sốt có mồ hôi hoặc không mồ hôi, đau đầu cứng gáy tuỳ mức độ hư thực. Chưa có những rối loạn cơ năng trầm trọng.

 Lý : bệnh đã vào bên trong cơ thểcác triệu chứng diễn biến toàn phát có kèm theo những biến loạn cơ năng về tạng phủ, cũng như về tinh thần. Trong thực tế có những bệnh diễn biến vẫn còn bên ngoài nhưng nguyên nhân bệnh đã có từ bên trong.

Giữa biểu lý lại có triệu chứng bán biểu, bán lý như lúc nóng, lúc lạnh, ngực sườn đầy tức, buồn nôn, miệng đắng không thể giải biểu, không thể thanh lý, thanh nhiệt, mà phải dùng phương pháp hoà giải.


2. HÀN NHIỆT :

        Là hai cương lĩnh biểu hiện trạng thái khác nhau của bệnh tật.

      Trên lâm sàng thường có  những triệu chứng hàn nhiệt lẫn lộn. Nên khi xét những biểu hiện ta cần chú ý đến các mặt sau đây :

   Hàn : sắc mặt trắng, rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhạt, người ít nói, co ro, không khát thích ấm, tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng nhão, tay chân lạnh.

   Nhiệt : sắc mặt đỏ, rêu lưỡi dày vàng, chất lưỡi đỏ, hay nói, miệng hôi, khát, thích uống mát, tiểu tiện sẻn, đỏ, rắt, táo bón, tay chân nóng.

2. HƯ THỰC :    

Là hai cương lĩnh đánh giá về chính khí và tà khícủa cơ thểđể xem lại tác nhân gây bệnhvà sức chống lại của cơ thể.

Về hư ta nhận xét âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư.

Về thực ta đánh giá mức độ khí trệ huyết ứ, thực nhiệt, thực hàn.


3 .ÂM DƯƠNG :

            Là hai cương lĩnh tổng quát, gọi là tổng cương dùng để đánh giá xu thế chung nhất của bệnh tật. Vì những triệu chứng biểu lý, hàn nhiệt, hư thực thường hay lẫn lộn. Biểu hiện lâm sàng của bệnh tật có thể âm thắng hay dương thắng.


II. BÁT PHÁP :

            Là 8 phương pháp dùng thuốc uống trong y học cổ truyền gồm : Hản, Thổ, Hạ, Hoà, Thanh, Ôn, Tiêu, Bổ.

1.HẢN PHÁP : (Làm cho ra mồ hôi).

Là phương pháp dùng các vị thuốc có tác dụng làm cho ra mồ hôi đưa các tác nhân gây bệnh ra ngoài, khi bệnh còn ở biểu phận. Trên lâm sàng hay dùng để chữa các bệnh ngoại cảm do phong hàn thấp nhiệt.

- phát tán phong hàn

- Phát tán phong nhiệt

- Phát tán phong thấp.

Chống chỉ định : khi bệnh nhân tiêu chảy, nôn, mất máu, mùa hè không nên cho ra mồ hôi nhiều.


2. THỔ PHÁP :  (Gây nôn).

Dùng các vị thuốc để gây nôn khi ngộ độc thức ăn, thức uống, thuốc độc.v.v.. Lúc bệnh còn ở thượng tiêu. Phương pháp này ít dùng trên lâm sàng.


3. HẠ PHÁP : (Tẩy xổ, nhuận trường).

Dùng các loại thuốc có tác dụng tẩy xổ và nhuận trường để đưa các chất ứ động ra ngoài bằng đường đại tiện như : phân táo, huyết ứ, đàm ứ.v.v..

Chỉ dùng phương này khi bệnh thuộc về thực chứng. Gồm có các cách :

- Ôn hạ : Dùng các vị thuốc xổ có tính cay ấm như bả đậu để tẩy hàn tích.

- Nhuận hạ : Dùng các vị thuốc có tính chất xổ nhẹ nhuận trường như : mồng tơi, rau muống.

- Hàn hạ : Dùng các vị thuốc có tính  lạnh như : Ðại hoàng, phát tiêu để tẩy nhiệt tích.

- Công hạ : Dùng các vị thuốc có tính chất xổ mạnh như : lư hội, tả diệo để trừ thực tích hạ tiêu.

- Phù chính công hạ : Cũng dùng thuốc xổ mạnh nhưng vì tỳ vị hư yếu nên phai phối hợp với thuốc kiện tỳ.

Chống chỉ định : khi bệnh còn ở biểu, sốt mà không táo, người già yếu, phụ nữ có thai hay sản hậu.


  4. HOÀ PHÁP (Hoà hoãn)

Dùng chữa các bệnh ngoại cảm còn bán biểu bán lý. Hàn nhiệt vãng lai không giải biểu được không thanh lý được, các bệnh rối loạn sự tương sinh tương khắc của Tạng Phủ, một số bệnh do sang chấn tinh thần.

        Trên lâm sàng thường dùng chữa một số bệnh như : Cảm mạo, lúc nóng lúc lạnh, rối loạn chức năng Can Tỳ, rối loạn kinh nguyệt.

  Chống chỉ định : Không dùng khi bệnh còn ở biểu hay vào lý.


  5/ THANH PHÁP : ( Làm cho mát ).

       Dùng các vị thuốc mát để làm hạ sốt khi tà khí đã vào lý phận. Trên lâm sàng thường dùng 3 cách:

- Thanh nhiệt lương huyết : Dùng các vị thuốc mát huyết như : Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm.

- Thanh nhiệt Tả hoả :  Dùng các vị thuốc để trừ hoả nhiệt như : Huyền sâm, sinh địa, thạch cao.

- Thanh nhiệt giải độc : Dùng các vị thuốc để giải nhiệt độc như : Kim ngân hoa, Bồ công anh, Chi tử, Nhân Trần.

-  Chú ý :  Dùng thận trọng trong trường hợp Tỳ Vị hư hàn, tiêu chảy kéo dài.


   6/ ÔN PHÁP: ( Làm ấm nóng )

    Dùng các loại thuốc ấm nóng để chữa các chứng hư hàn, quyết lảnh hồi dương cứu nghịch. Trên lâm sàng thường dùng các vị thuốc như: Nhân sâm,Phụ tử, Nhục quế, Sanh cương.


   7/ TIÊU PHÁP : ( Làm cho tan )

     Dùng để phá tan các chứng ngưng trệ, ứ đọng do hiện tượng ứ huyết,. Ứ nước do khí trệ gây ra. Trên lâm sàng thường dùng các cách như :

- Tiêu đạo : Dùng Hương phụ, Sa nhân để chữa đầy hơi, khí uất.

-Tiêu thũng : Dùng các vị như :Ý dỉ, Phục linh, Mã đề, Mộc thông để lợi tiểu khi bị thuỷ thũng .

- Tiêu ứ : Dùng các vị thuốc như : Ðơn sâm, Hồng hoa, Tô mộc, Ðào nhơn để trị các chứng ứ huyết.

- Tiêu tích :  : Dùng các vị thuốc như : Miết giáp, Tạo giác thích, để trị các chứng ung nhọt, kết hạch.

