LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Tuesday, October 11, 2016

ĐO HUYẾT ÁP



             Hiện nay có nhiều máy đo ABI tự động hiện đại, chỉ cần lắp 1 lần các bộ phận đo ABI vào cổ chân và cánh tay ở cả hai bên của người bệnh sau đó bấm máy. Máy đo sẽ tự động đo và tính toán chỉ số, in ra kết quả có sẵn. Đo tự động được thực hiện nhanh chóng, rút ngắn thời gian thăm khám nên rất thuận tiện trong y học thực hành. Tuy nhiên đo tự động dễ mắc sai số nếu kỹ thuật chuẩn bị đo không tốt (giống như đo huyết áp bằng máy đo tự động).
Máy đo ABI tự động
Hệ thống đo ABI tự động
3. Chỉ định đo ABI
3.1. Nhóm có nguy cơ cao
- Hút thuốc lá
- Tiểu đường
- Tăng huyết áp
- Tăng mỡ máu
- Tiền sử gia đình có người bắc bệnh ĐM chi dưới
- Tuổi > 70
3.2. Nhóm có bệnh lý
- Sàng lọc bệnh nhân xơ vữa động mạch
- Đánh giá đau chi dưới
- Đánh giá thiếu máu chi dưới: đau cách hồi, đau khi nghỉ, loét không liền hoặc hoại tử
- Chấn thương chi dưới
- Tiên lượng bệnh lý mạch máu lan toả (hệ thống)
- Đánh giá sau can thiệp, phẫu thuật (nong, đặt stent, bypass)
4. Chống chỉ định đo ABI
- Đau vùng cẳng, bàn chân dữ dội
- Huyết khối tĩnh mạch sâu
- Mạch vôi hoá, cứng, không thể ép được
5. Ý nghĩa của ABI
ABI Ý nghĩa Khuyến nghị
> 1.3  Thành mạch cứng, thường do xơ vữa vôi hoá Khám chuyên khoa
1.0-1.3 Bình thường Theo dõi
0.9-1.0 Chấp nhận được (có thể có hẹp) Theo dõi
0.8-0.9 Bệnh động mạch chi dưới thể nhẹ Điều trị các yếu tố nguy cơ
0.5-0.8 Bệnh động mạch chi dưới thể trung bình Khám chuyên khoa
 < 0.5            
Bệnh động mạch chi dưới thể nặng, có thiếu máu chi trầm trọng CLI (critical limb ischemia)
Khám chuyên khoa
 
Đo chỉ số ABI không chỉ quan trọng trong chẩn đoán bệnh động mạch chi dưới mà còn đóng vai trò quan trọng trong theo dõi, đánh giá mức độ tái thông mạch máu sau can thiệp tái thông hoặc phẫu thuật bắc cầu phục hồi dòng chảy của động mạch.
Ngoài đo ABI ở trạng thái nghỉ thì trong những trường hợp nghi ngờ sẽ được thực hiện đo ABI gắng sức. Tức là chỉ số ABI sẽ được đo ngay sau khi người bệnh thực hiện đi bộ liên tục trên máy tập với tốc độ 2mph (5km/h) trong thời gian 5-6 phút.
 
Đi bộ trên máy tập để đo ABI gắng sức

Chỉ số huyết áp bình thường

Bệnh lý huyết áp thường không bỏ qua ai, vì vậy việc theo dõi huyết áp là cần thiết để bảo vệ sức khỏe. Chỉ số huyết áp bình thường còn phụ thuộc vào từng độ tuổi khác nhau vì vậy bạn cần biết để theo dõi sớm phát hiện những bất thường cảnh báo bệnh lý huyết áp hiệu quả.


Chỉ số huyết áp bình thường

Về các số đo huyết áp gồm có 2 trị số : Huyết áp tối đa hay còn gọi là tâm thu, huyết áp tối thiểu hay còn gọi là tâm trương. Căn cứ vào 2 trị số này để chẩn đoán huyết áp thế nào là bình thường.

Chỉ số huyết áp bình thường


            Tuy nhiên, tùy theo độ tuổi lại có những mức chỉ số huyết áp an toàn riêng mà không phải ai cũng biết để giải đáp cho bạn. Đối chiếu bảng thống kê chỉ số huyết áp theo độ tuổi là tiêu chuẩn tốt nhất để đánh giá sức khỏe thể chất của bạn. Theo Hiệp hội tim mạch Mỹ (AHA), huyết áp của người  Huyết áp bình thường và an toàn cho mọi người là ở mức  thấp hơn 120/80 mm / hg.

          Huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa hay còn gọi là số trên) xuất hiện khi tim co bóp, thể hiện áp lực của dòng máu kháng lại sức cản của thành động mạch, thường nằm trong khoảng 100 -120 mmHg.

            Huyết áp tâm trương (huyết áp tối thiểu hay còn gọi là số dưới) thể hiện áp lực bên trong các thành động mạch khi tim nghỉ ngơi giữa hai lần đập, bình thường trong khoảng 60 – 80 mmHg.
  • Huyết áp bình thường: Đối với người lớn, huyết áp tâm thu dưới 120mmHg và huyết áp tâm trương dưới 80mmHg thì được gọi là huyết áp bình thường.
  • Huyết áp cao: Khi huyết áp tâm thu từ 140 mmHg trở lên hoặc huyết áp tâm trương từ 90 mmHg trở lên thì chần đoán là cao huyết áp.
  • Tiền cao huyết áp: Giá trị nằm giữa huyết áp bình thường và cao huyết áp (Huyết áp tâm thu từ 120-139 mmHg hoặc huyết áp tâm trương từ 80-89 mmHg) thì được gọi là tiền cao huyết áp
  • Huyết áp thấp: Hạ huyết áp (huyết áp thấp) được chẩn đoán khi huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg hoặc giảm 25 mmHg so với bình thường.
–  Độ tuổi 1-12 tháng, huyết áp bình thường là 75/ 50 mm/Hg, huyết áp tối đa là 100/70mm/Hg.

–  Độ tuổi 1-4 tuổi, huyết áp bình thường là 80/50 mm/Hg, huyết áp tối đa là 110/80 mm/Hg.

–  Độ tuổi 3-5 tuổi, huyết áp bình thường là 80/50 mm/Hg, huyết áp tối đa là 110/80 mm/Hg.

–  Độ tuổi 6-13 tuổi, huyết áp bình thường là 85/ 55 mm/Hg, huyết áp tối đa là 120/80mm/Hg.

–  Độ tuổi 13/15 tuổi, huyết áp bình thường là 95/60mm/Hg, huyết áp tối đa là 140/90mm/Hg.


Chỉ số huyết áp bình thường

Bảng tham khảo chỉ số huyết áp bình thường ở trẻ em

               
Tuổi ( năm)

 Trị số HA trung bình ( mmHg)

6-7 104/55
8-9 106/58
10-11 108/60
12-13 112/62
14 -15
Bé trai 116/66
Bé gái 112/68
16-18
Bé trai 121/70
Bé gái 110/68



                –  Độ tuổi từ 15-19 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 105/73 mm / Hg, BP Trung bình:117/77 mm / HG, BP tối đa: 120/81 mm / Hg.

                –  Độ tuổi từ 20-24 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: h108/75 mm / Hg, BP Trung bình: 120/79 mm / Hg, BP Tối đa: 132/83 mm / Hg.

                –  Độ tuổi từ 25-29 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 109/76 mm / Hg, BP Trung bình 121/80 mm / Hg, BP tối đa 133/84 mm / Hg.

                –  Độ tuổi từ 30-34 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 110/77 mm / Hg, BP trung bình: 122/81 mm / Hg, BP tối đa: 134/85 mm / Hg.

                – Độ tuổi 35-39 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 111/78 mm / Hg, BP trung bình: 123/82 mm / Hg, BP tối đa: 135/86 mm / Hg.

                – Độ tuổi từ 40-44 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 112/79 mm / Hg, BP trung bình: 125/83 mm / Hg, 137/87 mm / Hg.

                – Độ tuổi từ 45-49 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 115/80 mm / Hg, BP trung bình: 127/64 mm / Hg, BP tối đa: 139/88 mm / Hg.

                – Độ tuổi từ 50-54 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 116/81 mm / Hg, BP trung bình 129/85 mm / Hg, BP tối đa : 142/89 mm / Hg.

                – Độ tuổi từ 55-59 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP:  118/82 mm / Hg, BP trung bình 131/86 mm / Hg, BP tối đa: 144/90 mm / Hg.

                – Độ tuổi từ 60-64 tuổi, chỉ số huyết áp bình thường là: Minimum-BP: 121/83 mm / Hg, BP trung bình 134/87 mm / Hg, BP tối đa: 147/91 mm / Hg.


Những lưu ý để đo huyết áp đúng 


Chỉ số huyết áp bình thường


                Muốn đo huyết áp đúng, mọi người cần “nằm lòng ” một số lưu ý sau:

                –  Trước khi đo huyết áp, bạn nên chọn tư thế ngồi thoải mái nhất, trước khi đo bạn nên thư giãn 5 phút. Đo huyết áp nếu muốn chính xác không thể mất dưới 10 phút. Không đo huyết áp ngay sau khi chạy nhanh, leo cầu thang, mới ăn no xong, quá đói hoặc quá mệt…vì những lúc đó huyết áp của bạn thường cao hơn hoặc thấp hơn mức bình thường.

