LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Thursday, October 6, 2016

Tuyến tùng - con mắt thứ 3






Tuyến tùng là gì ?

            Tuyến tùng được coi là một trong những phần quan trọng nhất của hệ thống thần kinh của bạn. Nó đã bị bao phủ trong vòng bí ẩn. Nhưng hiện đang có nhiều người tìm hiểu về hoạt động và chức năng của Tuyến Tùng. Chức năng chủ yếu của Tuyến Tùng là một ăng-ten tâm linh. Đó Con mắt thứ ba và cũng là cảnh cửa đi vào thế giới Tâm linh. Chính ở Tuyến Tùng này , các thông tin siêu vượt Thế gian , Thông tin Liên chiều không gian được thu nhận và chuyển hoá thành các khái niệm có thể hiểu được đối với bộ não con người. Nói chính xác hơn : Tuyến Tùng là cổng nối giữa Ý thức và Siêu Thức. Trong nhiều dòng tu tập Tâm linh trên Trái đất, Kích hoạt Tuyến Tùng hay Khai mở Con mắt thứ ba luôn được coi là một cách quan trọng để đạt được cấp độ cao hơn của ý thức trong khi vẫn đang hiện diện trong một cơ thể vật lý.

 [​IMG]

Khái niệm Tuyến tùng là "Lối vào của Linh hồn", là cửa ngõ Tinh thần diễn tả khá chính xác nhiệm vụ và chức năng chính của Tuyến Tùng . Để bước vào được Thế giới Tâm linh , bạn phải khai thông được cảnh cửa tạii Tuyến tùng bằng cách Thanh lọc và tái kích hoạt Tuyến Tùng. Làm sạch Tuyến tùng và kích hoạt con mắt thứ ba của bạn là điều cần thiết cho những người có nhu cầu để phát triển khả năng ngoại cảm và tăng cường nhận thức đa chiều. Bằng cách đánh thức tuyến tùng của bạn, sẽ đem lại khả năng đi du lịch có ý thức vào các chiều không gian khác, khám phá các dòng thời gian và thấy trước tương lai.



Vài phương pháp Thanh lọc và Kích hoạt Tuyến Tùng :

-- Thay đổi trong chế độ ăn uống.

-- Thực hành thanh lọc- loại bỏ chất vôi ở tuyến tùng của bạn.

-- Các thực hành tâm linh như thiền định và cầu nguyện.

-- Các phép luyện tập các dòng năng lượng trong cơ thể như Kundalini, năng lượng tình dục, Yoga , Hoàn tinh bổ não của Đạo gia ...

-- Sử dụng thảo dược để thanh lọc và kích hoạt Tuyến tùng .

--Sử dụng Âm thanh và Ánh sáng . Sử dụng một vài loại nhạc đặc biệt hoặc Tịnh tu trong phòng tối .

-- Và các phương pháp khác nữa .

Cụ thể từng phương pháp sẽ được trình bày trong trong thời gian tới .



Tuyến Tùng trong con mắt của Bác sỹ .

Tuyến Tùng là một tuyến nội tiết nhỏ nằm trong não của động vật có xương sống, sản sinh các dẫn xuất serotonin melatonin. Đó là một hormone ảnh hưởng đến chức năng thức / ngủ của cơ thể. Hình dạng Tuyến Tùng giống như một hình nón thông nhỏ (vì thế tên của nó). Tuyến Tùng nằm gần trung tâm của não , giữa hai bán cầu, nằm ​​trong một đường rãnh giữa 2 đồi não .Tuyến tùng thường được nhìn thấy trong hộp sọ bằng X-quang, vì nó thường bị vôi hóa. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng : vôi hóa Tuyến Tùng liên quan với sự tích lũy của Clo/ Flo . Sự tê liệt Tuyến Tùng là hậu quả của việc sử dụng nước máy và các đồ ăn có chất tẩy Clo/ Flo .


Tăng trưởng của Tuyến Tùng .

Tuyến tùng của con người tăng kích thước cho đến 2 tuổi và giữ nguyện kích thước đó cho tơi cuối đời, mặc dù trọng lượng của nó tăng dần từ tuổi dậy thì trở đi. Mức melatonin dồi dào ở trẻ em được cho là để ngăn chặn sự phát triển tình dục, và các khối u tùng đã liên hệ với dậy thì sớm. Khi đến tuổi dậy thì , sản xuất hor mone melatonin giảm. Vôi hóa của tuyến tùng là rất hay thường gặp ở người lớn.Trẻ dưới 7 tuổi Tuyến tùng hầu như chưa bị vôi hoá . Tỷ lệ vôi hóa khác nhau theo từng quốc gia và có xu hướng tăng theo độ tuổi.


Vôi hóa Tuyến tùng và nguyên nhân.

Vôi hóa nói chung là quá trình tích tụ của các tinh thể Phốt phát - Can xi (calcium phosphate) ở các bộ phận khác nhau của cơ thể. Nó là một quá trình thầm lặng gây ra chủ yếu là do vi khuẩn nano. Vi khuẩn nano là những vi sinh vật nhỏ bé có vỏ bao bọc bằng phosphate canxi . Vi khuẩn nano dùng vỏ bọc này để bảo vệ chúng khỏi hệ thống miễn dịch của bạn. Những vi khuẩn nano có vỏ bọc Canxi này đi theo máu tới não và tích tụ ở Tuyến tùng của chúng ta, cuối cùng là Tuyến Tùng bị vôi hóa .

Điều đáng tiếc là Tuyến tùng của hầu hết mọi người đều bị vôi hóa. Tuyến tùng của người trưởng thành giống như một cục canxi nằm ở giữa não bộ. Sự vôi hoá Tuyến tùng này làm mù con mắt thứ ba của chúng ta.

Chế độ ăn uống mất cân bằng khủng khiếp và hệ thống thực phẩm theo kiểu phương Tây, mà hầu hết mọi người đang cố noi theo đã và đang tàn phá sức khoẻ và vôi hoá Tuyến tùng của mỗi người. Thông qua đồ ăn nước uống và vài phương tiện khác, các vi khuẩn nano vôi hoá được chúng ta tự nguyện đưa vào cơ thể .

Sự vôi hoá Tuyến tùng là nguyên nhân chính ngăn cản chúng ta đi vào thế giới Tâm linh . Chúng ta đã bị âm thầm đầu độc nhiều năm qua . Tuyến tùng đã bị vôi hoá . Vậy làm cách nào để Thanh lọc Tuyến tùng , loại bỏ vôi hoá , Tái kích hoạt lại Tuyến tùng ? Một câu hỏi hóc búa đau đầu . Nhưng khi tìm ta được lời giải đáp thì phần thưởng là rất lớn . Khai ngộ được hay không là ở đây . Thức tỉnh Tâm linh là bắt đầu ở chỗ này .

Nào , chúng ta cùng nhau bước tới . Tìm cách Thanh lọc Tuyến Tùng , Kích hoạt Mắt Trí huệ , Khai mở Tâm Linh .

[​IMG]

Tuyến Tùng thu hút Florua.

Nhờ nghiên cứu đầu tiên được thực hiện bởi trường Đại học Surrey tại Anh vào năm 1997, bây giờ chúng ta đã biết rằng các mô mềm của tuyến tùng người lớn có chứa fluoride nhiều hơn bất kỳ các mô nào trong cơ thể. Trong thực tế, mức độ fluoride tuyến tùng là rất cao, đủ để ức chế các enzym.

Sau những bước đột phá hiểu biết ban đầu về mối liên hệ giữa chất florua và vôi hóa tuyến tùng, các nhà khoa học đã bắt đầu xem xét vấn đề một cách kỹ lưỡng hơn. Trong năm 2006, Hội đồng nghiên cứu quốc gia (NRC) bắt đầu nhiều nghiên cứu theo yêu cầu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) xem xét các độc tính fluoride trong nước uống và những ảnh hướng tới sức khỏe. Năm 2007, một báo cáo khoa học của Tiến sĩ Luke và nhóm nghiên cứu đã chỉ rõ tác hại của Clorua trong nước uống và là nguyên nhân vôi hóa tuyến tùng. Tóm tắt đã được in tại Viện Hàn lâm Báo chí Quốc gia, Washington DC Trang 221-222 trong đó có đoạn như sau:

"Nghiên cứu trên động vật đã cho thấy rằng: phơi nhiễm Clorua đã làm thay đổi của chức năng Tuyến tùng trong quá trình sản xuất hóc môn melatonin và thay đổi thời điểm của sự trưởng thành tình dục ... thông tin gần đây về các vai trò của Tuyến tùng ở người cho thấy rằng những tác nhân ảnh hưởng đến chức năng tuyến tùng đều có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người trong nhiều cách khác nhau. Bao gồm cả ảnh hưởng đến dậy thì sớm, rối loạn chuyển hóa canxi, thay đổi chức năng tuyến cận giáp, loãng xương sau mãn kinh, ung thư và bệnh tâm thần. "

Và, một bài xã luận được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Nha Khoa Hoa Kỳ, 01 Tháng Mười năm 1994, nêu rõ:

"Uống nước có chứa 1,2 ppm Cloruasẽ gây ra rối loạn phát triển, sẽ phát sinh các nguy cơ rối loạn nghiêm trọng trong cơ thể người. Khả năng gây hại của Clorua là lớn hơn những gì chúng ta đã biết. "

Một nghiên cứu khác vào cuối những năm 90 của một nhà khoa học tên là Jennifer từ trường Đại học Surrey ở Anh thực hiện nghiên cứu tác động của sodium Clorua lên tuyến tùng. Cô xác định rằng tuyến tùng, một tuyến nội tiết nằm ở giữa của bộ não, là mục tiêu cho Clorua. Tuyến tùng hấp thu Clorua hơn bất kỳ bộ phận nào khác trong cơ thể. Tuyến tùng giống như một nam châm thu hút sodium Clorua .

Nồng độ tối đa cho phép của clorua natri trong nước uống hiện nay là 4 ppm. Trong khi đó Mức Clorua trung bình cho toàn bộ tuyến tùng là xấp xỉ ~ 330 ppm. Nhưng điều đó vẫn chưa là gì. Nếu bạn biết được rằng trong Tuyến tùng thành phần quan trọng nhất là các tinh thể hyroxyapatite và nồng độ Clorua được lưu trữ trong các mô tinh thể hyroxyapatite là rất cao , tới tận 21.000 ppm. Tinh thể Hyroxyapatite lưu trữ Clorua hơn bất kỳ bộ phận nào khác trong cơ thể.

Khi có nhiều Clorua trong Tuyến thùng sẽ gây ra ức chế các enzym. Các enzym của bạn bị hư hỏng, sẽdẫn đến suy giảm collagen, eczema, tổn thương mô, tăng nếp nhăn da, tổn thương di truyền, và ức chế miễn dịch. Nó cũng có thể gây ra nhiều vấn đề cho :

* Căng thẳng thần kinh.

* Hệ thống miễn dịch

* Hệ tiêu hóa

* Hệ hô hấp

*Lưu thông máu

* Chức năng thận



Các nguồn Clorua bên cạnh bạn :

Gần 70% florua hiện đang đi vào cơ thể bạn là từ nguồn cung cấp nước công cộng. Khi bạn sử dụng nước máy để nấu nước uống , tắm rửa , và nấu ăn, chất Clorua từ từ đi vào cơ thể bạn . Clorua cũng có trong thuốc đánh răng , trong vài loại thuốc uống và thực phẩm chức năng. Clorua có rất nhiều trong thuốc trừ sâu , thuốc bảo vệ thực vật .

Corua không phải là chất độc trực tiếp trong nước máy của bạn. Clorua được sử dụng rộng rãi để khử trùng nước máy . Clorua là nguyên nhân gián tiếp của hàng loạt suy giảm chức năng cơ thể.



Mục đích việc bỏ Clorua vào nước máy :

Có rất nhiều phương pháp để khử trùng và làm sạch nước sinh hoạt , tại sao lại sử dụng Clorua để gây độc hại từ từ và trên diện rộng cho dân chúng như hiện nay ?

Các nhà nghiên cứu của Đức quốc xã là người đầu tiên cố ý bổ sung Clorua vào trong nước uống từ đầu thập niên 1930. Người Đức bỏ thêm Clorua vào nước uống ở các trại tập trung của họ để làm cho tù nhân trong trại ngoan ngoãn và không đặt vấn đề thẩm quyền. Tiếp theo là Chính phủ Hoa kỳ quản cáo Clorua trong nước máy để khử trùng, Mục đích sâu xa đằng sau việc này là đẩy người dân vào một trạng thái ngoan ngoãn, hiền lành khờ khạo và suy giảm sức khỏe toàn bộ. Kiểm soát dân số thông qua cách này là dễ dàng đạt được.

Nghiên cứu hóa học Charles Perkins làm việc cho chính phủ Mỹ đã xác định sự thật về chất fluoride trong nước máy và đã phát biểu:

"Các nhà hóa học người Đức đã rất thông minh và nghĩ ra một kế hoạch rất khéo léo để kiểm soát sâu rộng số đông quần chúng. Kế hoạch này đã được trình lên và được Bộ Tổng tham mưu Đức phê duyệt .Kế hoạch này là để kiểm soát dân số của bất kỳ khu vực nào thông qua việc cung cấp nước uống và sinh hoạt có bổ xung Clorua. . .Mục đích thực sự đằng sau chất fluoride trong nước là để giảm sức đề kháng của quần chúng để thống trị và kiểm soát. . . Liều lặp lại một lượng vô cùng nhỏ Clo trong thời gian dài sẽ dần dần giảm bớt quyền lực của cá nhân trong việc suy nghĩ và chống lại sự thống trị bằng cách từ từ làm ngộ độc các mô não, và làm cho anh ta phục tùng ý chí của những người cai trị anh ta. . . . Bất cứ người nào uống nước nhân tạo chứa chất fluoride cho một khoảng thời gian một năm trở lên sẽ bị ngộ độc và không bao giờ có thể phục hồi về mặt tinh thần hoặc thể chất. "


Tóm lại :

Clorua từ trong nước uống, thực phẩm , nước tắm và nước sinh hoạt, đi vào máu của chúng ta và gây tổn thương não, dần dần làm suy yếu trí thông minh, suy giảm khả năng độc lập suy nghĩ . Clorua cũng giảm độ tăng trưởng tế bào và gây ra hàng loạt rối loạn trong cơ thể . Nhưng tồi tệ hơn nhất, hầu hết Clorua lại tích tụ trong Tuyến tùng gây vôi hóa Tuyến Tùng , làm mù Con mắt thứ ba , đóng cánh cửa đi vào thế giới Tâm linh của bạn , của Tôi và của mọi người xung quanh .




Kích hoạt tuyến tùng

Để chúng ta khai thác vào trạng thái sâu xa nhất của chúng ta về trực giác, trí tuệ và sự giác ngộ tâm linh, Việc làm này là cần thiết để mở khóa và kích hoạt não bộ của chúng ta cùng với tuyến tùng. Thường được gọi bởi các nền văn hóa và thần bí cổ đại là "con mắt thứ ba", tuyến tùng của chúng ta nằm ở trung tâm của bộ não giữa bán cầu phải và trái của chúng ta và chịu trách nhiệm sản xuất dẫn truyền thần kinh như serotonin và melatonin.

Tuy nhiên, tuyến tùng đã không được ban cho cái tên "con mắt thứ ba" bởi bất kỳ 1 lý do ngẫu nhiên nào. Thay vào đó, khi tách ra từ bộ não, nó được tìm thấy rằng tuyến tùng thực sự có chứa tế bào cảm quang giống như của riêng hai mắt nhìn chúng ta và thực sự được kích hoạt bằng ánh sáng truyền qua đôi mắt của chúng ta. Ánh sáng mặt trời này được truyền tải qua đôi mắt của chúng tôi kích thích sản xuất các tuyến tùng của serotonin và xa hơn nữa nó có tác động làm vững mạnh thêm khả năng phá vỡ các lớp màng bao phủ của các hóa chất độc hại mà đã đóng vảy trên tuyến tùng.

Đồng thời, tuyến tùng cũng được kích thích bởi bóng tối, trong đó tuyến phản ứng bằng cách sản xuất melatonin để giúp làm chúng ta vào giấc ngủ.

Mặt trời -> Serotonin

Mặt trăng -> Melatonin



Làm thế nào để khử vôi hóa và loại chất độc hại cho tuyến tùng của bạn.

Như một kết quả sinh học tự nhiên tạo nên, tuyến tùng không được bảo vệ bởi hàng rào ngăn cản với máu não và do đó không có lớp bảo vệ ngoài nhằm thêm khả năng chống lại chất độc hại xâm nhập vào có trong dòng máu. Độc tố cụ thể, chẳng hạn như florua nhân tạo và canxi nhân tạo mà thể hiện rõ ràng nhất ái lực của 2 chất này với tuyến tùng. Làm suy yếu khả năng của nó để sản xuất dẫn truyền thần kinh của chúng ta và nhận được các photon ánh sáng từ mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao.

Tuy nhiên, điều quan trọng là phải phân biệt sự khác biệt giữa Canxi và florua  tổng hợp so với florua và canxi từ hữu cơ. Nếu nhận được từ các nguồn thực vật, chẳng hạn như rau và thực phẩm hữu cơ khác, canxi và florua là khoáng chất cần thiết cho sức khỏe. Tuy nhiên, khi florua và canxi được tổng hợp thông qua sản xuất công nghiệp chế biến và thêm vào nước máy, bổ sung vitamin, thuốc đánh răng, ngũ cốc và các sản phẩm khác nhau, các khoáng chất tổng hợp được chứng minh là có hại ảnh hưởng đến tuyến tùng cũng như nhiều cơ quan khác của cơ thể.

Trước khi bắt đầu để kích hoạt một của tuyến tùng, nó là cần thiết để loại bỏ các hóa chất độc hại ngăn không cho nó làm việc, chẳng hạn như florua tổng hợp, tổng hợp canxi, thuốc dược phẩm và các chất độc khác được đề cập ở trên. Nếu bạn đang uống nước máy, sau đó xem xét để thay thế này với tinh khiết hơn và an toàn hơn tùy chọn, chẳng hạn như nước suối tự nhiên, nước giếng, nước thẩm thấu ngược, hoặc nước lọc carbon. Từ đó, người ta có thể làm việc để loại bỏ bất kỳ vitamin bổ sung, khoáng chất bổ sung thức ăn và kem đánh răng có chứa chất florua và canxi. Cuối cùng nhưng không kém phần quan có thể mất năm phút trong ngày của mình để cài đặt một bộ lọc carbon tắm vòi sen mà làm việc để loại bỏ clo, flo, sử dụng các hạt giấy vệ sinh và các tạp chất khác từ nước máy mà có thể nhập vào cơ thể chúng ta qua da, lỗ chân lông và phổi khi chúng ta tắm.



Làm thế nào để kích hoạt tuyến tùng của bạn

Sau một đã bắt đầu loại bỏ các tạp chất ngăn chặn từ tuyến tùng được kích hoạt, họ có thể bắt đầu thực hiện thực hành làm việc để kích thích và phát triển chức năng và khả năng của tuyến tùng của họ. Một thực tế tuyệt vời mà người ta có thể làm trong suốt cuộc đời của họ là thiền định. Các hành động của thiền có tác dụng kích thích hệ luân xa của bộ não và cơ thể của chúng tôi đó là trách nhiệm tiến hành và tạo ra sức sống năng lượng. Thiền định hướng dẫn cụ thể năng lượng điện sinh học và không có điểm đến tuyến tùng cho phép trạng thái lớn hơn của sự rõ ràng và trực giác để đi vào cuộc sống có ý thức của chúng ta.

Sau khi thiền định, một phương thức tập thể dục nâng cao hơn mà các công trình để kích hoạt tuyến tùng cũng như tất cả các điểm chakra của cơ thể là của Kundalini Yoga. Kundalini mà nghỉ giữa cuộn trong luân xa thấp nhất của cột sống của chúng ta là một bộ chuyển đổi năng lượng mà tăng xa hơn lên cột sống thông qua việc thực hành cho đến khi cuối cùng đã đạt tuyến tùng / thứ ba chakra mắt. Sau khi kích hoạt Kundalini và phát triển con đường của mình cho tuyến tùng, một là có thể hợp nhất các photon năng lượng của mặt trời và vũ trụ với điều đó của cơ thể vật lý mà rễ đến trái đất. Là rằng xương của hệ thống xương của chúng tôi là các tinh thể áp điện kỹ thuật tại cốt lõi, tăng năng lượng Kundalini và chảy qua các xương của cột sống tinh thể, kích hoạt 33 điểm đốt sống từng người một cho đến khi đạt vương miện và năng lượng tuyến tùng điểm ở đầu mức độ của cột sống trên.



Dinh dưỡng cho tuyến tùng của bạn

Trong các loại thực phẩm, nhiều tùy chọn có sẵn để tăng tốc giải độc và tuyến tùng não của chúng ta. Là một nền tảng, ta nên nhìn vào tỷ lệ phần trăm bao gồm các loại thực phẩm trong chế độ ăn uống của họ đến một mức độ cao nhất của thực vật và động vật hữu cơ càng tốt. Ăn hữu cơ cho biết thêm một bộ đệm để bảo vệ chính mình từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc diệt nấm, biến đổi gen và chất đầy hóa chất độc hại khác mà có thể tàn phá sức khỏe tâm thần và thể chất của chúng tôi.

Các loại thực phẩm đặc biệt hỗ trợ và kích hoạt tuyến tùng là nghệ (trà và nguyên liệu), hạt ca cao, cây xanh và rau quả, nước suối tự nhiên thu hoạch, trà Linh Chi nấm, nước trái cây cỏ, củ cải đường, giấm táo và những người khác. Bổ sung có thể sử dụng để giúp giải độc và kích hoạt tuyến tùng là cồn thuốc zeolit​​, đất sét bentonit, bột hữu cơ và MSM Ormus vàng.

Bắt đầu kích hoạt tuyến tùng ngay hôm nay và gõ vào mức độ tự cao của bạn mà nằm ngủ, kêu gọi thức tỉnh.



Sự nguy hiểm của Fluor và các cách thanh lọc tuyến tùng

Đôi lúc những thứ tuyệt vời nhất lại ở trong những món quà trông có vẻ bé nhỏ. Tuyến tùng có tên như vậy bởi vì nó có trông giống như nón thông (từ Latinh pinea), nó có kích thước bằng 1 hạt gạo. Hiện nay khoa học vẫn chưa thể khám phá toàn bộ năng lực của nó với cơ thể hay khả năng kết nối của nó với tâm thức/linh hồn.

 

I. Những khả năng bí ẩn của tuyến tùng vẫn chờ đợi con người khám phá

 


 

1. Các chức năng sinh lý

 

Kết nối hệ thống hệ thần kinh nội tiết

Hệ thống thần kinh đối giao cảm khuyến khích chúng ta thực hiện các hoạt động “nghỉ ngơi và tiêu hóa; ăn uống và sinh sản”. Hệ thống nội tiết sản xuất ra các hormone, các tín hiệu giao tiếp như là đói, thỏa mãn, ham muốn tình dục, sự tỉnh táo hay sự buồn ngủ. Tuyến tùng là bộ phận thiết yếu để chuyển đổi các tín hiệu từ vùng đối giao cảm đến hệ thống nội tiết.

 

Melatonin

Tuyến tùng cũng chịu trách nhiệm sản xuất Melatonin từ Trytophan. Melatonin giúp điều hòa đồng hồ sinh học và đóng vai trò chọn thời điểm để dậy thì. Sự thiếu hụt Melatonin là nguyên nhân của dậy thì sớm, mất ngủ, ung thư. Bệnh Alzheimer và các triệu chứng tâm lý khác như lưỡng cực.

 

Cơ quan cảm nhận ánh sáng

Tuyến tùng được xem như là “con mắt thứ 3” bởi vì tính tương tự của nó với võng mạc mắt và các tính năng của nó hoạt động như là 1 cơ quan cảm thụ ánh sáng. Ánh sáng đi vào cơ thể thông qua võng mạc của đôi mắt và được gửi đến não, và não sẽ dẫn vào tuyến tùng.

 

Con mắt của tinh thần

1 số người cũng liên kết chức năng của tuyến tùng với các khả năng ngoại cảm gọi là trực giác, sự nhận thức sáng suốt, cảm nhận tâm linh và mở rộng năng lực của tinh thần.


Tuyến này giống mắt người và vị trí của nó trong bộ não khiến cho nó như là Con mắt của tinh thần.

Thực tế thì, những khao khát của trái tim sẽ điều khiển đôi mắt chúng ta nhìn vào vị trí chúng ta muốn. Đôi mắt nhận ánh sáng đi vào cơ thể, gửi nó đến não, rồi não sẽ đưa đến tuyến tùng. Ánh sáng kích thích và khởi động tuyến tùng.


Điều đó có nghĩa là là con mắt tinh thần của chúng ta sẽ nhận 1 lượng máu lớn và liên tục, để nhận chất dinh dưỡng từ máu. Và kết quả là bất cứ chất “bẩn” nào từ máu, có thể gọi là chất độc, sẽ bị tích tụ tại tuyến tùng.

Với bộ phận dễ bị tổn thương này của bộ não, 1 trong những mối nguy hiểm nhất ngày nay đó chính là sự tích tụ Fluor và các độc tố khác trong máu, chúng khiến cho tuyến tùng bị vôi hóa.

 

2. Sự vôi hóa tuyến tùng


Các thực phẩm và thành phần nhân tạo, độc tố của hormone từ các thực phẩm cho động vật; nguồn dinh dưỡng nghèo nàn; hệ thống miễn dịch yếu; và sodium fluoride được cho là nguyên nhân rõ ràng nhất gây nên sự vôi hóa tuyến tùng trên toàn thế giới. 1 số chuyên gia còn cho biết việc nhiễm xạ thông qua điện thoại di động cũng là 1 nguyên nhân khác.

 

vôi hóa tuyến tùng

So sánh tuyến tùng trước và sau khi bị vôi hóa do Fluor

 

Các hậu quả của sự vôi hóa


Tuyến tùng bị tổn thương sẽ gây ra hàng loạt triệu chứng và sự bất ổn chức năng các enzyme. Các hậu quả đó bao gồm:

  • Tăng cân hay béo phì.
  • Giảm chức năng tuyến giáp
  • Các triệu chứng về tiêu hóa
  • Suy thận
  • Tuần hoàn máu kém
  • Tinh thần rối loạn
  • Mất khả năng định hướng
  • Các vấn đề về cảm xúc và tinh thần
  • Suy giảm thị giác
  • Giảm IQ

 

II. Cách thanh lọc tuyến tùng, loại bỏ chất vôi và giúp tuyến tùng khỏe mạnh


Loại bỏ chất vôi tuyến tùng


1 tuyến tùng khỏe mạnh sẽ giúp chúng ta:

  • Có sức khỏe tổng quan tốt.
  • Chức năng hệ thần kinh hoạt động khỏe mạnh.
  • Cân bằng Hormone.
  • Ngủ ngon.
  • Tăng sự tập trung.
  • Tăng nhận thức.
  • Có các giấc mộng thường xuyên hơn.
  • Tăng khả năng tưởng tượng.


1. Nước sạch 


Rất nhiều nguồn nước tại Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đã bị nhiễm độc Fluor hơn nửa thế kỷ nay. Mọi người đã bị tích tụ Sodium Fluoride trong tuyến tùng của mình. Để đảo ngược chuyện này, chúng ta phải tránh xa Fluor và bạn có thể bắt đầu bằng việc uống nước. Hãy mua các thiết bị thẩm thấu ngược hay màng lọc fluor cho nước uống hoặc uống nước suối và nước giếng nếu bạn có thể.