Chống chỉ định : Không nên dùng trong trường hợp người có thai. Vì đây là phương pháp chữa triệu chứng nên cần phối hợp với các vị thuốc chữa nguyên nhân.


   8/ BỔ PHÁP : ( Bồi dưỡng cơ thể )

          Dùng các vị thuốc chữa các chứng bệnh do công năng hoạt động của cơ thể bị giảm sút gọi là chính khí hư. Nhằm mục đích nâng cao thể trạng và giúp cho cơ thể thắng được tác nhân gây bệnh.

            Trên lâm sàng thường sử dung 4 nhóm chính :

- Bổ Âm :  Thường dùng thang Lục vị hoàn để chữa chứng Thận âm hư.

- Bổ dương :  Thường dùng thang Bát vị hoàn để chữa chứng Thận dương hư.

- Bổ Khí :  Thường dùng thang Tứ quân để chữa hội chứng suy nhược toàn thân.

- Bổ huyết : Thường dùng thang Tứ vật để chữa các chứng : Bần huyết, mất huyết.

Ngoài bốn phương thức trên người ta còn dùng phép bổ trực tiếp các tạng phủ như  : Phế hư bổ Phế, Tỳ hư bổ Tỳ hoặc Tâm hư bổ Tâm hoặc theo phương thức bổ mẹ sinh con .




Bệnh của 12 kinh chính trong châm cứu



Mỗi kinh chính đều có vùng phân bố nhất định ở mặt ngoài của thân thể và tạng phủ bên trong. Vì vậy, mỗi kinh đều bao gồm một lộ trình bên ngoài và một lộ trình bên trong.

Đại cương

Mười hai kinh chính là phần chính của học thuyết Kinh lạc, gồm:

Ba kinh âm ở tay

Kinh thủ thái âm Phế.

Kinh thủ thiếu âm Tâm.

Kinh thủ quyết âm Tâm bào.

Ba kinh dương ở tay

Kinh thủ dương minh Đại trường.

Kinh thủ thiếu dương Tam tiêu.

Kinh thủ thái dương Tiểu trường.

Ba kinh âm ở chân

Kinh túc thái âm Tỳ.

Kinh túc quyết âm Can.

Kinh túc thiếu âm Thận.

Ba kinh dương ở chân

Kinh túc thái dương Bàng quang.

Kinh túc thiếu dương Đởm.

Kinh túc dương minh Vị.

Mỗi kinh chính đều có vùng phân bố nhất định ở mặt ngoài của thân thể và tạng phủ bên trong. Vì vậy, mỗi kinh đều bao gồm một lộ trình bên ngoài và một lộ trình bên trong.

Mỗi kinh đều có sự liên lạc giữa tạng và phủ có quan hệ biểu (ngoài nông) – lý (trong sâu), cho nên mỗi đường kinh đều có những phân nhánh để nối liền với kinh có quan hệ biểu lý với nó (ví dụ nối giữa phế và đại trường, giữa can và đởm…

Chức năng sinh lý của đường kinh

Về chức năng, kinh mạch là nơi tuần hoàn của khí huyết đi nuôi dưỡng toàn thân để duy trì hoạt động bình thường của cơ thể, làm trơn khớp, nhuận gân xương (Linh khu – Bản tạng luận). “Kinh mạch giả, sở dĩ hành huyết khí nhi dinh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết giả dã”.

Đồng thời, kinh mạch cũng là con đường mà tà khí bệnh tật theo đó xâm nhập vào trong cũng như là con đường mà bệnh tật dùng để biểu hiện ra ngoài khi công năng của tạng phủ tương ứng bị rối loạn.

Tác dụng của 12 kinh chính rất quan trọng. Thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu: “Tác dụng của kinh mạch một mặt nói lên chức năng sinh lý bình thường, sự thay đổi bệnh lý của cơ thể; mặt khác có thể dựa vào đó để quyết đoán sự sống chết, để chẩn đoán mọi bệnh, còn dùng nó để điều hòa hư thực, làm quy tắc chỉ đạo lâm sàng cho nên kinh mạch không thể không thông được”. “Kinh mạch giả, sở dĩ năng quyết tử sinh, xử bách bệnh, điều hư thực, bất khả bất thông”.

Đường tuần hoàn của 12 kinh chính

Một cách tổng quát, đường tuần hoàn khí huyết trong 12 kinh chính như sau

Ba kinh âm ở tay: đi từ bên trong ra bàn tay.

Ba kinh dương ở tay: đi từ bàn tay vào trong và lên đầu.

Ba kinh dương ở chân: đi từ đầu xuống bàn chân.

Ba kinh âm ở chân: đi từ bàn chân lên bụng ngực.

Chiều của các đường kinh được xác định dựa vào 2 lý thuyết

Lý thuyết âm thăng (đi lên trên) dương giáng (đi xuống).

Lý thuyết con người hòa hợp với vũ trụ: Thiên – Địa – Nhân.

Khí huyết vận hành trong kinh mạch, kinh sau tiếp kinh trước và tạo thành một đường tuần hoàn kín đi khắp cơ thể.

Khí huyết trong các đường kinh

Khí huyết trong các đường kinh không giống nhau

Kinh thái dương, kinh quyết âm: huyết nhiều, ít khí.

Kinh thiếu dương, kinh thiếu âm, kinh thái âm: huyết ít, khí nhiều.

Kinh dương minh: huyết nhiều, khí nhiều.

Khí huyết trong các đường kinh thay đổi trong ngày

Trương Cảnh Nhạc dẫn lời của Cao Võ (khi bàn luận về thủ thuật châm cứu) nói rằng: “Nghênh có nghĩa là gặp lúc khí lai (đến) (ví dụ: dần thời, khí lai chú vào phế; mão thời, khí lai chú vào đại trường). Bấy giờ là lúc mà khí của phế và đại trường vừa thịnh, phải dùng lúc đoạt để châm tả…”.

Sự thịnh suy của khí huyết trong từng đường kinh trong ngày:

Từ 3 giờ đến 5 giờ: giờ dần (giờ của Phế).

Từ 5 giờ đến 7 giờ: giờ mão (giờ của Đại trường).

Từ 7 giờ đến 9 giờ: giờ thìn (giờ của Vị).

Từ 9 giờ đến 11 giờ: giờ tỵ (giờ của Tỳ).

Từ 11 giờ đến 13 giờ: giờ ngọ (giờ của Tâm).

Từ 13 giờ đến 15 giờ: giờ mùi (giờ của Tiểu trường).

Từ 15 giờ đến 17 giờ: giờ thân (giờ của Bàng quang).

Từ 17 giờ đến 19 giờ: giờ dậu (giờ của Thận).

Từ 19 giờ đến 21 giờ: giờ tuất (giờ của Tâm bào).

Từ 21 giờ đến 23 giờ: giờ hợi (giờ của Tam tiêu).

Từ 23 giờ đến 1 giờ: giờ tý (giờ của Đởm).

Từ 1 giờ đến 3 giờ: giờ sửu (giờ của Can).