                – Không ăn, uống, nói chuyện trong lúc đo huyết áp vì máy sẽ trả về kết quả sai lệch.

                – Khi đo lần đầu nên đo cả hai tay để xem huyết áp ở tay nào cao hơn thì chọn để đo những lần sau đó.

                – Nên đo huyết áp 2 lần/ngày, buổi sáng trước khi ăn cơm và chiều sau bữa ăn 1 giờ đồng hồ.

                Tốt nhất, để được theo dõi huyết áp chính xác, mọi người nên chủ động đến bệnh viện để được bác sĩ chuyên khoa thăm khám, theo dõi chỉ số huyết áp và tư vấn phương pháp điều trị hiệu quả.




                 Huyết áp là một trong nhiều chỉ số thể hiện chức năng hoạt động của tim. Đó là áp lực tác động lên thành mạch cần thiết để đưa máu đến nuôi tim và các cơ quan trong cơ thể. Các chuyên gia tim mạch cho biết, chỉ số huyết áp tăng hay giảm bất thường đều gây nguy hiểm cho người bệnh. Huyết áp không được điều hòa có thể dẫn đến phình mạch, suy tim, đột quỵ và thậm chí tử vong. Mỗi độ tuổi có một chỉ số huyết áp chuẩn riêng mà mọi người cần duy trì để ổn định sức khỏe.

1. Chỉ số huyết áp lý tưởng theo độ tuổi:


                Chỉ số huyết áp gồm hai thông số: chỉ số huyết áp trên thể hiện áp lực thành mạch máu khi cơ tim co bóp (huyết áp tâm thu) và chỉ số huyết áp dưới thể hiện áp lực lên thành mạch máu khi cơ tim giãn nghỉ (huyết áp tâm trương). Huyết áp được quy định viết dưới dạng áp tâm thu/áp tâm trương.

                Ở những giai đoạn phát triển và trưởng thành khác nhau, sự đàn hồi của mạch máu cũng thay đổi. Khi chúng ta già đi, thành động mạch bị tích tụ bởi các mảng bám trở nên kém đàn hồi, khiến tim phải co bóp mạnh hơn để đẩy máu đi qua, làm huyết áp tăng lên. Đây là vấn đề tất yếu của tuổi tác, nhưng bạn vẫn có thể kiểm soát để huyết áp không vượt quá giới hạn cho phép.

                Bảng huyết áp trung bình lý tưởng theo độ tuổi dưới đây sẽ giúp bạn có một cái nhìn tổng quan để đưa huyết áp về mức phù hợp với độ tuổi:


Lứa tuổi Huyết áp tâm thu (mmHg) Huyết áp tâm trương (mmHg)
3 – 6 116 76
7 – 10 122 78
11 – 13 126 82
14 – 16 136 86
17 – 19 120 85
20 – 24 120 79
25 – 29 121 80
30 – 34 122 81
35 – 39 123 82
40 – 44 125 83
45 – 49 127 84
50 – 54 129 85
55 – 59 131 86
60 + 134 87

Bảng huyết áp trung bình lý tưởng theo độ tuổi

2. Chỉ số huyết áp khi nào cần phải điều trị?

Theo y khoa quy định, huyết áp đo được nhỏ hơn hoặc bằng 90/60 mmHg thì được gọi là huyết áp thấp, trong khi huyết áp cao là những trường hợp có chỉ số huyết áp từ 140/90 mmHg trở lên. Cả hai trường hợp huyết áp dù cao hay thấp đều có thể gây những biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe con người, do đó cần được điều trị kịp thời.


Những vấn đề gì sẽ xảy ra khi bị cao huyết áp?

Bệnh cao huyết áp nếu không được kiểm soát tốt, có thể dẫn đến nhiều biến chứng trên các cơ quan quan trọng của cơ thể như tim, não, thận, mắt và các mạch máu…

Khi tim phải thường xuyên gắng sức để chống lại sức cản của thành mạch, cơ tim sẽ dần dày lên và mất tính đàn hồi, sau đó nó trở nên phì đại và mỏng hơn, làm giảm sức co bóp của tim, cuối cùng dẫn đến suy tim. Các thống kê cho thấy, có tới 90% các trường hợp mới mắc suy tim có tiền sử bị cao huyết áp.

Trên não, tăng huyết áp có thể gây tai biến mạch máu não hoặc bệnh não do tăng huyết áp. Ngoài ra, huyết áp cao còn có thể làm thiệt hại tới các mạch máu nhỏ trong thận và mắt, dẫn đến suy thận, giảm thị lực và mù lòa. Đó là lý do tại sao bạn nên đi khám mắt định kỳ mỗi năm một lần nếu có bệnh cao huyết áp cao.

Nếu huyết áp được kiểm soát tốt sẽ giúp giảm tới 40% nguy cơ đột quỵ; 50% nguy cơ bệnh thận và bệnh tim mạch.


Huyết áp thấp có thể gây thiểu năng tuần hoàn não

So với huyết áp cao, huyết áp thấp cũng nguy hiểm không kém. Khi áp lực thành mạch không đủ đồng nghĩa với việc máu vận chuyển đi nuôi cơ thể kém. Điều này có thể khiến người bệnh thường xuyên cảm thấy choáng váng, đau đầu, da xanh xao, mệt mỏi, thậm chí ngất xỉu do thiếu máu lên não. Lâu dần có thể gây thiểu năng tuần hoàn não, một biến chứng do huyết áp thấp mà không người bệnh nào mong muốn. 
Duy trì huyết áp theo chuẩn huyết áp trung bình của mỗi độ tuổi để luôn có trái tim khỏe.
Duy trì huyết áp theo chuẩn huyết áp trung bình của mỗi độ tuổi để luôn có trái tim khỏe

3. Làm thế nào để ổn định huyết áp?


Lựa chọn tốt nhất cho sức khỏe là điều hòa huyết áp ở mức ổn định theo độ tuổi. Khi đang ở tuổi thanh niên, huyết áp có thể hơi cao hơn mức trung bình một chút. Nhưng khi đã bước vào tuổi trung niên, tốt nhất, bạn nên điều hòa huyết áp luôn trong mức cho phép.

Để ổn định huyết áp, trước hết cần phải biết huyết áp trung bình của bản thân là bao nhiêu và lên kế hoạch ăn uống, luyện tập nhằm đạt được huyết áp mục tiêu.

- Ở người lớn từ 60 tuổi trở lên bị huyết áp cao, huyết áp mục mục tiêu cần đạt được dưới 150/90 mmHg.

- Ở người tuổi 30 đến 59 có huyết áp cao, huyết áp nên được ổn định dưới mức 140/90 mmHg. 

- Ở người trưởng thành mắc bệnh tiểu đường hoặc bệnh thận mãn tính, nên duy trì huyết áp mục tiêu dưới 140/90 mmHg.

Để kiểm soát tốt chỉ số huyết áp, điều quan trọng nhất là duy trì lối sống lành mạnh, bằng cách:

- Tập thể dục đều đặn, ít nhất 30p mỗi ngày và 5 ngày mỗi tuần

- Xây dựng chế độ ăn khoa học: Nhiều rau xanh, chất xơ, giảm muối và giảm thiểu tối đa chất béo

- Tránh stress

- Bỏ hút thuốc lá và hạn chế rượu.

Tốt nhất, khi theo dõi huyết áp tại nhà và thấy có hiện tượng huyết áp quá cao hoặc quá thấp, bạn nên đến gặp ngay bác sĩ chuyên khoa tim mạch để được tư vấn và điều trị hiệu quả nhất.

Chỉ số huyết áp cao là bao nhiêu

Huyết áp cao thường xảy ra khi tim đập nhanh, hồi hộp; sử dụng nhiều chất kích thích, chế độ sinh hoạt không khoa học. Huyết áp cao rất nguy hiểm, được mệnh danh là “kẻ giết người thầm lặng” . Vậy huyết áp bao nhiêu là cao ?
Huyết áp cao (hay còn gọi tăng huyết áp, huyết áp tăng) phụ thuộc nhiều vào điều kiện sinh lý, thường xảy ra ở người có độ tuổi ngoài 30.