 

2. Loại bỏ Fluoride


Nghiên cứu cảnh báo nước bổ sung Florua thúc đẩy suy tuyến giáp. Trích dịch: “Water Fluoridation Promotes Thyroid Impairment, Study Warns”
Fluoride là một độc tố gắn liền với hàng loạt các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Gần đây nhất, nghiên cứu liên kết nước bổ sung fluoride với rối loạn tuyến giáp nhận được sự chú ý của truyền thông Anh, Mỹ. Bằng chứng đã cho thấy nó có thể góp phần làm trầm trọng thêm các vấn đề về hành vi như hội chứng Hiếu động mất tập trung [Attention Deficit Hyperactivity Disorder gọi tắt là ADHD] bằng cách vôi hóa tuyến tùng [pineal gland calcification].
Mặc dù bằng chứng không thể chối cãi, Hoa Kỳ vẫn bổ sung chúng vào nước sinh hoạt, ảnh hưởng tới khoảng 211 triệu người Mỹ. Tính đến năm 2012, hơn 67% người Mỹ nhận nước có bổ sung fluoride. Ở Anh, khoảng 6 triệu người nhận nước có thêm fluoride. Trong khi đó, Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Hà Lan, Phần Lan, Israel đã ngừng việc bổ sung này.
Fluoride đã được tuyên truyền là an toàn và hiệu quả để cải thiện sức khỏe răng miệng – một tuyên bố không có cơ sở vững chắc trong khoa học. Ngược lại, các bằng chứng cho thấy rõ ràng các mối nguy hiểm sức khỏe liên quan đến phơi nhiễm fluoride. Ở những nơi có nồng độ florua trong nước trên 0,3 mg/L thì nguy cơ suy giáp lớn hơn 37% so với khu vực không có. Florua gây ảnh hưởng chức năng tuyến giáp và sau đó ảnh hưởng đến nồng độ hormone liên quan tới sự trao đổi chất.
Mỹ hiện đang đề nghị một mức độ florua 0,7 mg/L và rối loạn chức năng tuyến giáp cũng tràn lan ở Mỹ với khoảng 20 triệu người bị ảnh hưởng. Các tác dụng phụ của rối loạn chức năng tuyến giáp bao gồm tăng cân và trầm cảm, gây hại cho thai nhi ở phụ nữ mang thai suy giáp, mà có thể dẫn đến chỉ số IQ thấp và các chứng rối loạn thần kinh.
Tiến sỹ Spyros Mezitis, khoa nội tiết tại bệnh viện Lenox Hill, New York, người không tham gia vào nghiên cứu này nói với WebMD: "Các bác sĩ tại Hoa Kỳ cần phải nhấn mạnh với bệnh nhân và nên kiểm tra tuyến giáp. Bệnh nhân cần được khuyên để giảm uống nước chứa fluoride và giảm tiêu thụ các sản phẩm có chất fluoride bao gồm kem đánh răng."
Tiến sỹ Terry Davies, giáo sư y khoa nội tiết tại Icahn School of Medicine ở Mount Sinai, New York cũng đồng ý rằng: "Sự gia tăng nhanh chóng các rối loạn chức năng tuyến giáp liên quan với chất fluoride trong những nguồn cung cấp nước chỉ ra rằng fluoride có tác dụng ức chế tuyến giáp, hỗ trợ cho lập luận rằng nguồn cung cấp nước của chúng ta cần phải là nước tinh khiết."
Cần hiểu rằng fluoride thực sự là một loại thuốc, hiển nhiên không thích hợp để bừa bãi thêm vào nguồn nước. Chắc chắn, việc bảo vệ con người khỏi rối loạn chức năng tuyến giáp cũng như nguy cơ mắc bệnh tim mạch, loãng xương, vô sinh, tổn hại thần kinh bào thai, sơ sinh và các vấn đề khác… là mối quan tâm lớn hơn bảo vệ khỏi sâu răng. Có nhiều cách an toàn hơn để cải thiện sức khỏe răng miệng.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới [WHO], không có sự khác biệt rõ rệt về sâu răng giữa các quốc gia bổ sung florua vào nước sinh hoạt và những nơi khác. Sự sụt giảm sâu răng ở Mỹ hơn 60 năm qua thường được quy cho việc thêm fluoride vào nước sinh hoạt, nhưng điều tương tự như vậy đã xảy ra ở tất cả các nước phát triển không thêm florua vào nước của họ.
Cách tốt nhất để ngăn ngừa sâu răng không phải là bổ sung fluoride, nhưng bằng cách giải quyết chế độ ăn uống của bạn. Scientific American cũng lưu ý rằng tiêu thụ quá mức chất ngọt là trung tâm của vấn đề. Theo Tiến sỹ Francesco Branca, GĐ của WHO”s Department of Nutrition for Health and Development: "Chúng tôi có bằng chứng chắc chắn rằng, giữ các loại đường tự do ít hơn 10% của tổng năng lượng sẽ làm giảm nguy cơ thừa cân, béo phì và sâu răng." Một trong những chìa khóa cho sức khỏe răng miệng là ăn rau quả chưa qua chế biến. Ngoài ra hãy chắc chắn rằng bạn đang nhận được chất béo omega-3. Các nghiên cứu mới nhất cho thấy, ngay cả một lượng vừa phải omega-3 cũng có thể giúp tránh những bệnh về nướu.
Theo một hồ sơ 500 trang đánh giá khoa học, fluoride gây rối loạn nội tiết có thể ảnh hưởng không chỉ tuyến giáp mà: xương, não, tuyến tùng, thậm chí mức độ đường trong máu. Có hơn 100 nghiên cứu được công bố minh họa tác hại của fluoride với não, 43 liên kết trực tiếp việc tiếp xúc với fluoride làm giảm IQ ở trẻ em. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng tiếp xúc quá nhiều fluor có thể dẫn đến vôi hóa tuyến tùng và ADHD. Một bài báo gần đây của Frank Granett, R.ph, GĐ điều hành Clinical Pharmacy Operations tại Behavioral Center của Michigan Psychiatric Hospital, tác giả cuốn sách “The American Epidemic and Over Medicating Our Youth” viết: "...Tuyến tùng chịu trách nhiệm cho sự tiết melatonin, đồng hồ sinh học quy định giấc ngủ bình thường. Quan trọng hơn, tuyến tùng đóng một vai trò quan trọng trong dẫn truyền thần kinh não bao gồm serotonin và norepinephrine. Ngoài ra, hệ thống phòng thủ chống oxy hóa của cơ thể được tối ưu hóa khi mô tùng khỏe mạnh, giúp loại bỏ sự tích tụ độc tố, gốc tự do trong cơ thể." Kích thước nhỏ bé, tuyến tùng có xu hướng tích lũy một lượng đáng kể của fluoride làm cho nó biến thành chất vôi. Bên cạnh các triệu chứng như ADHD, vôi hóa tuyến tùng cũng có thể đóng một vai trò trong bệnh Alzheimer và bệnh tâm thần Rối loạn lưỡng cực [Bipolar disease]. Frank Granett cũng lưu ý rằng các nghiên cứu đã liên kết vôi hóa tuyến tùng đến tình trạng dậy thì sớm ở bé gái [Precocious puberty] do sự tiết melatonin bất thường.


Chấm dứt việc sử dụng các loại kem đánh răng công nghiệp ngay lập tức . Vứt bỏ ngay các loại kem đánh răng công nghiệp độc hại

 

 


 

 

1 cách khác để loại trừ Sodium Fluoride đó là hãy vứt bỏ các loại kem đánh răng công nghiệp truyền thống. Bạn có thể chế tạo kem đánh răng và làm trắng răng tại nhà 1 cách đơn giản bằng dầu dừa, baking soda và 1 chút dầu bạc hà hoặc dầu quế. Hoặc bạn cũng có thể dùng các loại kem đánh răng thảo dược không chứa Fluor. Hoặc dùng bột/kem than cà bên thực dưỡng.

 

 



TỰ LÀM KEM ĐÁNH RĂNG KHÔNG CÓ FLUOR (Chỉ lấy một chút xiu xíu mỗi khi dùng là răng đã sạch trơn, bóng.)


Thành phần:

Baking powder (loại Không có thành phần bột ngô GMO)

Dầu dừa.


Cách làm:

trộn dầu và bột cho tới khi hỗn hợp sánh hơn mật ong là thành phẩm.

 

3. Sử dụng thực phẩm hữu cơ


Vấn đề ở đây không chỉ nằm ở Fluor, mà còn là sự tích tụ canxi chứa trong hệ miễn dịch cơ thể phản ứng với chất độc. Chất diệt côn trùng, các nguyên liệu nhân tạo, hormone và các chất độc khác có trong thực phẩm bẩn đi vào máu và chảy trực tiếp đến tuyến tùng. Sự vôi hóa xảy ra như là 1 cách để bảo vệ khỏi các hóa chất độc hại này. Hãy sử dụng các loại cây trái, rau quả hữu cơ và các sản phẩm từ động vật được nuôi dưỡng tự nhiên sẽ giúp bạn loại bỏ các chất độc hóa học trong máu và khắp cơ thể, vì vậy hệ miễn dịch cũng sẽ không bị kích thích và giảm quá trình vôi hóa.

 



 
4. Tắm nắng 


Ánh sáng mặt trời giúp kích hoạt tuyến tùng và kích thích quá trình làm mất canxi. Tắm nắng 20 phút mỗi ngày sẽ giúp ta khỏe mạnh. Không đội nón để ánh sáng mặt trời có thể tràn ngập cơ thể bạn và đi thẳng vào não. Thực hiện điều này đều đặn và bạn sẽ thấy những tác động tích cực đến tuyến tùng khi đêm xuống, sản sinh ra ra hàm lượng melatonin đầy đủ giúp bạn có 1 giấc ngủ ngon.


Để tiến xa hơn, hãy thử phương pháp nhìn mặt trời an toàn (dĩ nhiên là có thiết bị chuyên nghiệp giúp bảo vệ mắt). Hira Ratan Manek đã tiên phong trong việc thực hành việc nhìn mặt trời ở phương Tây và đã cải thiện tuyến tùng của ông rất nhiều. (Chú thích, xin đừng làm theo điều này nếu không có người hướng dẫn)

 

5. Acid Citric 


Ăn cam, quýt hoặc uống nước ép chanh mỗi buổi sáng. Chất acid giúp phá vỡ các canxi tích tụ và giúp giải độc 1 cách nhẹ nhàng.

 

6. Iốt


Chất Iốt đã được chứng minh giúp cơ thể thải fluor ra ngoài bằng đường tiểu, và nó rất cần thiết để giúp tuyến giáp hoạt động khỏe mạnh. Ăn rong biển khô như là tảo bẹ, đậu trắng, cá ngừ và trứng. Tảo bẹ hiện nay cũng không khó kiếm.

 


 

4 nguồn cung cấp chất I-ốt cho bạn

 

 

7. Boron/Borax


Boron là 1 khoáng chất được tìm thấy trong thực phẩm. Nó được sử dụng để giúp xương và cơ bắp khỏe mạnh, giúp cơ bắp phát triển cân bằng và duy trì cấp độ testosterone ổn định, và nâng cao nhận thức. Nó cũng được biết đến như là 1 cách hiệu quả để loại bỏ fluor. Boron được tìm thấy tự nhiên trong nho khô, quả chà là, đậu gà, đậu đỏ, hạt phỉ, quả óc chó, đậu lăng và bơ đậu phộng.

 





Các thực phẩm khác giúp thanh lọc và nuôi dưỡng tuyến tùng bao gồm dầu dừa, tảo lục Chlorella, tảo lam, cỏ mạch; cùng với các loại cây cỏ và gia vị như rau mùi, rau mùi tây, nghệ và ớt Cayenne. Rất nhiều thứ còn chứa cả Zeolite, giúp loại bỏ kim loại và chất độc từ nước và trong cơ thể như giấm táo.

 


 


Ngoài ra:

- Loại bỏ đường, thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm GMO.
- Uống nước tinh khiết. Mỗi ngày, 1 thìa cà phê giấm táo hữu cơ hòa trong nước.
- Ăn củ cải tươi 4 lần mỗi tuần.
- Dùng kem đánh răng không có fluoride.
- Bổ sung chất chống oxy hóa.



Làm sạch tuyến tùng với thảo mộc thiên nhiên

Đây là những tác động của Natri Forua lên tuyến tùng của bạn – Nó tạo nên lớp vỏ xung quanh ngăn không cho tuyến tùng hoạt động. Tuyến tùng là một trong những cơ quan quan trọng nhất của cơ thể bạn? Đó chính là con mắt thứ 3 của chúng ta và làm cách nào để làm sạch tuyến tùng trước những hóa chất florua?



Tuyến tùng hoặc 'con mắt thứ 3' của mỗi người có thể được kích hoạt để liên kết với tần số thế giới tâm linh và cho phép bạn hiểu được tất cả những kiến thức, các vị thần và trạng thái thống nhất xung quanh mình. Khi tuyến tùng của một người được điều chỉnh vào các tần số thích hợp với sự trợ giúp của yoga, thiền hoặc các phương pháp bí truyền khác nhau sẽ cho phép người đó du hành vào những không gian khác, trạng thái này thường được gọi là du hành thể vía hay là xuất vía.


Với nhiều phương pháp tiên tiến và cổ xưa giúp con người có thể kiểm soát ý thức và hành động trong thế giới vật lý. Vâng, điều này quả là kỳ lạ, nhưng tại Hoa Kỳ, những cựu nhân viên thuộc chính phủ Liên Xô và các tổ chức ngầm khác nhau đã thực hiện nghiên cứu này với nhiều lứa tuổi và đạt được thành công vượt xa trí tưởng tượng của chúng ta.


Tuyến tùng là biểu tượng trong Công giáo tại Rome; họ miêu tả tuyến tùng có hình nón như quả thông trong các tác phẩm. Các xã hội cổ xưa tại Ai Cập và La Mã đã biết lợi ích của tuyến tùng và minh họa nó trong biểu tượng một mắt của họ.

Chúng ta cũng có thể tham khảo về tuyến tùng tại mặt sau của đồng đô la Mỹ, đó là biểu tượng 'con mắt thấy tất cả - all seeing eye,' biểu tượng này cho thấy khả năng của một cá nhân (hoặc nhóm cá nhân) sử dụng tuyến này để đi sang phía bên kia (thế giới tinh thần) và có thể kiểm soát những suy nghĩ và hành động của con người trong thế giới vật chất bằng cách xem xét những suy nghĩ của chúng ta trong thế giới vật chất tại tất cả các mốc thời gian.


Nhiều nghiên cứu được thực hiện cho đến nay xác nhận rằng khoảng thời gian giữa 1 và 4 giờ sáng là thời điểm hóa chất được giải phóng trong não mang lại cảm giác kết nối với các tầng mức tâm linh cao hơn của một người – one’s higher source.

Thuyết âm mưu: Làm thế nào họ đang giết tuyến tùng của bạn.



Vào cuối những năm 90, nhà khoa học, Jennifer Luke, thực hiện nghiên cứu đầu tiên về tác động của natri florua đến tuyến tùng. Cô xác định rằng tuyến tùng, nằm ở giữa của bộ não, là một mục tiêu tấn công của florua. Tuyến tùng là nơi hấp thu florua hơn bất kỳ cơ quan nào khác trong cơ thể, ngay cả xương. Tuyến tùng là giống như một nam châm với natri florua. Nó làm vôi hóa tuyến tùng làm cho nó không hiệu quả trong việc cân bằng các hocmon nội tiết trên toàn bộ cơ thể.


Các nghiên cứu khác nhau đã cho thấy rằng Natri florua luôn đi vào tuyến quan trọng nhất trong não. Đây là chất duy nhất tấn công vào trung tâm quan trọng nhất của bộ não. Nó có một cách phổ biến trong các loại thực phẩm, đồ uống, trong nước sinh hoạt và nước uống của chúng ta. Natri florua có trong 90% lượng nước cung cấp cho người dân Hoa Kỳ. Bộ lọc nước bạn mua trong các siêu thị cũng không đẩy được florua ra khỏi nước. Chỉ còn phương pháp đảo ngược thẩm thấu hoặc chưng cất nước là loại bỏ được florua ra khỏi nước. Mua nước chưng cất là phương pháp rẻ nhất mà bạn có thể tham khảo.


Natri florua có trong nước sinh hoạt, thực phẩm, bia, soda, và những sản phẩm khác mà bạn thấy! Hầu như là không thể loại bỏ chúng từ chế độ ăn uống của bạn…Vì vậy, đây là một số lời khuyên về việc làm thế nào để loại bỏ natri florua và khử chất vôi tuyến tùng của bạn.


CẦN SA LÀ PHƯƠNG ÁN TỐT! Như bạn đã biết, hóa chất của cần sa, THC, tấn công bất kỳ tế bào đột biến nào trong cơ thể bạn đồng thời tăng cường hoạt động của các tế bào khỏe mạnh. Đây là phương pháp mà cần sa chữa trị ung thư và các bệnh khác ... Vâng, nó khử chất vôi tuyến tùng theo cách như trên. Bạn càng ăn nhiều thì nó càng hoạt động tốt. Tôi đề nghị nấu ăn hoặc ăn dầu cần sa để bạn có thể hấp thụ nhiều hơn THC.





Nếu bạn không muốn sử dụng Cần sa hoặc không thể, sẽ có thảo dược khác thay thế. Cây rau mùi - ngò ta - Cilantro là một phương án tuyệt vời. Bạn ăn càng nhiều rau sống càng tốt, nếu bạn muốn, bạn có thể nấu ăn như một gia vị hoặc nấu trà từ chúng. (Nếu bạn nấu trà từ rau mùi, tôi đề nghị bạn thêm vào một chút mật ong để tạo vị ngọt ngào cho nước trà, hoặc bạn có thể uống chúng khi nước trà còn ấm vì mùi vị của rau mùi không dễ thưởng thức cho lắm)







Andrew Norton Webber - Chưng cất chất lỏng và Tuyến tùng



Trà xanh, Fluorid & tuyến giáp



Dưới đây là một số vấn đề cơ bản với việc làm khỏe tuyến tùng:

1. Thủy ngân, Mercury - Đây là một chất độc thực sự tồi tệ cho tuyến tùng. Đừng để chất này đi vào cơ thể của bạn. Thủy ngân có trong chất hàn răng là chất độc cho tuyến tùng. Hãy loại bỏ chúng. Tất cả các loại vắc-xin y tế cũng bị nhiễm độc thủy ngân. Thimersal (một chất bảo quản vaccine) là ethylmercury, khi chúng đã vào não thì rất khó khăn để bạn loại bỏ chúng ra khỏi não. Tránh ăn cá và những động vật ăn thức ăn ở đáy như tôm. Cá ngừ và thịt cá heo thức ăn chứa nhiều thủy ngân - những con cá càng lớn thì chúng càng có nồng độ thủy ngân cao trong các mô cơ thể.


Bóng đèn sinh thái - là một trong những thiết bị chứa hơi thủy ngân sẽ giải phóng vào không khí và đi vào hơi thở của người sử dụng thiết bị.



Thủy ngân có thể được loại bỏ khỏi cơ thể bằng cách sử dụng rong tiểu câu - Chlorella, cỏ mì wheatgrasstảo spirulina hàng ngày. Sử dụng rau mùi hàng ngày giúp bạn loại bỏ thủy ngân từ mô não.


2. Florua – có trong kem đánh răng và nước máy sinh hoạt. Nó cũng là một chất độc có tác động lớn đối với bạn. Hãy tránh tiếp xúc với nó trong mọi cách có thể. Florua làm vôi hóa các tế bào mô tuyến tùng và đóng chức năng của tuyến tùng.

3. Thực phẩm hữu cơ – chứa một số thuốc trừ sâu là chất độc của tuyến tùng. Thực phẩm hữu cơ lành mạnh chưa chế biến có thể làm sạch tuyến tùng. Nhưng thịt không phải là thức ăn hữu ích.


4. Rượu và thuốc lá. Đương nhiên là những sản phẩm này thường được dùng trong những trạng thái tình cảm của người sử dụng chúng(thường là những vấn đề thuộc về giá trị đạo đức hoặc những chấn thương chưa được làm lành).


5. Heart Healing - hãy tăng rung động mỗi khi bạn sợ hãi – rất hữu ích khi bạn bắt đầu thấy các chiều không gian khác.


6. Các chất độc khác - nếu đó là chất độc hại, bạn không nên đưa nó vào trong cơ thể của bạn. Nếu bạn không thể nhận biết được nó thì có nhiều khả năng đó là một chất độc. Những chất độc đó bao gồm chất tạo ngọt nhân tạo (aspartame K - thường có trong nước uống có gas như Coke), đường tinh luyện, phylenanine (squashes), chất khử mùi, hóa chất làm sạch, nước súc miệng nha khoa (trong khi bạn dùng nước muối là đủ) và chất làm mát không khí.


7. Sô-cô-la thô. Cacao thô là một chất kích thích tuyến tùng/giải độc ở liều cao vì bên trong nó chứa chất chống oxy hóa.

Thực hiện nghiêm túc các phương pháp từ 1- 6 trong một năm hoặc lâu hơn chắc chắn sẽ mang lại sự thức tỉnh tuyến tùng. Bước 6 là tùy chọn mở nhưng rất hữu ích.





Tuyến Tùng và Melatonin

Tuyến tùng là một bộ phận dẹp, hình nón, nhỏ bằng hột đậu nằm ở trung điểm của não bộ. Nó trưởng thành tới mức độ tối đa trong thời kỳ thơ ấu, nhưng sau đó nó trở thành cứng lại và teo dần theo tuổi tác.


Tuyến Tùng và Melatonin

Số lượng melatonin sản xuất bởi tuyến tùng tùy thuộc vào số lượng ánh sáng mà nó nhận được, vì tuyến này đóng vai trò "đồng hồ" của thân thể do sự nhạy cảm của nó đối với ánh sáng và sự điều hành chu kỳ ngủ-tỉnh. Trong giấc ngủ về đêm, mức độ melatonin trong thân thể tăng lên, giữa 11 giờ đêm và 2 giờ sáng là nhiều nhất, sau đó lại giảm xuống rất nhanh khi một ngày mới bắt đầu.

Số lượng sản xuất melatonin tùy thuộc vào tuổi tác, tăng lên sau khi sinh ra đời ba tháng, tới mức tối đa lúc lên sáu tuổi, và khởi sự giảm xuống sau tuổi dậy thì.

Ảnh Hưởng của Melatonin Trong Cơ Thể Con Người
Melatonin có một kết cấu hóa học đơn giản nhưng lại đóng một vai trò quyết định đối với thân thể, kiểm soát công việc của các bộ phận, các tuyến, và điều hòa sự sản xuất kích thích tố. Nó cũng kiềm chế sự kích thích thái quá do dây thần kinh giao cảm gây ra để hạ áp suất của máu và giảm bớt nhịp tim, do đó tim đỡ phần nào ảnh hưởng. Nó cũng làm dịu bớt những phiền muộn về tinh thần, giúp ngủ ngon, điều chỉnh giờ giấc thân thể, giảm chứng ngủ-tỉnh không đúng lúc sau khi đi máy bay, tăng cường sức miễn nhiễm, gia tăng sức đề kháng của cơ thể đối với vi trùng và vi khuẩn, và ngăn ngừa bịnh ung thư và bịnh mất trí về già.
Số lượng melatonin được sản xuất đi ngược với số lượng serotonin, một chất hóa học làm mạch máu co lại và có nhiệm vụ dẫn luồng thần kinh (neurotransmitter). Ban ngày, đầu óc hoạt động nhiều nhất, đó là lúc nó chạy lung tung và hay bị phân tâm, khiến số lượng serotonin cần cho dây thần kinh bị tăng lên. Ban đêm hay lúc thiền, đầu óc bớt hoạt động, số lượng serotonin giảm xuống và melatonin tăng lên, và tình trạng này thay đổi. Tuy nhiên, khi mắt nhận ánh sáng, mức sản xuất melatonin giảm xuống. Vì lý do này mà những người làm việc ban đêm và những người ngủ với ánh sáng có sức kháng bệnh thấp hơn và có khuynh hướng bị ung thư nhiều hơn người khác.
Hai cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ cho biết ánh sáng chói về đêm làm giảm số lượng melatonin và gia tăng chất kích thích tố estrogen trong phụ nữ, do đó cũng gia tăng chứng ung thư trong phụ nữ làm việc ban đêm. Cuộc nghiên cứu về những trẻ sơ sinh chết bất ngờ cho thấy các em bé này có tuyến tùng chậm phát triển, làm giảm mức melatonin và làm yếu khả năng đối phó với các phân tử tự do trong óc (những phân tử không có đủ bộ nguyên tử), khiến cho não bộ dễ bị hại bởi những phân tử này. Một cuộc khảo cứu khác về bịnh buồn khổ tâm trí trong trẻ em và người lớn cho thấy mực độ melatonin trong những bệnh nhân tâm thần này thấp hơn những người bình thường khỏe mạnh.

Nguồn Gốc Của Melatonin
Melatonin có một ít trong những loại cây như: cốm (oats), bắp ngô, gạo, gừng, cà chua, chuối và lúa mạch. Dùng những loại thức ăn khác như rong biển, đậu nành, hột bí, hột dưa, quả hạnh nhân (almond), đậu phọng, men (yeast), mạch nha, và sữa, giúp gia tăng số lượng melatonin trong thân thể.
Giảm tiêu thụ thức ăn sẽ giữ melatolin ở mức độ bình thường. Những cuộc nghiên cứu cho biết chuột già ăn ít có tuyến tùng khỏe mạnh như chuột non và có thể điều hòa sự sản xuất melatonin. Mức melatonin trong những con chuột này bằng 80% số lượng melatonin trong chuột non, trong khi những con chuột già không bị hạn chế ăn chỉ có 40%.

Kết Luận
Mặc dù melatonin có một ảnh hưởng quan trọng trong cơ thể con người, nhưng điều này vẫn chưa đưa đến một kết luận cụ thể nào cho biết dùng thêm chất melatonin là có lợi cho sức khỏe. Nghiên cứu cho biết cơ thể đàn bà ngồi thiền có nhiều melatonin hơn. Tập thể dục ngón chân cái cũng kích thích sự sản xuất melatonin. Tập thể dục ban ngày làm gia tăng số lượng melatonin, trong khi tập thể dục ban đêm sẽ có kết quả ngược lại. Do đó, chúng ta nên ăn ít đi, ngồi thiền, tập thể dục thường xuyên ban ngày và có một đời sống kỷ luật.


MELATONINE, NHỮNG ÐIỀU CHƯA BIẾT


               Trước đây, tuyến tùng đã từng được gọi là "tuyến bí mật" vì người ta chưa hiểu rõ công năng của nó. Nhưng hiện nay các nhà khoa học đã chứng minh tuyến tùng có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì sự điều hòa nội tiết. Ðặc biệt Melatonin (N-acetyl-5-methoxytryptamine) là một kích thích tố tự nhiên được tổng hợp và tiết ra từ tuyến tùng (pineal gland), và được điều hòa qua các thụ điểm bêta- adrenergic có khả năng phòng và chữa trị được nhiều căn bệnh.

    Tuyến tùng (pineal gland) nằm ở não thất thứ ba, trong hố yên ngựa. Tuyến nối với vùng dưới đồi (hypothalamus) bằng một cái cuống và sẽ nhận những thông tin từ não qua cuống này. Sở dĩ gọi là tuyến tùng (pineal) vì nó có hình dạng giống như quả thông, dài khoảng 0,64cm, nặng khoảng 0,1g. Tuyến tùng đã từng được gọi là "tuyến bí mật" vì cơ năng của nó không được hiểu rõ. Hiện nay người ta đã biết tuyến tùng đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì sự điều hòa nội tiết, có cơ năng miễn nhiễm và chu kỳ 24 giờ (circadian rhythm). Tuyến tùng được ví như một đồng hồ sinh học vì nó tiết ra melatonin vào buổi tối. Nồng độ melatonin cao nhất vào khoảng 2 giờ sáng đối với người trẻ tuổi và 3 giờ sáng ở người lớn tuổi. Mức độ tối đa melatonin được tiết ra ở người cao tuổi chỉ bằng một nửa đối với người trẻ. Mức độ thấp vào ban ngày. Khi mặt trời lặn, sự thiếu ánh sáng sẽ gây ra những tín hiệu thần kinh để kích thích tuyến tùng bắt đầu tiết ra melatonin. Sự chậm trễ và cường độ giảm của tình trạng tiết ra melatonin là một biểu hiện của tuổi tác.