Mười hai kinh chính


Kinh thủ thái âm phế


Lộ trình đường kinh:

Bắt đầu từ trung tiêu (vị) vòng xuống đại trường, vòng lên dạ dày (môn vị, tâm vị), xuyên qua cách mô lên Phế. Từ Phế tiếp tục lên khí quản, thanh quản, họng, rẽ ngang xuống để xuất hiện ngoài mặt da tại giao điểm khe liên sườn 2 và rãnh delta – ngực, rồi đi ở mặt trước ngoài cánh tay, xuống khuỷu ở bờ ngoài tấm gân cơ nhị đầu, tiếp tục đi ở mặt trước cẳng tay đến rãnh động mạch quay (ở bờ trong trước đầu dưới xương quay). Tiếp tục xuống bờ ngoài ngón tay cái (ngư tế) và tận cùng ở góc ngoài móng tay cái.

Phân nhánh: từ huyệt Liệt khuyết tách ra một nhánh đi ở phía lưng bàn tay đến góc ngoài góc móng tay trỏ để nối với kinh đại trường.

Các huyệt trên đường kinh Phế:

Có tất cả 11 huyệt của đường kinh phế. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:

1.Trung phủ             2. Vân môn.

3.Thiên phủ               4. Hiệp bạch.

5.Xích trạch               6. Khổng tối.

7.Liệt khuyết             8. Kinh cừ.

9.Thái uyên               10. Ngư tế.

11.Thiếu thương.

Biểu hiện bệnh lý:

Đoạn 2, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:

“Nếu là bệnh thuộc Thị động sẽ làm cho phế bị trướng mãn, ngực căng ứ lên thành suyễn, ho; giữa Khuyết bồn bị đau, nếu đau nặng thì 2 tay phải bắt chéo nhau mà cảm thấy phiền loạn, ta gọi đây là chứng tý quyết. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh của phế sẽ gây thành bệnh ho, thượng khí, suyễn, hơi thở thô, phiền tâm, ngực bị đầy thống quyết ở mép trước phía trong từ cánh tay đến cẳng tay, trong lòng bàn tay bị nhiệt. Khí thịnh hữu dư thì vai và lưng bị thống; bị phong hàn, mồ hôi ra; trúng phong, đi tiểu nhiều lần mà ít. Khí hư thì vai và lưng bị thống hàn, thiểu khí đến không đủ để thở; màu nước tiểu bị biến…”.

“Thị động tắc bệnh phế trướng mãn bành bành nhi suyễn khái. Khuyết bồn trung thống thậm tắc giao lưỡng thủ nhi mậu. Thử vi tý quyết. Thị chủ Phế sở sinh bệnh giả. Khái thương khí suyễn khát, phiền tâm hung mãn, nao tý nội tiền liêm thống quyết chưởng trung nhiệt. Khí thịnh hữu dư tắc kiên bối thống, phong hàn hạn xuất, trúng phong tiểu tiện sổ nhi khiếm, khí hư tắc kiên bối thống, hàn thiểu khí bất túc dĩ tức niệu sắc biến vi thử chư bệnh”.

Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:

Ngực đầy trướng.

Ho và khó thở.

Đau nhiều ở hố thượng đòn.

Trong trường hợp nặng: bệnh nhân ôm lấy ngực (với 2 tay chéo nhau), người phiền loạn (tý quyết).

Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:

Ho và khó thở.

Khí nghịch.

Khát nước, lo lắng.

Đau mặt trong cánh tay.

Cảm giác nóng trong lòng bàn tay.

Bệnh thực:

Đau vai lưng.

Phát sốt.

Sợ lạnh, ra mồ hôi (phong hàn).

Tiểu nhiều lần mà ít (trúng phong).

Đau đầu, nghẹt mũi, đau hố trên đòn, đau ngực hoặc bả vai, cánh tay lạnh nhức.

Bệnh hư:

Đau vai lưng, lạnh đau tăng.

Sợ lạnh.

Ho suyễn, đoản hơi.

Nước tiểu trong.



Kinh (thủ dương minh) đại trường

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc ngoài gốc móng trỏ, chạy dọc theo bờ ngón trỏ, đi qua kẽ giữa 2 xương bàn tay 1 và 2 (Hợp cốc), chạy tiếp vào hố tam giác. Đi dọc bờ ngoài cẳng ngoài nếp khuỷu (Khúc trì). Đến phía trước mỏm vai (Kiên ngung) đi theo bờ sau vai giao hội với kinh (Thái dương) Tiểu trường ở huyệt Bỉnh phong và với Đốc mạch ở huyệt Đại chùy. Trở lại hố trên đòn, tiếp tục đi lên cổ, lên mặt vào chân răng hàm dưới rồi vòng môi trên. Hai kinh giao nhau ở nhân trung và kinh bên phải tận cùng ở cạnh cánh mũi bên trái, kinh bên trái tận cùng ở cạnh cánh mũi bên phải.
Từ hố thượng đòn, có nhánh ngầm đi vào trong liên lạc với Phế, qua cơ hoành đến Đại trường.
Các huyệt trên đường kinh Đại trường:
Có tất cả 20 huyệt trên đường kinh Đại trường. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.



Thương dương.
Nhị gian.
Tam gian.
Hợp cốc.
Dương khê.
Thiên lịch.
Ôn lưu.
Hạ liêm.
Thượng liêm.
Thủ tam lý.
Khúc trì.
Trửu liêu.
Thủ ngũ lý.
Tý nhu.
Kiên ngung.
Cự cốt.
Thiên đảnh.
Phù đột.
Hòa liêu.
Nghinh hương.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 3, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động sẽ làm cho đau răng, cổ sưng thũng. Vì là chủ tân dịch cho nên nếu bệnh thuộc Sở sinh sẽ làm cho mắt vàng, miệng khô, chảy máu mũi, cổ họng (hầu) bị tý, cánh tay trước vai bị đau nhức, ngón cái và ngón trỏ bị đau nhức không làm việc được. Khi nào khí hữu dư, thì những nơi mà mạch đi qua sẽ bị nhiệt và sưng thũng. Khi nào khí hư sẽ làm cho bị hàn run lên, không ấm trở lại được.
“Thị độngtắc bệnh xỉ thống, cảnh thũng. Thị chủ tân dịch Sở sinh bệnh giả, mục hoàng khẩu can, cừu nục, hầu tý, kiên tiền nao thống, đại chỉ thứ chỉ thống. Khí hữu dư tắc dương mạch sở quá giả nhiệt thũng. Hư hắc hàn lật, bất phục…”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đau nhức răng.
Viêm đau nướu răng.
Cổ họng sưng đau.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Mắt vàng.
Họng khô.
Chảy máu mũi.
Sưng đau họng (hầu).
Đau mặt trước vai, cánh tay, ngón cái và ngón trỏ bị đau nhức không làm việc được.
Bệnh thực:
Phát sốt.
Cảm giác nóng vùng mà đường kính đi qua.
Bệnh hư:
Sợ lạnh, lạnh run.