Có một số hiện tượng huyết áp cao như sau

  1. Huyết áp tâm thu cao ở người lớn: huyết áp tâm thu (HATT) có xu hướng tăng và huyết áp tâm trương (HATTr) có xu hướng giảm. Khi trị số của HATT > 140 mmHg và HATTr < 90mmHg, bệnh nhân được gọi là tăng huyết áp tâm thu  đơn độc. Lúc này chỉ số huyết áp tâm thu cao, được liệt kê vào người mắc bệnh cao huyết áp.
  2. Huyết áp tâm thu cao ở người trẻ tuổi: Trẻ em và người trẻ, chủ yếu nam giới, sự phối hợp giữa phát triển chiều cao và sự đàn hồi của mạch máu tạo nên huyết áp tâm thu rất cao nhưng huyết áp tâm trương và huyết áp trung bình bình hường.
  3. Huyết áp tâm trương cao: Thường xảy ra ở người trung niên, huyết áp tâm trương cao khi huyết áp tâm thu < 140mmHg và huyết áp tâm trương > 90mmHg.
  4. Tăng huyết áp “áo choàng trắng” và hiệu ứng “áo choàng trắng”: Một số bệnh nhân huyết áp hay cao hơn tại bệnh viện hoặc phòng khám bác sĩ so với ở nhà. Tỷ lệ hiện mắc “tăng huyết áp áo choàng trắng” là 10-30%, chiếm số lượng không nhỏ trong số người bị bệnh cao huyết áp. Tăng huyết áp áo choàng trắng có thể là khởi đầu của tăng huyết áp thực sự.
Huyết áp và bệnh cao huyết áp ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của chúng ta. Nếu không điều chỉnh kịp thời, nó sẽ dẫn đến những căn bệnh nguy hiểm về tim mạch, đột quỵ…Biết được chỉ số huyết áp bình thường – huyết áp cao là bao nhiêu một cách chính xác là trang bị cho bạn những kiến thức bổ ích về sức khỏe, giúp bạn và gia đình chủ động hơn trong việc kiểm soát huyết áp.

Cách kiểm soát chỉ số huyết áp tại nhà


Sử dụng máy đo huyết áp điện tử cổ tay hoặc bắp tay để đo tại nhà là phương pháp hiệu quả ngày nay. Thiết bị sẽ giúp bạn biết được tình hình huyết áp của mình ở giai đoạn nào, từ đó kịp thời tầm soát để có chỉ số huyết áp bình thường, duy trì cuộc sống tốt hơn.



KỸ THUẬT ĐO HUYẾT ÁP ĐỘNG MẠCH

Máy đo huyết áp là sản phẩm cần thiết trong mỗi gia đình, đặc biệt là những gia đình có người già, người mắc các bệnh liên quan đến huyết áp. Hiện nay, trên thị trường xuất hiện khá nhiều loại máy đo huyết áp điện tử, với mẫu mã, kiểu dáng đa dạng phong phú. Song máy đo huyết áp cơ vẫn là loại máy được đa số người dân  lựa chọn.
máy đo huyết áp cơ

Những ưu điểm và nhược điểm của máy đo huyết áp cơ

Ưu điểm:  Máy đo huyết áp cơ có giá thành rẻ, phù hợp với túi tiền của đa số người tiêu dùng. Mặt khác, máy đo huyết cơ cho kết quả đo chính xác, với độ sai số rất nhỏ nếu như người sử dụng biết đo đúng cách.
Nhược điểm:
- Máy sử dụng khó khi tự đo và nếu như nghe sai một nhịp thì sẽ bị lệch đi 10 số, cách đo hơi phức tạp với người chưa sử dụng vì phải đo bằng quả bóp.
- Máy có thể đưa ra sai số nếu không quen đo, hay thính lực người nghe kém, băng qấn tay không đúng kích cỡ,..
Tuy nhiên nếu gia đình bạn có người đo giúp, hoặc người thân có khả năng đo tốt thì lựa chọn tốt nhất là nên mua máy đo huyết áp cơ để có kết quả đo huyết áp chính xác nhất.

Hướng dẫn sử dụng máy đo huyết áp cơ

1. Chuẩn bị trước khi đo.
- Bạn phải cởi bỏ những y phục bó sát để không có áp lực nào khiến dòng máu không lưu thông ảnh hưởng đến kết quả đo.
- Trước khi đo huyết áp, bạn không được sử dụng các đồ uống có ga  và có tính kích thích như rượu, cà phê, không được hút thuốc lá. Nếu trong trường hợp vừa đi ra ngoài về thì bạn phải nghỉ ngơi ở những nơi thoáng mát ít nhất nhất trong vòng 5 phút.
- Tư thế đo: thường là tư thế ngồi hoặc nằm, tuy nhiên định kì trong vòng 3 tháng đến 6 tháng bạn nên kiểm tra huyết áp với tư thế đứng ( đặc biệt là những người có nguy cơ bị mắc các bệnh về hạ huyết áp như suy tĩnh mạch, đái tháo đường,...)
- Bạn nên tìm hiểu máy đo huyết áp cơ gồm những bộ phận gì và chức năng của từng bộ phận:
 + Tai nghe mạch đập, có độ khuyếch đại âm thanh lớn giúp ta nghe rõ mạch đập khi đo huyết áp.
 + Đồng hồ báo số đo huyết áp của chúng ta khi đo. Đồng hồ được nối với vòng bít.
 + Quả bóp bằng chất liệu cao su có tác dụng bơm hơi vào vòng bít thông qua hệ thống ống dẫn cao su.
 + Vòng bít làm bằng chất liệu vải có độ bền cao.
2. Cách quấn vòng bít
- Mở vòng bít theo hình tròn và luồn vào bắp tay của bạn sao cho khoảng cách mép dưới của vòng bít cách khuỷu tay 2 - 3 cm . Vòng bít phải đặt chính xác sao cho vạch dấu của vòng bít đặt cùng hướng với mạch máu, vòng sắt không được đặt nằm trên mạch máu vì sẽ dẫn đến kết quả đo bị sai lệch.
- Kéo nhẹ đầu vòng bít qua vòng sắt quanh bắp tay. Siết vòng bít bằng khóa dán với lực vừa phải.
3. Tiến hành đo huyết áp cơ
sử dụng máy đo huyết áp cơ
- Gắn ống nghe lên tai để nghe được mạch đập trong quá trình đo huyết áp.
- Nắm lấy quả bóng cao su bên tay phải và bơm vòng bít lên, tốt hơn hết bạn cần bóp căng khóa tay đến khi tạo được áp lực đến khoảng 20-30mm thủy ngân cao hơn huyết áp. Nới lỏng từ từ bộ truyền động bên tay trái và để lực nén khí trong vòng bít giảm nhẹ, kiểm tra vòng bít khi bạn thực hiện thao tác như vậy.
- Đến khi bạn có thể nghe rõ nhịp đập của tim, đọc chính xác giá trị được chỉ rõ trên vòng bít giá trị này tương đương với áp xuất tâm thu hoặc một huyết áp tối đa.
- Khi áp suất không khí tiếp tục giảm, âm thanh nhịp đập của tim sẽ không còn nghe thấy nữa. Giá trị này được ghi lại tại thời điểm sự liên kết này không còn nghe rõ sẽ cho huyết áp tâm trương hoặc hoặc áp suất tối thiểu.
- Nếu bạn thấy hoài ghi, bạn có thể lặp lại phép đo này sau một khoảng thời gian ít nhất 10 đến 15 phút sau khi kết thúc phép đo đầu tiên.

Huyết áp bao nhiêu là bình thường:


                  Như vậy chỉ số huyết áp bình thường là dao động trong khoảng 90/60mmHg đến 140/90mmHg, nhiều người thừa nhận giới hạn trên của huyết áp bình thường ở người trẻ là 145/95.

                Chỉ số huyết áp  là thấp khi huyết áp tối đa < 90 hoặc huyết áp tối thiểu < 60.
                 Chỉ  số huyết áp là cao khi huyết áp tối đa > 140 hoặc huyết áp tối thiểu > 90.

Huyết áp bao nhiêu là bình thường: 1

                  Cần rất thận trọng khi kết luận một người là bị tăng huyết áp và chỉ được khẳng định là bệnh khi tăng huyết áp là thường xuyên. Do đó phải đo huyết áp nhiều lần trong ngày (sáng, trưa, tối), theo dõi trong nhiều ngày. Phải đo huyết áp cả hai tay sau 5 phút nằm nghỉ và sau tối thiểu 1 phút ở tư thế đứng. Ở một số người huyết áp có thể tăng nhất thời khi quá xúc cảm, stress, hoặc sau khi uống rượu, bia, sau tập luyện, lao động nặng… chẳng hạn.

Tư thế đúng khi đo huyết áp ở bắp tay:


Lưu ý:Tư thế đúng khi đo huyết áp ở bắp tay: 1

  • Bạn hoàn toàn có thể đo ở tay trái hoặc tay phải
  • Nên đo ở nơi yên tĩnh , và ở tư thế ngồi, thư giãn.
  • Bạn hãy chắc chắn rằng nhiệt độ phòng đo huyết áp không quá nóng hoặc quá lạnh
  • Không nên đo huyết áp sau khi tắm, uống rượu bia hoặc tập thể dục.
  • Không cử động người hoặc nói chuyện trong khi đo.
  • Tư thế đúng sẽ cho kết quả đo đúng.
  • Nên đo huyết áp ở cùng 1 thời điểm mỗi ngày (Sau khi ngủ dậy 1 tiếng)
Tư thế đo sai:

  • Lưng còng (Gập người về phía trước)
  • Ngồi vắt chân
  • Ngồi trên ghế sofa hoặc bàn thấp làm cho người bị gập về phía trước.
                      Những tư thế này có thể dẫn đến kết quả huyết áp cao hơn thực tế do vòng bít ở vị trí thấp hơn tim.
                     Nếu vòng bít ở vị trí thấp hơn tim, nên sử dụng một tấm đệm, hoặc gối …để điều chỉnh độ cao  của bắp tay.