    Melatonin uống vào buổi tối (trong múi giờ mới) sẽ giúp điều chỉnh đồng hồ sinh học và tránh được những triệu chứng "jet-lag" (sự mệt mỏi, rối loạn sau một chuyến bay dài). Trong một nghiên cứu gần đây trên 17 người bay từ San Francisco tới London (cách xa 8 múi giờ). 8 người uống 5mg melatonin, trong khi 9 người uống placebo. Kết quả những người uống melatonin không có triệu chứng jet-lag; trong khi 6 trong 9 người uống placebo có triệu chứng trên.

    Trong mọi trường hợp, melatonin nên uống vào buổi tối (tốt nhất là trước nửa đêm) trước khi đi ngủ. Ðó là lúc tuyến tùng tiết ra melatonin một cách tự nhiên.

    Ngoài công dụng chữa trị chứng "Jet-lag", melatonin còn đang được nghiên cứu để chữa trị một số bệnh như bệnh sầu muộn theo mùa (seasonal affective disorder hay SAD), suy nhược tâm thần và ung thư. Trích tinh tuyến tùng (pineal polypeptide extract) đã được chứng minh là có tác dụng ngăn chặn xơ cứng động mạch, giảm nồng độ triglycerides, làm tăng khả năng miễn dịch tế bào và giúp tăng tuổi thọ



     MELATONIN LÀM TĂNG HAY GIẢM KHẢ NĂNG TINH THẦN?

    Một số nghiên cứu cho rằng melatonin có ảnh hưởng không tốt đến khả năng tinh thần; Chẳng hạn những người dùng melatonin ít tỉnh táo, hay buồn ngủ và phản ứng chậm chạp. Ngược lại một số nghiên cứu khác chứng minh melatonin có ảnh hưởng tốt đến trí nhớ và khả năng tinh thần. Tuy nhiên trong những nghiên cứu trên, melatonin lại được dùng vào ban ngày thay vì vào buổi tối; Mà với những thuốc nhằm làm tăng chu kỳ thời gian 24 giờ như melatonin, thời điểm dùng là rất quan trọng. Khi dùng ngược với chu kỳ tự nhiên, chúng sẽ gây suy giảm cơ năng nhận thức cũng như "jet-lag". Nhưng khi uống đồng bộ với chu kỳ thời gian 24 giờ, sẽ giúp gia tăng khả năng tinh thần. Melatonin còn có tác dụng chữa trị bệnh sầu muộn theo mùa và bệnh trầm cảm. Hai điểm cần chú trọng về chứng sầu muộn theo mùa và trầm cảm là sự tiết melatonin bị suy giảm. Trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu đã dùng melatonin để chữa trị chứng suy nhược thần kinh với kết quả rất khả quan.



    MELATONIN GIÚP TĂNG TUỔI THỌ

    Melatonin đã được chứng minh là giúp làm tăng tính miễn dịch và tuổi thọ ở chuột thử nghiệm. BS Maestroni đã cho chuột uống melatonin mỗi buổi chiều. Chúng trở nên mạnh khỏe và mạnh dạn hơn, tăng hoạt, lông dày, bóng bẩy và sống lâu hơn 20% so với những con chuột đối chứng. Tình trạng tiết melatonin sẽ giảm dần theo tuổi tác, do đó có thể giải thích vì sao người cao tuổi lại hay khó ngủ và thường cảm thấy mệt mỏi lúc ban ngày. Sự phục hồi "chu kỳ thức - ngủ" cho người cao tuổi bằng melatonin (dùng trước khi đi ngủ) đã giúp họ hưng phấn hơn trong cuộc sống.



    MELATONIN VÀ KHẢ NĂNG CHỐNG STRESS

    Các cuộc nghiên cứu mới đây đã cho thấy melatonin có khả năng chống stress. Hiệu ứng chống stress của melatonin đạt được thông qua sự biến đổi tiến trình điều chỉnh của hệ thần kinh trung ương, sự đồng bộ hóa nhịp thời gian trong ngày, tối ưu hóa tuyến nội tiết và tình trạng miễn dịch của cơ thể. Nếu tác dụng chống stress này được kiểm tra và khẳng định, hứa hẹn sẽ cho ra đời loại thuốc hiệu quả để điều trị chứng sa sút tâm thần.



    MELATONIN VÀ KHẢ NĂNG CHỮA TRỊ UNG THƯ

    Một số công trình nghiên cứu cho thấy melatonin có thể ức chế sự tăng trưởng của khối u. Với liều cao (40-50mg), uống đồng thời với "Recombinant Interleukin- 2" để điều trị nhiều loại ung thư khác nhau, đã cho thấy Melatonin có khả năng kiềm hãm sự tiến triển của bệnh.



    MELATONIN VÀ BỆNH ALZHEIMER

    Nhiều nghiên cứu mới đây đã tìm thấy nồng độ melatonin thấp trong dịch não tủy của những bệnh nhân Alzheimer (so với những người bình thường). Do nhịp thời gian 24 giờ bị xáo trộn ở bệnh Alzheimer, nên người ta cho rằng nếu điều chỉnh melatonin đến mức bình thường có thể sẽ làm giảm triệu chứng bệnh.



    MELATONIN VÀ ÐIỆN TỪ TRƯỜNG

    Ánh nắng mặt trời là yếu tố môi trường ảnh hưởng nhiều nhất đến đồng hồ cơ thể (internal clock) và sự sản xuất melatonin về đêm. Có những bằng chứng cho thấy điện từ trường của trái đất cũng có ảnh hưởng tới nhịp thời gian 24 giờ của con người. Khi bị tách khỏi điện từ trường của trái đất, nhịp thời gian 24 giờ có thể bị xáo trộn (như trường hợp các phi hành gia vũ trụ). Ngoài ra sự tiếp xúc với điện từ trường phát ra từ các máy móc dùng trong nhà hay nguồn điện cũng có thể ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Bổ sung melatonin có thể giúp ta tránh khỏi những hậu quả không tốt đó.



    LIỀU LƯỢNG MELATONIN

    Liều dùng thay đổi tùy theo tình trạng của mỗi người. Theo BS. Pierpaoli, một chuyên gia về Melatonin, liều dùng có thể từ 0,1-200mg tùy theo từng trường hợp. Sự khác biệt từ liều thấp tới liều cao là rất lớn. Nên bắt đầu melatonin với liều 3mg lúc 11 giờ đêm và thay đổi liều từ từ. Nếu bệnh nhân ngủ ngon nhưng cảm thấy ngầy ngật vào sáng hôm sau thì giảm liều xuống một nửa. Nếu bệnh nhân chưa ngủ ngon với liều đó, có thể tăng dần 3mg mỗi tối cho đến khi đạt được kết quả mong muốn. Ða số có kết quả tốt với liều từ 3-10mg.



    THẬN TRỌNG KHI SỬ DỤNG THUỐC

    Thời điểm dùng thuốc là yếu tố rất quan trọng. Sự khác biệt cá nhân về tình trạng hấp thu và biến dưỡng của melatonin có thể giải thích được vấn đề khác biệt về liều dùng.

     (Theo US Pharmacist, 2/2003)



   

Con người có "mắt thứ ba" không?

Trong Tây Du Kí có thần Nhị Lang võ thuật rất cao cường, đấu ngang ngửa với Tôn hành giả. Trước trán Nhị Lang có con "mắt thứ ba". Con mắt này rất sắc sảo, cho dù Tôn Ngộ Không biến đi đâu, thành vật gì đều bị Nhị Lang phát hiện. Đương nhiên đó chỉ là chuyện thần thoại.
Con người thực chất có "mắt thứ ba" không? Các nhà khoa học đã phát hiện "mắt thứ ba" trên thực tế là một hạt giống như hạt quả thông, nằm sâu chính giữa đầu, to bằng hạt đâu, cho nên gọi là "hạt thông". Nhưng con mắt này không thể nhìn thấy các vật như con mắt bình thường, tức là nó không có đầy đủ thị lực bình thường.
Vậy nó có tác dụng gì? Ngày nay, người ta đã biết được trong cơ thể có đồng hồ sinh học rất kỳ diệu. Có người không dùng chuông đồng hồ báo thức mà sáng vẫn dậy đúng giờ, chỉ chênh vài ba phút. Đó chính là nhờ đồng hồ sinh học. Các nhà khoa học phát hiện "hạt thông" chính là đồng hồ sinh học trong cơ thể. Ban đêm, nó sản sinh ra một chất kích thích gọi là chất thoát đen. Ban ngày, nó tự động ngừng sản sinh chất này; do đó con người có thể cảm biết được sự thay đổi của ngày đêm.
Ngoài ra, chất thoát đen mà "hạt thông" tiết ra còn có tác dụng khống chế công năng sinh dục của con người. Các nghiên cứu đã chứng tỏ nó có thể khống chế sự phát triển của tuyến giới tính trong thời kỳ niên thiếu. Đến một thời kỳ nhất định nó sẽ xóa bỏ sự khống chế này để cho thời kỳ thanh xuân đến. Ngày nay, thời kỳ thanh xuân của thiếu niên thường đến sớm. Một trong các nguyên nhân quan trọng là vào ban đêm, thời gian chiếu sáng kéo dài, làm cho chất thoát đen được sản sinh ra ít, khiến thời gian khống chế tuyến giới tính bị rút ngắn.


Con mắt thứ ba – Cánh cửa dẫn đến Tri thức vũ trụ

Tuyến tùng là bộ phần ẩn chứa nhiều huyền bí nhất trong cơ thể con người. Bởi là nơi khởi phát ra những khả năng tâm linh kì lạ mà cho đến ngày nay khoa học vẫn chưa thể giải thích được.

I. Tuyến tùng - con mắt thứ 3
Các vị thần hay nhân vật siêu phàm theo quan điểm của văn hóa phương Đông luôn được vẽ thêm con mắt thứ 3, tức là thần nhãn hay tuệ nhãn, đại diện cho sự tinh thông, là nơi có thể thấy hay cảm nhận được những gì mà người thường không thể thấy. Trẻ em trước 10 tuổi, tuyến tùng đặc biệt còn hoạt động mạnh nên cá biệt có 1 số em sẽ có thể lờ mờ nhận thấy được hình ảnh chắp nối về tiền kiếp của mình, và khả năng này nếu không được rèn luyện sẽ dần mất đi khi trưởng thành.
Có một cách gọi nữa người ta gọi là linh cảm, hay giác quan thứ 6. Các nhà ngoại cảm có khả năng nhìn xuyên thấu thời gian và tiếp xúc với cõi âm, hoặc những nhà tiên tri tài năng thì thường được cho là tuyến tùng của những vị này chẳng những ko vị mất đi khi trưởng thành mà còn có cơ duyên phát triển thêm thành khả năng ngoại cảm.



Người đời hay dùng chữ nặng bóng vía hay yếu bóng vía để mô tả tinh thần cứng cõi hay yếu ớt của 1 người, tuy nhiên những người bị cho là yếu bóng vía thường dễ khai mở khả năng tâm linh hơn người nặng bóng vía, bởi sự hoạt động của tuyến tùng còn nhạy cảm để nhận biếr sự hiện diện của cõi vô hình.  Những người khiếm thị, thường phát triển rất mạnh tuyến tùng để cảm nhận thế giới bên ngoài bù lại sự khiếm khuyết.
Người ta xem việc thiền định như là một cách hướng nội và làm mạnh lên khả năng hoạt động của tuyến tùng. Ở VN, giới nghiên cứu từng ghi nhận 1 người có khả năng nhìn bằng con mắt thứ 3 của mình, thậm chí có thể đi cả xe khi 2 mắt bị bịt kín.

II. Hạch tùng dưới cái nhìn của Khoa học Tâm linh
Hạch tùng (tuyến tùng) thường được giới thiền định, giới khoa học tâm linh đánh giá là một bộ phận có tính năng rất đặc biệt trong cơ thể con người. Hạch tùng được coi là nơi quyết định cho việc mở cánh cửa để đi vào thế giới tâm linh, là nơi chỉ huy “con mắt” thứ ba, là nơi tạo điều kiện để kích phát những nhận thức phi trần tục, là nơi mở ra những điều kiện thuận lợi để khai thác và kích phát tiềm năng con người.
 Giới thiền định và giới khoa học tâm linh luôn mong muốn tìm cách giải thích được cặn kẽ về hạch tùng. Vậy tại sao hạch tùng lại quan trọng đến vậy? Nó có cấu tạo và chức năng ra sao? Làm thế nào để kích phát và sử dụng được hạch tùng một cách hiệu quả? Từ trước tới nay có lẽ chưa có nhiều các tài liệu nghiên cứu về hạch tùng, bởi vì những người sử dụng hiệu quả hạch tùng là không nhiều và số ít những người này lại thường không muốn viết ra những gì mà khoa học thực tại chưa chứng minh được. Cho dù như vậy, chúng tôi mong muốn qua bài viết này góp phần để có được một cái nhìn rõ hơn và thực tiễn hơn về hạch tùng, nhằm phục vụ cho quá trình học tập, thiền định cũng như nghiên cứu để phát triển bộ môn khoa học tâm linh.



Theo giải phẫu sinh học Hạch tùng (tuyến tùng) là một tuyến nội tiết nhỏ nằm trong não của động vật có xương sống. Nó tạo ra chất melatonin, một hóc môn có ảnh hưởng đến cơ chế thức/ngủ và các chức năng cảm nhận mùa. Theo quan niệm của giới thiền định Hạch tùng được coi là nơi quyết định cho việc mở cánh cửa để đi vào thế giới tâm linh…
Đặc biệt hạch tùng còn đảm bảo một nhiệm vụ quan trọng khác. Cơ chế ghi nhận của hạch tùng là sự tích tụ năng lượng dưới dạng ánh sáng. Đó là sự ghi nhận lại quá trình phát triển của cuộc đời một con người; ghi nhận mọi hành động, sự phát triển, nhận thức, suy nghĩ, tình cảm và các mối quan hệ giữa con người đó với mọi đối tương xung quanh. Từ khi mới chào đời, lớn lên và cho đến khi con người không tồn tại ở dạng vật thể nữa (chết đi), tất cả những diễn biến trong cả quá trình này được ghi nhận lại bởi hạch tùng. Hạch tùng sẽ tích tụ tất cả những thông tin, kiến thức liên quan đến con người đó, mã hóa rồi sắp xếp lại để lưu trữ lâu dài về sau. Cứ mỗi kiếp người lại được mã hóa và sắp xếp vào "kho Hạch tùng" như thế.
Ánh sáng hạch tùng không phải là ánh sáng bình thường như ta thường thấy, mà nó là ánh sáng đặc biệt, một loại ánh sáng vi tế, một loại ánh sáng mang đặc thù của Hạch tùng. Khoa học hiện đại chưa có khả năng tạo ra được loại ánh sáng này. Hạch tùng là nơi lưu giữ các thông tin về một con người không chỉ ở kiếp này mà nó còn có khả năng lưu giữ được nhiều thông tin từ những kiếp trước. Hạch tùng có thể coi như một trung tâm chỉ huy của một chiếc máy tính có kích thước không lớn nhưng vô cùng phức tạp đó là bộ não. Không chỉ có thế Hạch tùng còn là một máy phát tín hiệu, sóng não được phát ra theo dải tần Anfa hay Beta … cũng là do Hạch tùng quyết định. Sóng não do Hạch tùng phát ra là một loại năng lượng có mang thông tin, thông tin này có những lúc lại là thông tin chỉ huy. Với những người tu luyện cao cấp thì sóng não do họ phát ra không chỉ mang thông tin từ bộ não của họ đi nơi khác mà còn có khả năng chỉ huy được năng lượng ở ngoài cơ thể của họ. Hạch tùng không chỉ là nơi xử lý các khả năng nhận biết, các khả năng giao tiếp và kể cả khả năng điều chỉnh những thông tin trần tục mà còn quyết định việc xử lý cả những thông tin phi trần tục nữa. Chính vì Hạch tùng có khả năng đặc biệt như vậy cho nên với kiến thức của nền khoa học đương đại thì Hạch tùng vẫn còn là "vùng chứa nhiều điều bí ẩn". Nếu Hạch tùng hoạt động không tốt thì đừng bàn đến chuyện nghiên cứu thế giới tâm linh……

Vị trí, cấu tạo, hoạt động
Hạch tùng thường có màu xám đỏ với kích thước của một hạt gạo (5-8 mm) ở người. Hình dạng của nó giống như một hình nõn thông nhỏ và nằm ở gần trung tâm của não, giữa hai bán cầu, nằm tại rãnh nơi hai đồi não giao nhau. Hạch tùng có thể được nhìn thấy khi chụp X_quang hộp sọ. Đối với đa số người thì hạch tùng thường bị vôi hóa (canxi hóa) theo thời gian. Khi chụp X_quang thì hạch tùng thường là một chấm nhỏ màu trắng. Các bác sỹ thường chẩn đoán sớm một người có u não bằng việc nhìn xem chấm nhỏ màu trắng đó có bị lệch sang một bên hay không.

Đối với những người tập khí công thì vị trí hạch tùng nằm ở giao điểm của trục sinh lực (Trục nối huyệt Bách hội và huyệt Hội âm) và trục Chẩm ấn (trục nối huyệt Ấn đường và huyệt Ngọc chẩm). Cấu tạo Bên trong hạch tùng là các phần tử nước siêu nhỏ. Tường trong của hạch tùng được bao bọc bởi các phần tử giống như các tế bào trong con mắt người thường. Có lẽ vì lí do đó mà người ta thường ví hạch tùng như là võng mạc của "những con mắt thứ ba”. Hạch tùng của con người phát triển về kích cỡ cho đến khoảng 1-2 tuổi và ổn định sau đó. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của đời thường, không phải ai cũng biết sử dụng hạch tùng cho đúng với khả năng tiềm ẩn của nó. Do vậy, hạch tùng thường bị teo lại và bị can xi hóa đi do chế độ ăn uống không điều độ, sử dụng các chất kích thích (bia, rượu, cà phê ...) một cách bừa bãi. Điều này lí giải một phần lí do tại sao các nhà tu hành lại có xu hướng ăn uống ít và điều độ, thậm chí kiêng cữ một số loại đồ ăn thức uống và thường ăn chay. Việc sinh hoạt ăn uống của người tu luyện cũng là một trong những yêu cầu để họ giữ cho hạch tùng không bị canxi hóa đi.


 Hoạt động
Khi ngủ thì Hạch tùng tiết ra chất Melatonin, chất này là một loại hóc môn, là một dẫn xuất của axit amino tryptophan, có tác dụng “ra lệnh” cho cơ thể chìm vào giấc ngủ. Ngoài ra chất này còn giúp chống lại stress, cân bằng các hoạt động của cơ thể, làm chậm quá trình lão hóa, chống già nua tăng cường hệ thống miễn dịch, bảo vệ tế bào .Việc sản xuất melatonin của Hạch tùng được kích thích bởi bóng tối và bị ức chế bởi ánh sáng. Điều này có thể lí giải tại sao khi con người ngồi thiền định (trạng thái tương tự như ngủ), tĩnh lặng trong bóng tối thì khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh lại được phát triển hơn hẳn những người không thiền định. Đồng thời hạch tùng cũng tiết ra chất Dimethyltriptamine (DMT) có tác dụng thay đổi cảm nhận thời gian, di chuyển vượt qua thời gian, di chuyển trong thế giới vô hình, gặp các nhân vật tâm linh hoặc các đối tượng huyền bí. Theo giải thích của một số nhà nghiên cứu Tây Âu, sự liên lạc với thế giới tâm linh như nằm mơ, linh tính, nhìn thấy vong hồn, đi về kiếp trước v.v… có được là bởi hạch tùng.

 Hạch tùng là bộ phận có lưu lượng vận chuyển máu trên một đơn vị thể tích là lớn nhất so với các bộ phận khác trong cơ thể. Theo giới thiền định thì khi hạch tùng hoạt động để tiếp nhận hoặc xử lý những thông tin từ thế giới tâm linh thì nó tiêu tốn năng lượng nhiều hơn bất cứ bộ phận nào khác trên cơ thể . Điều này giải thích tại sao một số người khi giao tiếp thế giới tâm linh (Phật, Tiên, Thánh, vong hồn v.v) cần phải có rất nhiều năng lượng. Vì vậy đối với những người có năng lượng chưa thực sự đủ mạnh thì không thể "nhìn" lâu được. Có quan điểm cho rằng: Một người muốn có được những giao tiếp thường xuyên với thế giới tâm linh thì "Đường cong tâm linh" của họ phải tiệm cận được với "Trục tâm linh". Để có được "Đường cong tâm linh" đạt yêu cầu thì Hạch tùng hoạt động tốt là một yếu tố hết sức quan trọng.

Kích phát hạch tùng tự nhiên
Ở Việt Nam, những hiện tượng như của một số nhà ngoại cảm có khả năng nói chuyện với người “âm”, từ đó có thể tìm được mộ… thường được mọi người rất quan tâm và tìm cách lí giải. Tại sao họ lại có những khả năng này? Hầu hết những người này ban đầu thường bị những chấn động mạnh tới cơ thể, ảnh hưởng trực tiếp tới não bộ khiến năng lượng thay đổi đột ngột từ đó hạch tùng được kích hoạt mạnh và tạo ra khả năng thấu thị. Những chấn động này thường là một tai nạn, ốm thập tử nhất sinh, hay có một sự tác động rất mạnh nào đó mà tần số sóng của các tác động này tương thích với "Sóng não" và hoạt động của hạch tùng. Tuy nhiên, nếu hạch tùng không được bổ sung những năng lượng có tính chất phù hợp riêng với nó thì dần dần khả năng thấu thị cũng sẽ bị mất đi. Vì hạch tùng của những người này được kích phát trong trạng thái bị động, cho nên việc bổ sung năng lượng thường xuyên cho Hạch tùng của những người này là không có. Điều này giải thích tại sao sau một thời gian thì khả năng nói chuyện với vong, tìm mộ… của một số người bị mất đi mà bản thân họ nhiều khi cũng không giải thích được thấu đáo. Nên có thể nói việc kích phát "bị động" đối với Hạch tùng là trạng thái cân bằng không bền.

 Kích phát nhờ luyện tập khí công:

 Luyện tập khí công chính là quá trình dần dần nâng cấp năng lượng trong cơ thể, đảm bảo cho năng lượng trong cơ thể thanh, sạch, từng bước tương thích được với mức năng lượng hay tần số sóng não của các đối tượng vô hình trong thế giới tâm linh. Việc hạch tùng được kích hoạt theo phương pháp tập luyện thường đến một cách dần dần theo thời gian, tùy cơ địa và đặc thù của hạch tùng từng người. Nếu bản thân người luyện đã có năng lượng cao, hạch tùng sáng phù hợp với tần số năng lượng của thế giới tâm linh thì có thể một thời gian ngắn, người tập đã có thể sử dụng hạch tùng để khám phá thế giới tâm linh.
Nếu những người có năng lượng thấp, hạch tùng bị can xi hóa nhiều, thì việc kích hoạt sẽ phải công phu, mất nhiều thời gian hơn. Chính vì vậy mà dù cùng tập luyện với thời gian như nhau nhưng có người thì kích phát rất nhanh, có người lại kích phát rất chậm và nhiều trường hợp không thể kích phát được. Tuy nhiên, việc kích phát hạch tùng cũng cần người Thầy có năng lượng rất cao hỗ trợ. Việc hỗ trợ này của người Thầy cũng giống như việc vén bức màn cuối cùng để nhìn toàn bộ khung cảnh sân khấu.



Muốn cơ thể có năng lượng ở mức cao thì người luyện phải khai mở được cả ba Đan điền (Hạ - Trung - Thượng). Khi cơ thể đủ năng lượng, chân khí tràn đầy 3 đan điền, thì mới có đủ năng lượng để cung cấp cho Hạch tùng. Hạch tùng có đủ sức phát ra dải sóng có tần số phù hợp để tương thích được với năng lượng của thế giới tâm linh thì cánh cửa đi vào thế giới tâm linh mới được mở ra. Hạch tùng được kích phát theo phương pháp luyện tập khí công sẽ được khai mở và phát huy tác dụng trong một thời gian dài nếu việc tập luyện liên tục để nâng cấp năng lượng và hoàn thiện hạch tùng. Không những chỉ khả năng thấu thị, mà hạch tùng còn có thể giúp ta khai thác thêm nhiều khả năng đặc biệt khác Nên có thể nói kích phát nhờ luyện tập khí công thì hoạt động của Hạch tùng mới có được trạng thái cân bằng bền.

 III. Lời kết
Dù sao thì khoa học tâm linh là một lĩnh vực mới và sẽ luôn mới vì trong lĩnh vực ấy luôn chứa đựng những điều bí ẩn. Hiện nay, trong nhận thức của chúng ta, việc kích phát và sử dụng hạch tùng mới chỉ dừng ở mức độ khai mở thiên nhãn, thiên nhĩ. Trong khi nếu chỉ nói đơn giản về việc nghe và nhìn thì còn có nhiều cách nghe và nhìn khác nhau… mà không phải ai cũng hiểu được. Thế mới biết kiến thức về thế giới tâm linh quả là vô cùng, vô tận đối với mọi người. Bởi vậy, chúng tôi chỉ dám trình bày một số nhận thức cá nhân ở bài viết này. Mong các bậc cao nhân chỉ giáo.