Kinh (túc dương minh) vị

Lộ trình đường kinh:
Khởi đầu từ chỗ lõm ở hai bên sống mũi lên khóe mắt trong (giao với kinh Bàng quang ở huyệtTình minh), chạy tiếp đến dưới hố mắt (đoạn này đường kinh đi chìm). Đoạn nổi bắt đầu từ giữa dưới hố mắt, đi dọc theo ngoài mũi, vào hàm trên, quanh môi, giao chéo xuống hàm dưới giữa cằm, đi dọc theo dưới má đến góc hàm (Giáp xa). Tại đây chia hai nhánh:
Một nhánh qua trước tai, qua chân tóc lên đỉnh trán (Đầu duy).
Một nhánh đi xuống cổ đến hố thượng đòn. Từ hố thượng đòn đường kinh lại chia làm hai nhánh nhỏ (chìm và nổi).
Nhánh chìm: đi vào trong đến Tỳ Vị, rồi xuống bẹn để nối với nhánh đi nổi bên ngoài.
Nhánh nổi: đi thẳng xuống ngực theo đường trung đòn. Đến đoạn ở bụng, đường kinh chạy cách đường giữa bụng 2 thốn và đến nếp bẹn.
Hai nhánh nhỏ này hợp lại ở nếp bẹn, đường kinh chạy xuống theo bờ ngoài đùi, đến bờ ngoài xương bánh chè. Chạy xuống dọc bờ ngoài cẳng chân đến cổ chân (Giải khê), chạy tiếp trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 2 và 3 và tận cùng ở góc ngoài gốc móng ngón 2.
Các huyệt trên đường kinh vị:
Có tất cả 45 huyệt trên đường kinh. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:


Thừa khấp.
Tứ bạch.
Cự liêu.
Địa thương.
Đại nghinh.
Giáp xa.
Hạ quan.
Đầu duy.
Nhân nghinh.
Thủy đột.
Khí xá.
Khuyết bồn.
Khí hộ.
Khố phòng.
Ốc ế.
Ưng song.
Nhũ trung.
Nhũ căn.
Bất dung.
Thừa mãn.
Lương môn.
Quan môn.
Thái ất.
Hoạt nhục môn.
Thiên xu.
Ngoại lăng.
Đại cự.
Thủy đạo.
Quy lai.
Khí xung.
Bễ quan.
Phục thỏ.
Âm thị.
Lương khâu.
Độc tỵ.
Túc tam lý.
Thượng cự hư.
Điều khẩu.
Hạ cự hư
Phong long.
Giải khê.
Xung dương.
Hãm cốc.
Nội đình.
Lệ đoài.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 4, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ bị chấn hàn một cách ngấm ngầm, hay than thở (rên rỉ), ngáp nhiều lần, sắc mặt đen. Khi bệnh đến thì ngại gặp người và lửa, mỗi lần nghe tiếng động của mộc (gỗ) sẽ bị kinh sợ, tâm muốn đập mạnh, muốn đóng kín cửa lớn và cửa sổ lại để ngồi một mình. Khi nào bệnh nặng thì bệnh nhân muốn leo lên cao để ca hát, muốn trút bỏ quần áo để chạy rong. Trường vị bị kêu sôi lên, bụng bị trướng lên. Ta gọi đây là chứng cán quyết. Vì là chủ huyết nên nếu là bệnh thuộc Sở sinh sẽ bị chứng cuồng ngược, ôn khí quá dâm (nhiều) sẽ làm cho mồ hôi ra, chảy máu mũi, miệng méo, môi lở, cổ sưng thũng, cuống họng bị tý, phần đại phúc (bụng trên) bị thủy thũng, đầu gối bị sưng thũng, đau nhức. Suốt đường đi từ ngực vú xuống tới huyệt khí nhai, vế, huyệt Phục thỏ, dọc mép ngoài xương chày đến trên mu bàn chân đều đau nhức, ngón chân giữa không cử động được. Nếu khí thịnh thì phía trước thân đều bị nhiệt. Khi khí hữu dư ở vị làm tiêu cốc khí, dễ bị đói, nước tiểu màu vàng. Nếu khí bất túc thì phía trước thân đều lạnh. Nếu trong vị bị hàn thì sẽ bị trướng mãn.
“Thị động tắc bệnh sái chấn hàn, thiện thân, sổ khiếm, nhan hắc; bệnh chí tắc ố nhân, dữ hỏa, văn mộc thanh tắc dịch nhiên nhi kinh tâm, dục động, độc bế hộ, tắc dũ nhi xử, thậm tắc dục thướng cao nhi ca, khí y nhi tẩu, bí hưởng, phúc trướng, thị vị cán quyết. Thị chủ huyết Sở sinh bệnh giả cuồng ngược, ôn dâm, hạn xuất, cừu nục, khẩu oa, thần chẩn, cảnh thũng, hầu tý, đại phúc thủy thũng, tất tẫn thủy thống, tuần ưng nhũ khí nhai cổ phục thỏ, cán ngoại liêm túc phụ thượng giai thống, trung chỉ bất dụng. Khí thịnh tắc thân dĩ tiền giai nhiệt. Kỳ hữu dư vu vị tắc tiêu cốc thiện cơ, niệu sắc hoàng. Khí bất túc tắc thân dĩ tiền giai hàn lật. Vị trung hàn tắc trướng mãn…”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Lạnh run.
Hay than thở (rên rỉ), ngáp nhiều lần.
Sắc mặt đen.
Ngại gặp người và lửa.
Nghe tiếng động của gỗ sẽ bị kinh sợ, tim đập mạnh. Muốn đóng kín cửa lớn, cửa sổ lại để ngồi một mình.
Trong những trường hợp bệnh nặng: bệnh nhân muốn leo lên cao để ca hát, muốn trút bỏ quần áo để chạy rong, trường vị bị kêu sôi lên, bụng bị trướng lên.
Ta gọi đây là chứng cán quyết.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Sốt cao, ra mồ hôi.
Phát cuồng, nói sảng.
Đau mắt, mũi khô, chảy máu cam, lở môi miệng, đau họng sưng cổ, méo miệng, đau ngực, viêm tuyến vú, tắc tia sữa.
Bụng trên bị sưng trướng.
Đầu gối bị sưng thũng, đau nhức.
Đau dọc đường kinh đi: suốt đường kinh đi từ ngực vú xuống tới huyệt Khí nhai, vế, huyệt Phục thỏ, dọc mép ngoài xương chày đến trên mu bàn chân đều đau nhức, ngón chân giữa không cảm giác.
Bệnh thực:
Thường xuyên có cảm giác đói.
Nước tiểu vàng.
Bệnh hư:
Cảm giác lạnh phần trước thân.
Trướng bụng, đầy hơi, khó tiêu (khi vị có hàn).