 Những lưu ý khi tiến hành đo huyết áp sử dụng máy đo huyết áp cơ

máy đo huyết cơ
Môi trường sử dụng:
- Sử dụng sản phẩm trong khoảng nhiệt độ từ 16 – 32 độ C.
- Không để nhiệt kế trực tiếp dưới ánh sang mặt trời hay những nơi bụi bẩn, ô nhiễm.
An toàn:
- Nên kiểm tra sản phẩm theo định kỳ (2 năm/1 lần).
- Nếu bạn không sử dụng sản phẩm trong một thời gian dài, hãy tháo pin ra khỏi sản phẩm và giữ cho khoang pin sạch sẽ, việc thay thế pin mới phải đảm bảo đúng loại, đúng điện áp.







Sử dụng máy đo huyết áp  tại nhà như thế nào cho đúng cách?

Huyết áp là số đo về lực tác động của máu lên thành động mạch. Huyết áp phụ thuộc rất nhiều vào lực bơm của máu tới tim, thể tích máu được bơm, kích thước cũng như độ đàn hồi của thành động mạch.
Những yếu tố làm thay đổi huyết áphoạt động của con người, nhiệt độ, chế độ ăn uống, cảm xúc, tư thế, lượng thước sử dụng.
Khái niệm huyết áp
Sử dụng máy đo huyết áp giúp kiểm soát huyết áp của bản thân, đặc biệt những người  mắc bệnh tăng huyết áp, những người già có nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp...Nhờ có máy đo huyết áp mà bạn có thể kiểm soát được sư tăng huyết áp bất ngờ, phòng tránh các nguy cơ tai biến do huyết áp gây ra như tai biến mạch máu não, nhồi máu não, thậm chí là đột quỵ,..Từ việc sử dụng máy đo huyết áp tại nhà bạn điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt cho hợp lý, tốt cho sức khỏe bản thân và những người thân yêu.
máy đo huyết áp Beurer BC58
Song nếu không sử dụng máy đo huyết áp đúng cách sẽ không cho được kết quả như ý và cũng không thể phòng tránh các bệnh có thể mắc phải về huyết áp. Vì vậy, để sử dụng máy đo huyết áp tại nhà đúng cách, bạn cần chú ý những điểm sau:

1. Tư thể chuẩn để đo huyết áp

Bệnh nhân phải chọn tư thế ngồi thoải mái. Trước đó nên thư giãn 5 phút. Đo huyết áp nếu muốn thực sự chính xác không thể mất dưới 10 phút. Không đo huyết áp ngay sau khi chạy nhanh, leo cầu thang (trừ khi thầy thuốc cần đo lúc gắng sức), vừa mới ăn no, quá đói, quá mệt…, vì huyết áp khi đó cao hay thấp hơn con số trung thực.

2. Vị trí đo huyết áp

Với máy đo huyết áp điện tử, có thể đo huyết áp ở bắp tay hay cổ tay miễn là điểm cảm ứng trong băng quấn tay (sensor) phải nằm ngang mực tim. Nếu đo ở bắp tay có thể đặt cánh tay nằm ngửa trên mặt bàn với điểm cảm ứng nằm trên nếp khuỷu tay khoảng 2cm. Nếu đo ở cổ tay thường phải gập cánh tay một góc khoảng 45 độ để cổ tay ngang với trái tim. Do đó, đo huyết áp ở cổ tay dễ sai lệch hơn đo ở bắp tay vì người đo khó giữ cánh tay cho yên.
máy đo huyết áp

3. Phương tiện đo huyết áp

- Máy đo: Nói chung, máy đo hiện nay hầu như đều có độ chính xác cao. Muốn chắc chắn nên so sánh kết quả của máy tự động với máy kinh điển đo bằng thính lực. Nếu dùng máy điện tử tự động nên chọn máy:
+ Vận hành đơn giản chỉ với một nút (one touch) để người đo đỡ phân tâm.
+ Bơm nhanh và không gây tiếng động lớn khi bơm hơi để người đo bớt lo lắng trong khi chờ đợi.
+ Có tính cảm ứng cao thể hiện qua dấu hiệu máy ngưng vận hành ngay khi cánh tay cử động thay vì tiếp tục bơm rồi cuối cùng báo lỗi.
- Bao quấn tay: Phải dài tối thiểu 33 cm nếu đo ở bắp tay và 19,5 cm nếu đo ở cổ tay. Nếu bao quá dài hay quá ngắn do người quá ốm hay quá mập phải thay bao khác với chiều dài thích hợp. Bao khi quấn phải chặt nhưng không gây cảm giác khó chịu cho người đo.

4. Thao tác đo huyết áp

- Không ăn, không uống, không nói trong lúc đo huyết áp vì sai lệch kết quả.
- Khi đo lần đầu cần đo cả hai tay để sau đó chọn cánh tay với huyết áp có khuynh hướng cao hơn.
- Nên đo huyết áp ngày hai lần, buổi sáng trước khi uống thuốc và buổi chiều sau bữa ăn khoảng 1 giờ. Ghi tất cả kết quả với ngày và giờ đo vào sổ để thầy thuốc tiện việc đánh giá trong lần tái khám.

5. Kết quả đo huyết áp

- Phải ghi cả hai trị số thu tâm (số lớn) và trương tâm (số nhỏ) vì thầy thuốc chỉ có thể định bệnh cũng như đánh giá diễn tiến khi có đủ hai trị số.
- Trị số huyết áp không cố định, thay đổi theo nhịp sinh học, trọng lượng, nếp sinh hoạt…, thường có khuynh hướng cao hơn vào buổi sáng sớm, đúng ngọ và buổi tối. Do đó, không nên mất bình tĩnh nếu thấy huyết áp trong ngày dao động ít nhiều.
+ Huyết áp được định nghĩa là cao nếu huyết áp thu tâm >140 và huyết áp trương tâm >90. Tuy vậy, không nên coi thường huyết áp với trị số 135/85 nếu kéo dài nhiều ngày. Mặt khác, trị số huyết áp đơn phương không phản ánh mức độ nghiêm trọng mà là khoảng sai biệt giữa hai trị số. Khoảng này càng hẹp càng nguy hiểm. Thí dụ: huyết áp 150/90 (sai biệt là 60) tuy thuộc về huyết áp cao nhưng ít nguy hiểm bằng huyết áp 140/100 (sai biệt là 40).
+ Nếu ghi nhận huyết áp cao nên nằm nghỉ 15-30 phút rồi đo lại. Nếu huyết áp vẫn cao nên tham vấn ý kiến thầy thuốc cho sớm thay vì tự điều trị hay chần chờ.
+ Ðừng quên là kết quả rất dễ sai lệch nếu máy đo sắp hết pin. Nếu cẩn thận nên thay pin mới và đo lại huyết áp.
Đo huyết áp là tối cần thiết. Nhưng nếu đo không đúng cách rồi dựa vào kết quả sai lệch để quyết định uống thuốc hay không uống thuốc thì nhiều khi tai hại không kém việc quên đo huyết áp. Rất thường khi giải pháp của một vấn đề phức tạp lại tương đối đơn giản. Muốn tránh hậu quả của bệnh cao huyết áp phải biết huyết áp có cao hay không bằng cách sử dụng máy đo huyết áp tại nhà.




Huyết áp thấp do đâu?

Gọi là huyết áp thấp khi số đo huyết áp tối đa bằng hoặc dưới 90mmHg và huyết áp tối thiểu bằng hay dưới 60mmHg.
Có nhiều nguyên nhân gây ra huyết áp thấp, đó là: mất nước vì nôn, ói, tiêu chảy, sốt, hoặc dùng nhiều thuốc lợi tiểu, bỏng nặng, đổ mồ hôi nhiều, bị bệnh xuất huyết làm giảm khối lượng máu; phụ nữ có thai, mạch máu giãn mở, giảm sức ép của máu lên động mạch do đó huyết áp xuống thấp; bệnh nhân suy tim, rối loạn van tim, nhịp chậm…;
các bệnh: đái tháo đường, cường tuyến giáp, Parkinson, chấn thượng sọ não, ngộ độc hóa chất, suy gan, nằm lâu ngày, nhiễm khuẩn huyết, dị ứng nặng, thiếu vitamin B 12 , sử dụng các thuốc lợi tiểu, giãn mạch, thuốc viagra, chống trầm cảm, giảm đau… đều dẫn đến huyết áp thấp.
Triệu chứng của bệnh là: chóng mặt, ngất xỉu, buồn ngủ, kém tập trung, buồn nôn, mờ mắt, hơi thở nhanh, da lạnh, khát nước.
Nếu huyết áp quá thấp, bệnh nhân có thể bị trụy tim mạch, sốc… Để giảm thiểu triệu chứng huyết áp thấp cần: uống nhiều nước, hạn chế uống rượu vì rượu làm mất nước và làm giãn mạch, không nên đứng quá lâu, nằm hay ngồi mà muốn đứng lên thì nên đứng lên từ từ, ăn làm nhiều bữa nhỏ, uống cà phê có tác dụng làm co mạch, tăng huyết áp nhưng nên uống vào buổi sáng để tránh mất ngủ. Bạn nên thực hiện điều trị theo chỉ định của bác sĩ.