Con mắt thứ ba – Một loại khả năng siêu thường của thân thể con người

“Con mắt thứ 3″ là một đề tài thu hút rất nhiều chuyên gia cùng tiến hành nghiên cứu. Với những kết quả thu được sau nhiều năm, bí ẩn về con mắt này đang dần được sáng tỏ, hé lộ những khả năng siêu thường của con người.

tâm linh, công năng, căn mắt thứ ba, Bài chọn lọc,

Vùng Nam Hải, Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, có một bé gái 8 tuổi tên là Tiểu Vi có thể đọc sách, viết chữ trong khi bị bịt kín mắt lại. Khi ký giả hỏi cô bé rằng có thể làm được những gì nếu che mắt lại, cô bé trả lời rằng có thể làm được bất cứ gì.
Sở hữu “con mắt thứ 3” thần kỳ này không phải chỉ có mình Tiểu Vi, một bé gái khác nữa có thể xỏ kim, tìm ra tấm thẻ bài trong khi bị bịt mắt. Phóng viên của đài truyền hình Nam Hải đã phỏng vấn người trong cuộc, bảo hai bé gái này làm các thí nghiệm thực tế. Quả nhiên hai bé gái trong tình huống mắt bị bịt kín vẫn có thể đọc được chữ viết trên giấy, con số trên lá bài, cũng có thể xâu chỉ luồn kim.
Hai bé gái này vốn không phải là trời sinh đã có thần thông, mà đã học được “phương pháp đọc sách không dùng đến thị giác”. Một giáo sư họ Hàn đến từ Malaysia đã phổ biến loại phương pháp đọc sách kỳ lạ này, bằng cách không dùng thị giác mà chỉ dùng sóng điện não để nhìn và đọc các thứ. Giáo sư Hàn nói rằng những năm 80 giới y học của Mỹ đã chỉ ra thị giác có hai con đường thông, sóng não cũng có thể nhìn được sự vật.
Từ xưa đến có nhiều cách nói về “con mắt thứ 3″
Những cách nói liên quan đến “con mắt thứ 3″ của nhân loại đã có từ lâu. Từ xưa đến nay, các dân tộc, quốc gia đều đã có những nghiên cứu và phát hiện tương đồng.
Phía trước trán của các vị Phật trong các bức bích họa và pho tượng trong các đền chùa Phật giáo đều miêu tả về con mắt thứ 3 này.
Tổ sư của tôn giáo Sikh (Ấn Độ) nhìn nhận rằng, con mắt thứ 3 là bộ phận trong cơ thể người, có thể biết trước được mọi chuyện. Người Ấn Độ quen với việc vẽ Chakras (Luân xa) ở chính giữa hai lông mày, cho rằng như vậy có thể tạo được thông đạo liên hệ trực tiếp với vũ trụ.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ cũng cho rằng, con mắt thứ ba nằm ở bộ vị trung tâm của đại não, là cánh cổng mà năng lượng vũ trụ tiến nhập vào cơ thể người. Trước đây, nghiên cứu của các nhà khoa học Nga cũng đã chứng thực cách làm của người xưa cũng không phải là không có cơ sở.

tâm linh, công năng, căn mắt thứ ba, Bài chọn lọc,

Các nhà khoa học phát hiện, “con mắt thứ 3″ chính là cái được gọi là “con mắt thoái hóa”. Khi phôi thai của con người phát triển đến tháng thứ 2, tức là giai đoạn hình thành tế bào thần kinh trong bộ phận cảm quang và khu vực giữa não, thì xuất hiện con mắt thứ 3, nhưng nó vừa mới xuất hiện, lập tức thoái hóa, cuối cùng trở thành thể tùng quả lớn như hạt đậu ở trước tiểu não.
Các nhà khoa học còn chứng thực được thể tùng quả có đầy đủ kết cấu tổ chức hoàn chỉnh của một con mắt, hơn nữa còn có an-bu-min phân biệt ánh sáng và màu sắc.
Trên thân của động vật, cũng phát hiện tác dụng đặc thù của thể tùng quả. Gần đây các nhà khoa học trong khi dọn dẹp bể cá trong phòng thí nghiệm, phát hiện cá hang mù Mexico vẫn có thể sản sinh phản ứng đối với ánh sáng. Hóa ra chúng có phản ứng đối với ánh sáng là nhờ vào thể tùng quả.
“Con mắt ẩn tàng” có thể thấy được hình ảnh
Theo một báo cáo trên tờ Real Russia Today của Nga, Vitaly Pravdivtsev tác giả của cuốn sách “Trí tuệ nhân tạo” nói rằng, rất nhiều người có khả năng siêu cảm nổi tiếng của nước Nga đều đã từng biểu diễn một thí nghiệm, chính là khi nhân viên nghiên cứu đem một phong thư không thấu quang có đựng có một tấm phim ảnh đặt trước trán, phim ảnh sau khi được rửa ra liền xuất hiện hình ảnh đúng theo suy nghĩ của họ.
Điều này đã nói rõ, một số người có thể từ chỗ trước trán phát phóng hình ảnh sinh ra trong não bộ, đây có thể chính là “con mắt thứ 3″ mà văn hóa Đông phương cổ xưa vẫn nhìn nhận.
Pravdivtsev tin tưởng rằng, con mắt thứ 3 là bộ phận thật sự tồn tại. Dưới một tình huống cực kỳ đặc thù, người hiện đại cũng có thể giữ lại loại công năng này. Ví dụ như trên trán của một vị giáo sư nước Mỹ, sau khi sinh ra đã có con mắt thứ 3, bình thường bà dùng tóc để che lại. Bà nói, con mắt thứ 3 này vô cùng hữu dụng. Khi còn nhỏ những đứa trẻ khác gọi bà là Cyclops, ngụ ý là người khổng lồ một mắt trong thần thoại Hy Lạp.
“Con mắt thứ 3″ – Công năng đặc dị có thể biết trước được sự việc
Nhà sinh vật học Saint Petersburg nước Nga đã phát hiện, tế bào tổ hợp thành thể tùng quả tương tự như những tế bào sắc tố của võng mạc, có thể tiết ra Serotonin và Melatonin.

tâm linh, công năng, căn mắt thứ ba, Bài chọn lọc,

Melatonin được tiết ra vào ban đêm, có tác dụng giữ bình tĩnh, Serotonin thông thường tiết ra vào ban ngày, có thể kích thích hoạt tính của cơ thể. Những thành quả này đã từng được công bố ở Hiệp hội Lão khoa Quốc tế được tổ chức ở Vancouver, Canada.
Thể tùng quả vào thời xưa được coi là “trung tâm của năng lượng”, tức là phụ trách vận hành các cơ năng trong cơ thể người. Các nghiên cứu hiện đại cũng đã chỉ ra, Melatonin là phần tử sóng điện trong trao đổi vất chất giữa các tế bào, mặt khác, thói quen sống hoặc tu luyện của con người cũng sẽ sản sinh tác dụng ảnh hưởng đối với nó.
Các nhà khoa học phát hiện, những người dành trọn cả đời cho tôn giáo hoặc thích trầm tư, thân thể sẽ phát sinh những biến đổi về hoóc-môn, khiến cho phần sọ trở nên mỏng. Như vậy sẽ khiến cho việc tiếp thụ năng lượng đến từ vũ trụ của thể tùng quả trở nên dễ dàng hơn.
“Con mắt thứ 3″ có tác dụng đặc thù gì ở nhân loại không? Jim Bomarc, chuyên gia sắc tố thị giác nước Anh, đã đưa ra các nghiên cứu chứng thực phần thể tùng quả của động vật có thể sản sinh phản ứng ánh sáng. Các chuyên gia khoa học thần bí cũng cho rằng thông qua các phương thức như: tịnh tâm suy tưởng, ngồi thiền, có thể kích phát tính thoái hóa của thể tùng quả, có thể nhìn được thứ mà ngay cả mắt thịt cũng nhìn không thấy được.
Tác dụng của “con mắt thứ 3″ khác với chức năng của con mắt thông thường. Con mắt này có những năng lực siêu nhiên như “tha tâm thông” và “dao thị”, tức là có thể biết trước được sự việc tương lai hay nhìn xuyên thấu qua các không gian.
Rất nhiều người, đặc biệt là những người tu luyện có thể có được loại công năng đặc biệt này. Suy tưởng, ngồi thiền kích thích thể tùng quả, không cần thông qua dây thần kinh thị giác truyền dẫn cũng có thể nhìn trực tiếp được bên ngoài. Con người nếu có thể đả khai được công năng này của thể tùng quả, mới đúng là nhìn thấy được những điều chân thực nhất của nhân loại và vũ trụ.






Con mắt thứ ba


Đối với 1 vài người 4 từ:”con mắt thứ 3” có vẻ khá lạ lẫm. Đúng thật là người trần chúng ta chỉ có 1 đôi mắt “thịt”. Còn một con nữa, nó cũng có chức năng như con mắt bình thường là dùng để “nhìn” nhưng không phải để nhìn đời mà là……………….

Có thể giải thích một cách khoa học là :

Khi ánh sáng đập vào võng mạc thì tín hiệu sẽ được truyền qua hệ thống dây thần kinh và đến tuyền tùng. Đến lúc đi ngủ thì hệ thống thần kinh sẽ báo với tuyến tùng để tiết ra chất melatonin vào máu và ra lệnh cho cơ thể đi ngủ. Đây là lúc con mắt thứ 3 kích hoạt.(tương tự như lúc thiền cũng vậy (chúng ta trong trạng thái rất tĩnh giống như là lđang ngủ). Chúa Jesus cũng đã từng nói:”con mắt là đèn của thân thể. Nếu mắt ngươi là một thì cả thân thể ngươi sẽ được sáng láng.” Đoạn này nói về con mắt thứ 3 vì sao lại nói như vậy thì………. từ từ mới kể hết được.

Vì tuyến tùng tiết ra một chất gọi là Dimethyltriptamin(DMT) theo từ điển y học tác dụng của DMT là:”thay đổi cảm nhận thời gian, di chuyển trong thời gian đến các thế giới khác, gặp gỡ các nhân vật tâm linh hoặc những thứ gì đó huyền bí”, và nó cũng liên quan đến trí tưởng tượng của chúng ta nữa. Đó là "con mắt của nhận thức". Nhưng không phải mọi thứ bạn tưởng tượng và suy nghĩ đều xãy ra trong đó mà phần lớn là :"những giấc mơ, linh tính, nhìn thây tương lai, hay là liên lạc với thế giới bên kia(đối với 1 số nhà ngoại cảm).

Giao điểm của hai mạch máu dưới tuyến tùng là giao điểm của thế giới mơ và thế giới vật lý, hay còn gọi là:"Sợi chỉ bạc". đối với những nhà yoga ở Ấn Độ hay là một số người họ thường kể về 1 sợi dây kết nối linh hồn và cơ thể của họ khi thiền.

Về cấu tạo thì tuyến tùng có hình nón thông và biểu tượng của nó đã xuất hiện rất nhiều ở những nền văn hóa cổ xưa.

Đây là biểu tượng của Osiris, thần chết trong truyền thuyết Ai Cập. Hai con rắn là biểu tượng của sự tăng năng lượng Kundalini(một dạng thiền) và cũng tượng trưng cho AND. Chúng nhìn vào nơi tất cả năng lượng gặp nhau đó là nón thông.

Thần Tamus của Babylon ông ta cũng cầm nón thông.

Thần chết và sự đổi mới Shiva. Kiểu tóc trên đầu rất giống nón thông và có con rắn bò xung quanh cổ.

Con mắt thứ 3 quan trọng đến nỗi người phụ nữ Ấn Độ ngày nay vẫn còn thói quen đeo hình vẽ ở giữa trán.

Thần say rượu và phá phách Bacchus. vì bia rượu làm rối loạn hoạt động của tuyến tùng. Nên những người say rượu thường hay có những hành động và những lời nói kỳ quái.

Như các bạn đã biết thì mắt thường của chúng ta có những tế bào Dài và tế bào Nón Ốc thường dùng để nhìn ánh sáng, tường trong của tuyến tùng cũng được cấu tạo như vậy. Đó là vì sao người ta gọi tuyến tùng là con măt thứ 3. Đặc biệt hơn nữa là bên trong tuyến tùng chỉ toàn là nước. Đó là lý do tại sao khi mơ chúng ta đều nhận được cả “hình” lẫn “tiếng” (tương tự như ti-vi). Có bạn nào phủ nhận điều này không? Nói tới đây chắc chắn là sẽ có một số bạn gãi gãi đầu và nói rằng:”tại sao lại như vậy?”.







    



    Tìm ra cơ chế để « vọng tưởng » không xuất hiện


    RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?

    Thiền sư Thích Thông Triệt : Điều này nói ra nó hơi dài. Nhưng nếu mà em muốn nghe, thì chúng tôi sẽ nói ra. Ngày nay, Thiền thật sự là một môn tu cũ rồi, nhưng mà nó lại trở nên mới. Lý do là, Thiền đã có trên thế gian này hơn 2.500 năm rồi. Tức là sau khi Đức Phật thành đạo, bằng Thiền. Ngài dạy lại các phương pháp của ngài cũng bằng Thiền.

    Nhưng mà vì nó khó quá, nên người này chế ra phương pháp này, người kia chế ra phương pháp kia. Mục đích để làm cho tâm mình nó yên lặng thôi. Thành ra, những cái chế đó ấy, các sáng tạo, sáng chế đó làm cho Thiền càng thêm rối bời thêm ra. Mỗi người làm theo ý mình, rốt cuộc nó loạn ra. Có cả triệu (phương pháp), chứ không phải ngàn đâu. Trải qua 25 thế kỷ rồi, người thực hành Thiền rất khó khăn. Đứng trước rừng Thiền, một cánh rừng già dày đặc, muốn vô làm sao vô đây.

    Chính bản thân tôi ngày xưa cũng vậy đấy. Chúng tôi đã thất bại khi áp dụng các phương pháp cũ. Đó là người ta giảng sao mình làm theo vậy. Nhưng rồi, có điều bật ra từ trong não chúng tôi, chúng tôi tự giải đáp trong não mình. Tức là đừng có « nói thầm » ! Nói thầm hoài thì « vọng tưởng » có hoài. Vì chủ trương của Thiền là dập tắt vọng tưởng, tức là những ý nghĩ miên man trong đầu khởi lên lên. Người này chế ra cách này, người kia chế ra cách kia để dập tắt vọng tưởng. Chúng tôi làm đủ hết mọi cách, nhưng không làm sao dừng được những sự « nói thầm » trong đầu của chúng tôi. Thực sự lúc đó, chúng tôi không biết đó là sự « nói thầm », chúng tôi cho rằng, đó là « vọng tưởng » thôi. Nhưng rút cục chúng tôi nhận ra rằng : A ! Cái gọi là « vọng tưởng » chính là sự « nói thầm » trong não mình đó. Bây giờ phải làm sao cho yên lặng cái đó đi thì mới được. Từ đó chúng tôi thực tập bằng cách không nói thầm.

    RFI : Xin cắt ngang ở đây để Thiền sư giúp giải thích : « nói thầm » thì những biểu hiện ra sao, và tác hại của nó như thế nào ?

    Thiền sư Thích Thông Triệt : Khi nói thầm, đó là cơ chế của « tưởng ». Trong não bộ của mình, nó có một cơ chế … Nhưng hồi đó, chúng tôi không biết cơ chế não bộ. Từ trong đầu nó khởi lên cái « niệm ». Nói qua nói lại với nhau. Tức là mình nói qua nói lại với mình về một chuyện gì đó do những hình ảnh trong tâm mình khởi lên. Mình chạy theo hình ảnh đó để mình nói, nói rồi, tâm xúc cảm mình nó đi theo hình ảnh đó. Thành ra nội tâm không bao giờ yên lặng được.

    RFI : Cái nói thầm như Thiền sư nói có thể chuyển sang diễn đạt khác là đối thoại bên trong có đúng không ?

    Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, từ chỗ nói thầm ban đầu, rồi đối thoại thầm lặng bên trong không bao giờ dứt. Thành ra, từ chuyện không có gì hết bắt đầu mình vẽ ra, mình sợ hãi, mình phiền muộn, mình giận tức luôn nữa. Nhiều khi « nó » xúi mình giết người ta đi, hay làm những chuyện tầm bậy, tầm bạ. Vì sự đối thoại thầm lặng đó đấy. Khi chúng tôi phát hiện lối đó, chúng tôi áp dụng cách không nói thầm

    RFI : Lúc đó, có thể nói là Thiền sư đang ở trong trại cải tạo. Phải chăng điều kiện khắc nghiệt và khổ sở, cô lập trong trại như vậy khiến Thiền sư rơi vào trạng thái này ?

    Thiền sư Thích Thông Triệt : Không phải, lúc đó chúng tôi ở trong trại cải tạo như vậy, nhưng lúc đó nó là điều kiện thích hợp cho việc tu hành của chúng tôi, vì chúng tôi đâu có tiếp xúc với bên ngoài nữa. Đó là một điều kiện thuận lợi cho việc tu Thiền của mình thôi. Tu Thiền là để dừng vọng tưởng, nhưng lúc đó tôi không biết đấy là gì. Khi mà tôi nhận ra được vọng tưởng là sự nói thầm, điểm mấu chốt, thì chúng tôi thực hành để làm sao làm chủ được sự nói thầm đó. Cho nên chúng tôi nói rằng, cái mà Thiền tông gọi là « diệt vọng » thì không đúng, mà mình phải làm chủ vọng tưởng mới được.

    Từ khi chúng tôi áp dụng cách không nói thầm trong não, thì trở nên một cậu thanh niên đẹp, trẻ, mà không phải là ông già 80 nữa. Bằng chứng là khi ông cán bộ đưa chúng tôi về Hà Tây, thì chúng tôi thấy rằng, những người kia như những con khỉ già, hốc hác. Ông cán bộ nói rằng, trong số các anh đây, anh này này ở đây lâu mà sao lại hồng hào. Nghe như thế, chúng tôi nói, à, như thế, chúng tôi thực hành đúng rồi đó. Đúng như thế nào, cái « nước » gì giúp cho tôi, thì thực sự chưa biết được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, phải có cái chất gì, cái « nước » gì trong đầu chúng tôi tiết ra đó để làm cho tôi được trẻ, trong sáng. Đấy là cái ý tưởng đầu tiên nó ghi trong đầu tôi là như thế.

    Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng viện nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí. Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một cơ phận kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh: đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng của bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi. Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng mã phát mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của viện nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.

    Nhiều người bình thường như bao người khác, họ không phải là các đại sư đã hằng bao năm khổ hạnh tu luyện trong các hang động, rừng sâu núi thẳm hay các phù thủy lừng danh nhưng đôi khi lại có năng lực kỳ diệu phát sinh từ bộ não.



    Tâm linh huyền bí nơi xứ đỉnh trời


    Từ xưa đến nay có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và tài tử về hiện tượng siêu hình, đã đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí, để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng không thể giải thích được. Thời ấy các nhà khoa học và dân tộc nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người đàn bà, một nữ văn sỉ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của đỉnh trời là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận chỗ những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà Trời và Đất gần như hòa nhau thành một.

    Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, bộ não luôn luôn được trong sáng nên họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự tính trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả năng kỳ diệu là phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay xấu mà người đó đang dự định. Năng lực của con mắt thứ ba: Thần nhãn hay Huệ nhã.

    Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng kẻ khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một nhãn lực đặc biệt, nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói theo kinh điển là Huệ nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ ba trở thành u tối không còn sử dụng được nữa. Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba. Khi khảo sát bộ xương của loài khủng long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là "con mắt thứ ba". Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu. Những khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đã cho biết là trong não người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm hay vào các giai đoạn con người ở tình trạng nguy biến, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng quả (Pineal gland). Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal gland còn có liên quan tới bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ ba.

    Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. Chính phần lớn các vị Đại sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có năng lượng thượng thừa ấy mà thôi. Tuy nhiên theo các vị đại sư thì không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay Huệ nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần nhãn thì người đó phải hội đủ các điểm cần yếu như đã nói trên mà còn phải có Thần lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được. Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.

    Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ ở vị trí xa hơn. Cứ thế mà về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ đạo viện này đến đạo viện khác, từ hang động này đến hang động khác... Theo bà Alexandra David Neel thì nơi dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ im lìm hoang vắng nhưng lại là nơi các nguồn tư tưởng của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi.

    Cũng giống như Phan Thị Bích Hằng khi con bé,chị Thiêm cũng có khả năng nhìn xuyên qua các vật chắn ánh sáng,và mới đây chị còn có thêm khả năng "gọi hồn ",khoa học hiện nay không thể lí giải ,tuy nhiên theo David WilCock - 1 trong những nhà ngoại cảm hàng đầu của Mỹ cũng như trên thế giới thì trong bộ não của tất cả chúng ta đều có một bộ phận rất nhỏ mà khoa học hiện đang nghiên cứu đó là "tuyến quả tùng" hay "tuyến quả thông"

    Chúng ta đều biết rằng giác quan của con người là không hoàn hảo nên chỉ có thể nhìn và cảm nhận thấy 3 chiều của không gian (chiều cao,dài và rộng),tuy nhiên trong vũ trụ thì tồn tại rất nhiều chiều không gian và thời gian (khoa học đã chứng minh). "Tuyến quả tùng" chính là chìa khóa để nhìn thấy tất cả các chiều này.Nếu tuyến này được khai mở,chúng ta sẽ nhìn được vào chiều thời gian để thấy quá khứ,tương lai,hiện tại...Nhìn được sang chiều không gian khác để thấy được "thế giới người âm".Để khai mở con mắt thứ 3 này thì theo như người Việt Nam nói đó là phải "Có căn,có quả".Phan Thị Bích Hằng,Hoàng Thị Thiêm,VanGa,David WilCock..chính là những người "có căn,có quả" như vậy.Một trường hợp nữa là khi chúng ta ngủ mơ thấy người âm là do tuyến quả tùng này có sự hoạt động,tùy theo mỗi người mà tuyến này hoạt động mạnh hay yếu





    Tuyến quả thông (Pineal Gland) trong não bộ


    Ở VN cũng như trên thế giới ngày càng xuất hiện nhiều những người có khả năng đặc biệt như vậy mà trước kia không hề có cho nên ko phải vô cớ mà người ta gọi đây là thời kì "âm thịnh dương suy",đây chính là dấu hiệu mở đầu mà theo các nhà ngoại cảm là do chúng ta sắp chuyển giao từ Chu Kì Song Ngư sang Chu Kì Bảo Bình,mỗi chu kì là 26.000 năm và ngày cuối cùng của Chu Kì Song Ngư chính là ngày 21/12/2012 .Bước sang chu kì mới ADN sẽ biến đổi,loài người sẽ trở lên thông minh hơn,sẽ sống như trong các bộ phim khoa học viễn tưỡng,thế giới sẽ hài hoa hơn gấp 100 lần,nhiều người sẽ có khả năng đặc biệt như di chuyển đồ vật bằng ý nghĩ,chữa bênh bằng ngoại cảm,nhìn xuyên qua chiều thời gian,không gian (Vanga)...tuy nhiên từ giờ cho đến hết năm 2012 chúng ta sẽ trải qua nhiều sự kiện lớn sẽ làm thay đổi thế giới

    Hiện nay cũng đã có những người có khả năng chữa bệnh bằng ngoại cảm đã được khoa học kiểm nghiệm một cách nghiêm ngặt,từ trường đo được xung quanh những người đó là rất cao,đó chính là những "đệ tử " của nhà tiên tri lừng danh Vanga (xem phần 2,3 trong Video về Vanga trong mục 2012)....

    Và dưới đây là ý kiến của một trong những người có khả năng đặc biệt Indigo Boy - Matias Stefano,1 chàng trai có khả năng nhớ được tiền kiếp của mình về năm 2012

    

    Là người lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng, Dalai Lama đã bị thu hút về những sự tìm thấy bằng chứng của những phần của não bộ có thể tự đổi mới. Sự khám phá dường như thích hợp với cái nhìn của Phật gia rằng sự thiền tịnh có thể thay đổi hình dáng và nới rộng trí óc để bồi bổ sự vui sướng và tu luyện từ bi. Trong bài nói chuyện tháng 11, Dalai Lama đã nói lên mối quan hệ giữa việc nghiên cứu nơ ron thần kinh với cơ chế não bộ liên quan đến sự chú tâm và cảm xúc và sự thiền tịnh mà đã cho thấy sự nâng cao sức mạnh của sự tập trung và điều khiển cảm xúc. “Tôi cảm giác có lẽ có một khuynh hướng mạnh mẽ về sự cộng tác trong nghiên cứu giữa sự tu hành truyền thống và khoa học thần kinh, ” ông đã nói tại cuộc họp Xã Hội về Khoa Học Thần Kinh hàng năm.

    Cảm xúc Người ta đang nghiên cứu những mối quan hệ giữa thiền tịnh và sinh lý học của bộ não qua nhiều năm. Gần đây những sự nghiên cứu được thực hiện một cách chính xác, qua 2 sự phát triển. Một là sự khám phá năm 1998 của khoa học gia thần kinh Fred Gage, đã xác nhận, rằng những tế bào mới thật sự có thể phát triển trong hippocampus (một khu vực của bộ não tương tác với sự học, trí nhớ và cảm xúc) của người lớn. Từ lâu người ta đã nghĩ rằng sự phát triển của tế bào não bộ bị ngưng ở người lớn.

    Những năm đầu của thập niên 1990, một nhà khoa học người Mỹ, Richard Davidson du lịch đến Ấn Độ vào lúc Dalai Lama gặp các thầy tu Phật những người mà đã bỏ cả đời mình để thiền tịnh. Davidson đã trải qua tu vấn tại trường Harvard và thực hiện một cuộc nghiên cứu tại Đại Học của Wisconsin, ông ta mang các thầy tu đến phòng thử nghiệm của ông. Tại đây ông nối họ với những máy điện tử đo bộ não (EEG) dùng để đo những sự thay đổi hoạt động điện tử của não bộ. Các tế bào não liên lạc với nhau qua sự thúc đẩy điện tử. Trong suốt những cuộc nghiên cứu EEG, các nhà nghiên cứu đặt vài cực điện lên da đầu để dò và thu những mô hình của các hoạt động điện tử trong não bộ. Trong những cuộc nghiên cứu trên các thầy tu, Davidson đã phát hiện rằng hoạt động điện tử tăng cao trong suốt thời gian thiền định trong vùng não được gọi là võ não trái trước trán (left prefrontal cortex), nằm cạnh đằng sau trán. Các nhà khoa học liên hệ hoạt động trong vùng này với những cảm xúc tích cực, ngược lại bên phải vỏ não trước trán, nơi làm gia tăng các cảm xúc tiêu cực.

    Gần đây hơn, Davidson đã tìm thấy rằng những sự thiền tịnh của những người tu Phật qua một thời gian lâu có thể đem lại những tín hiệu được gọi là sự giao động gamma-band, được liên hệ với sự tập trung và điều khiển cảm xúc. Những sự thay đổi này còn kéo dài ngay cả sau khi ra khỏi tịnh.

    Làm dày Bộ Não Sara W. Lazar là một khoa học gia thần kinh và là một người thiền. Bạn thường không nghe điều này trong cùng một câu. Nhưng cuộc đời của người sinh viên học tiến sĩ ngành sinh học phân tử đã thay đổi khi cô phát hiện yoga và thiền tịnh trong khi được hồi phục sau lần bị thương. Điều này xảy ra cách đây 12 năm và hiện nay cô là một nhà nghiên cứu vượt trội trong lĩnh vực khoa học thần kinh. Cô chú trọng về những ảnh hưởng của thiền tịnh lên bộ não. “Khi học ở đại học tôi đã bắt đầu tập luyện yoga và thiền tịnh, và khám phá rằng nó thật là bổ ích lạ thường. Tôi cảm thầy bớt căng thẳng, dễ tập trung và nó thật sự đã thay đổi sự nhận thức của tôi về nhiều việc. Sau khi nhận bằng tiến sĩ, tôi đã quyết định thực hiện việc nghiên về sự thiền tịnh hơn là nghiên cứu về vi khuẩn. Tôi đã tìm được một phòng thí nghiệm sẵn lòng chỉ dẫn tôi về khoa học thần kinh và để cho tôi làm một cuộc nghiên cứu thiền tịnh nhỏ. ”

    Phòng thí nghiệm này thuộc ngành tâm thần học tại bệnh viện tổng hợp Massachusetts. Trọng tâm của việc nghiên cứu là về sinh học thần kinh của sự thiền tịnh. Cô dùng fMRI (functional magnetic resonance imaging) để điều tra mối tương quan thần kinh của những sự thay đổi trong chức năng tự trị trong thời gian tập luyện thiền định. Tiến sĩ Lazar tiếp tục giải thích, “fMRI là một cách đặc biệt sử dụng máy MRI scanner để nhìn thấy bộ não hoạt động như thế nào. MRI chụp được bức hình của bộ não rất đẹp, với nhiều chi tiết dễ nhìn thấy. fMRI đại loại như một cuốn phim – nó chụp các bức ảnh đặc biệt của dòng máu vào não. Những phần nào hoạt động mạnh nhất sẽ có sự lưu thông nhiều nhất, vì vậy chúng tôi chụp các bức ảnh của một người đang thiền tịnh và nghỉ ngơi, và rồi sử dụng máy vi tính để xác định nơi nào trong bộ não có máu lưu thông nhiều nhất trong suốt thời gian thiền tịnh so với lúc nghỉ ngơi. “ Tiến sĩ Lazar giải thích rằng MRI scanner đại loại giống như X-ray, nhưng nó cho phép chúng ta chụp ảnh của bộ não.

    Theo Lazar, không giống như các thầy tu Tây Tạng, những người mà dành cuộc đời của họ để luyện tập thiền tịnh, những người tu luyện thiền tịnh tại Hoa Kỳ thường ngồi thiền khoảng chỉ từ 20 đến 60 phút mỗi ngày và phối hợp sự tập luyện của họ vào trong công việc hằng ngày liên quan đến nghề nghiệp, gia đình, bạn bè, và những sở thích khác. Thêm vào đó, nhiều học viên thiền tịnh người Mỹ xem thiền tịnh là một nguồn làm giảm căng thẳng, là bài tập tinh thần, và không cần thiết phải phối hợp với các nhân tố tôn giáo truyền thống của đông phương vào sự tập luyện của họ.

    Lazar và các bạn đồng nghiệp đã so sánh não bộ của 20 người thiền tịnh kiểu tây phương với 15 người không có kinh nghiệm và thiền tịnh hoặc yoga. Những người thiền tịnh là học viên Phật giáo. Tất cả những người tham dự trong cuộc nghiên cứu được đặt nhẹ trong máy MRI scanner nơi các bức ảnh chi tiết được chụp về cấu trúc của não bộ của họ.