Kinh (túc thái âm) tỳ

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng chân cái, chạy dọc theo đường nối da mu bàn chân và da gan bàn chân đến trước mắt cá trong, lên cẳng chân dọc theo bờ sau xương chày, lên mặt trong khớp gối, chạy tiếp ở mặt trong đùi. Lộ trình ở bụng, đường kinh chạy cách đường giữa bụng 4 thốn. Lộ trình ở ngực, đường kinh chạy theo đường nách trước rồi đến tận cùng ở liên sườn 6 đường nách giữa (Đại bao).
Đường kinh Tỳ có nhánh liên lạc với mạch Nhâm (đường giữa bụng) ở bụng dưới (ở huyệt Trung cực, Quan nguyên) và ở bụng trên (Hạ quản).
Đoạn đường kinh ở bụng trên có nhánh chìm đến Tỳ Vị, xuyên qua cơ hoành đến Tâm, tiếp tục đi lên dọc hai bên thanh quản đến phân bố ở dưới lưỡi.
Các huyệt trên đường kinh Tỳ:
Có tất cả 21 huyệt trên đường kinh. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:
Ẩn bạch                     2. Đại đô                      3. Thái bạch.
Công tôn                   5. Thương khâu           6. Tam âm giao.
Lậu cốc                      8. Địa cơ                      9. Âm lăng tuyền.
Huyết hải                   11. Kỳ môn                  12. Xung môn.
Phủ xá                       14. Phúc kết                15. Đại hoành.
Phúc ai                      17. Thực độc               18. Thiên khê.
Hung hương             20. Chu vinh                21. Đại bao.
Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 5, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng cuống lưỡi cứng, ăn vào thì ói ra. Vị hoãn đau, bụng bị trướng, hay ợ, mỗi lần đại tiện thì đồng thời chuyển cảkhí ra theo phân. Sau đó thân người tiến tới suy kiệt rất nhanh chóng, thân thể đều nặng nề. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh của Tỳ sẽ làm cho cuống lưỡi bị đau, thân thể không lay động được, ăn không xuống, phiền tâm. Tâm hạ bị cấp thống, chứng đường hà tiết, thủy bế, hoàng đản, không nằm được, ráng đứng lâu bị nội thũng và quyết ở đùi vế, ngón chân cái không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh thiệt bản cường, thực tắc ẩu, vị hoãn thống, phúc trướng, thiện ái, đắc hậu dữ khí tắc khoái nhiên như suy, thân thể giai trọng. Thị chủ tỳ Sở sinh bệnh, thiệt bản thống, thể bất năng động dao, thực bất há, phiền tâm. Tâm hạ cấp thống, đường hà tiết, thủy bế, hoàng đản, bất năng ngọa cưỡng lập, cổ tất nội thũng quyết, túc đại chỉ bất dụng”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Cứng lưỡi.
Ói mửa sau khi ăn.
Đau vùng thực quản, bụng trướng hơi, hay ợ.
Trung tiện nhiều khi đi cầu.
Thân thể nặng nề và đau nhức.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Đau ở cuống lưỡi, người có cảm giác cứng khó cử động.
Ăn kém, cảm giác thức ăn bị chặn, ăn không xuống.
Đau thượng vị, tiêu chảy hoặc muốn đi cầu mà không đi được (giống như lỵ).
Hoàng đản.
Không nằm được, đứng lâu bị phù và có cảm giác lạnh ở mặt trong đùi.
Ngón chân cái không cử động được.

Kinh (thủ thiếu âm) tâm

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ Tâm phân làm 3 nhánh:
Một nhánh qua cơ hoành liên lạc với Tiểu trường.
Một nhánh dọc cạnh thanh quản, cổ họng thẳng lên mắt.
Một nhánh đi ngang ra đáy hố nách để xuất hiện ngoài mặt da (Cực tuyền). Đi xuống dọc bờ trong mặttrước cánh tay đến nếp gấp trong nếp khuỷu (Thiếu hải). Dọc theo mặt trong cẳng tay, dọc mặt lòng bàn tay giữa xương bàn ngón 4 và 5. ở cổ tay, đường kinh đi ở bờ ngoài gân cơ trụ trước. Kinh Tâm đến tận cùng ở góc ngoài gốc móng tay thứ 5 (Thiếu xung).
Các huyệt trên đường kinh Tâm:
Có tất cả 9 huyệt trên đường kinh Tâm. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Cực tuyền.
Thanh linh.
Thiếu hải.
Linh đạo.
Thông lý.
Âm khích.
Thần môn.
Thiếu phủ.
Thiếu xung.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 6, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho cổ họng bị khô, tâm thống, khát muốn uống nước, gọi đây là chứng tý quyết. Nếu là bệnh Sở sinh do Tâm làm chủ sẽ làm cho mắt vàng, hông sườn thống; mép sau phía trong của cánh tay và cẳng tay bị thống, quyết; giữa gan bàn tay bị nhiệt, thống.
“Thị động tắc bệnh ách can, tâm thống, khát nhi dục ẩm, thị vi tý quyết. Thị chủ tâm Sở sinh bệnh giả, mục hoàng, hiếp thống, nao tý nội hậu liêm thống quyết, chưởng trung nhiệt thống”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Cổ họng khô.
Đau vùng tim, khát muốn uống nước.
Tý quyết (xem kinh Phế).
Bệnh do nội nhân gây nên:
Vàng mắt.
Đau vùng hông sườn.
Đau và có cảm giác lạnh ở mặt trong cánh tay, cẳng tay.
Nóng lòng bàn tay.

Kinh (thú thái dương) tiểu trường

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng ngón tay thứ 5, chạy dọc theo đường nối da lưng và da lòng bàn tay, lên cổ tay đi qua mỏm trâm trụ, chạy dọc theo mặt trong cẳng tay đến rãnh ròng rọc, tiếp tục đi ở bờ trong mặt sau cánh tay đến nếp nách sau, lên mặt sau khớp vai đi ngoằn ngoèo ở trên và dưới gai xương bả vai (có đoạn nối với kinh Bàng quang và mạch Đốc), đi vào hố trên đòn rồi dọc theo cổ lên má. Tại đây chia thành 2 nhánh:
Một nhánh đến đuôi mắt rồi đến hõm trước nắp bình tai.
Một nhánh đến khóe mắt trong (Tình minh) rồi xuốngtận cùng ở gò má (Quyền liêu).
Đoạn đường kinh chìm: từ hố thượng đòn có nhánh ngầm đi vào trong đến tâm, qua cơ hoành đến vị rồi liên lạc với tiểu trường.
Các huyệt trên đường kinh Tiểu trường:
Có tất cả 19 huyệt trên đường kinh Tiểu trường. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng:


Thiếu trạch.
Tiền cốc.
Hậu khê.
Uyển cốt.
Dương cốc.
Dưỡng lão.
Chi chính.
Tiểu hải.
Kiên trinh.
Nhu du.
Thiên tông.
Bỉnh phong.
Khúc viên.
Kiên ngoại du.
Kiên trung du.
Thiên song.
Thiên dung.
Quyền liêu.
Thính cung.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 7, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng đau cổ, hàm sưng thũng, không ngoái lại sau được, vai đau như nhổ rời, cánh tay đau như gãy ra. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh vì chủ về dịch sẽ làm cho tai bị điếc, mắt vàng, má sưng, cổ, hàm, vai, cánh tay, khuỷu tay, mép sau phía ngoài cẳng tay, tất cả đều đau.
“Thị động tắc bệnh ách thống, hàm thũng bất khả dĩ cố kiên tự bạt, nao tự chiết. Thị chủ dịch Sở sinh bệnh giả, nhĩ lung, mục hoàng, giáp thũng, cảnh, hàm, kiên, nao, trửu, tý ngoại hậu liêm thống”.
Bệnh do ngoại nhân gây nên:
Đau cổ, không ngoái lại phía sau được.
Hàm sưng.
Đau mặt sau vai và cánh tay như bị gãy.
Bệnh do nội nhân gây nên:
Điếc tai, vàng mắt.
Su8ng má và góc hàm.
Đau cổ, hàm, mặt sau vai, cánh tay, khuỷu tay, mép sau trong cẳng tay.