Cách phòng ngừa hạ huyết áp khi đứng ở người cao tuổi

Những tác nhân thuận lợi gây hạ huyết áp khi đứng là sự suy yếu của hệ thống tĩnh mạch, các bệnh gây mất nước và tác dụng phụ của thuốc. Vì thế phòng ngừa hạ huyết áp khi đứng là mối quan tâm hàng đầu của cả bệnh nhân và thầy thuốc.
Cách nhận biết Chỉ cần đo huyết áp là có thể phát hiện được bệnh: Để bệnh nhân nằm nghỉ khoảng 20 phút rồi đo huyết áp ở tư thế nằm, sau đó cho bệnh nhân đứng dậy, sau khi đứng từ 1 - 5 phút sẽ tiến hành đo hết áp ở tư thế này, nếu thấy huyết áp tâm thu tụt xuống lớn hơn hoặc bằng 20mmHg so với huyết áp khi nằm là có hiện tượng hạ huyết áp khi đứng. Vào những thời điểm huyết áp thấp nhất trong ngày nên đo huyết áp kiểm tra như ban đêm, buổi sáng khi ngủ dậy, sau khi ăn…
Các biện pháp phòng ngừa Kiểm tra lại các thuốc đang dùng có nguy cơ gây hạ huyết áp khi đứng như thuốc an thần kinh, chẹn beta, lợi tiểu…
nếu có thì hãy đọc lại chỉ định dùng thuốc, cân nhắc xem có nên ngừng thuốc hay không? Cần thông báo cho bệnh nhân biết những tình huống nguy hiểm, giờ nguy hiểm có thể xảy ra hạ huyết áp khi đứng để đề phòng.
Những giờ nguy hiểm: Ban đêm, sáng ngủ dậy, sau khi ăn, sau khi uống một số thuốc như thuốc giãn mạch như thuốc ức chế canxi… Mất nước do một số nguyên nhân như sốt cao, tiêu chảy, nôn nhiều, chán ăn…
phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện ngay để kịp thời điều trị. Cần chú ý đến một số người có nguy cơ mất máu tiềm tàng như bệnh lý dạ dày, viêm thực quản, bệnh viêm ruột, trĩ… hoặc đang dùng thuốc chống đông hay thuốc kháng viêm không steroid.
Đối với nguyên nhân gây bệnh là do suy hệ tĩnh mạch, nhất là hệ tĩnh mạch chi dưới thì băng ép các chi dưới là biện pháp chủ yếu, rất có hiệu quả để điều trị nếu được thực hiện đúng kỹ thuật. Cần dùng loại băng thun chứ không phải loại băng chống giãn tĩnh mạch. Muốn có kết quả tốt phải băng theo chiều dọc và mang băng cả ngày lẫn đêm.
Chế độ ăn không nên kiêng ăn mặn tuyệt đối, tránh ăn uống thịnh soạn, không uống nhiều rượu, tốt nhất là ăn nhiều bữa nhỏ, khi ăn xong không nên đứng lên nhanh.
Tránh đứng lâu một chỗ, có thể đổi chân hoặc giậm chân đi lại tại chỗ để cho máu lưu thông, tăng tuần hoàn trở về của máu tĩnh mạch. Khi đang nằm, nếu muốn nhổm đứng dậy thì không nên bật dậy ngay mà nên thực hiện từng bước một, đầu tiên là ngồi dậy trên giường, rồi buông chân xuống đất, sau đó từ từ đứng lên, nếu thấy xuất hiện triệu chứng gì lạ, nên ngồi xuống hoặc nằm xuống ngay và gác chân lên cao.




Những lưu ý khi sử dụng máy đo huyết áp điện tử để có kết quả đo chính xác nhất

Nhiều người thường cho rằng máy đo huyết áp điện tử cho kết quả không chính xác bằng máy đo huyết áp cơ. Điều này liệu có đúng ? Bài viết này sẽ cho bạn biết kêt quả.
Các trạng thái cơ thể khác nhau đều ảnh hưởng đến huyết áp của bạn. Do vậy mà đo huyết áp 1 lần sẽ không thể cho kết quả đo chính xác và không đủ  để kết luận. Bạn cần phải theo dõi huyết áp tại nhà thường xuyên để theo dõi huyết ở những thời điểm khác nhau và trong hoàn cảnh sinh hoạt hàng ngày của người bệnh.
Một trong những sản phẩm được người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn nhất để theo dõi huyết áp là máy đo huyết áp điện tử. Máy đo huyết áp điện tử có kích thước nhỏ gọn, tiện lợi, dễ sử dụng  và nhất là cho kết quả với độ chính xác cao.

máy đo huyết áp điện tử Beurer  BC58
Song trước khi đo bạn cần lưu ý những yếu tố dưới đây để không ảnh hưởng đến kết quả đo:

1. Tư thế đo và cách quấn vòng bít.

Tư thế đo và cách quấn vòng bít đúng trong quá trình đo huyết áp giúp bạn có kết quả đo chính xác. Trước khi đo, bạn cần ngồi ngay ngắn, thoải mái, thở sâu 5-6 lần trước khi đo để ổn định huyết áp. Đặc biệt đối với người lớn tuổi nên đo huyết áp ở cả 3 tư thế nằm, ngồi và đứng để phát hiện những thay đổi của huyết áp, chủ yếu là tình trạng tụ huyết áp.
Băng tay quấn được ít nhất 80% cánh tay người được đo. Quấn vòng bít của máy đo huyết áp điện tử sao cho vừa khít với tay của bạn, không quấn chờm lên tay áo mà phải xắn tay áo lên sao cho vòng bít tiếp xúc trực tiếp với da tay bạn.

cách quẩn vòng bít máy đo huyết áp điện tử cổ tay

 2. Thời điểm bạn nên sử dụng máy đo huyết áp điện tử để đo huyết áp

Các thời điểm khác nhau trong ngày có thể ảnh hưởng tới kết quả huyết áp của bạn. Do đó, cách tốt nhất là đo huyết áp của bạn vào cùng một thời điểm trong ngày, để biết được một cách chính xác khi có bất kỳ thay đổi nào về huyết áp.
Để biết về hiện tượng huyết áp tăng sớm bạn cần nên đo huyết áp trong vòng 1 giờ sau khi thức dậy, sau khi đi vệ sinh, trước khi ăn sáng. Nghỉ ngơi ít nhất 20 phút sau khi tập thể dục hoặc tắm để có kết quả huyết áp ổn định. Tránh uống rượu khi có dự định đo huyết áp sau khi ăn.

máy đo huyết áp Laica BM2004

3. Phương pháp đo huyết áp.

 Hầu hết các loại máy đo huyết áp hiện nay đều sử dụng phương pháp đo dao động, Vì vậy, bạn không nên nói chuyện, ăn uống hoặc cử động tay, vai khi đang đo huyết áp. Nếu bạn sử dụng máy đo huyết áp bắp tay, cần lưu ý quấn vòng bít cách khủy tay từ 1,5-2 cm.
Đợi 2-3 phút trước khi đo tiếp để mạch máu trở lại ban đầu trước khi đo tiếp. Nên đo huyết áp ít nhất là 2-3 lần. Do các máy đều có cái tính năng bộ nhớ nên bạn không cần phải ghi chép lại kết quả sau mỗi lần đo; tính năng hiển thị kết quả trung bình sau 3 lần đo giúp bạn có kết quả chính xác nhất. Mỗi lần đo cách nhau từ 3-5 phút.
Cần lưu ý: Những người bị bệnh run chân tay hoặc bị tiểu đường chỉ nên dùng máy đo huyết áp bắp tay. Nên chọn những dòng sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, đã có thương hiệu uy tín trên thị trường như máy đo huyết áp Omron; máy đo huyết áp Rossmax; hoặc dòng máy đo huyết áp Omron,...

Máy đo huyết áp điện tử Omron 7320

4. Một số yếu tố khác

Nhiệt độ lạnh - huyết áp sẽ tăng. Vì vậy, bạn nên giữa nhiệt độ phòng khoảng 20oC trước khi đo huyết áp. Người được đo huyết áp không sử dụng các chất làm tăng, hạ huyết áp trước khi đo ít nhất là 2 giờ đồng hồ.
Nếu bạn đo huyết áp nhiều lần mà kết quả đo vẫn quá cao hoặc quá thấp hoặc không chuẩn khớp với chuẩn đoán của bác sĩ trước đó. Lúc này, bạn cần làm rõ 2 vấn đề:
– Một là huyết áp của bạn có dấu hiệu bất thường. Bạn cần nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa để có biện pháp điều trị phù hợp. Không được tự ý sử dụng thuốc.
– Hai là máy đo huyết áp (may do huyet ap )của bạn có vấn đề. Bạn không nên tự ý sửa mà cần mang máy tới trung tâm bảo hành để nhân viên kỹ thuật kiểm tra và xử lý.