    Lazar nói rằng “Chúng tôi đã phát hiện rằng những khu vực liên quan đến việc việc tập trung và việc phân giải các cảm quan của những người thiền tịnh thì dày hơn so với những người không thiền tịnh. Và, một trong những khu vực này, thì sự khác nhau về độ dày có thể được biết đến trong những chủ đề trước đây, mà đã đưa ra rằng sự luyện tập thiền tịnh đều đặn có thể làm giảm sự mỏng dần đi của bộ não. ” Khu vực này là một lớp ngoài của vỏ não, mà được biết có liên quan đến những tiến trình phân tích cảm quan và nhận thức.

    ”Mặc dù nhiều sự nghiên cứu kiểm định độ dày vỏ não đã chỉ ra rằng sự già đi và bệnh tật là nguồn gốc của việc làm mỏng đi vỏ não, ” Lazar nói. “Những sự tìm thấy của chúng tôi đưa ra rằng luyện tập thiền tịnh có thể làm tăng những sự thay đổi của vỏ não ở người lớn trong những khu vực quan trọng cho việc phân giải sự nhận thức, cảm quan và sự vui sướng. ”

    Theo Lazar, điều này có thể thấy rằng những người mà tự nhiên có vỏ nào dày trong những khu vực phân giải sự nhận thức và cảm quan thì thường luyện tập thiền tịnh. Tuy nhiên, sự dày lên của vỏ não tương đồng với những hoạt động nhất định mà các học viên thiền tịnh liên tục tập luyện qua một thời gian. Thêm vào đó, sự làm dày của võ não tương đồng với lượng thời gian thiền tịnh của một đời người.

    Các nhà khoa học nói rằng không nên ngạc nhiên về sự thiền tịnh có thể thay đổi sinh lý học của bộ não. Các nhà âm nhạc, nhà ngôn ngữ học và vận động viên có lớp não dày hơn trong những khu vực liên quan đến những điểm mạnh và tinh thông của họ. “Điều đó có lý nếu chúng ta sử dụng bộ não chúng ta nhiều, nó sẽ làm nhiều việc, và sẽ có nhiều thứ trong khu vực đó để hỗ trợ gia tăng việc sử dụng, ” Lazar nói.



    Con người có mắt thứ ba?


    Các nhà khoa học từ lâu đã tranh luận và nghiên cứu về giả thuyết này. Theo họ, con mắt thứ ba rất có thể là cơ quan giúp một số người có được những khả năng hết sức đặc biệt như tiên tri hay thần giao cách cảm…, và bất cứ ai trong chúng ta cũng có con mắt đó, vấn đề là ta có biết “mở” nó ra hay không.

    Khả năng đọc được chữ hay phim ảnh trong một phong bì dán kín, ngăn ánh sáng, được đặt trên trán của nhiều nhà ngoại cảm không phải là quá xa lạ với chúng ta. Khoa học hiện vẫn chưa thể giải thích thấu đáo về hiện tượng này. Còn truyền thuyết cổ xưa của phương Đông lại khẳng định, có những trung tâm năng lượng đặc biệt có khả năng đọc và phát ra các dạng ý nghĩ được gọi là “con mắt thứ ba”.

    Việc sùng bái loại mắt này có nguồn gốc từ rất xa xưa. Trong nhiều tín ngưỡng phương Đông, cơ quan đặc biệt này gần như được coi là tài sản riêng của các vị thần. Nó cho phép họ theo dõi lịch sử của toàn bộ thế giới, nhìn thấy tương lai, quan sát bất cứ ngóc ngách nào trong vũ trụ bao la. Có thể thường xuyên bắt gặp con mắt thứ ba được gắn trên trán các vị thần trên các hình vẽ hay pho tượng tại những đền chùa đạo Phật. Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng, đây chính là ký ức về những “tổ tiên có nguồn gốc ngoài trái đất” của nhân loại. Theo những truyền thuyết còn tồn tại đến ngày nay, con mắt đó giúp họ có những khả năng hết sức đặc biệt - thôi miên và tiên tri, thần giao cách cảm và tác động từ xa, khả năng thu nhận kiến thức trực tiếp từ trí tuệ của vũ trụ, biết được quá khứ và tương lai…

    Những người luyện yoga trên thực tế đã khai phá được các khả năng tâm lý khác thường. Nhiều người từng tận mắt chứng kiến kỳ công của họ đã nhận xét: “Chính xác tương tự như các tia sáng xuyên qua kính hay tia X đi qua các vật không trong suốt, nhà yoga có thể nhìn thấy các đồ vật đằng sau bức tường dày, biết nội dung bức thư trong phong bì dán kín hay phát hiện kho báu dưới đất nhờ sự giúp đỡ của con mắt tinh thần bên trong của mình”.

    Phạm vi ảnh hưởng của “con mắt thứ ba” còn vượt ra ngoài không gian 3 chiều quen thuộc đối với chúng ta. Các nhà yoga có thể quan sát được các sự kiện diễn ra trên những khoảng cách lớn, và ở bất cứ thời gian nào: quá khứ, hiện tại hay tương lai. Tại Ấn Độ, những người có khả năng kỳ diệu như vậy được gọi là Trikalazna (người biết ba thời gian). Tuy nhiên, không phải nhà yoga nào cũng có được những khả năng đặc biệt trên - tất cả phụ thuộc vào sự phát triển của “con mắt thứ ba”. Theo truyền thống của yoga, người ta chia những khả năng này thành 4 mức độ.

    Mức thấp nhất cho phép nhìn thấy những vòng hào quang (hay còn gọi là tinh hoa) phát tiết ra từ đồ vật hay con người. “Hào quang” này thường thay đổi về hình dạng và màu sắc tùy theo mức độ sức khỏe và trạng thái tâm lý của người đó. Chính nhờ khả năng này, một vài nhà yoga có khả năng dự đoán được một số bệnh tật của con người.

    Ở mức độ tiếp theo, con người có thể quan sát các đồ vật và sự kiện tương tự như trong một “bản vẽ thu nhỏ” - ví dụ như nhìn thấy từ bên trong cơ thể hay từ độ cao của các loài chim đang bay. Những bức tranh được quan sát thấy thường liên quan đến hiện tại, hay một quá khứ mới xảy ra không lâu. Tại mức độ này, đôi khi người ta còn nhìn thấy những dạng ý nghĩ cực kỳ mạnh mẽ (ví như liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng) - kết quả của quá trình tập trung cao độ của con người. Những giai đoạn đầu, khả năng nhìn thấu này vẫn chưa rõ ràng và bền vững. Nhưng với bước phát triển tiếp theo của con mắt thứ ba, độ sáng và rõ nét của các bức tranh sẽ ngày càng tăng lên. Đến một thời điểm nào đó của mức độ thứ ba, những hình ảnh được quan sát bằng “con mắt thứ ba” sẽ có chất lượng không kém những gì chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường. Dù cho thời gian hiển thị của chúng rất ngắn, thậm chí thường chỉ trong khoảnh khắc, ta vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng và tỉ mỉ từng chi tiết.

    Các chuyên gia khẳng định, bất cứ người nào cũng có thể đạt được ba mức độ nói trên bằng cách luyện tập. Thậm chí đối với những người mù, khả năng phát triển “con mắt thứ ba” thường nhanh chóng và thành công hơn. Còn mức độ thứ tư - mức độ tinh thông - thì rất ít người có thể làm được. Để đạt tới ngưỡng này, con người cần phải cống hiến toàn bộ cho sự nghiệp hoàn thiện về tinh thần. Khi đã dạt đến mức độ tuyệt đỉnh của giai đoạn thứ tư, con người sẽ trở thành một môn đồ “không cần học ai và không cần học cái gì nữa”. Điều này không phải do anh ta đã biết tất cả, mà là anh ta sẽ không cần phải vùi đầu vào hàng trăm cuốn sách, nghe giảng suốt ngày, chúi đầu vào kính hiển vi hay kính viễn vọng… Khả năng thị giác bằng tinh thần sẽ cho phép con người biết và nhìn thấy tất cả những gì anh ta mong muốn - không phụ thuộc vào thời gian hay không gian.



    Vào thập niên 80, các nhà khoa học Anh và Đức đã đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của những người có con mắt thứ ba, tương tự như ở bò sát nguyên thủy. Tuy nhiên ở người, con mắt này dần dần chui sâu vào bên trong lớp xương sọ và có thể đã thu nhỏ lại, trở thành tuyến quả thông (epiphisis), nằm trước tiểu não.

    Các ý kiến nhận định về vấn đề này khá khác biệt. Một luận điểm cho rằng những động vật có con mắt thứ ba cũng không phải là hiếm, thường xuyên gặp hơn cả là những loài bò sát, đặc biệt là rắn và thằn lằn. Chúng có một con mắt thóp đặc biệt, nằm ngay dưới một lỗ nhỏ trên phần xương sọ. Ở loài bò sát, lỗ này được phủ một lớp da mỏng bán trong suốt khiến các nhà khoa học nhận định nó không chỉ làm việc trong dải ánh sáng nhìn thấy. Dự đoán trên đã được khẳng định, sau khi người ta phát hiện cơ quan này đặc biệt nhạy cảm với dải sóng milimét cũng như đối với từ trường. Họ còn đặt giả thuyết, nó có thể thu nhận được các loại sóng siêu âm và hạ âm. Chính nhờ đó, loài bò sát thường có khả năng cảm nhận trước những thảm họa thiên nhiên như động đất, núi lửa phun trào hay thậm chí cả bão từ.

    Còn đối với một số người, chúng ta cũng có bằng chứng khá thuyết phục về “con mắt thứ ba”: Cơ quan kỳ lạ này đôi khi nằm trên thóp hay gáy của một số người vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Đó là trường hợp của Emi Hanson, một cô giáo 25 tuổi tại thành phố Columbus (Mỹ). Emi quả thật có tới 3 con mắt, trong khi mắt thứ ba nằm sau gáy lại nhìn rõ hơn hai con mắt thường vốn bị cận của cô. Ưu điểm của con mắt này khá rõ ràng, Emi có thể xem truyền hình bằng gáy hay quan sát được đằng sau xe hơi của mình mà không cần kính chiếu hậu.

    Những huyền thoại của Ấn Độ về “con mắt thứ ba” - con mắt của sự tưởng tượng và mơ ước đã thuyết phục được các nhà khoa học Anh và Đức. Vào thập niên 80, họ đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của những người có con mắt thứ ba, tương tự như ở các loài bò sát nguyên thủy. Tuy nhiên ở con người, con mắt này dần dần chui sâu vào bên trong lớp xương sọ. Theo xu hướng này, hiện có nhiều ý kiến cho rằng cơ quan bí ẩn trên không có gì khác mà chính là tuyến quả thông (epiphisis) - một bộ phận chỉ nhỏ cỡ hạt đậu, có dạng hình quả lê và màu đỏ nâu, nằm ngay phía trước tiểu não.

    Những nghiên cứu khoa học gần đây cũng nói nhiều về cơ quan thần bí này. Người ta phát hiện trong epiphisis có chứa các thành phần gọi là “cát não” (acervulus cerebralis) - những mẩu khoáng chất hình cầu có kích thước khoảng 0,5 mm. Cho dù chúng có ở mọi người ngay từ lúc sinh ra, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa biết nó có tác dụng gì. Xung quanh đó có khá nhiều giả thuyết. Phân tích bằng tia X ghi nhận trong những “hạt cát” có những cấu trúc dạng tinh thể silic. Dường như những vi tinh thể này là nơi chứa đựng thông tin dạng ba chiều về toàn bộ cơ thể con người.

    Trong khi tìm hiểu tác dụng của epiphisis, một số người đã chú ý tới một chuyển động kỳ lạ của cơ quan này. Nó có khả năng tự xoay tương tự như mắt người. Người ta còn bàn về những điểm giống nhau giữa epiphisis với nhãn cầu mắt do nó cũng có thấu kính và các thành phần thụ cảm màu sắc. Một điểm chú ý nữa là hoạt động của tuyến quả thông được thúc đẩy đáng kể bởi tín hiệu sáng đến từ mắt. Cũng có ý kiến nhận định, do kết quả của quá trình hàng nghìn năm không hoạt động, epiphisis đã thu nhỏ kích thước đáng kể (trong quá khứ, nó lớn cỡ viên bi của trẻ em).

    Hiện vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn epiphisis có phải là con mắt thứ ba từng có thời nằm trên não, hay là một cơ quan độc lập nào đó có những khả năng đặc biệt. Tuy nhiên, người ta vẫn có được một bằng chứng, dù là gián tiếp, cho thấy epiphsis có liên quan đến thị giác và những khả năng thông tin đặc biệt của con người. Các nhà khoa học còn nhận thấy một quy luật khá thú vị: Ở những người thường xuyên rèn luyện về tinh thần và có được những khả năng thông tin - tâm lý đặc biệt, phần xương trên chóp lại mỏng đi đến mức chỉ còn như một lớp da - tương tự như con mắt của rắn.



    VỊ TRÍ CON NGƯỜI TRONG VŨ TRỤ DƯỚI NHÃN QUAN CỦA TÔN GIÁO VÀ PHÂN TÂM HỌC


    Căn bản của con người là cái Biết vô giới hạn. Biết vô giới hạn là sự sáng tạo không ngừng, tạo ra biến đổi sanh diệt từ cái lớn không thể nghĩ tới của vũ trụ đến cái nhỏ thật tinh tế của những hạt nguyên tử.

    Trong một thời điểm vô định nào đó một sự cắt xén xảy ra trong Biết để có sự phản ảnh lại. Cái trật tự thanh tịnh ban đầu bị sai lệch và sự sai lệch đó là mầm mống dẫn đến sanh tử. Thánh kinh nhân cách hóa hiện tượng đó để giải thích cho sự hiểu biết rất giới hạn của con người rằng: Thượng đế tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy ngài A Nan: Tri kiến lập tri tức vô minh bổn (Thấy biết khởi niệm để hiểu lại nó là khởi điểm của sự mất sáng suốt). Trong Tâm kinh, Biết được gọi là tánh Không. Trong Không hàm chứa tất cả cái Có (sắc). Khi quên Không thì chúng sanh sẽ bị thất lạc trong sự mập mờ của khu rừng sắc.

    Sự cắt xén của niệm khởi (suy tưởng) là khởi đầu của hành trình chúng sanh thất lạc trong cõi giới của sanh diệt. Chúng sanh là danh từ chỉ chung cho những mầm sống, là hậu quả sanh diệt của sự cắt xén qua suy tưởng. Khi sự cắt xén còn tinh tế thì chúng sanh hiện diện ở những cõi phi vật chất như cõi trời. Hình hài của những chúng sanh này chỉ bị giới hạn bởi niệm tưởng vi tế cho nên so với thang điểm của loài người đời sống của họ có thể dài đến hàng triệu và hàng trăm ngàn năm. Đó là những cõi giới của vô sắc giới. Những chúng sanh này sống trong những thế giới với không gian, thời gian đa chiều (multi dimensional time and space). Trong kinh Duy Ma Cật, có kể lại trường hợp bồ tát Duy Ma Cật thu lại vũ trụ để trong lòng bàn tay. Chúng ta gọi đó là thần thông hay phép lạ, nhưng thật ra đó là sự thể hiện của sự ứng dụng của không gian và thời gian đa chiều. Trong Thánh kinh thì chúa Jesus biến bánh mì từ trong hư không để làm thức ăn cho quần chúng.

    Khi suy tưởng cô động và giới hạn hơn thì chúng sanh hiện ra ở những cõi trời sắc giới. Ở những nơi này họ rất nhậy cảm với những hòa hợp của toán học và nghệ thuật. Đây là những thế giới của chư thiên hay thiên thần. Trong kinh Phật kể khi hành giả thiền đến mức độ tâm thức rung động cao thì chư thiên đến rải hoa, ca hát làm bạn với hành giả. Đây là một cách diễn tả cho con người dễ hiểu. “Rải hoa” và “ca hát” là những cảm nhận vui vẻ, phấn khởi khi tâm của hành giả phối hợp được với sự rung động hài hòa của một cõi giới hiện diện song song với cõi giới vật chất chúng ta đang sống. Thánh kinh thì kể lại nhiều trường hợp thiên thần hiện ra giúp con người. Cái quy luật chung của cõi giới là từ trên nhìn xuống thì thấy nhưng từ dưới nhìn lên thì không thấy. Thí dụ như loài người có khả năng nghiên cứu loài thú (kém phát triển hơn) chớ loài thú, với sự phát triển suy luận chậm và thô sơ hơn, thì không có khả năng này. Chư thiên nhìn thấy loài người nhưng đa số chúng ta thì không cảm nhận được sự hiện diện của họ.

    Những nhà văn, nhạc sĩ khi dẹp bỏ tư tưởng lo nghĩ trần gian, trong một khoảng khắc nào đó đã biến thành những cánh bướm của nguồn cảm hứng “vào” được cõi giới này. Đây là thế giới của sự hài hòa. Những tỷ lệ (proportion) của các âm bội trong âm nhạc nghe không chói tai, tỷ lệ pha trộn hài hòa của màu sắc và những đường nét trong hội họa cũng từ cõi giới này mà ra. Những khám phá khoa học cũng từ đây mà ra. Ngay cả trong kiến trúc, những kim tự tháp, những ngôi đền hay nhà thờ đều được xây cất theo những tỷ lệ toán học. Khác với cõi chúng ta có nhiều phân cách chia ngăn (compartmentalized), ở cõi sắc giới này là điểm gặp gỡ của toán học và nghệ thuật. Sự hài hòa về lý trí và tình cảm tồn tại chung với nhau.

    Những người có cảm thông với thế giới cõi trời sắc giới là do phước và duyên. Nói về phước, có lẽ những nhân tài đã từ thế giới này đầu thai xuống thế giới loại người. Có lẽ vì thế mà họ có năng khiếu phát minh và sáng tác vì còn nhớ man mác những nguồn cảm hứng nhẹ nhàng ở thế giới kia. Những nhà bác học chỉ cần nhìn những hiện tượng thiên nhiên mà suy luận ra những quy luật vô hình gắn liền những hiện tượng với nhau qua công thức toán học. Con người trung bình như chúng ta, ngồi dưới cây táo suốt đời và có hàng trăm quả táo rơi lên đầu, chắc vẫn không thể nào nghĩ ra được những định luật vật lý như ông Newton. Vì ta còn mắc kẹt ở thế giới vật chất nên chỉ thấy hình thù trái táo mà không nhìn ra được những quy luật vật lý vô hình điều khiển sự hoạt động của hữu hình. Ta cần có kẻ khác hướng dẫn mới nhận ra



    Khi ta nghe một bản nhạc làm ta thật cảm động hay nhìn bức tranh hài hòa làm ta có cảm giác an nhàn thanh bình thì đó là duyên. Nhờ cái duyên được nghe tác phẩm của những người có khiếu hơn ta, trong một khoảng khắc ta đã thoát được hoàn cảnh lo âu của trần gian, làm ta mang máng nhớ đến một cõi giới êm đềm hạnh phúc ở một nơi nào đó mà ta đã thất lạc. Khi nghiên cứu âm nhạc ta thấy rằng có vô số nhạc sĩ sáng tác vô số tác phẩm nghệ thuật. Nhưng chỉ có một số nhỏ tác phẩm trở thành lưu danh (classic). Những tác phẩm này có khả năng làm rung động được tâm hồn con người trải qua nhiều thế hệ. Nói một cách khác những bản nhạc này có những hòa âm và giai điệu vượt thời gian đi sâu vào tâm thức con người làm họ nhung nhớ một cõi giới bị thất lạc.

    Trong kinh Phật còn kể có cõi trời dục giới. Đây là cõi giới của những vị thần có những rung động tình cảm nặng hơn cõi sắc giới. Những vị thần này rất thích quyền lực và sự chinh phục. Họ muốn được thờ phụng và từ đó sanh ra nhiều bè phái. Chính trị ở trần gian được thiết lập theo khuôn mẫu này. Khi nghiên cứu lịch sử Hy lạp và La mã thì ta thấy họ tạc tượng nhiều vị thần khác nhau, nào là thần chiến tranh, thần hòa bình, thần tình yêu, ... Những vị thần này có lẽ không phải do con người ngồi không mà suy nghĩ ra. Ở một giai đoạn nào đó trong lịch sử phát triển của con người, chức năng suy luận của vỏ não (cortex) chưa phát triển nhiều, con người dễ cảm nhận những sức mạnh tình cảm phi phàm của những vị thần kể trên, rồi dựa trên đó mà tạo lập xã hội. Sự hoạt động của xã hội thời xưa chắc chắn là không dựa trên suy luận nhiều vì lúc đó kiến thức khoa học chưa được phát triển.

    Nhà tâm lý học Jung, sống cùng thời với Freud, gọi những sức mạnh tiềm ẩn này làm khuôn mẫu cho đời sống là ý niệm và tình cảm nguyên bản (archetype). Archetype có sẵn ở mọi người và không liên hệ gì với trí khôn hay tư duy. Thí dụ khi nhắc đến archetype cha, thì ai cũng liên kết đến sự hùng dũng, sức mạnh che chở, núi non vững chắc (công cha như núi Thái Sơn...). Khi nghiên cứu nhân chủng học, ta thấy rằng nhiều dân tộc trên thế giới như Ai Cập, La Mã, Trung Hoa, Incas, ... đều có tín ngưỡng nhiều thần thánh có những chức năng giống nhau, mặc dù những vị thần đó được được đặt tên khác nhau. Thí dụ nữ thần tình yêu Isis (Ai Cập), Tlazolteotl (Incas), Aphrodite (Hy Lạp) và Venus (La Mã). Những tín ngưỡng này là sự biểu hiện của archetype xuyên qua văn hóa khác biệt. Archetype có năng lực tồn tại ngoài tư duy của con người. Người có học trong xã hội tân tiến ít có cơ hội đối diện với archetype hơn vì hoạt động tư duy của họ che lấp năng lực của archetype. Có lẽ vì thế mà hiện tượng đồng bóng ít thấy xảy ra ở thành thị hơn.

    Khi quan sát cuộc sống con người, ta thấy rằng không phải ai sống trên quả địa cầu này cũng được sanh vào hoàn cảnh hưởng thụ đồng đều. Những người châu Phi thường có cuộc sống rất khổ cực, phải đương đầu với bịnh tật và đói khát. Trong lúc có những người sanh ra tại Hoa Kỳ sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, muốn gì được nấy. Có nhiều ông giám đốc hưởng lương cả chục triệu dollars một năm trong lúc lương bổng hàng năm của những công nhân ở thế giới thứ 3 chỉ chừng vài trăm dollars. Nếu hiểu theo nhãn quan Phật giáo, những người triệu phú đang hưởng một chút phước của cõi trời dục giới trên thế gian này. Nói về vận mệnh đất nước, những tướng quân kỳ cựu của lịch sử loài người như Cesar, Hitler, Lenin chẳng hạn, cũng như thế, họ phải có đủ phước để thay đổi vận mệnh của cả một dân tộc và ảnh hưởng lên sự sống chết của hàng vạn người. Khi cái phước, dư âm của cõi trời dục giới, của họ hết thì quyền lực của họ bị tan rã, chế độ họ đặt ra bị tiêu diệt.

    Nói về thế giới loài người, tham dục và tham ái là động cơ chính xui khiến chúng sanh đầu thai vào thân người. Đầu thai có nghĩa là dùng con đường thai nghén để bắt đầu làm kiếp người. Con người rất mê có được cái thân đẹp và duy trì mạng sống qua thân thể. Tham dục là ham muốn đem lại sự sung sướng cho thể xác. Tham ái là mình thương thân thể mình và muốn người khác cũng thương mến thân thể mình nữa. Khi ai khen mình, thì mình hết sức thích thú. Đó là sự thể hiện của tham ái. Tham dục được thể hiện rõ nhứt qua ăn uống và quan hệ giới tính (sex). Nói về thần kinh học nguồn gốc sinh lý của tham dục là ở khu não nucleus acumbens và chất thần kinh tạo nên sung sướng là Dopamine. Chất này tăng cao trong não bộ làm ta cảm thấy thích thú khi ăn uống hay quan hệ giới tính. Khi chất này tăng lên, chúng ta có cảm giác lạc quan và tự tin. Khi nó tăng nhiều thì ta có cảm tưởng như vị anh hùng. Dopamine kèm với kích thích tố Testosterone, tạo ra sự hung hăng thích chiến đấu và chiếm đoạt.



    Khi ăn, tham dục làm ta muốn chiếm đoạt sinh mạng của các loài thú đem về bồi dưỡng thân thể ta. Thí dụ như ở Trung Hoa, người ta nghĩ rằng ăn óc là bổ, nên trong những bữa tiệc sang trọng, người ta bắt khỉ sống cắt xương sọ ra ăn óc khỉ trong lúc con khỉ đang giẫy giụa đau đớn. Cũng vì thế, các giáo chủ tôn giáo lớn toàn cầu khuyên con người nên ăn chay để giảm bớt tham dục, giúp con người hướng về đời sống tâm linh. Nhìn trong tất cả xã hội toàn cầu, nhu cầu ăn uống là nhu cầu quan trọng nhất. Nhà hàng là nơi làm ra tiền dễ nhứt vì ăn uống là nhu cầu chung của con người. Trong ngôn ngữ Việt Nam chữ ăn được dùng trước nhiều từ không liên quan nhau như ăn ngủ, ăn ảnh, ăn nói, ăn nằm, ăn Tết, ăn chận, ... Có lẽ những gì gắng liền với cảm giác tốt đẹp thì phải gắng liền với ăn uống chăng? Một ý nghĩa khác của ăn là đem vào giữ riêng cho thể xác ta.

    Tham dục còn được thể hiện ở các chế độ chính trị. Ở chế độ nô lệ sự thể hiện của tham dục dẫn đến nhiều tội lỗi. Người da trắng viện cớ là dân da đen thuộc chủng tộc thấp hèn nên bắt họ làm nô lệ. Người da đen bị tước đoạt quyền bình đẳng của con người để phụng sự cho người da trắng. Nói một cách khác là con người do tham dục dùng vũ lực lấy thân mạng người khác làm việc như súc vật để đem những lợi ích về cho thân thể và cuộc sống của cá nhân mình. Gần đây hơn, ở thời điểm bắt đầu xã hội công nghiệp, những người chủ hãng có quyền thế ức hiếp những công nhân, trả lương rẻ nhưng bắt làm nhiều giờ. Tiền bạc và quyền lực được gom về tay một nhóm thiểu số. Đây là nền tảng của chế độ tư bản.

    Ngày nay, hiện tượng bất công này vẫn còn tồn tại ở rất nhiều xã hội trên thế giới, mặc dù nó không còn mang cái tên tư bản nữa. Ở bất kỳ xã hội nào, ta cũng thấy thái độ này xuất hiện ở một thang điểm nhỏ hơn, như trong sở làm và trong quan hệ con người với nhau. Con người ở vị trí ưu thế thường bắt những kẻ kém ưu thế hơn phục vụ công nhiều mà lợi ít cho cá nhân mình hưởng thụ. Những cách đối xử như vậy khi quá đáng thường sanh ra hận thù. Để tránh sự trả thù qua lại tiêu diệt lẫn nhau, các tôn giáo lớn đều khuyên con người tập bố thí chia sẻ để xóa bớt cái bản năng ích kỷ của tham dục kể trên.

    Sex (tình dục) là một đề tài nóng bỏng nhưng tối kị đối với tôn giáo. Sự cắt xén phân cực của niệm khởi được cô động ở nghiệp (karma) con người qua thân thể nam và nữ. Ở lứa tuổi vị thành niên - lúc thân thể phát triển đủ mức để tạo sự sinh sản - con người thường cảm thấy thiếu thốn và cô đơn. Có một động lực lôi cuốn người nam và nữ giao hợp với nhau. Freud gọi đó là Eros. Sự giao hợp của hai cơ thể thành một tạo cái khoái lạc tối đa. Trên bình diện tâm hồn thì khi hai người yêu nhau và giao hợp với nhau, họ có cảm tưởng ngắn ngủi trở về sự đầy đủ ban đầu. Sự đầy đủ đó làm tan biến cái mặc cảm tự ti. Trên bình diện thể xác, giao hợp là hành động giữ lấy thể xác của người khác cho mình và mình có khả năng tạo ra thêm một thể xác mới trên thế gian. Vì nghiệp con người là thích duy trì thể xác nên họ có khoái lạc tột đỉnh trong sự chiếm giữ thể xác người yêu và trong cái chu kỳ tạo ra một thể xác mới (con cái) để duy trì sự hiện diện của thân thể ở thế giới vật chất.