Kinh (túc thái dương) bàng quang

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ khóe mắt trong (Tình minh), chạy lên trán, vòng từ trước trán ra sau gáy (ở đoạn này đường kinh có nhánh giao hội với Đốc mạch ở đầu, tách một nhánh ngang đi từ đỉnh đầu đến mỏm tai và một nhánh vào não). Từ đấy chia làm 2 nhánh:
Nhánh 1 chạy xuống lưng cách đường giữa lưng 1,5 thốn, chạy tiếp xuống mông, mặt sau đùi rồi vào giữa khoeo chân.
Nhánh 2 chạy xuống lưng cách đường giữa lưng 3 thốn, chạy tiếp ở phía ngoài mặt sau đùi đến hợp với nhánh thứ 1 ở giữa khoeo chân (Ủy trung).
Đường kinh tiếp tục chạy xuống mặt sau cẳng chân, xuống phía sau mắt cá ngoài (tại huyệt Côn lôn) rồi chạy dọc bờ ngoài mu bàn chân đến tận cùng ở góc ngoài gốc móng chân thứ 5.
Đường kinh Bàng quang ở vùng thắt lưng có nhánh ngầm đi vào thận rồi đến Bàng quang.
Các huyệt trên đường kinh Bàng quang:
Có tất cả 67 huyệt trên đường kinh Bàng quang. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Tình minh.
Toản trúc.
Mi xung.
Khúc sai.
Ngũ xứ.
Thừa quan.
Thông thiên.
Lạc khước.
Ngọc chẩm.
Thiên trụ.
Đại trữ.
Phong môn.
Phế du.
Quyết âm du.
Tâm du.
Đốc du.
Cách du.
Can du.
Đởm du.
Tỳ du.
Vị du.
Tam tiêu du.
Thận du.
Khí hải du.
Đại trường du.
Quan nguyên du.
Tiểu trường du.
Bàng quang du.
Trung lữ du.
Bạch hoàn du.
Thượng liêu.
Thứ liêu.
Trung liêu.
Hạ liêu.
Hội dương.
Thừa phù.
Ân môn.
Phù khích.
Ủy dương.
Ủy trung.
Phụ phân.
Phách hộ.
Cao hoang.
Thần đường.
Y hy.
Cách quan.
Hồn môn.
Dương cương.
Ý xá.
Vị thương.
Hoang môn.
Chí thất.
Bào hoang.
Trật biên.
Hợp dương.
Thừa cân.
Thừa sơn.
Phi dương.
Phụ dương.
Côn lôn.
Bộc tham.
Thân mạch.
Kim môn.
Kinh cốt.
Thúc cốt.
Thông cốt.
Chí âm.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 8, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng “xung đầu thống”, mắt đau như muốn thoát ra ngoài, cổ gáy như bị gãy rời ra, cột sống bị đau, thắt lưng như gãy, mấu chuyển lớn không thể co lại được, khoeo chân như kết lại, bắp chuối như nứt ra, ta gọi đây là chứng “khỏa quyết”. Đây là chứng “Sở sinh bệnh” chủ về cân: trĩ ngược, cuồng điên tật, giữa đỉnh đầu bị đau nhức, mắt vàng, chảy nước mắt, chảy máu cam; tất cả từ cổ, gáy, lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo chân, chân đều đau nhức; ngón út không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh xung đầu thống, mục tự thoát hạng như bạt, tích thống, yêu tự chiết, bễ bất khả dĩ khúc, quắc như kết thuyện như liệt. Thị vi Khỏa quyết. Thị chủ cân Sở sinh bệnh giả trĩ ngược cuồng điên tật, đầu tín đỉnh thống, mục hoàng, lệ xuất, cừu nục, hạng bối yêu cừu quắc thuyện cước giai thống, tiểu chỉ bất dụng”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Cảm giác như khí thượng nghịch gây nên đau đầu, mắt đau như muốn thoát ra ngoài, cổ gáy như bị gãy rời ra, bị xoay vặn, đau cột sống, thắt lưng đau như bị gãy, không gập được gối, đau như bị đè nén ở hố nhượng chân, đau bắp chân như bị nứt, xé.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
 Trĩ, sốt và lạnh run, điên cuồng, giữa đỉnh đầu bị đau nhức, mắt vàng, chảy nước mắt, chảy máu cam. Tất cả từ cổ, gáy, lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo chân, chân đều đau nhức, không cử động được ngón chân út.

Kinh (túc thế âm) thận

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ lòng bàn chân (Dũng tuyền), đi dọc dưới xương thuyền phía trong bàn chân (Nhiên cốc) đến sau mắt cá trong rồi ngược lên bắp chân đến khoeo chân giữa gân cơ bán gân và gân cơ bán màng (Âm cốc). Đi tiếp lên mặt trong đùi. Ở bụng, đường kinh Thận chạy cách đường giữa 1/2 thốn, ở ngực chạy cách đường giữa 2 thốn và tận cùng ở dưới xương đòn (Du phủ).
Từ nếp bẹn, kinh Thận có nhánh ngầm vào cột sống đoạn thắt lưng, đến Thận rồi đến Bàng quang. Từ Thận chạy tiếp đến Can, qua cơ hoành lên Phế dồn vào Tâm, chạy tiếp theo họng, thanh quản và tận cùng ở cuống lưỡi.
Các huyệt trên đường kinh Thận:
Có tất cả 27 huyệt trên đường kinh Thận. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Dũng tuyền.
Nhiên cốc.
Thái khê.
Đại chung.
Thủy tuyền.
Chiếu hải.
Phục lưu.
Giao tín.
Trúc tân.
Âm cốc.
Hoành cốt.
Đại hách.
Khí huyệt.
Tứ mãn.
Trung chú.
Hoang du.
Thương khúc.
Thạch quan.
Âm đô.
Thông cốc.
U môn.
Bộ lang.
Thần phong.
Linh khu.
Thần tàng.
Hoắc trung.
Du phủ.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 9, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ gây thành chứng đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, lúc ho nhổ nước bọt thấy có máu, suyễn nghe khò khè, ngồi xuống lại muốn đứng lên, mắt lờ mờ như không thấy gì. Tâm như bị treo lên, lúc nào cũng như đang bị đói. Khi nào khí bất túc thì sẽ dễ bị sợ sệt …Tâm như hồi hộp, như sợcó người đang đến để bắt mình, ta gọi đây là chứng cốt quyết. Nếu bị bệnh Sở sinh chủ về Thận thì sẽ làm cho miệng bị nhiệt, lưỡi bị khô, yết bị sưng thũng, bị chướng khí, cổ họng bị khô và đau nhức, bị phiền tâm, tâm bị thống, bị hoàng đản, trường phích, mép sau của vế trong và cột sống bị đau, chứng nuy quyết, thích nằm, dưới chân bị nhiệt và thống”.
“Thị động tắc bệnh cơ bất dụng thực, diện như tất sài, khái thóa tắc hữu huyết, ới ới nhi suyễn, tọa nhi dục khởi, mục hoang hoang như vô sở kiến. Tâm như huyền, nhược cơ trạng. Khí bất túc tắc thiện khủng. Tâm dịch dịch như nhân tương bộ chi. Thị vi cốt quyết. Thị chủ Thận Sở sinh bệnh giả, khẩu nhiệt thiệt can, yết thũng thướng khí ách can cập thống, phiền tâm, tâm thống, hoàng đản, trường phích, tích cổ nội hậu liêm thống, nuy quyết, thị ngọa, túc hạ nhiệt nhi thống”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Đói mà không muốn ăn, mặt đen như dầu đen, ho nhổ nước bọt thấy có máu, thở nhanh, khò khè, ngồi xuống lại muốn đứng lên, mắt mờ. Nếu Thận khí bất túc thì sẽ dễ bị sợ sệt, hồi hộp, trống ngực … Ta gọi đây là chứng cốt quyết.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Họng nóng, khô lưỡi, đau họng.
Lo lắng, đau vùng tim, hoàng đản, lỵ.
Đau lưng, đau mặt trong đùi.
Chứng nuy quyết (chi bị liệt và lạnh).
Thích nằm, lòng bàn chân nóng và đau.