Theo dõi huyết áp động mạch

1. ĐẠI CƯƠNG

1.1. Định nghĩa
Huyết áp động mạch là áp lực của máu trên thành động mạch, tạo thành bởi các yếu tố :
- Sức co bóp của tim.
- Lưu lượng máu trong động mạch.
- Sức cản ngoại vi.
Tim co bóp đẩy máu vào động mạch, gặp sức cản của các động mạch càng ngày càng nhỏ dần, máu không chảy tuột đi ngay mà tác động lên thành động mạch làm căng giãn thành động mạch.
Ở thì tâm trương, không có sức đẩy của tim, nhưng nhờ có tính đàn hồi, thành động mạch co lại gây áp lực đẩy máu đi; do vậy ở thì tâm trương máu vẫn lưu thông và huyết áp vẫn tồn tại. Quá trình di chuyển của máu trong lòng động mạch theo hình sóng nên huyết áp động mạch có hai trị số.
Huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa): là áp lực của máu trong động mạch lên tới mức cao nhất khi tim co bóp.
Huyết áp tâm trương (huyết áp tối thiểu): là áp lực của máu ở điểm thấp nhất khi tim ở thì tâm trương.
- Đơn vị đo huyết áp là milimet thủy ngân (mmHg).
- Huyết áp tâm thu ghi ở vị trí tử số.
- Huyết áp tâm trương ghi ở vị trí mẫu số.
- Giới hạn bình thường của huyết áp tâm thu ở người trung niên: 100 - 120mmHg.
- Giới hạn bình thường của huyết áp tâm trương ở người trung niên: 60 - 80mmHg.
- Chênh lệch giữa huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương được gọi là huyết áp hiệu số.
Ví dụ: Huyết áp tâm thu = 120 mmHg.
Huyết áp tâm trương = 70 mmHg.
- Tăng huyết áp:
+ Khi đo huyết áp theo phương pháp Krotkof cho người lớn, nếu huyết áp (HA) tâm thu ≥ 140mmHg hoặc huyết áp tâm trương ≥ 90mmHg, thì được gọi là tăng HA hệ thống động mạch.
+ Tăng huyết áp khi HA trung bình ≥ 110mmHg, hoặc khi đo huyết áp liên tục trong 24 giờ ≥ 135/85mmHg.
HA tâm thu + ( 2 x HA tâm trương )
HA trung bình =
3
+ Khi HA tăng ≥ 220/120mmHg gọi là “ cơn tăng HA kịch phát “.

+ Tăng HA thường gặp ở bệnh nhân mới mắc bệnh về tim mạch, thận, nội tiết…
Kết quả huyết áp ghi là: 120/70mmHg; chênh lệch giữa hai trị số là 50mmHg.

1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp
- Tuổi: huyết áp có xu hướng tăng theo lứa tuổi.
Trẻ em thường có số đo huyết áp thấp, huyết áp tăng dần ở người lớn, huyết áp ở người già thường cao hơn người trẻ.
Ở trẻ em huyết áp tâm thu được tính bằng công thức 80 + 2n (n = số tuổi).
- Giới tính: ở cùng độ tuổi, nữ có huyết áp thấp hơn nam.
- Vận động, luyện tập: có thể làm tăng huyết áp tức thời. Khi tiếp xúc với nhân viên y tế, HA tâm thu của bệnh nhân có thể tăng thêm 20 – 30mmHg, HA tâm trương tăng thêm 5 – 10mmHg, được gọi là “ tăng HA áo choàng trắng “.
- Xúc động: lo lắng, sợ hãi, phấn chấn cũng có thể làm tăng HA.
- Thuốc điều trị:
+ Thuốc co mạch gây tăng HA.
+ Thuốc giãn mạch gây hạ HA.
+ Thuốc ngủ cũng gây hạ HA.
- Môi trường: ồn ào, phòng đông người, chật chội có thể làm tăng HA tạm thời.

1.3. Những thay đổi bệnh lý của huyết áp
- Huyết áp thấp:
+ Áp lực máu động mạch thấp hơn bình thường (HA tâm thu < 90mmHg và HA tâm trương < 60mmHg) gọi là HA thấp.
+ Một số người thường xuyên có HA thấp < 95/60mmHg nhưng không có biểu hiện bệnh lý.
+ HA thấp kèm theo các dấu hiệu trụy mạch hoặc sốc (HA tâm thu ≤ 80 mmHg) là tình trạng nguy kịch phải điều trị và xử trí kịp thời nếu không sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng bệnh nhân.
+ HA thấp thường gặp trong một số bệnh: nhiễm khuẩn cấp tính, trạng thái mất nước, chảy máu...
- Huyết áp kẹt:
Chênh lệch giữa trị số HA tâm thu và HA tâm trương (HA hiệu số) giảm xuống ≤ 20mmHg thì gọi là HA kẹt. Trường hợp này phải báo cáo ngay cho bác sĩ.

2. QUY TRÌNH KỸ THUẬT ĐO HUYẾT ÁP ĐỘNG MẠCH

2.1. Nguyên lý
Nguyên lý đo HA là bơm căng một băng tay bằng cao su, làm mất mạch đập của một động mạch rồi sau đó xả hơi dần dần, đồng thời ghi những phản ứng của động mạch.
- HA tâm thu tương đương với thời điểm máu bắt đầu đi qua trong khi sức ép ở băng cao su giảm.
- HA tâm trương tương ứng với thời điểm máu hoàn toàn tự do lưu thông trong động mạch khi không còn sức ép của băng cao su. 


2.2. Quy định chung khi đo huyết áp
- Bệnh nhân nghỉ ngơi hoàn toàn ít nhất 15 phút. Nên đo vào cùng thời gian trong ngày.
- Kiểm tra máy đo HA: van, bơm cao su, dải băng cuốn, áp lực kế đồng hồ... dùng cùng một máy đo HA cho các lần đo.
- Vị trí đo: thường đo ở động mạch cánh tay; trường hợp cần thiết, có chỉ định của bác sĩ đo ở động mạch khoeo chân và các vị trí khác; khi ghi kết quả phải ghi cả vị trí đo.
- Định đo ở vị trí nào thì phải tìm động mạch ở đó trước.
- Không được dừng lại giữa chừng rồi lại bơm hơi tiếp, sẽ cho kết quả sai.
- Khi xả hơi phải xả liên tục đến khi kim hoặc cột thủy ngân hạ xuống số 0.
- Khi thấy trị số huyết áp không bình thường như cơn tăng HA kịch phát, bệnh nhân có sốc, HA kẹt, truỵ mạch báo cáo ngay cho bác sĩ điều trị.

2.3. Dụng cụ
Để đo HA cần có máy đo HA, còn gọi là HA kế và ống nghe tim phổi.
+ Máy đo huyết áp: gồm 1 dải băng cuốn bằng vải, bên trong của dải băng cuốn có một túi hơi bằng cao su. Túi hơi này có hai ống cao su, một ống nối với bóng cao su để bơm khí vào túi hơi. Ở đầu của bóng cao su có một van. Khi xoay van này ngược chiều kim đồng hồ là để xả khí từ túi hơi ra. Khi xoay cùng chiều kim đồng hồ là để bơm khí vào túi hơi và giữ khí ở lại đó.
Ống cao su còn lại của túi hơi nối với áp lực kế đồng hồ hoặc áp lực kế thủy ngân hoặc áp lực kế điện tử.
+ Các loại máy đo HA:
- Máy đo HA thủy ngân: chính xác hơn nhưng cồng kềnh.
- Máy đo HA đồng hồ: tiện sử dụng hơn nhưng kém chính xác.
- Máy đo HA điện tử: loại này không cần sử dụng ống nghe để nghe những âm thanh của áp lực. Sau khi bơm khí vào rồi xả khí ra khỏi túi hơi thì máy sẽ tự đo lượng HA và đưa kết quả HA tâm thu và tâm trương lên màn hình.
+ Chọn kích thước túi hơi khi đo HA.
- Để cho kết quả chính xác phải sử dụng đúng cỡ túi hơi cho từng bệnh nhân. Dùng sai cỡ túi hơi sẽ làm sai số kết quả tới 25mmHg.
- Kích thước của túi hơi phụ thuộc vào chu vi của chi dùng để đo HA.
- Chiều rộng của túi hơi bằng 40% chiều rộng của chu vi hoặc rộng hơn 20% đường kính của đoạn giữa các chi được dùng để đo HA.
- Chiều dài của túi hơi phải cuốn được 60 - 100% chu vi của chi ở điểm đo HA.