    Những tính chất tạo ra sự ham muốn sinh lý đều liên quan đến khả năng sinh sản của thân thể. Người nam thích người nữ có bộ ngực nẩy nở, eo nhỏ và mông lớn. Đây là những tính chất của thân thể người nữ chịu ảnh hưởng của kích thích tố Estrogen giúp cho sự sanh sản dễ dàng. Khi nghiên cứu những bức tranh vẽ khỏa thân của các họa sĩ thời xưa thì ta thấy đa số phụ nữ đều có những ngoại hình lúc Estrogen đang ở đỉnh cao. Ngày nay khoa học phát triển, có những phụ nữ không được những nét hấp dẫn kể trên thì phải chịu khó đến bác sĩ thẩm mỹ để mổ xẻ thêm bớt, sửa đổi thân thể. Thời trang, son phấn màu mè đều là những cách làm nổi những nét kể trên tạo cái ảo tưởng hấp dẫn cho người nam là người nữ này lúc nào cũng sẵn sàng sanh sản. Có lẽ vì thế mà những phụ nữ vào thời kỳ mãn kinh (mất khả năng sinh sản) dễ bị khủng hoảng tinh thần và bị bịnh trầm cảm.

    Tại sao sex là điều tối kỵ của tôn giáo. Ki tô giáo thì quả quyết rằng Đức mẹ Maria còn trinh tiết khi sanh ra chúa Jesus. Phật thì không phủ nhận cha mẹ bằng xương bằng thịt của mình nhưng cả Phật giáo lẫn giáo hội Thiên Chúa giáo La mã (Catholic) đều không cho phép những nhà tu có quan hệ sinh lý. Vấn đề ở đây, ngoài tham dục ra, còn tham ái, có nghĩa là ham muốn được thương. Khi tham ái hướng về thân thể thì con người sẽ dễ buông trách nhiệm. Người chồng có thể bỏ bê vợ con để theo người vợ bé biết nói ngọt chiều chuộng mình hơn (nếu mê người vợ bé vì sex thì đó là tham dục). Tham ái thường dẫn đến lo âu hay ghen tuông. Thí dụ như người vợ chỉ muốn chồng mình hoàn toàn chú tâm và săn sóc mình. Khi thấy chồng hơi lơ đãng hay nhìn người khác phái thì sanh lòng ghen tuông khổ sở. Những hoàn cảnh như vậy sẽ làm trở ngại trong việc tu tập. Trong một nháy mắt, đạo sẽ biến thành cái lẩn quẩn của đời đi ngược chiều với sự phát triển tâm linh.

    Tham dục là nguồn gốc của sự chấp thân thể làm ngã (tôi). Tham ái là nguồn gốc chấp tánh tình làm ngã. Trên thực tế thì tham dục và tham ái hòa lẫn nhau rất khó mà phân chia. Khi tham ái đặt nặng ở vật chất thì khả năng trở về đời sống tâm linh càng khó. Đòi hỏi của tham ái tạo sự lo âu. Ta muốn mọi người và hoàn cảnh phải theo ý ta. Lúc đó ta có cảm giác ta được thương. Ta muốn duy trì cảm giác này nên hay lo nghĩ tìm cách thống trị người khác hay điều khiển hoàn cảnh theo ý ta. Ngày xưa Phật chia lo âu ra thành tham, sân và si. Khi ta phân tích những suy nghĩ lo âu thì ta sẽ thấy rằng chúng quanh quẩn ở lòng mong muốn mà chưa được và sợ mất (tham) hoặc buồn phiền hay tức giận (sân) khi ta không được những gì ta muốn. Bản chất của lo âu là si. Ta si vì ta đem hoàn cảnh buồn phiền của quá khứ che lấp hiện tại an lành làm ta lo lắng. Ta si vì ta tưởng tượng hoàn cảnh xấu trong tương lai làm ta căng thẳng mất ăn mất ngủ.

    Tham ái thể hiện rõ nhất ở người thất tình. Sự ham muốn được thương càng nhiều thì cảm giác hụt hẫng khi mất tình yêu càng mãnh liệt. Người thất tình thường suy nghĩ đến những kỷ niệm êm đềm của quá khứ khi còn được yêu và so sánh với sự mất mát cô đơn trong hiện tại (tham). Người đó giận người yêu đã bỏ mình theo người khác và hận tình địch đã cướp người yêu mình (sân). Càng muốn được yêu thì sự nhớ nhung và trống trải trong tâm hồn người đó càng nhiều. Người thất tình còn có cảm tưởng rằng trong tương lai mình sẽ không bao giờ tìm được một mối tình hoàn hảo như vậy (si). Khi tham ái, ta cũng trải qua những cơn đau khổ của kẻ thất tình nhưng với cường độ nhẹ hơn



    Trên phương diện tâm lý, tham dục và tham ái cắt xén tâm hồn con người làm cái ảo tưởng bị phân ly dầy hơn. Ảo tưởng phân ly này nuôi dưỡng tham, sân và si tạo thành cái vòng lẩn quẩn. Thí dụ ta càng thấy thiếu thốn thì càng ham muốn. Khi chưa được thì ta cảm thấy ta không được thương. Ở xã hội, tham nhũng, hối lộ là những đòi hỏi của tham ái, dẫn đến một xã hội không công bình. Tham, sân và si tạo nhân hoàn cảnh không tốt nơi tâm tưởng và kết quả là chúng lôi cuốn con người vào những hoàn cảnh khổ đau và thế giới của sự bất công. Thí dụ như kẻ trộm muốn những vật mà nó không mua nổi nên phải trộm cấp. Ở thế gian thì hoàn cảnh ác là tù tội khi con người gây tội ác hình sự. Hoàn cảnh ác làm con người lo âu và bất mãn nhiều hơn, như thế sẽ mất dần cơ hội trở lại thế giới an bình.

    Trên phương diện nghiệp lực thì tham, sân, si sẽ dẫn đến những hoàn cảnh thiếu sáng suốt và mất tự chủ. Lúc đó, con người sẽ mất sự sáng suốt của nhận thức. Họ dần dần mất quyền chọn lựa những hoàn cảnh thiện và dễ bị hoàn cảnh ác thu hút qua sự bốc đồng (impulsiveness). Phật gọi tham sân si là ba chất độc của tâm hồn. Người bị tham, sân, si như những kẻ bị nghiện xì ke ma túy. Thoạt đầu họ biết rằng đó là độc tố nhưng không thể không lạm dụng được, họ không diệt trừ được những ý nghĩ liên quan đến tam độc này. Đến một lúc nào đó thì họ mất sự sáng suốt và lạm dụng đến khi thân thể tiều tụy và chết mòn. Chỉ khi họ nhận ra được giá trị tâm linh thì mới đủ can đảm lìa bỏ tam độc này.

    Trở lại vấn đề sex và tôn giáo. Bản chất của sex không có gì là tội lỗi hết. Đó là hành động tự nhiên của các loài thú và của tổ tiên loài người. Không có sex thì không có sự sống vật chất trên quả địa cầu. Cái tội lỗi là nơi con người bị thân thể vật chất lôi cuốn nên bị lạc hướng, quên đường trở về sự đầy đủ tâm linh ban đầu. Khi nhà tu bị giới luật trói buộc không cho thân thể dùng chính nó để tạo ra những thân thể khác qua sự giao hợp nam nữ thì họ dễ bị mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm tội lỗi xảy ra khi nhà tu chưa nhận ra được ánh sáng tâm linh mà phải đè nén những đòi hỏi của thân thể. Tội lỗi nguyên thủy của Ki tô giáo tương đương với khái niệm vô minh của Phật giáo. Tội lỗi hay vô minh là tâm trạng thiếu sáng suốt bám thân bỏ tâm, chớ không phải cái mặc cảm tự ti hay mặc cảm tội lỗi. Nếu hiểu như vậy thì ta sẽ hiểu được cái ý nghĩa của mẹ Maria đồng trinh. Cha của chúa Jesus là tinh thần, là Thượng đế. Mẹ là nguồn gốc của thân thể. Chúa chịu chết trên thập tự để lìa cõi vật chất trở về cõi tinh thần.

    Khi con người mang cái mặc cảm tội lỗi thì nó là cái trở ngại trên hành trình tìm về tâm linh đầy đủ. Có lẽ vì thế mà Ki tô giáo lập ra lễ xưng tội. Xưng tội giúp cho nhà tu can đảm nhận ra và nói ra những đè nén sinh lý của mình. Khi chịu phép rửa tội thì trên tâm lý, cái mặc cảm tội lỗi nó sẽ nhẹ đi phần nào. Ki tô giáo còn dùng biểu tượng của Chúa chịu chết trên thập tự để chuộc tội (vô minh) cho con người. Thử hỏi đứa trẻ ngây thơ có làm tội gì để được rửa tội (baptism)? Nếu đó là tội lỗi (theo nghĩa thế gian) thì phải chờ con người già gần chết thì mới nên rửa tội. Chúng ta nên hiểu biểu tượng rửa tội và được tha tội một phần nào làm xoa dịu lòng tham ái hướng về thể xác của con người, giúp họ tìm về con đường tâm linh. Phật giáo thì gọi người theo đạo là Phật tử (con tinh thần của Phật). Phật tử cũng có nghĩa là Phật con, Phật sẽ thành. Nếu ta là con tinh thần của Phật và có khả năng thành Phật thì không có gì để bị mặc cảm hết. Phật giáo có lễ quy y tam bảo (trở về với Phật, Pháp và tăng) tương đương với lễ rửa tội bên Ki-tô giáo.

    Tóm lại, khi ta nhìn đạo trên khía cạnh tôn giáo tín ngưỡng thì sẽ thấy có rất nhiều khác biệt không thể hàn gắn được giữa các tôn giáo trên thế gian này. Nhưng nếu ta nhìn đạo như là một con đường dẫn đến tự do tâm linh qua lăng kính của thực nghiệm và tâm lý học thì tuy văn tự và phương pháp giảng dạy của các vị giáo chủ có khác nhau nhưng có rất nhiều sự trùng hợp trên kết quả tâm lý. Đây là sự khác biệt đáng kể của hiểu đạo bằng tư duy và hành đạo qua quá trình tự sửa đổi tâm tánh (tu tập). Chỉ khi tu tập ta mới thông cảm được tại sao có một vị giáo chủ thì phủ nhận công trình giảng đạo của mình: “Trong 49 năm Như lai (Buddha) chưa từng nói một lời.”, còn vị giáo chủ khác trong lúc giảng đạo tự xưng mình là con của Thượng đế, Ngài có phép lạ làm người chết sống lại. Nhưng rồi đến cuối cuộc đời dạy đạo, Ngài chịu chết một cách đau đớn trên thập tự.

    Phật ví thân thể con người như chiếc đò. Ta dùng nó để qua sông, thể nghiệm cuộc sống. Nhưng rồi đến một lúc nào đó ta phải bỏ chiếc đò này để tiếp tục cuộc hành trình khám phá tâm linh, tìm về sự đầy đủ ban đầu. Chúa Jesus chết trên thập tự cũng là một biểu tượng dùng thân thể như cái cầu bắc qua thế giới tâm linh. Phật nhắc nhở con người trở về quy y (nương tựa) nơi tam bảo (Phật, Pháp và tăng). Ki tô giáo có lễ rước Chúa (Eucharist), ăn bánh thánh và uống rượu thánh. Tuy hình thức khác nhau nhưng sự nhắc nhở vượt qua thân thể để trở về đời sống tâm linh thì không khác.

    Chúng tôi viết bài này để thân mời quý đạo hữu với những tín ngưỡng khác nhau nên mở rộng tâm hồn tìm hiểu những tôn giáo khác để bổ túc cho tôn giáo minh. Để rồi một ngày nào đó chúng ta có thể cùng nhau đi trên con đường tự do tâm linh. Cũng nên nhắc lại là những gì những vị giáo chủ tôn giáo giảng, mặc dù đó là chân lý, nhưng họ phải giảng dạy sao cho thích hợp với trình độ tri thức của những người sống cách ta hơn hai ngàn năm, ở những xã hội thật khác với xã hội ta đang sống ngày nay. Khi ta tôn thờ những phương tiện thì sẽ mất cơ hội nhìn thấy ánh sáng mà những vị thầy tâm linh muốn để lại cho hậu thế.



    Đây là một đoạn đối thoại giữa một nhà sư đức độ trong một ngôi chùa Phật giáo cổ và một người theo thuyết vô thần.

    (Tan Ming/Secret China)

    Vị sư: Xin thí chủ cho biết điều gì trên đời mà ngài không tin tưởng nhất?

    Người vô thần: Tôi thấy mới tin, không thấy thì không tin.

    Vị sư: Ồ, thí chủ thật thẳng thắn. Tuy nhiên, như ngài đang thấy, có một cung điện màu xanh dát vàng, to lớn, nguy nga, đang ở trước mặt ngài khoảng 100 mét. Khi màn đêm buông xuống và bóng tối bao phủ, liệu ngài có cho rằng cái cung điện to lớn ấy không hề tồn tại hay không?

    Người vô thần: Tất nhiên là nó vẫn tồn tại, nhưng bị bóng đêm bao phủ.

    Vị sư: Thế bóng đêm là gì?

    Người vô thần: Là…

    Vị sư: Trời tối thì ngài tin vào bóng đêm? Trời sáng thì ngài tin vào ánh mặt trời?

    Người vô thần: À thì…

    Vị sư: Này thí chủ, thực ra ngài chỉ có thể nhìn thấy những thứ mà ngài không nhìn thấy, tòa cung điện nằm ở ngay kia và không bao giờ dịch chuyển, chỉ có tâm hồn và trí tuệ của ngài bị bóng đêm bao phủ mà thôi, do đó tòa cung điện đã biến mất khỏi tâm của ngài.

    Người vô thần (chắp tay biểu lộ sự thành kính): Thưa thầy, xin hãy giảng giải thêm cho tôi hiểu.

    Vị sư: Tất cả những điều làm tâm của ngài lung lạc cũng giống như bóng đêm bất tận và vô minh này, chỉ có cách thể hiện là khác nhau thôi. Hàng chục ngàn thứ tạo vật trên thế gian này là vô số như cát sông Hằng, cho dù ngài có nhìn thấy hay không, có thể cảm nhận hay không, thì chúng vẫn luôn tồn tại ở đó; nếu ngài cứ ngồi dưới đáy giếng mà nhìn lên bầu trời, thì sẽ rất khó để hiểu được vũ trụ vô tận này. Nói cách khác, nó không thể tóm gọn trong việc nhìn thấy hay không nhìn thấy.

    


    Trong quá trình tìm hiểu cũng như vốn kiến thức hiện có, mình xin đưa ra một giả thuyết như sau: Theo công thức nổi tiếng của Anhxtanh. E = mc2

    Trong đó:

    E: Năng lượng

    M: Khối lượng

    c~300.000: Vận tốc ánh sáng

    Theo công thức này có nghĩa là: Khối lượng và năng lượng tỉ lệ thuận với nhau theo hằng số c. Năng lượng có thể chuyển thành khối lượng và ngược lại.

    Như ta đã biết, tất cả các mọi vật trong vũ trụ đều cấu tạo từ vật chất, hầu hết các hạt cơ bản đều có khối lượng chỉ trừ photon và 1 vài hạt khác nữa.



    Con người chúng ta và tất cả mọi vật cấu tạo từ vật chất và có khối lượng trong đó vũ trụ chia làm 2 dạng tồn tại song song nhau trong một khoảng không gian chung.

    1. Vũ trụ Space-time. Bao gồm thế giới vật chất. trong vũ trụ không- thời gian bao gồm 4 chiều cơ bản x, y, z, t. Trong đó vật chất (chúng ta là vật chất có ý thức) sẽ dễ dàng di chuyển trong không gian theo các trục x, y, z mà không thể di chuyển trong thời gian được, có nghĩa là chúng ta sẽ không thể về quá khứ cũng như tương lai. Điều này thì ai cũng có thể hình dung ra được.

    2. Ngược lại trong vũ trụ time-space thì chúng ta có thể di chuyển trong thời gian dễ dàng nhưng không thể di chuyển trong không gian. Trong vũ trụ này chúng ta tồn tại ở dạng năng lượng sóng chứ không phải vật chất có khối lượng (nằm bên vế trái phương trình) như ta đã biết, hạt photon không có khối lượng, và chúng luôn luôn di chuyển với vận tốc v~c. Trong môi trường vật chất thì v<c. Trong môi trường chân không thì v=c và khi không có vật chất thì không có thời gian và không gian. Theo thuyết tương đối. Khi một vật chuyển động với vận tốc v~c thì thời gian sẽ co giãn và chúng ta trở về quá khứ hay đến trước tương lai. Điều này có nghĩa là, nếu chúng ta muốn tồn tại trong vũ trụ này thì chúng ta phải ở dạng năng lượng có ý thức chứ k phải có khối lượng vật chất. Các hồn ma & chúa trời, phật… đang tồn tại ở dạng này. Họ không có khối lượng, mà chỉ có năng lượng sóng. Điều này giải thích tại sao họ k chịu tác động của lục hấp dẫn. Họ có thể di chuyển về quá khứ hay đến tương lai. Và không bị già đi như chúng ta bỡi vì họ luôn chuyển động với vận tốc c, thời gian trôi qua với họ rất chậm ~0

    3. Theo như các nhà khoa học đã chứng minh, khi con người ta chết đi thì khối lượng họ mất đi khoảng 31g. Khối lượng này đã chuyển thành năng lượng E=mc2 và năng lượng đó là linh hồn. Một dạng năng lượng sống có ý thức chứ không như photon ánh sáng thường. Vì một lý do nào đó, các photon này chuyển động cục bộ nên các linh hồn không đi xa mà vẫn còn quanh quẩn, không bay đi xa như ánh sáng, các năng lượng này tác động đến chúng ta qua giác quan làm chúng ta thấy “ma”. Họ cũng sống như chúng ta, cũng trao đổi năng lượng với các photon bình thường, còn chúng ta thì trao đổi chất. Và 2 dạng sống này có thể chuyển đổi qua lại theo phương trình trên khi có điều kiện thuận lợi.



    Trên thế giới, đã có khá nhiều người kể lại, họ đã được nhìn thấy đĩa bay, đã gặp gỡ với người hành tinh khác, cũng có trường hợp một số người bị mất tích một cách bí ẩn và được gán cho là đã bị người hành tinh khác bắt cóc. Cũng không ít người cho rằng, họ đã "linh cảm" một điều gì đó sẽ xẩy ra trong tương lai, và điều đó đã xẩy ra đúng như họ đã "linh cảm" trước.

    Khoa học đã nhìn nhận và giải thích các vấn đề này như thế nào? Trong khuôn khổ bài báo này, bài viết này sẽ giới thiệu các lí giải của một số nhà khoa học trên thế giới để bạn đọc tham khảo.

    Không gian 4 chiều.

    Như đã biết, không gian chúng ta đang sống là không gian ba chiều. Nhưng để giải thích các vấn đề trên, các nhà khoa học cho rằng không gian có thể có nhiều hơn ba chiều (bốn chiều, năm chiều...). Những người đã gặp được người hành tinh khác có liên quan đến một năng lực đặc biệt, giúp họ đi vào thế giới không gian bốn chiều bí ẩn, vì thế họ đã nhìn thấy những hình ảnh mà người khác không nhìn thấy được.

    Theo các nhà khoa học, bộ não của con người bình thường không thể tưởng tượng được không gian bốn chiều. Điều này có thể được giải thích như sau: Chúng ta hãy giả thiết là có các sinh vật sống ở không gian hai chiều (sống trên một mặt phẳng). Ở trên mặt phẳng đó, chúng không hề biết gì về sự hiện hữu của không gian ba chiều. Vì vậy, mọi chuyển động của chúng sẽ bị giới hạn trên mặt phẳng ấy và không thể tiến vào chiều không gian thứ ba như chúng ta. Giả sử có một quả cầu lọt vào thế giới đó, các sinh vật ở không gian hai chiều mới đầu sẽ nhìn thấy một điểm sáng, rồi đến các hình tròn to dần lên, đến mức cực đại, rồi các hình tròn nhỏ dần, thu lại thành một điểm, rồi biến mất. Kết quả là chúng chỉ nhìn thấy những đường tròn mà không hiểu toàn bộ câu chuyện về quả cầu như thế nào cả.

    Nhưng, những điều thần bí đôi khi cũng đến với các sinh vật ở không gian hai chiều. Ví dụ, thời gian cần thiết để chúng vượt qua khoảng cách từ A đến B trên mặt phẳng (không gian hai chiều) khoảng chục năm. Nhưng vì một biến cố nào đó, mặt phẳng kia bị cong lại trong không gian ba chiều, khiến điểm A và điểm B gần nhau hơn, thậm chí trùng lên nhau. Khi đó điều kì diệu đã đến với chúng: Thời gian hàng chục năm để đi từ A đến B đạt được chỉ trong giây lát.

    Trở lại vấn đề trên, các nhà khoa học giải thích: Không gian ba chiều nằm trong cái nôi của không gian bốn chiều (như không gian hai chiều nằm trong không gian ba chiều). Những ai có khả năng xâm nhập vào chiều không gian thứ tư, thì đối với họ khoảng cách hàng vạn km, thậm chí hàng vạn năm ánh sáng không còn ý nghĩa gì. Họ vượt qua trong phút chốc bằng cách đi qua “ khe hở” của chiều thứ tư này. "Khe hở" đó là biên giới ngăn cách hai thế giới: Thế giới của không gian ba chiều và thế giới của không gian bốn chiều. Đó chính là cơ hội để những sinh vật cấp thấp xâm nhập vào chiều thứ tư, như những người trên trái đất đã gặp người hành tinh khác.

    Để chứng minh sự tồn tại của chiều không gian thứ tư, các nhà khoa học Mỹ dự định chế tạo một máy đo siêu nhỏ, nhằm chỉ ra các hiệu ứng khác lạ, dẫn tới kết luận về sự hiện hữu của các chiều không gian khác. Nguyên lí của thí nghiệm này như sau: Theo thuyết string (Thuyết hình sợi), ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nano mét (nm); 1nm = 10-7cm), không gian sẽ bị cuộn lại trong các chiều khác (chiều thứ tư, thứ năm...). Điều này sẽ làm thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó. Vì thế, nếu xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết luận rằng có chiều không gian thứ tư.

    Các nhà khoa học dự định sẽ đo lực hấp dẫn giữa hai lá kim loại siêu mỏng, đặt cách nhau một khoảng cỡ nano mét. Để đo được chính xác lực hấp dẫn này, người ta cần loại trừ một đại lượng gọi là hiệu ứng Casimir.

    Theo cơ học lượng tử, hiệu ứng này được sinh ra bởi các photon ảo, thường bất ngờ xuất hiện trong chân không rồi lại tự động biến mất. Bình thường, trong không gian tồn tại các photon với các bước sóng khác nhau và rất đa dạng. Tuy nhiên, giữa hai tấm kim loại cực hẹp thì điều đó không thể có. Ở đây chỉ có các photon có bước sóng nhỏ hơn hoặc bằng khoảng cách giữa 2 lá kim loại. Hệ quả là giữa hai tấm kim loại sẽ có ít photon hơn bên ngoài. Sự chênh lệch về số photon trong và ngoài hai lá kim loại sẽ tạo ra một áp suất nhỏ, ép chúng lại với nhau. Lực đó được gọi là hiệu ứng Casimir.

    Để loại trừ hiệu ứng trên, các nhà khoa học sẽ phải làm thí nghiệm với các lá kim loại giống hệt nhau, nhưng với các đồng vị khác nhau. Ở giữa chúng hiệu ứng Casimir sẽ giống nhau, nhưng lực hấp dẫn lại khác nhau (lá kim loại có đồng vị nặng hơn sẽ tạo ra lực hấp dẫn lớn hơn). So sánh hai lực hấp dẫn này người ta loại bỏ được hiệu ứng Casimir ra khỏi phép đo.

    Các nhà khoa học hi vọng trong tương lai gần, các thí nghiệm này sẽ được thực hiện. Nếu thí nghiệm thành công, thì đây là một sự kiện chấn động vì nó sẽ khẳng định sự tồn tại của chiều không gian thứ tư, điều mà theo Stephen Hawking là không thể tưởng tượng được với bộ não con người bình thường.

    Thiền, kỷ luật tập cho tâm hồn yên lặng, giúp bịnh nhân thực hiện CBT dễ hơn. Khi thiền não bộ sẽ rung động chậm lại ở tần số alpha (9-14 Hz). Chỉ có ở tần số này những vùng của não bộ như vỏ não và hệ thống limbic làm việc chặt chẽ hơn giúp con người điều hòa (modulate, regulate) tình cảm dễ hơn. Khi ta suy nghĩ nhiều não bộ rung động với tần số Beta (15-40 Hz) nhanh, tạo stress cho hệ thống thần kinh vì tần số này sử dụng năng lượng rất nhiều. Ai cũng biết rằng khi suy nghĩ lo âu nhiều quá thì sẽ quên đầu quên đuôi.

    Khi hệ thống limbic bất ổn tạo ra bực bội hay căng thẳng cộng thêm đó ta theo tưởng tượng lo âu “đổ thêm dầu vào lửa” nữa, thì sự mất thăng bằng của hệ thống limbic sẽ tăng dần. Khi tăng quá độ thì sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ, khả năng chăm chú, trí nhớ và khẩu vị. Kéo dài thêm nữa thì sẽ ảnh hưởng đến những cơ quan khác trong cơ thể như hệ thống tuần hoàn (tim hồi hộp, palpitation), hô hấp (khó thở, short of breath), tiêu hóa (tiêu chảy, đau bụng) và hệ thống thần kinh (chăm chú và trí nhớ kém).

    Nói theo sự phát triển của não bộ thì vỏ não có công dụng nhận ra được hoàn cảnh bên ngoài và tình cảm bên trong để điều hòa lại hệ thống limbic. Nhưng nếu ta không biết sử dụng vỏ não, thay vì nhận định hoàn cảnh ngoại cảnh và nội tâm một cách khách quan, ta tự vẽ lên những hình ảnh bi quan qua lo âu. Lúc đó não bộ rung động ở tần số beta và sự ý thức trung thực bị giảm khá nhiều. Khi não rung động ở tần số này thì con người sẽ dễ bị thành kiến và rũ bỏ thành kiến rất khó khăn. Khi lo âu thì công dụng điều hòa của vỏ não mất đi rất nhiều. Ta mất bình tĩnh đối phó với hoàn cảnh (over reaction), rồi có thể tạo ra rất nhiều triệu chứng tâm lý bất ổn. Muốn tăng sự ý thức hoàn cảnh một cách trung thực và đáp ứng với nó một cách đúng đắn, chỉ có một cách là làm não bộ rung động với tần số alpha. Chính vì vậy, muốn áp dụng tâm lý trị liệu CBT một cách tốt đẹp, bịnh nhân phải tập thư giãn (relaxation) và thiền (meditation). Khi não bộ rung động ở tần số alpha thì lúc đó bịnh nhân mới có thể rũ bỏ dễ dàng những tư tưởng bi quan.