Kinh (thú quyết âm) bào

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ tâm bào xuyên qua cơ hoành đến liên lạc với tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu). Từ Tâm bào đi ra cạnh sườn đến xuất hiện ngoài mặt da dưới nếp nách 3 thốn (tại huyệt Thiên trì: liên sườn 4, từ đường giữa ra5 thốn), chạy vòng lên nách, chạy xuống theo mặt trước cánh tay giữa 2 kinh Phế và Tâm, đến bờ trong tấm gân cơ 2 đầu ở nếp khuỷu tay (Khúc trạch), chạy xuống cẳng tay giữa gân cơ gan bàn tay lớn và gan bàn tay bé, chạy trong lòng bàn tay giữa xương bàn ngón 3 và 4 và đến tận cùng ở đầu ngón tay giữa.
Các huyệt trên đường kinh Tâm bào:
Có tất cả 9 huyệt trên đường kinh Tâm bào. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Thiên trì.
Thiên tuyền.
Khúc trạch.
Khích môn.
Giản sử.
Nội quan.
Đại lăng.
Lao cung.
Trung xung.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 10, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho lòng bàn tay bị nhiệt, cẳng tay và khuỷu tay co quắp, nách bị sưng. Nếu bệnh nặng sẽ làm cho ngực và hông sườn bị tức đầy, trong tâm đập thình thịch, mặt đỏ, mắt vàng, mừng vui cười không thôi. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh, chủ về mạch sẽ làm cho bị phiền tâm, tâm bị thống, giữa gan bàn tay bị nhiệt.”.
“Thị động tắc bệnh thủ tâm nhiệt, tý trửu luyến cấp, dịch thũng, thậm tắc hung hiếp chi mãn. Tâm trung đạm đạm đại động, diện xích, mục hoàng, hỉ tiếu bất hưu. Thị chủ mạch sở sinh bệnh giả, phiền tâm, tâm thống, chưởng trung nhiệt”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Lòng bàn tay nóng, cẳng tay và khuỷu tay co quắp, vùng nách bị sưng.
Trường hợp bệnh nặng: đau tức ngực và hông sườn, trống ngực, mặt đỏ, mắt vàng, hay cười không thôi.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Lo lắng, đau vùng trước tim, lòng bàn tay nóng.

Kinh (thú thiếu dương) tam tiêu

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc trong gốc móng ngón tay thứ 4, đi dọc lên lưng bàn tay giữa xương bàn ngón tay 4 và 5 lên cổ tay, đi giữa hai xương quay và trụ lên cùi chỏ, đi dọc mặt sau ngoài cánh tay lên vai rồi vào hố trên đòn. Từ hố trên đòn lên gáy đến sau tai, vòng dọc theo rìa tai từ sau ra trước tai rồi đến tận cùng ở đuôi lông mày (Ty trúc không).
Từ hố thượng đòn có nhánh ngầm đi vào Tâm bào và liên lạc với Tam tiêu. Từ sau tai có nhánh ngầm đi vào trong tai rồi ra trước tai.
Các huyệt trên đường kinh Tam tiêu:
Có tất cả 23 huyệt trên đường kinh Tam tiêu. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Quan xung.
Dịch môn.
Trung chữ.
Dương trì.
Ngoại quan.
Chi câu.
Hội tông.
Tam dương lạc.
Tứ độc.
Thiên tỉnh.
Thanh lãnh uyên.
Tiêu lạc.
Nhu hội.
Thiên liêu.
Kiên liêu.
Thiên dũ.
Ế phong.
Khế mạch.
Lư tức.
Giác tôn.
Nhĩ môn.
Hòa liêu.
Ty trúc không.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 11, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho tai điếc một cách ù ù, cổ họng sưng (thực quản), cổ họng tý (thanh quản). Nếu là bệnh thuộc Sở sinh, chủ về khí sẽ làm cho bệnh đổ mồ hôi, khoé mắt ngoài đau, má bị đau, phía sau tai, vai, cánh tay, khuỷutay, mặt ngoài cánh tay đều đau nhức. Ngón tay áp út, phía ngón út không cảm giác”.
“Thị động tắc bệnh nhĩ lung, hồn hồn thuần thuần, ách thũng, hầu tý. Thị chủ khí Sở sinh, mục nhuệ tý thống, giáp thống, nhĩ hậu, kiên, nao, trửu tý ngoại giai thống, tiểu chỉ, thứ chỉ bất dụng”.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Ù tai, điếc tai, sưng đau họng.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Hay đổ mồ hôi, khoé mắt ngoài đau, má bị đau, đau ở góc hàm.
Phía sau tai, vai, cánh tay, cùi chỏ, mặt ngoài cánh tay đều đau nhức.
Khó cử động ngón tay áp út và ngón út.