3. QUY TRÌNH ĐO HUYẾT ÁP ĐỘNG MẠCH CÁNH TAY

3.1. Chuẩn bị dụng cụ
- Máy đo HA kế đồng hồ hoặc thủy ngân, hoặc điện tử.
- Ống nghe tim phổi.
- Bảng theo dõi dấu hiệu sinh tồn hoặc sổ ghi chép.
- Bút để ghi kết quả.

3.2. Chuẩn bị bệnh nhân
Giải thích cho bệnh nhân biết kỹ thuật sắp làm, thông báo để bệnh nhân không ăn, uống, hút thuốc hay vận động nặng, nằm trên giường nghỉ ngơi hoàn toàn 15 phút trước khi thực hành kỹ thuật.

3.3. Thực hành kỹ thuật
- Người làm kỹ thuật rửa tay thường quy.
- Đưa dụng cụ đến giường bệnh nhân.
- Đặt bệnh nhân ở tư thế phù hợp, thoải mái. Nếu tình trạng bệnh nhân cho phép có thể đo ở tư thế ngồi, để tay đo HA ở ngang vị trí của tim, lòng bàn tay ngửa.
- Bệnh nhân nằm, tay ngang vị trí của tim, tay hơi chếch ra ngoài, lòng bàn tay ngửa. Đo HA ở vị trí khác phải có chỉ định của bác sĩ.
- Bộc lộ vùng cánh tay, tay áo quá chật thì cởi hẳn tay áo để lộ cánh tay.
- Tìm động mạch cánh tay.
- Đặt phần giữa túi hơi ngay trên đường đi của động mạch cánh tay, mép dưới của túi hơi cách nếp khuỷu tay từ 2,5 - 5cm.
- Cuộn dải băng nhẹ nhàng vừa đủ chặt vào cánh tay rồi cố định lại.
- Dùng máy đo HA đồng hồ sau khi cuộn dải băng xong mắc đồng hồ vào băng cuốn sao cho có thể nhìn thấy dễ dàng hoặc có thể đặt đồng hồ trên một mặt phẳng ở một vị trí có thể nhìn rõ.

Dùng máy đo HA thủy ngân phải đặt ngay ngắn vững chắc trên một mặt phẳng, ở một vị trí có thể nhìn rõ cột chia độ.
- Vặn van bơm khí theo chiều kim đồng hồ, vặn vừa đủ để khi mở van dễ dàng.
- Mắc ống nghe vào tai để tai ống nghe hướng về phía trước.
- Đặt loa ống nghe lên trên động mạch cánh tay. Dùng đầu ngón tay cái và ngón trỏ để giữ loa ống nghe, để cho toàn bộ bề mặt của loa ống nghe luôn luôn tiếp xúc với da bệnh nhân.
- Bóp bóng bơm khí vào túi hơi cho đến khi không nghe thấy tiếng đập rồi bơm tiếp thêm 30mmHg nữa.
- Mở van từ từ để xả hơi sao cho áp lực hạ dần với tốc độ  2 - 3mmHg/giây; đồng thời chú ý nghe tiếng đập của mạch và quan sát số đo trên mặt đồng hồ hoặc cột thủy ngân.
- Ghi trị số HA tâm thu khi nghe thấy tiếng đập đầu tiên sau khoảng thời gian im lặng. Các tiếng đập sau to dần và rõ hơn trong khi vẫn tiếp tục xả hơi.
- Ghi trị số HA tâm trương khi nghe thấy tiếng đập cuối cùng.
Trong trường hợp từ khoảng thời gian nghe thấy tiếng đập đầu tiên đến khi nghe thấy tiếng đập sau cùng nếu nghe được tiếng đập có thay đổi rõ ràng về cường độ thì phải ghi trị số của huyết áp vào thời điểm đó.
- Xả hết khí trong túi hơi ra sau khi đã xác định được HA tâm trương. Có thể mở van để khí xả ra nhanh.
- Tháo băng cuốn tay, cuốn lại cho gọn.
- Giúp bệnh nhân nằm lại tư thế thoải mái.
- Thu dọn dụng cụ.
- Ghi chép, báo cáo kết quả.
Ghi kết quả vào bảng theo dõi dấu hiệu sinh tồn hoặc sổ. Báo cáo kết quả cho bác sĩ điều trị khi kết quả HA bất thường hoặc sau khi dùng thuốc HA đã trở lại bình thường.

3.4. Ghi kết quả huyết áp vào bảng theo dõi
- Ghi kết quả HA vào bảng theo dõi theo hai cách:
+ Theo phân số (120/70mmHg) và biểu diễn dưới dạng biểu đồ.
+ Biểu đồ HA thường áp dụng khi phải theo dõi HA của bệnh nhân một cách thường xuyên, liên tục như trong gây mê, ngay sau khi mổ, tình trạng sốc, chảy máu...
- Số đo HA gồm hai trị số, khi biểu diễn HA trên biểu đồ thường dùng kí hiệu. Đầu mũi tên xuống biểu thị HA tâm thu, đầu mũi tên đi lên biểu thị HA tâm trương.
- Dùng thước để kẻ đường nối giữa HA tâm thu với HA tâm thu lần đo trước và HA tâm trương với HA tâm trương lần đo trước để tiện việc theo dõi diễn biến, tiến triển của HA.
- Trong trường hợp nghe thấy tiếng đập có sự thay đổi rõ rệt về cường độ âm sắc trước khi mất hẳn thì phải ghi lại cả trị số ở thời điểm đó.
Ví du: HA tâm thu là 140mmHg.
Nghe được thay đổi cường độ âm sắc ở 95mmHg và mất hẳn ở 80mmHg.
Ghi huyết áp của bệnh nhân là: 140/95 - 80mmHg.
- Nếu kim đồng hồ hoặc thủy ngân đã tụt về vị trí số 0 mà vẫn nghe thấy tiếng đập thì phải ghi cả trị số lúc bắt đầu thay đổi cường độ âm sắc và cả trị số 0. Ví dụ: 140/90 - 0mmHg.
- Khi có nghi ngờ kết quả đo HA thì đo lại ở cánh tay khác, vị trí khác hoặc dùng máy khác. Nếu đo lại ở vị trí cũ thì phải đợi 30 phút sau.
- Khi đo HA lần đầu tiên cho bệnh nhân, phải xác định sơ bộ HA tâm thu bằng cách bắt mạch trong khi bơm khí vào túi hơi.
- Xác định sơ bộ HA:
Bắt mạch cánh tay ở ngay mép dưới túi hơi. Bóp bóng cao su bơm khí vào túi hơi cho đến khi không sờ thấy mạch. Ghi  trị số áp lực trên đồng hồ hoặc cột thủy ngân ở thời điểm đó. Mở van xả hết khí ở trong túi hơi, sau đó đóng van lại đợi 1-  2 phút mới tiến hành đo HA chính thức.
Không đo HA nhiều lần ở một vị trí vì cho kết quả không chính xác.
Nhiều trường hợp phải đo HA ở cả hai tay để so sánh. Đo HA ở đùi để so sánh với HA ở tay.





Chẩn bệnh bằng máy đo huyết áp


            Huyết áp cao là một bệnh chứng phức tạp và thường gây nguy hiễm cho người bệnh. Tôi rất thú vị khi nghe BS Bùi Xuân Vĩnh phát biểu trong chương trình  “Sức khỏe cho mọi người” của HTV rằng: “…huyết áp cao là một bệnh nguy hiễm và nham hiễm…”. Nguy hiễm vì có thể gây đột tử, nham hiễm vì nó thường hay giả vờ sống chung hòa bình với bệnh nhân rồi đánh mạnh đột ngột khiến ngành y đôi khi cũng đối phó không kịp, chưa kể nó có thể im lặng không báo hiệu gì cả cho đến khi bệnh nhân bị gục ngã.

            Huyết áp như thế nào chỉ có thể xác định bằng máy đo huyết áp. Bắt mạch của Đông y tuy có thể phỏng đoán nhưng không thể chính xác được. Vì thế, tôi luôn đo huyết áp cho bệnh nhân từ ngày…. biết cách đo HA.

             Qua thời gian, tôi có một số kinh nghiệm dùng máy đo HA để chẩn đoán phát hiện sớm một số bệnh lý về tim mạch cho bệnh nhân. Nhất là với các bệnh nhân lao động, không mấy hiểu biết và cũng không mấy quan tâm đến sức khỏe nếu bệnh tình không hành hạ họ (tôi vốn theo đuổi chữa bệnh từ thiện hơn 24 năm nay, hầu hết là bệnh nhân nghèo).

            Nhận thấy phát hiện này tuy nhỏ nhoi nhưng quý giá cho mọi người nên tôi mạnh dạn đưa lên đây. Ai thích thì dùng hầu góp phần bảo vệ sức khỏe cho bệnh nhân và giãm thiểu “tai nạn nghề nghiệp” cho những ai lỡ mê nghề chữa bệnh… như tui(!!!!)….hihihi.

Trên nguyên tắc, huyết áp kế (HAK) chỉ để đo huyết áp là áp lực máu tác động lên thành mạch máu.

            Máu là một hổn hợp gồm lỏng là huyết tương và đặc gồm các huyết cầu (hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu).