    Kết quả của các sự kiện xảy ra ta tạm gọi là "Số phận". Vì mọi chuyện đều có kết quả được sắp đặt dựa vào quỹ đạo vũ trụ, nên giả sử biết trước, ta cũng không thay đổi được „số phận" hay kết quả của các sự việc. Ví dụ: "số phận" bắt một người phải chết. Anh ta nhìn vào sự kiện đối xứng xảy ra trong quá khứ và thấy rằng nơi anh ta ở có thể xảy ra lũ lụt lớn và anh ta sẽ bị chết đuối, thế nên liền chốn chạy tới nơi khác an toàn. Và đột nhiên nơi này xảy ra động đất khiến anh ta thiệt mạng, trong khi ở quá khứ đó là nơi an toàn. Có nghĩa là các sự kiện không luôn 100% lặp lại tương đối, mà có thể thay đổi hoàn toàn trong một số trường hợp để bảo đảm "số phận" không thay đổi. Chắc hẳn các bạn cũng từng nghe một câu nói trong phật giáo :"Điều gì đến sẽ phải đến", và Thiên Chúa Giáo :"Chỉ có chúa mới biết chính xác những chuyện sẽ xảy ra, ngài quyết định tất cả". Phải chăng đó chính là ẩn ý của 2 câu nói này ? Vậy thì dự đoán tương lai cũng bằng thừa ? … Không hẳn, ta có thể lấy một ví dụ: một người bị buộc vào bánh xe „số phận", và bánh xe „số phận" sẽ kéo anh ta tới một điểm nào đó. Nếu người này biết trước, anh ta sẽ chạy theo bánh xe, còn nếu không biết, hoặc biết rồi mà muốn chống lại, kết quả sẽ bị kéo lê trên đường, trầy da, xước mặt ..vv. Ta dự đoán trước tương lai không phải để thay đổi số phận mà để mong giảm bớt được những tai họa ngoài ý muốn.

    Chắc hẳn các bạn cũng biết về cách bói toán qua các cung sao (bảo bình, song ngư, nhân mã..vv) hay 12 con giáp (mỗi con lại chia thành nhiều mạng ví dụ như: mộc, thủy, thổ ..vv). Và không ít người ngỡ ngàng vì nhiều điều được đoán rất đúng. Tại sao vậy ?... Mỗi cung sao tượng trưng cho một khoảng quỹ đạo riêng, có tác động khác biệt lên thế giới vật chất. Những người sinh ra vào các thời điểm khác nhau thì cũng trải nghiệm các sự kiện khác nhau (sinh đôi cũng có khoảng cách thời gian). Đặc điểm riêng biệt của mỗi cung sao được thể hiện qua các biểu tượng như „dòng nước" – bảo bình , „hai con cá bơi đối lập nhau"-song ngư, sư tử..vv Đây chính là cách người ta dự đoán tính cách, hay số phận của người nào đó (độ chính xác phụ thuộc vào cách tính thời gian chuẩn tới mức nào). Còn nguồn gốc được truyền lại từ thời nào thì không ai biết được. *Nhìn ảnh số 3 (và 3.1): chấm vàng nhỏ là mặt trời gần chúng ta, chấm vàng to là mặt trời trung tâm, lớn hơn (mặt trời của chúng ta cũng quay xung quanh mặt trời trung tâm). Mỗi kỷ nguyên dài khoảng hơn 2100 năm, sau hơn 27300 năm thì mặt trời của chúng ta quay được một vòng xung quanh mặt trời trung tâm . Đường tròn ngoài cùng là các cung sao.



 NHỮNG ĐIỀU CỐT YẾU CỦA PHẬT PHÁP


    Giáo pháp của Đức Phật nói rằng vũ trụ vạn vật, không gian, thời gian, số lượng vật chất chỉ là ý thức, là cảm giác, chứ không có thật, thế gian chỉ là huyễn ảo. Bát nhã ba la mật đa tâm kinh nói : “Chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức , vô nhãn nhĩ tị thiệt thân ý , vô sắc thanh hương vị xúc pháp…”

    Dịch nghĩa : Các pháp (vạn sự vạn vật) có bản chất là không, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, như vậy trong cái không, không có vật chất, không có các cảm giác như thọ (tiếp xúc), tưởng (tưởng tượng), hành ( chuyển động, hoạt động), thức (phân biệt), không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý thức, không có các đối tượng của các giác quan là sắc (vật chất), thanh (âm thanh), hương (mùi hương), vị ( vị giác của lưỡi), xúc ( cảm giác của thân thể), pháp ( đối tượng của ý thức)…

    Trong tác phẩm Thành Duy thức luận (成唯識論 ) của đại sư Huyền Trang, tập họp và biên dịch từ các tác phẩm duy thức học của các Bồ-tát Thế Thân (世親 Vasubandhu) và Vô Trước (無著 Asanga) người Ấn Độ, có một câu đúc kết rất rõ ràng và rất sâu sắc : “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” ( Ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới chỉ là tâm, tất cả sự vật vô hình, hữu hình trong pháp giới, trong vũ trụ đều chỉ là thức).

    Thế Thân là em của Vô Trước, nhỏ hơn khoảng 20 tuổi, Thế Thân là Tổ thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ, là tác giả của “Duy thức tam thập tụng” gồm 30 bài tụng ngắn, tất cả 600 câu, bao quát triết học duy thức. Ngài mất mà chưa kịp giải thích 30 bài tụng. Sau đó 10 vị đại luận sư của Ấn Độ đã giải thích ý nghĩa 30 bài tụng, mỗi người 10 quyển, cộng 100 quyển, trong đó nổi bật là Trần Na (陳那, sa. Dignāga) và đệ tử của ông là Hộ Pháp (護法, sa. Dharmapàla). Lúc Huyền Trang đến Ấn Độ thỉnh kinh, có đến trung tâm Phật giáo là Nalanda học tập với sư Giới Hiền (Silabhadra) là người trụ trì Nalanda lúc đó, ngài đã trên 100 tuổi. Giới Hiền cũng chính là đệ tử của Hộ Pháp. Khi trở về Trung Quốc, Huyền Trang đã rút tỉa tinh hoa của 100 quyển luận nói trên, chủ yếu là từ 10 quyển của Hộ Pháp, biên tập thành bộ kinh “Thành duy thức luận”.

    Phật tử có hiểu, có tin vào những điều Kinh nói không ? Thực tế là không mấy ai hiểu, không mấy ai tin vào Kinh cả. Đa số đều chỉ tin vào giác quan và nhận thức của mình, nghĩa là tin vật chất là có thật, nhà cửa, xe cộ tài sản của mình là có thật, thế gian là có thật. Đa số vẫn tin 100% là không gian có thật, thời gian có thật, số lượng vật chất có thật. Bây giờ thử hỏi những điều ghi trong Kinh điển Phật giáo có cơ sở khoa học hay không ?

    Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922) nói “Isolated material particles are abstractions” (1) (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).

    Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (2) (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).

    Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (3) (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).

    Qua ý kiến của 3 nhà khoa học hàng đầu của thế giới, ta thấy rằng ý thức góp phần quan trọng trong cấu thành của vật chất, tức là không thể có vật chất tồn tại độc lập ngoài ý thức. Một nhà khoa học khác :

    Heisenberg, (1901-1976 nhà vật lý lý thuyết người Đức, người phát minh ra nguyên lý bất định _không thể đồng thời xác định vị trí và vận tốc hay động lượng của một hạt, ví dụ electron) nói: “Atoms and elementary particles…form a world of potentialities or possibilities, rather than one of things or facts…atoms are not things” (4)(Nguyên tử và các hạt cơ bản…hình thành một thế giới tiềm thể hay có khả năng hiện hữu, chứ không phải một thế giới của vật thể hay sự vật có thật…Nguyên tử không phải là vật).

             Điều này giải thích tại sao có những cổ vật bị chôn vùi hàng ngàn, hàng triệu năm dưới lòng đất, không ai biết, chúng tồn tại dưới dạng tiềm thể, khi được khai quật, được nhận thức chúng mới trở thành hiện vật. Có nghĩa là vật chỉ thực sự hiện hữu trong mối quan hệ với lục căn (sáu giác quan) của con người tức là trong lục thức, chứ nếu không có lục căn, lục thức thì vật chỉ là tiềm thể không có thật. Ý kiến của các nhà khoa học vô hình trung đã xác nhận vạn pháp duy thức

    Mặc dù bản thân mỗi người đều có thể tự mình thực nghiệm tính chất không thực của không gian khi lên mạng internet, nhưng chắc có lẽ nhiều người vẫn còn rất hoài nghi về việc này, bởi vì các giác quan của chúng ta đều chứng thực rằng không gian, thời gian và số lượng là hoàn toàn có thật.

    Ai cũng thấy khoảng cách không gian giữa Sài Gòn và Hà Nội là có thực. Nó được cấu tạo bởi hơn 1500 km đường đất, trên bề mặt quả địa cầu bằng đất đá. Tuy nhiên các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới đã chứng thực vật chất được cấu tạo bằng những hạt ảo, lượng tử là hạt ảo, các hạt cơ bản là ảo không thể độc lập tồn tại, cái mà ta thấy và cảm nhận được chỉ là mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các hạt ảo trong cơ cấu nguyên tử và vật chất. Stephen Hawking (nhà vật lý người Anh, hiện mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge, chỉ những nhà khoa học xuất sắc như Isaac Newton hay Paul Dirac mới có chức danh này) và Neil Turok (sinh năm 1958 tại Johanestburg, South Africa) Giáo sư Vật Lý của Đại học Princeton, Giám đốc Viện Perimeter về Vật Lý lý thuyết).

    Như vậy về mặt lý trí, ta có thể lý giải về tính chất ảo hóa hay không thực của không gian, thời gian và số lượng. Về mặt thực nghiệm ta cũng có thể chứng thực điều đó trên internet. Ta có thể dùng Yahoo Messenger hoặc Skype, nói chuyện đồng thời với vài ba người bạn, mỗi người ở cách xa nhau cả vạn km, khoảng cách không gian không còn nữa.

    Thế thì tại sao các giác quan của ta vẫn thấy không gian là có thực ? Chính đó là chỗ mà Phật giáo nói rằng do nhất niệm vô minh mà ta thấy có vũ trụ vạn vật, chúng sinh, con người. Giác ngộ trong Đạo Phật là phá được cái vô minh đó. Thuyết thập nhị nhân duyên của Phật giáo đã giải thích đầy đủ về nguồn gốc của vũ trụ vạn vật. Vô minh là nguyên nhân đầu tiên, với trùng trùng duyên khởi và quy luật nhân quả đã sinh ra lần lượt các mắt xích còn lại của 12 nhân duyên và cuối cùng là Lão tử (già chết).

    Vô minh là trạng thái bị che khuất khiến không thể thấy hết toàn thể sự vật, hoặc bị quáng mắt không nhìn thấy rõ do sự vật quá vi tế, hoặc do chuyển động quá nhanh không nhìn thấy kịp, khiến phát sinh nhầm lẫn. Ví dụ khi xem phim, thấy các nhân vật hoạt động, nói năng, đó chỉ là ảo giác, không phải thật, do các hình ảnh lướt qua mắt rất nhanh không thể thấy kịp, chỉ thấy cái ảo ảnh. Ví dụ nhìn vào màn hình vi tính, thấy chữ viết, hình ảnh, video; nghe âm thanh …Đó chỉ là cảm giác do con chip dao động với tần số cực nhanh, xử lý các bit thông tin biểu trưng bằng con số 0 và 1 của hệ nhị phân, rồi quét lên màn hình hoặc chạy ra loa. Vô minh là điều kiện cần thiết để phát sinh hiện tượng, bởi vì nếu ta nhìn thấy kịp, hoặc không có gì che khuất, nghĩa là không có vô minh thì ảo giác sẽ bất thành.

    Tóm lại nước chỉ là cảm giác do nhân duyên sinh khởi, không có thật, bới vì những thành phần cơ bản cấu tạo thành nước và các vật chất khác như hạt quark và electron, khi cô lập, chúng chỉ là những hạt ảo không có thật, nhưng khi kết hợp nhân duyên thì thành nguyên tử vật chất. Điều này thì các nhà khoa học đã xác nhận. Sở dĩ chúng ta cảm nhận và tin tưởng 100% rằng vật chất có thật là vì sự đồng bộ của các giác quan : mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân thể tiếp xúc, tiêu hóa, ý thức phân biệt rõ ràng, vì vậy không có chút gì nghi ngờ là vật chất không thật. Vô minh chính là điều kiện cần thiết để có những cảm giác như thế. Nếu không có cái vô minh đó thì vũ trụ thế giới không hiện hữu, không là gì cả, đó là chỗ Đạo Phật nói tánh Không của vạn hữu. Cũng chính vì vậy mà Đạo Phật nói vạn pháp duy tâm. Có nghĩa là vật không có thật, chỉ là tâm tưởng tượng ra.

    Toàn bộ thế giới, cả vũ trụ vạn vật đều là ảo hóa, chẳng có gì là thật, do đó thầy Duy Lực nói rằng chúng ta không được chấp thật, chấp thật tức là pháp chấp, từ đó mà sinh ra ngã chấp, phá được ngã chấp và pháp chấp là phá được vô thủy vô minh, kinh Phật gọi là “Bách xích can đầu cánh tiến nhất bộ” 百尺竿头 更进一步 (đầu sào trăm thước tiến thêm bước nữa) tức là kiến tánh. Đức Phật đến cuối đời cũng đã phủ nhận toàn bộ: “trong suốt 49 năm qua, ta không hề nói một chữ nào”, cho đến thuyết thập nhị nhân duyên cũng bị phủ định (phi nhân duyên, phi tự nhiên) như trong câu đã trích từ Bát nhã ba la mật đa tâm kinh dẫn ở đầu bài. Không được chấp vào lời chư Phật, chư Tổ hay Kinh điển, như lời thầy Duy Lực thường nói “ Phàm cái gì có thể nói ra đều không có nghĩa thật”. Đó cũng là ý nghĩa của câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Kim Cang)

    Nếu hiểu được chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, thế gian huyễn ảo, sướng khổ đều chỉ là tưởng tượng, không có thực, đó là giải ngộ về bản chất của vũ trụ vạn vật, khi nào tự mình thân chứng được và vận dụng được cái tánh không đó, tức là đang mở mắt chiêm bao giữa ban ngày, thức tỉnh, cũng tức là thoát khỏi sinh tử luân hồi.
    


Quá trình vôi hóa, sự “vôi hóa tuyến tùng” và mối quan hệ với luân xa 6

Quá trình vôi hóa không chỉ xảy ra ở xương khớp, ở răng, ở các hiện tượng tạo sỏi trong thận và mật như ta vẫn hay biết. Nó có thể xảy ra ở nhiều vị trí khác như: trong phổi, trong động mạch chủ, và đặc biệt là trong tuyến tùng.
Trong các hoạt động tâm linh, tinh thần, cảm xúc; tuyến tùng đóng một vai trò quan trọng. Sự kích thích tuyến tùng làm tăng rung động của cơ thể, và giúp con người di chuyển vào tâm thức, ý chí cao hơn. Điều thú vị là, luân xa 6 có mối liên quan rất chặt chẽ với các tuyến tùng, một tuyến nhỏ nằm ở trung tâm của não.
Luân xa 6, con mắt thứ ba của bạn sẽ giúp bạn nhìn thấy những điều vượt ra ngoài phạm vi vật chất (ngoài những gì mắt bạn nhìn thấy). Nó giúp bạn hiểu được những hiện tượng khó giải thích được và nó là cửa ngõ để các lĩnh vực tinh thần / năng lượng. Nhưng, ở nhiều người, con mắt thứ ba là hầu như không mở.
Thiền quán tưởng và tập yoga gúp mở con mắt thứ ba. Nhưng – ngay cả khi bạn thực hành những điều này, con mắt thứ ba của bạn có thể vẫn bị đóng một phần vì sự vôi hóa của tuyến tùng.
Vôi hóa xảy ra do một số thói quen, lối sống hiện đại và nếu bạn không thường xuyên giải độc và làm sạch chất vôi ở tuyến tùng của bạn, bạn sẽ khó có thể phát triển được các hoạt động tinh thần, tâm linh dù có tập rất nhiều chăng nữa.
Vậy bản chất “vôi hóa là gì”?. Nó là một sự tích tụ của các tinh thể phosphate canxi ở các bộ phận khác nhau của cơ thể và trong hầu hết mọi người, tuyến tùng gần như hoàn toàn bị vôi hóa khi họ đạt đến tuổi trưởng thành.
Vôi hóa xảy ra bởi vì các độc tố trong các sản phẩm hàng ngày bao gồm fluoride (được tìm thấy trong các hệ thống nước công cộng và kem đánh răng), các chất phụ gia nhân tạo và các kích thích tố được tìm thấy trong thực phẩm chế biến, và các loại đường và chất tạo ngọt nhân tạo (được tìm thấy khá nhiều ở khắp mọi nơi). Điện thoại di động và các thiết bị điện tử tiêu dùng khác cũng có thể đóng một vai trò trong biển bị hóa vôi tuyến tùng. Các dòng dị thường năng lượng điện từ trường do nước ngầm, hang động và đứt gãy, nghịch đảo kiến tạo cũng góp một phần với những người sinh hoạt trên chúng.





Vậy hậu quả của việc bị “vôi hóa tuyến tùng” là gì?
Sự kém phát triển của hệ thống luân xa 6 sẽ khiến bạn có biểu hiện chậm chạp, kém nhạy bén, không tập trung nổi, hoài nghi, bi quan, ghen ghét, đố kỵ và sự không chắc chắn – làm cho cuộc sống của bạn gặp rất nhiều khó khăn hơn so với nó cần phải được.
Tuy nhiên, “Vôi hóa” có thể được gỡ bỏ, nếu bạn thực hiện các bước sau đây:
1. Hạn chế chất Florua: uống hoặc tắm trong nước máy, nấu với nước máy và sử dụng kem đánh răng có chất fluoride (hoặc bất kỳ nước có chứa florua), nước sô-đa và tất cả các loại đồ uống nhân tạo, bởi vì chúng được sản xuất bằng nước không tinh khiết.
2. Thực hiện giải độc hàng ngày: sử dụng tảo xanh, nhân sâm, đất sét bentonit bôi trên da, uống chất diệp lục là một vài điều bạn có thể sử dụng như là chất bổ sung để giúp đẩy lùi hiện tượng vôi hóa
3. Sử dụng trong chế độ ăn: dầu dừa, hạt cây gai dầu, rong biển, tỏi, chanh và dấm táo, rau mùi.
4. Thiền thường xuyên và sử dụng âm thanh để kích thích tuyến tùng. Thực nghiệm cho thấy: OM là âm mạnh mẽ nhất mà bạn có thể sử dụng để phá vỡ các lớp vôi hóa.
Nói chung, tránh chất độc và những con người tiêu cực, và sống một cuộc sống đơn giản, có ý thức và yêu thương, để giữ chakra con mắt thứ ba của bạn luôn hoạt động tốt và khỏe mạnh!




Con mắt thứ Ba

tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,

Cuốn sách bán chạy nhất của tạp chí New York Times mang tên Điều Tra Trường Nguồn (The Source Field Investigations) của David Wilcock nói rằng tuyến tùng là “con mắt thứ ba”, tạo ra hình ảnh thị giác khi trải nghiệm cảm giác lâng lâng, kinh nghiệm cận tử (near death experiences) hay giấc mơ. Ông cũng tìm kiếm những chứng cứ để chứng minh cho lập luận trên:
 “[…] Có vẻ như giữa tuyến tùng và võng mạc có một vài mối quan hệ. Nhiều năm nay người ta đã thấy rõ những tương đồng về sự tiến triển và hình thái của chúng … Mặc dù tuyến tùng ở động vật có vú được cho là chỉ có thể cảm quan gián tiếp, nhưng sự hiện diện của protein trong tuyến tùng – thành phần thường tham gia vào sự dẫn truyền hình ảnh [cảm nhận ánh sáng] trong võng mạc, sẽ gia tăng khả năng cảm quang trực tiếp cho tuyến tùng ở động vật có vú…”

Ý kiến này đã trở thành một lý thuyết phổ biến trong nghiên cứu tuyến tùng. Không cần phải nói rằng tuyến tùng đóng vai trò giúp truyền dẫn tín hiệu, cũng như võng mạc của mắt là nơi tiếp nhận hình ảnh thực và gửi đến não bộ. Các nhà khoa học khẳng định bên trong tuyến tùng hoàn toàn tối đen, nhưng câu hỏi cần đặt ra là tại sao cơ thể chúng ta có thể tạo ra con mắt thứ ba này với những tế bào phát hiện ánh sáng ngay cả ở trong bóng tối. Những hình ảnh thấy được khi chúng ta nằm mơ hay tại một không gian vượt ra ngoài thế giới vật chất có đến từ những tế bào sáng bên trong tuyến tùng hay không?

Hình tượng tuyến tùng xuyên suốt lịch sử

Như đã nói, tên gọi  “tuyến tùng” bắt nguồn từ chữ Latinh có nghĩa là “nón thông”, vì vậy hình ảnh nón thông được dùng để đại diện cho tuyến tùng trong quá khứ. Cuốn sách Điều Tra Trường Nguồn của Wilcock dành hẳn một chương viết về tuyến tùng và biểu tượng của nó xuyên suốt lịch sử.
Dưới đây là một vài ví dụ từ cuốn sách:
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Bức điêu khắc bàn tay bằng đồng tượng trưng cho trường phái mật tông của Dionysus vào cuối thời Đế Chế La Mã, với hình tượng nón thông nằm trên ngón tay cái, còn lại là những biểu tượng kỳ lạ khác.
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Bức điêu khắc một vị thần của người Mehico đang cầm nón thông và cây linh sam.
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Trong bảo tàng ở Turino, Ý có biểu tượng cây gậy của vị thần Ai Cập Orisis, với hai con rắn quấn vào nhau và nhìn về phía nón thông ở trên cùng.
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Vị thần có cánh của người Assyria/Babylon cũng được vẽ với tay cầm nón thông
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Thần Hy Lạp Dionysus mang một cây gậy với biểu tượng nón thông ở đầu gậy.
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Đức Giáo Hoàng mang một cây gậy với nón thông ngay phía trên tay của Ông. 
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Nổi bật nhất là bức điêu khắc hình tượng nón thông lớn nhất thế giới tại Court of the Pinecone, Vatican.
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Hần hết tất cả các vị thần và nữ thần của người Hindu đều được vẽ với một chấm đỏ (bindi), hay chính là con mắt thứ ba, nằm giữa hai lông mày.
tuyến tùng, thể tùng quả, linh hồn, Con mắt thứ ba,
Bức tượng vị thần rắn Quetzalcoatl của người Mesoamerica trong hình dạng giống như tuyến tùng và mang một chuỗi hạt vòng quanh cổ với rất nhiều nón thông …





Khám phá con mắt thứ ba tại tuyến tùng của con người nhờ tu luyện và thiền





khám phá con mắt thứ ba

Khám phá con mắt thứ ba hay còn gọi là tuyến tùng của con người thông qua quá trình thiền định và tu luyện sẽ cho chúng ta thấy khả năng kỳ diệu của bản thân chưa được khai mở.

Rất ít người biết về một phần của não bộ gọi là tuyến tùng, hay chính là con mắt thứ ba. Nó có hình dạng như quả thông, vì vậy mà được gọi là tuyến tùng.
Bộ phận giống như quả thông này có chức năng thông thường là sản xuất melatonin liên quan đến hóc môn ảnh hưởng tới giấc ngủ và một số chức năng sinh lý của chúng ta.
Tuyến tùng hay con mắt thứ ba nằm ở trung tâm não, giữa hai bán cầu não.
Có lý do vì sao khá nhiều người không biết nhiều về tuyến tùng với chức năng là con mắt thứ ba. Đó là bởi nó chỉ được khai mở trong trường hợp con người nỗ lực phát triển tiềm năng bên trong cơ thể, hay theo các nói của tôn giáo là cần có một sự khai mở tín ngưỡng nhất định. Bởi vì vậy, một người bình thường sẽ hoàn toàn rơi vào cõi “mê” mà không thể tận dụng tiềm năng của con mắt thứ ba nhằm thấu hiểu thế giới xung quanh hơn, hay nhìn rõ bản chất của thế giới quanh ta.
Con mắt thứ ba được cho là cửa ngõ đặc biệt vô cùng quan trọng giữa thế giới vật chất và tinh thần trong mỗi người. Khi được khai mở, nó sẽ giúp con người có được trí huệ tuyệt vời vì thấu hiểu đúng bản chất của vạn vật xung quanh, nhìn thấy những gì mà người bình thường với đôi mắt “thịt” thông thường không tài nào thấy được.
Muốn khai mở con mắt thứ ba, con người phải thực sự tu luyện tâm tính, tập bộ công pháp của Phật gia, ví dụ như thiền định.



khám phá con mắt thứ ba
Muốn khai mở con mắt thứ ba, con người phải thực sự tu luyện tâm tính, tập bộ công pháp của Phật gia, ví dụ như thiền định.

Một khi đã biết cách khơi dậy tiềm năng của bộ phận còn đang “ngủ say” trong não bộ, bạn sẽ có công năng đặc biệt, nhìn được những điều tuyệt vời và xa xăm nhất vượt trội hơn cả những thiết bị tối tân nhất hiện giờ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc bạn có thể chu du vượt thời gian và không gian nhờ con mắt thứ ba phi thường này.
Người xưa đã ý thức về sự tồn tại của con mắt thứ ba, nỗ lực khai mở nó bằng việc tu luyện. Có những người thậm chí còn có khả năng kiểm soát được suy nghĩ và hành động của người khác trong thế giới vật chất.
Có thể nhiều người sẽ cảm thấy thật khó tin, tuy nhiên trên thực tế hiện giờ, con mắt thứ ba đã thu hút sự quan tâm của nhiều chính phủ cũng như các tổ chức và họ đang nghiên cứu tác dụng của nó, đặc biệt là cách thức để khai mở thể tùng quả. Vì đây là một vấn đề liên quan đến điều siêu thường và đôi lúc gây tranh cãi bởi một bộ phận nào đó, nên thông tin liên quan đến những dự án khai mở con mắt thứ ba thường được giữ tuyệt mật.
Con mắt thứ ba được biết dễ dàng khai mở nhất đối với trẻ nhỏ, người càng trưởng thành, càng nhiễm tư tưởng ô hợp trong xã hội hiện đại khó mà khai mở được nó. Trẻ nhỏ còn thơ ngây với tư tưởng trong sáng không nhuốm bụi trần nếu tu luyện và thiền định, sẽ nhanh chóng khai mở con mắt thứ ba.
Con người với đôi mắt thịt chỉ nhìn thấy những gì hiển hiện trước mắt, nhưng bản chất sự việc, sự vật chỉ có thể được khám phá chân thực nhờ vào trí huệ cao siêu hơn, và nhờ vào con mắt thứ ba. Nếu có thể khai mở được con mắt thứ ba, bạn sẽ tiếp cận được chân lý hơn. Thế giới ẩn chứa bao điều bí ẩn và con người chỉ có thể tìm ra lời giải nhờ vào thiền định và tu luyện tâm tính.



Tuyến Yên - Tuyến Tùng và sức khỏe con người


Sức khỏe luôn là mối quan tâm hàng đầu của con người. Chúng ta ai cũng mong muốn được khoẻ mạnh, không bệnh tật gì. Nếu bị bệnh mong được khỏi bệnh . Đối với Tây y, nguyên nhân gây bệnh do vi khuẩn, siêu vi khuẩn thì dùng thuốc tiêu diệt vi khuẩn. Nguyên nhân do khiếm khuyết về gen thì sửa chữa gen thậm chí hỏng tạng nào thì thay tạng đó. Đối với Y học phương đông, bênh do mất cân bằng âm dương gây nên, điều trị tận gốc là lập lại cân bằng này. Với môn Năng lượng Vũ trụ mà ở nước ta gọi là Nhân điện thì gốc của sức khỏe là năng lượng, thiếu năng lượng ứ trệ năng lượng thì sinh bệnh, bù đủ năng lượng và tăng cường lưu thông năng lượng thì đỡ bệnh, khỏi bệnh.

Bài học đầu tiên của môn Nhân điện là Hệ thống Luân xa ( LX, Chakra).

Yếu tố quyết định của môn Nhân điện là khai mở Hệ thống Luân xa 100%.

Từ xa xưa, con người đã biết đến Hệ thống Luân xa. LX được coi là trung tâm năng lượng của cơ thể, Hệ thống LX như cửa ngõ lưu thông năng lượng giữa con người và năng lượng vũ trụ. Cơ thể con người ta có 7 LX chính còn gọi là 7 đại huyệt. Trong bài này tôi xin được đi sâu vào 2 LX chính đó là LX6 và LX7. Những ai đã học và thực hành môn Nhân điện thì đều biết LX6, LX7 đóng vai trò chủ đạo trong nhận và truyền Năng lượng vũ trụ. Việc kết nối và sử dụng LX6, LX7 đồng hành với học viên Nhân điện từ lớp thấp nhất đến lớp cao nhất, nó giúp cơ thể nhận và truyền Năng lượng Vũ trụ làm tăng sức đề kháng của cơ thể.Vì sao vậy?