Kinh (túc thiếu dương) đởm

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ đuôi mắt, lên góc trán vòng xuống sau tai, vòng từ sau đầu ra trước trán, vòng trở lại gáy đi dọc cổ xuống mặt trước vai vào hố trên đòn rồi xuống nách, chạy xuống theo vùng hông sườn đến mấu chuyển lớn, tiếp tục đi xuống theo mặt ngoài đùi, đến bờ ngoài khớp gối, xuống cẳng chân chạy trước ngoài xương mác, trước mắt cá ngoài, chạy tiếp trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 4 và 5 và tận cùng ở góc ngoài gốc móng thứ 4.
Từ đuôi mắt có nhánh ngầm đi xuống hố thượng đòn, vào trong ngực liên lạc với Can – Đởm rồi xuống tiếp vùng bẹn để đến nối với nhánh bên ngoài ở mấu chuyển lớn.
Các huyệt trên đường kinh Đởm:
Có tất cả 44 huyệt trên đường kinh Đởm. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Đồng tử liêu.
Thính hội.
Thượng quan.
Hàm yến.
Huyền lư.
Huyền ly.
Khúc tân.
Suất cốc.
Thiên xung.
Phù bạch.
Khiếu âm.
Hoàn cốt.
Bản thần.
Dương bạch.
Đầu lâm khấp.
Mục song.
Chính doanh.
Thừa linh.
Não không.
Phong trì.
Kiên tỉnh.
Uyên dịch.
Trấp cân.
Nhật nguyệt.
Kinh môn.
Đới mạch.
Ngũ xu.
Duy đạo.
Cự liêu.
Hoàn khiêu.
Phong thị.
Trung độc.
Tất dương quan.
Dương lăng tuyền.
Dương giao.
Ngoại khâu.
Quang minh.
Dương phụ.
Tuyệt cốt.
Khâu khư.
Túc lâm khấp.
Địa ngũ hội.
Hiệp khê.
Túc khiếu âm.


Biểu hiện bệnh lý:
Đoạn 12, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:
“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho miệng đắng, thường hay thở mạnh, tâm và hông sườn đau, khó xoay trở. Nếu bệnh nặng hơn thì mặt như đóng lớp bụi mỏng, thân thể không nhuận trơn, phía ngoài bàn chân lại nóng. Đây gọi là chứng dương quyết. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh chủ về cốt sẽ làm cho đầu nhức, hàm nhức, khoé mắt ngoài nhức, vùng khuyết bồn bị sưng thũng và đau nhức, dưới nách bị sưng thũng, chứng ung thư mã hiệp anh, mồ hôi ra, sốt rét, chấn hàn; ngực hông sườn, mấu chuyển lớn, phía ngoài đầu gối cho đến cẳng chân, phía ngoài xương tuyệt cốt, mắt cá ngoài và các đốt xương, tất cả đều bị đau nhức. Ngón chân áp út không còn cảm giác.
“Thị động tắc bệnh khẩu thổ, thiện thái tức. Tâm hiếp thống, bất năng chuyển trắc, thậm tắc diện vi hữu trần, thể vô cao trạch, túc ngoại phản nhiệt, thị vi dương quyết. Thị chủ cốt Sở sinh bệnh giả, đầu thống, hàm thống, mục nhuệ tý thống, khuyết bồn trung thũng thống, dịch hạ thũng, mã đao hiệp anh, hạn xuất chấn hàn ngược, hung hiếp lặc bễ tất ngoại chí hình tuyệt cốt ngoại khỏa tiền cập chư tiết giai thống. Tiểu chỉ, thứ chỉ bất dụng’’.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:
Miệng đắng, thường hay thở dài.
Vùng ngực và hông sườn đau, khó xoay trở.
Trường hợp bệnh nặng: mặt như đóng lớp bụi mỏng, da khô mất nước, thân thể không nhuận trơn, cảm giác nóng ở mặt ngoài chân, đây gọi là chứng dương quyết.
Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:
Đau đầu nhức, đau vùng dưới cằm, đau khoé mắt ngoài, hố trên đòn sưng và đau nhức, vùng dưới nách sưng đau, hạch nách.
Hay ra mồ hôi, sốt rét.
Đau vùng ngực, hông sườn.
Đau ở mấu chuyển lớn xương đùi, đau phía ngoài đầu gối cho đến phía ngoài cẳng chân, đau mắt cá ngoài.
Không cử động được ngón chân áp út.

Kinh (túc quyết âm) can

Lộ trình đường kinh:
Bắt đầu từ góc ngoài gốc móng chân cái, chạy dọc trên lưng bàn chân giữa xương bàn ngón 1 và 2 rồi đến trước mắt cá trong, lên mặt trong cẳng chân giao với kinh Tỳ rồi bắt chéo ra sau kinh này, lên mặt trong khoeo chân bên ngoài gân cơ bán màng, chạy tiếp lên mặt trong đùi đến nếp bẹn, vòng quanh bộ sinh dục ngoài lên bụng dưới và tận cùng ở hông sườn (Kỳ môn).
Từ đây có nhánh ngầm đi vào trong đến Can Đởm rồi vào Phế, xuyên cơ hoành lên phân bố ở cạnh sườn, đi dọc theo sau khí quản, thanh quản rồi lên vòm họng, lên nối với quanh mắt rồi chia làm 2 nhánh:
Một nhánh lên hội với Đốc mạch ở giữa đỉnh đầu (Bách hội).
Một nhánh xuống má vào vòng trong môi.
Các huyệt trên đường kinh Can:
Có tất cả 14 huyệt trên đường kinh Can. Những huyệt tên nghiêng là những huyệt thông dụng.


Đại đôn.
Hành gian.
Thái xung.
Trung phong.
Lãi câu.
Trung đô.
Tất quan.
Khúc tuyền.
Âm bao.
Túc ngũ lý.
Âm liêm.
Cấp mạch.
Chương môn.
Kỳ môn.


Biểu hiện bệnh lý:

Đoạn 13, thiên Kinh mạch, sách Linh khu có câu:

“Nếu là bệnh thuộc Thị động thì sẽ làm cho đau lưng đến không cúi ngửa ra được. Ở đàn ông sẽ có chứng đồi sán; ở đàn bà sẽ có chứng thiếu phúc bị sưng thũng. Nếu bệnh nặng sẽ làm cho cổ họng bị khô, mặt như đóng lớp bụi và thất sắc. Nếu là bệnh thuộc Sở sinh thuộc can sẽ làm cho ngực bị đầy, ói nghịch, xôn tiết, hồ sán, đái dầm, bí đái”.

“Thị động tắc bệnh yêu thống, bất khả dĩ phủ ngưỡng. Trượng phu đồi sán, phụ nhân thiếu phúc thũng, thậm tắc ách can, diện trần thoát sắc. Thị can Sở sinh bệnh giả, hung mãn ẩu nghịch, xôn tiết, hồ sán, di niệu, bế lung”.

Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên ngoài:

Đau lưng không cúi ngửa được, đàn ông sẽ có chứng đồi sán (co thụt và sa bìu); đàn bà sẽ có chứng bụng dưới bị sưng thũng.

Trường hợp bệnh nặng: cổ họng khô, mặt như đóng lớp bụi và thất sắc.

Triệu chứng xuất hiện do nguyên nhân bên trong:

Ngực bị tức đầy, ói mửa, cảm giác như khí nghịch lên trên.

Tiêu chảy, đầy bụng, khó tiêu.

Co thụt và sa bìu.

Đái dầm, bí đái, đái khó.













No comments:

Post a Comment