Tôi xin phép chỉ nêu ra đây một số minh chứng lý luận, dùng kiến thức Tây y qua một số tài liệu của các nhà nghiên cứu, các giáo sư đang nghiên cứu giảng dạy tại các trường Đại học trên thé giới như:

Quyển ''Chakra'' của Hais Johari

Tài liệu ''Pineal gland'' của Aon Lerner -Đại học Yale Hoa kỳ

Wikipedia - Yahoo

Quyển ''Sinh lý học'' của Trường đại học Y Hà Nội

Theo tài liệu của Hais Johari, ông khẳng định LX6 liên quan đến tuyến Tùng (Pineal gland ), LX 7 liên quan đến tuyến Yên ( Pituitary gland )

Tuyến Tùng (TT)

Tuyến Tùng hình quả thông, màu đỏ xám,kích thước nhỏ,chiều dài 0,5-0,7cm. Nằm giữa  bán cầu đại não

Chức năng:

1. TT là tuyến nội tiết sản xuất ra Hormon Melatholin, giáo sư Aon Lerner và cộng sự đã chứng minh được Melatholin được tiết ra đậm đặc ỏ TT. Hormon này đóng vai trò trong một số hoạt động của con người và động vật:

Điều hòa chu trình thức ngủ của con người, ngủ đông của động vật.

Chống lại sự lão hóa của các Neuron thần kinh.

Đóng vai trò trong việc phát triẻn giới tính ở người và sinh sản theo mùa của động vật. Ở trẻ nhỏ TT phát triển đến khi dậy thì TT nhỏ dần, ở người lớn thì vôi hóa.

2. TT tiết ra các chất gây hưng phấn giống với cần sa , Cocain gây cảm giác khoái cảm , giảm đau.

3. TT kích thích tuyến Ức trong việc hoạt hóa Lymphocyt miễn dịch.

4. TT là nơi giao lưu giữa trí khôn với cơ thể. Nó hoạt động mạnh trong quá khứ của loài người như con mắt thứ 3. Ngày nay chức năng này không còn thiết yếu nữa. TT đang trở thành bộ phận bị thoái hóa.

5. TT liên quan đến LX6 và một phần LX7, người ta tin rằng nếu được khai mở LX 100% và luyện tập đều đặn sẽ đánh thức được TT, không những trẻ khỏe mà còn có khả năng giao cảm.

Tuyến yên (Pituitary gland, TY)

TY là tuyến nội tiết, kích thước nhỏ đường kính khoảng 0,7-1cm, trọng lượng koảng 1 g. TY nằm giữa đáy nền sọ, trong hố Yên thuộc xương bướm. Tuy nhỏ nhưng TY đóng vai trò nhạc trưởng chỉ huy một số tuyến nội tiết khác và trực tiếp tham gia quá trình chuyển hóa phát triển cơ thể thông qua các Hormon của nó:

hGH (human Growth Hormon) là Hormon tăng trưởng cơ thể, kích thích sụn, xương phát triển, tăng tổng hợp protein, tăng chuyển hóa lipit, gluxit.

TSH (Thyroid stimulating Hormon) là Hormon kích thích tuyến giáp phát triển, tăng khả năng tạo Hormon tuyến giáp.

ACTH (Adreno Cỏticotropin Hormon) là Hormon kích thích tuyến thượng thận phát triển lớp vỏ để sản sinh ra Cortisol và Androgen. ACTH tác dụng lên não làm tưng trí nhớ, tăng cảm xúc. ACTH tác dụng lên tế bào sắc tố sản xuất ra Melanin rồi phân tán trên da

FSH (Follcle Stimulating Hormon) Kích thích tuyến sinh dục, ở nam phát triển ống sinh tinh sản xuất tinh trùng, ở nữ kích thích nang noãn phát triển.

LH (Luiteinizing Hormon) Kích thích tuyến sinh dục, ở nam kích thích sản xuất Testosteron là nội tiết nam tính, ở nữ kích thích noãn chín, phát triển hoàng thể tiết ra Estrogen và Progesteron.

PRL ( Prolactin) kích thích tuyến sữa ở nữ, tăng dần ở tuần thứ 5 cho đến hết thời kỳ cho con bú.

ADH ( Vasopresin) tác dụng tái hấp thu ở ống thận và co các tiểu động mạch dẫn đến tăng huyết áp và điều hòa áp suất thẩm thấu tăng khối lượng tuần hoàn.

Oxytoxin Hormon sinh dục nữ, tác dụng tăng cơn co tử cung, tác dụng bài xuất sữa khi con bú.
Với nhiều chức năng quan trọng như vậy nên khi Tuyến Yên suy yếu thì cơ thể không phát triển được cả thể chất chiều cao cả về hệ miễn dịch, sinh dục. Ngược lại khi bị u Tuyến Yên sẽ gây bênh khổng lồ và nhiều rói loạn khác.

Trong tác phẩm Chakra của Haris Johari nói rõ Tuyến Yên liên quan đến LX7, Tuyến Tùng liên quan đến LX6 nên việc tập luyện thiền định và kết nối LX6 với LX7 trong môn Nhân điện chính là đã kích thích và kết nối Tuyến Yên và Tuýen Tùng, kích thích cả hệ thống tuyến nội tiết, hệ thống chuyển hóa, hệ thống miễn dịch của cơ thể.

Chính cơ chế này giúp cơ thể tăng sức đề kháng tự chống lại bệnh tật. Những đóng góp của môn Nhân điện trong việc nâng cao sức khỏe, trị bệnh đã đưa môn Nhân điện vào một trong những môn chính thức của Y học bổ sung được Liên hợp Quốc công nhận. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2002 tại Trường đại học quốc tế mở Y tế bổ sung ở Colombo thủ đô Srilanka, Khoa Nhân điện đã được chính thức thành lập. Thày Lương Minh Đáng, người sáng lập môn Nhân điện đã được bổ nhiệm làm Trưởng khoa Nhân điện, Hiệu phó của Nhà trường.

Ở Việt nam, tôi xin đề xuất Trung tâm UNESCO Hỗ trợ sức khỏe cộng đồng nên đề nghị coi môn Nhân điện như là một môn dưỡng sinh tăng cường sức khỏe và được phổ biến rộng rãi cho mọi người dân tập luyện như các môn dưỡng sinh khác.



Tuyến Tùng dưới cái nhìn tâm linh

             Tuyến tùng là bộ phần ẩn chứa nhiều huyền bí nhất trong cơ thể con người. Bởi là nơi khởi phát ra những khả năng tâm linh kì lạ mà cho đến ngày nay khoa học vẫn chưa thể giải thích được.
             Các vị thần hay nhân vật siêu phàm theo quan điểm của văn hóa phương Đông thì luôn được vẽ thêm con mắt thứ 3, tức là thần nhãn hay tuệ nhãn, đại diện cho sự tinh thông, là nơi có thể thấy hay cảm nhận được những gì mà người thường không thể thấy.
             Trẻ em trước 10 tuổi, tuyến tùng đặc biệt còn hoạt động mạnh nên cá biệt có 1 số em sẽ có thể lờ mờ nhận thấy được hình ảnh chắp nối về tiền kiếp của mình, và khả năng này nếu không được rèn luyện sẽ dần mất đi khi trưởng thành.
             Có một cách gọi nữa người ta gọi là linh cảm, hay giác quan thứ 6. Các nhà ngoại cảm có khả năng nhìn xuyên thấu thời gian và tiếp xúc với cõi âm, hoặc những nhà tiên tri tài năng thì thường được cho là tuyến tùng của những vị này chẳng những ko vị mất đi khi trưởng thành mà còn có cơ duyên phát triển thêm thành khả năng ngoại cảm.
             Người đời hay dùng chữ nặng bóng vía hay yếu bóng vía để mô tả tinh thần cứng cõi hay yếu ớt của 1 người, tuy nhiên những người bị cho là yếu bóng vía thường dễ khai mở khả năng tâm linh hơn người nặng bóng vía, bởi sự hoạt động của tuyến tùng còn nhạy cảm để nhận biếr sự hiện diện của cõi vô hình .
             Người ta xem việc thiền định như là một cách hướng nội và làm mạnh lên khả năng hoạt động của tuyến tùng. Ở VN, giới nghiên cứu từng ghi nhận 1 người có khả năng nhìn bằng con mắt thứ 3 của mình, thậm chí có thể đi cả xe khi 2 mắt bị bịt kín.
             Những người khiếm thị, thường phát triển rất mạnh tuyến tùng để cảm nhận thế giới bên ngoài bù lại sự khiếm khuyết.

Hạch tùng dưới cái nhìn của Khoa học Tâm linh
Mở đầu
             Hạch tùng (tuyến tùng) thường được giới thiền định, giới khoa học tâm linh đánh giá là một bộ phận có tính năng rất đặc biệt trong cơ thể con người. Hạch tùng được coi là nơi quyết định cho việc mở cánh cửa để đi vào thế giới tâm linh, là nơi chỉ huy “con mắt” thứ ba, là nơi tạo điều kiện để kích phát những nhận thức phi trần tục, là nơi mở ra những điều kiện thuận lợi để khai thác và kích phát tiềm năng con người.
 
             Giới thiền định và giới khoa học tâm linh luôn mong muốn tìm cách giải thích được cặn kẽ về hạch tùng. Vậy tại sao hạch tùng lại quan trọng đến vậy? Nó có cấu tạo và chức năng ra sao? Làm thế nào để kích phát và sử dụng được hạch tùng một cách hiệu quả? Từ trước tới nay có lẽ chưa có nhiều các tài liệu nghiên cứu về hạch tùng, bởi vì những người sử dụng hiệu quả hạch tùng là không nhiều và số ít những người này lại thường không muốn viết ra những gì mà khoa học thực tại chưa chứng minh được. Cho dù như vậy, chúng tôi mong muốn qua bài viết này góp phần để có được một cái nhìn rõ hơn và thực tiễn hơn về hạch tùng, nhằm phục vụ cho quá trình học tập, thiền định cũng như nghiên cứu để phát triển bộ môn khoa học tâm linh.
 Khái niệm
             Theo giải phẫu sinh học Hạch tùng (tuyến tùng) là một tuyến nội tiết nhỏ nằm trong não của động vật có xương sống. Nó tạo ra chất melatonin, một hóc môn có ảnh hưởng đến cơ chế thức/ngủ và các chức năng cảm nhận mùa. Theo quan niệm của giới thiền định Hạch tùng được coi là nơi quyết định cho việc mở cánh cửa để đi vào thế giới tâm linh…
             Đặc biệt hạch tùng còn đảm bảo một nhiệm vụ quan trọng khác. Cơ chế ghi nhận của hạch tùng là sự tích tụ năng lượng dưới dạng ánh sáng. Đó là sự ghi nhận lại quá trình phát triển của cuộc đời một con người; ghi nhận mọi hành động, sự phát triển, nhận thức, suy nghĩ, tình cảm và các mối quan hệ giữa con người đó với mọi đối tương xung quanh. Từ khi mới chào đời, lớn lên và cho đến khi con người không tồn tại ở dạng vật thể nữa (chết đi), tất cả những diễn biến trong cả quá trình này được ghi nhận lại bởi hạch tùng. Hạch tùng sẽ tích tụ tất cả những thông tin, kiến thức liên quan đến con người đó, mã hóa rồi sắp xếp lại để lưu trữ lâu dài về sau. Cứ mỗi kiếp người lại được mã hóa và sắp xếp vào "kho Hạch tùng" như thế.
             Ánh sáng hạch tùng không phải là ánh sáng bình thường như ta thường thấy, mà nó là ánh sáng đặc biệt, một loại ánh sáng vi tế, một loại ánh sáng mang đặc thù của Hạch tùng. Khoa học hiện đại chưa có khả năng tạo ra được loại ánh sáng này. Hạch tùng là nơi lưu giữ các thông tin về một con người không chỉ ở kiếp này mà nó còn có khả năng lưu giữ được nhiều thông tin từ những kiếp trước. Hạch tùng có thể coi như một trung tâm chỉ huy của một chiếc máy tính có kích thước không lớn nhưng vô cùng phức tạp đó là bộ não. Không chỉ có thế Hạch tùng còn là một máy phát tín hiệu, sóng não được phát ra theo dải tần Anfa hay Beta … cũng là do Hạch tùng quyết định. Sóng não do Hạch tùng phát ra là một loại năng lượng có mang thông tin, thông tin này có những lúc lại là thông tin chỉ huy. Với những người tu luyện cao cấp thì sóng não do họ phát ra không chỉ mang thông tin từ bộ não của họ đi nơi khác mà còn có khả năng chỉ huy được năng lượng ở ngoài cơ thể của họ. Hạch tùng không chỉ là nơi xử lý các khả năng nhận biết, các khả năng giao tiếp và kể cả khả năng điều chỉnh những thông tin trần tục mà còn quyết định việc xử lý cả những thông tin phi trần tục nữa. Chính vì Hạch tùng có khả năng đặc biệt như vậy cho nên với kiến thức của nền khoa học đương đại thì Hạch tùng vẫn còn là "vùng chứa nhiều điều bí ẩn". Nếu Hạch tùng hoạt động không tốt thì đừng bàn đến chuyện nghiên cứu thế giới tâm linh……

Vị trí, cấu tạo, hoạt động
             Vị trí Hạch tùng thường có màu xám đỏ với kích thước của một hạt gạo (5-8 mm) ở người. Hình dạng của nó giống như một hình nõn thông nhỏ và nằm ở gần trung tâm của não, giữa hai bán cầu, nằm tại rãnh nơi hai đồi não giao nhau. Hạch tùng có thể được nhìn thấy khi chụp X_quang hộp sọ. Đối với đa số người thì hạch tùng thường bị vôi hóa (canxi hóa) theo thời gian. Khi chụp X_quang thì hạch tùng thường là một chấm nhỏ màu trắng. Các bác sỹ thường chẩn đoán sớm một người có u não bằng việc nhìn xem chấm nhỏ màu trắng đó có bị lệch sang một bên hay không.
             Đối với những người tập khí công thì vị trí hạch tùng nằm ở giao điểm của trục sinh lực (Trục nối huyệt Bách hội và huyệt Hội âm) và trục Chẩm ấn (trục nối huyệt Ấn đường và huyệt Ngọc chẩm). Cấu tạo Bên trong hạch tùng là các phần tử nước siêu nhỏ. Tường trong của hạch tùng được bao bọc bởi các phần tử giống như các tế bào trong con mắt người thường. Có lẽ vì lí do đó mà người ta thường ví hạch tùng như là võng mạc của "những con mắt thứ ba”. Hạch tùng của con người phát triển về kích cỡ cho đến khoảng 1-2 tuổi và ổn định sau đó. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của đời thường, không phải ai cũng biết sử dụng hạch tùng cho đúng với khả năng tiềm ẩn của nó. Do vậy, hạch tùng thường bị teo lại và bị can xi hóa đi do chế độ ăn uống không điều độ, sử dụng các chất kích thích (bia, rượu, cà phê ...) một cách bừa bãi. Điều này lí giải một phần lí do tại sao các nhà tu hành lại có xu hướng ăn uống ít và điều độ, thậm chí kiêng cữ một số loại đồ ăn thức uống và thường ăn chay. Việc sinh hoạt ăn uống của người tu luyện cũng là một trong những yêu cầu để họ giữ cho hạch tùng không bị canxi hóa đi.
 Hoạt động Khi ngủ thì Hạch tùng tiết ra chất Melatonin, chất này là một loại hóc môn, là một dẫn xuất của axit amino tryptophan, có tác dụng “ra lệnh” cho cơ thể chìm vào giấc ngủ. Ngoài ra chất này còn giúp chống lại stress, cân bằng các hoạt động của cơ thể, làm chậm quá trình lão hóa, chống già nua tăng cường hệ thống miễn dịch, bảo vệ tế bào .Việc sản xuất melatonin của Hạch tùng được kích thích bởi bóng tối và bị ức chế bởi ánh sáng. Điều này có thể lí giải tại sao khi con người ngồi thiền định (trạng thái tương tự như ngủ), tĩnh lặng trong bóng tối thì khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh lại được phát triển hơn hẳn những người không thiền định. Đồng thời hạch tùng cũng tiết ra chất Dimethyltriptamine (DMT) có tác dụng thay đổi cảm nhận thời gian, di chuyển vượt qua thời gian, di chuyển trong thế giới vô hình, gặp các nhân vật tâm linh hoặc các đối tượng huyền bí. Theo giải thích của một số nhà nghiên cứu Tây Âu, sự liên lạc với thế giới tâm linh như nằm mơ, linh tính, nhìn thấy vong hồn, đi về kiếp trước v.v… có được là bởi hạch tùng.
 
             Hạch tùng là bộ phận có lưu lượng vận chuyển máu trên một đơn vị thể tích là lớn nhất so với các bộ phận khác trong cơ thể. Theo giới thiền định thì khi hạch tùng hoạt động để tiếp nhận hoặc xử lý những thông tin từ thế giới tâm linh thì nó tiêu tốn năng lượng nhiều hơn bất cứ bộ phận nào khác trên cơ thể . Điều này giải thích tại sao một số người khi giao tiếp thế giới tâm linh (Phật, Tiên, Thánh, vong hồn v.v) cần phải có rất nhiều năng lượng. Vì vậy đối với những người có năng lượng chưa thực sự đủ mạnh thì không thể "nhìn" lâu được. Có quan điểm cho rằng: Một người muốn có được những giao tiếp thường xuyên với thế giới tâm linh thì "Đường cong tâm linh" của họ phải tiệm cận được với "Trục tâm linh". Để có được "Đường cong tâm linh" đạt yêu cầu thì Hạch tùng hoạt động tốt là một yếu tố hết sức quan trọng.
Kích phát hạch tùng Kích phát tự nhiên
             Ở Việt Nam, những hiện tượng như của một số nhà ngoại cảm có khả năng nói chuyện với người “âm”, từ đó có thể tìm được mộ… thường được mọi người rất quan tâm và tìm cách lí giải. Tại sao họ lại có những khả năng này? Hầu hết những người này ban đầu thường bị những chấn động mạnh tới cơ thể, ảnh hưởng trực tiếp tới não bộ khiến năng lượng thay đổi đột ngột từ đó hạch tùng được kích hoạt mạnh và tạo ra khả năng thấu thị. Những chấn động này thường là một tai nạn, ốm thập tử nhất sinh, hay có một sự tác động rất mạnh nào đó mà tần số sóng của các tác động này tương thích với "Sóng não" và hoạt động của hạch tùng. Tuy nhiên, nếu hạch tùng không được bổ sung những năng lượng có tính chất phù hợp riêng với nó thì dần dần khả năng thấu thị cũng sẽ bị mất đi. Vì hạch tùng của những người này được kích phát trong trạng thái bị động, cho nên việc bổ sung năng lượng thường xuyên cho Hạch tùng của những người này là không có. Điều này giải thích tại sao sau một thời gian thì khả năng nói chuyện với vong, tìm mộ… của một số người bị mất đi mà bản thân họ nhiều khi cũng không giải thích được thấu đáo. Nên có thể nói việc kích phát "bị động" đối với Hạch tùng là trạng thái cân bằng không bền.

 Kích phát nhờ luyện tập khí công:
 
             Luyện tập khí công chính là quá trình dần dần nâng cấp năng lượng trong cơ thể, đảm bảo cho năng lượng trong cơ thể thanh, sạch, từng bước tương thích được với mức năng lượng hay tần số sóng não của các đối tượng vô hình trong thế giới tâm linh. Việc hạch tùng được kích hoạt theo phương pháp tập luyện thường đến một cách dần dần theo thời gian, tùy cơ địa và đặc thù của hạch tùng từng người. Nếu bản thân người luyện đã có năng lượng cao, hạch tùng sáng phù hợp với tần số năng lượng của thế giới tâm linh thì có thể một thời gian ngắn, người tập đã có thể sử dụng hạch tùng để khám phá thế giới tâm linh.
             Nếu những người có năng lượng thấp, hạch tùng bị can xi hóa nhiều, thì việc kích hoạt sẽ phải công phu, mất nhiều thời gian hơn. Chính vì vậy mà dù cùng tập luyện với thời gian như nhau nhưng có người thì kích phát rất nhanh, có người lại kích phát rất chậm và nhiều trường hợp không thể kích phát được. Tuy nhiên, việc kích phát hạch tùng cũng cần người Thầy có năng lượng rất cao hỗ trợ. Việc hỗ trợ này của người Thầy cũng giống như việc vén bức màn cuối cùng để nhìn toàn bộ khung cảnh sân khấu.
             Muốn cơ thể có năng lượng ở mức cao thì người luyện phải khai mở được cả ba Đan điền (Hạ - Trung - Thượng). Khi cơ thể đủ năng lượng, chân khí tràn đầy 3 đan điền, thì mới có đủ năng lượng để cung cấp cho Hạch tùng. Hạch tùng có đủ sức phát ra dải sóng có tần số phù hợp để tương thích được với năng lượng của thế giới tâm linh thì cánh cửa đi vào thế giới tâm linh mới được mở ra. Hạch tùng được kích phát theo phương pháp luyện tập khí công sẽ được khai mở và phát huy tác dụng trong một thời gian dài nếu việc tập luyện liên tục để nâng cấp năng lượng và hoàn thiện hạch tùng. Không những chỉ khả năng thấu thị, mà hạch tùng còn có thể giúp ta khai thác thêm nhiều khả năng đặc biệt khác Nên có thể nói kích phát nhờ luyện tập khí công thì hoạt động của Hạch tùng mới có được trạng thái cân bằng bền.
             Lời kết  
             Dù sao thì khoa học tâm linh là một lĩnh vực mới và sẽ luôn mới vì trong lĩnh vực ấy luôn chứa đựng những điều bí ẩn. Hiện nay, trong nhận thức của chúng ta, việc kích phát và sử dụng hạch tùng mới chỉ dừng ở mức độ khai mở thiên nhãn, thiên nhĩ. Trong khi nếu chỉ nói đơn giản về việc nghe và nhìn thì còn có nhiều cách nghe và nhìn khác nhau… mà không phải ai cũng hiểu được. Thế mới biết kiến thức về thế giới tâm linh quả là vô cùng, vô tận đối với mọi người.



U tuyến tùng, cẩn thận nhầm bệnh tiêu hóa mà tử vong



Tuyến tùng (pineal gland) là gì?

Tuyến tùng (hay còn gọi là thể tùng) là một tuyến nội tiết nhỏ nằm trong não. Nó sản sinh ra các dẫn xuất serotonin melatonin, một hóc-môn tác động lên nhịp thức/ngủ của cơ thể. Hình dạng của nó giống như một quả tùng nhỏ nên có tên đó. Tuyến tùng nằm gần trung tâm của não, giữa hai bán cầu, chui trong rãnh chỗ gặp nhau của hai đồi não.


U vùng tuyến tùng là khối u nằm ở vùng này bao gồm u của tuyến tùng và u các thành phần, cấu trúc của vùng này.


Khối u vùng này có thể chèn ép não thất III, chèn ép cống não gây não úng thủy, chèn ép cuống não trên, chèn ép tiểu não, chèn ép hố sau… gây nên các rối loạn khác nhau.


U vùng tuyến tùng gặp khoảng 0,4-1% u não, gặp nhiều hơn ở người châu Á, chiếm khoảng 3-9% tổng số u trong sọ. Đây là vùng có giải phẫu khá phức tạp, nằm sâu trong nhu mô não, xung quanh có nhiều mạch máu và cấu trúc quan trọng khác nên phẫu thuật tiếp cận vùng này vẫn còn là thách thức đối với nhiều phẫu thuật viên.



Triệu chứng của bệnh?


Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của u vùng tuyến tùng là hội chứng tăng áp lực nội sọ và rối loạn nhìn. Hội chứng tăng áp lực nội sọ trong bệnh này là do khối u gây tắc nghẽn lưu thông nước não tủy làm áp lực trong sọ tăng lên bất thường.


Bệnh khởi phát âm thầm, do đó đôi khi chỉ gây tình trạng não úng thủy đơn thuần và dễ lầm với bệnh não úng thủy thông thường. Biểu hiện của hội chứng tăng áp lực nội sọ trong bệnh này là đau đầu, buồn nôn, nôn và rối loạn nhịp thở. Vì vậy, đôi khi bệnh dễ bị lầm tưởng với những rối loạn tiêu hóa, ngộ độc thức ăn thông thường. 

Khi đó, các biểu hiện về sinh hiệu của bệnh nhân rất quan trọng để phân biệt bệnh (khi tăng áp lực nội sọ, bệnh nhân thường có hội chứng Cushing biểu hiện bằng mạch chậm, tăng huyết áp và rối loạn nhịp thở).

Rối loạn nhìn là do khối u chèn ép vào các mảnh chất trắng của não gây nên. Bệnh nhân có rối loạn nhìn thường biểu hiện bằng nhìn mờ, nhìn đôi, khó ngước mắt lên, mất tập trung 2 nhãn cầu ( biểu hiện qua việc bệnh nhân không thể tập trung nhãn cầu nhìn 1 vật từ xa di chuyển vào gốc mũi, gọi là dấu hiệu Parinaud).


Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể có dấu hiệu khó tập trung, rối loạn tính cách, rối loạn tâm thần, mất phối hợp động tác, rối loạn nội tiết do khối u chèn ép cấu trúc xung quanh hoặc xâm lấn vào cấu trúc lân cận vùng tuyến tùng.


Các triệu chứng lâm sàng còn phụ thuộc vào tính chất khối u. Nếu là u tuyến tùng, bệnh nhân thường có biểu hiện đau đầu mạn tính.


Nếu khối u ác tính phát triển nhanh, bệnh nhân có thể biểu hiện lâm sàng cấp tính, suy giảm tri giác nhanh hoặc hôn mê.


Nếu khối u ác tính theo nước não tủy xuống tủy sống thì có thể gây triệu chứng đau lưng, đau sau gáy. Nếu khối u vùng tuyến tùng (thường gặp là u tế bào mầm)  xâm lấn vùng dưới đồi, vùng tuyến yên thì sẽ gây triệu chứng đái tháo nhạt, làm tăng nồng độ HCG và khiến bệnh nhân dậy thì sớm, thường  trước  10 tuổi.



Xử trí khi có u vùng tuyến tùng


Khối u vùng tuyến tùng phần lớn là u ác tính (40%) nhưng đa số nhạy với xạ trị.  Còn các u vùng này nếu lành tính thường được điều trị khỏi bằng phẫu thuật.


Nếu bệnh nhân bị não úng thủy thì phải điều trị não úng thủy. Hiện nay ưa chuộng điều trị não úng thủy bằng nội soi mở thông sàn não thất hoặc dẫn lưu não thất-ổ bụng.


Nếu kết quả xét nghiệm cho phép kết luận là u tế bào mầm thì nên điều trị bằng tia xạ. Nếu kết quả xét nghiệm chưa cho phép kết luận bản chất khối u thì nên sinh thiết hoặc phẫu thuật lấy u. Đôi khi phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau (phẫu thuật, xạ trị, hóa trị) để đạt được kết quả điều trị tốt nhất.


Phẫu thuật u nếu là u lành tính thì ngoài tay nghề của bác sĩ thì các phương tiện hỗ trợ là cực kì quan trọng; đặc biệt là phải có kính phóng đại chuyên dùng trong phẫu thuật thần kinh. Hiện nay, khoa ngoại thần kinh bệnh viện Nhi Đồng 2 đã có kính này. Đây là 1 thuận lợi rất trong việc điều trị bệnh này vì phẫu thuật u vùng này đòi hỏi phải hết sức tinh tế và tỉ mỉ để hạn chế các thương tổn vào vùng mô lân cận.



http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/tuyen-yen-trieu-chung-hoc.html


No comments:

Post a Comment