            Trị số huyết áp,là áp suất của giòng máu được hình thành bởi:

  1. Sức co bóp và giãn nở của tim (trương lực tim). Co bóp tạo thành tâm thu, giãn nở tạo thành tâm trương.
  2. Độ nhớt của máu: gồm độ loãng hay nhầy nhớt của huyết tương (lượng chất béo có trong huyết tương, các chất khác hòa tan trong huyết tương), và tỉ lệ đặc/lỏng của máu (số lượng của các huyết cầu/huyết tương).
  3. Sự trơn tru hay sần sùi của lòng động mạch.
  4. Độ săn chắc của cơ bắp và độ cứng (khác với độ đàn hồi của thành mạch) của động mạch cánh tay trên. Hai yếu tố này ảnh hưởng rất ít nhưng có góp phần trong trị số của huyết áp. Lệ thuộc cơ địa mỗi người.

            Đây chính là các hiện tượng thủy động lực của giòng máu trong cơ thể. Mọi thông số vừa nêu đều thể hiện lên trạng thái hoạt động của cây kim máy đo huyết áp.

            Ngoài ra trạng thái hoạt động kim đồng hồ của HAK còn thể hiện vài ý nghĩa khác của tim và động mạch: tình hình van 2 lá ở thất trái, van động mạch chủ,tình hình của thần kinh tim (nhịp đập, tốc độ tim co, biên độ tim co-giãn).

            Dựa vào quy luật của thủy động lực học và cơ cấu chế tạo của HAK  tôi có các nhận định sau:

Khi túi hơi căng phồng (nguyên tắc là kim HAK phải ở trị số 200 đến 220) đè lên cơ bắp cánh tay trên rồi động mạch khiến mạch máu xẹp lép, không cho máu đi qua. Khi xả hơi; lúc đầu áp suất túi hơi thắng áp suất máu, cây kim không bị tác động nên tuột dần đều xuống trị số thấp. Trong khi đó, tim vẫn co bóp và giãn nở theo nhịp của nó. Khi túi hơi bị xả khí, áp suất hạ dần đến mực ngang bằng với áp suất giòng máu thì cây kim bắt đầu bị tác động. Nó khựng lại một chút xíu rồi mới tuột tiếp. Nhịp tim kế tiếp thì vì túi hơi vẫn tiếp tục xả khí nên ở nhịp co bóp này, áp suất túi hơi bắt đầu thấp hơn áp suất máu, do đó trước khi tiếp tục tuột xuống kim bị tác động lui lại (hình thành trị số huyết áp tâm thu) một khoảng cách tương ứng với sự trương nở của động mạch và biên độ tim co, máu bắt đầu đi qua để đến động mạch quay ở cổ tay. Cứ thế cho đến khi khí trong túi hơi không còn đè lên động mạch (thông qua lớp cơ bắp) ta thấy kim không còn bị giật lui mà tốc độ tuột cũng chậm hẳn, hình thành trị số huyết áp tâm trương. Lúc này giòng máu đi qua tự do không gặp lực cản trở nào nữa.

            Trên nguyên tắc, khi đo huyết áp phải dùng ống nghe để nghe tiếng động của áp suất máu đập vào túi hơi. Nhưng trên thực tế, vì đo nhiều người liên tục khiến tai mình bị đau, các y tá kinh nghiệm đã không đeo ống nghe mà bắt mạch ở cổ tay để theo dỏi. Tôi cũng không đeo ống nghe nhưng không bắt mạch mà chỉ theo dỏi sự hoạt động của kim đồng hồ HAK. Thoạt đầu cũng chỉ vì sợ đau tai thôi. Một thời gian sau tôi nhận thấy sự hoạt động của kim HAK trên các bệnh nhân đều khác nhau. Chú ý khảo sát một thời gian dài, kết hợp với các chẩn đoán cận lâm sàng như Điện tâm đồ (ECG), Siêu âm màu (Doppler) tôi có các kết luận sau:


            1- Kim khựng lại 5 nhịp trở lên trước khi giật lui: đa số là bệnh nhân có bị thiểu năng mạch vành tim. Khi kết hợp với xem lưỡi của Đông y, nếu thấy lưỡi bệu (thân lưỡi to bè ra choán gần hết miệng) và chất lưỡi nhạt, đồng thời kim khựng 7 nhịp trở lên thì đa số là thiếu máu cơ tim. Tôi không dám khẳng định kết luận này đúng 100% (vì độc lập nghiên cứu và không dám chắc là mình có thể đã gặp hết tất cả các kiểu của loại bệnh này) nhưng hầu hết là đúng, nhất là sau này có phương tiện siêu âm màu 3 chiều (Doppler). Trong một tài liệu về tim mạch, GS Alain Carpentier  có nêu 0,5% bệnh nhân thiếu máu cơ tim không có triệu chứng lâm sàng (nặng ngực khó thở,đau thắt ngực lan lên cổ đầu và ra cánh tay) và cũng không thể hiện trên ECG mà chỉ thể hiện trên siêu âm màu mà thôi. Cho nên tuy kết quả ECG bình thường mà có hiện tượng của HAK nêu trên ta cũng nên khuyên bệnh nhân đi siêu âm màu tim để loại trừ hoặc xác định có đang mắc căn bệnh nguy hiễm này hay không.

            2- Kim giật lui có hai giai đoạn khác nhau: giai đoạn đầu ngắn, giai đoạn sau dài hơn là có hở van 2 lá. Kinh nghiệm cho biết tỉ lệ ngắn/dài = ½ là van hở ¼. Nếu BN kèm thêm hiện tượng thỉnh thoảng phải thở dài cho dễ chịu thì thường có hở các val bên tim phải : val Tỉnh mạch chủ, val Động mạch phổi hoặc val 3 lá. Muốn biết chính xác val nào thì cần siêu âm màu tim.

            3- Khoảng giật lui của kim ngắn – từ 3mmHg (thủy ngân) trở lại, đa số là bệnh nhân thuộc thể Dương suy. Tôi đặt tên là “Huyết Áp Âm Chứng”.Một nấc nhỏ trên mặt đồng hồ HAK có giá trị bằng 2mmHg.

            4- Khoảng giật lui của kim dài – từ 4mmHg trở lên, đa số là BN thuộc thể Âm suy.Tôi đặt tên là “Huyết Áp Dương chứng”.

            5- Khoảng giật lui của kim nằm trong mức độ từ 3mmHg đến 4mmHg, đa số là BN cân bằng về Âm Dương.

            6- Kim giật lui lúc nhanh lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, có lúc bỏ nhịp là thần kinh tim của BN có vấn đề.

            Tuy không dám khẳng định độ chính xác 100% các nghiên cứu này, nhưng như đã nói các kết luận này giúp ích không ít cho chúng ta. Mong tất cả quý vị không bỏ qua.

                                                                                           Sài Gòn, 2009 -Lương y: Tạ Minh




CHẨN ĐOÁN & ĐIỀU TRỊ BẰNG ĐÔNG Y QUA MÁY ĐO ÁP HUYẾT


MÁY ĐO HUYẾT ÁP VÀ MẠCH
Từ việc xem mạch tay
Trong chẩn đoán bệnh, từ xa xưa, Đông y đã có phương pháp ‘Tứ chẩn’ gồm: Vọng (xem, nhìn), Văn (nghe), Vấn (hỏi), Thiết (sờ nắn, xem mạch). Như vậy xem mạch là 1 phần không thể thiếu trong việc chẩn đoán.
Việc chẩn đoán bằng mạch của Đông y trước đây thường tập trung ở động mạch quay ở tay. Qua 3 bộ Thốn Quan Xích, dựa vào lực mạnh nhanh chậm, yếu mạnh hoặc lưu lợi hoặc rít … mà thày thuốc có thể phần nào biết được sự rối loạn (bệnh lý) ở các tạng phủ liên hệ…
Theo các sách mạch, có đến 28 loại mạch, việc xem mạch lại đòi hỏi nhiều yếu tố phức tạp… việc xem mạch rất khó chính xác nếu không có kinh nghiệm học và hành nghề nhiều năm.
Trước đây, có nhiều thày thuốc chỉ căn cứ trên 4 mạch chính ‘Tứ đại mạch’, như Phù Trầm Trì Sác (để phân biệt mạch còn ở bên ngoài (biểu) = mạch Phù;  hoặc đã vào bên trong cơ thể (lý) = mạch Trầm. Hoặc dựa vào 4 loại mạch Trì Sác (để biết độ nhanh (Sác) chậm (Trì) của mạch, từ đó suy ra được tình trạng Hàn – mạch chạy chậm (mạch Trì) hoặc Nhiệt – mạch chạy nhanh (mạch Sác); Hoặc dựa vào sự có lực (Thực) hoặc không lực (Hư) để biết sự mạnh (Thực), yếu (Hư) của mạch…
Tuy chỉ dùng ‘tứ đại huyệt’ đã tinh gọn, nhưng vẫn mang tính chủ quan, lệ thuộc rất nhiều vào con người của thày thuốc… Nếu hôm đó tâm trạng thày thuốc không vui hoặc sức khỏe thày thuốc đang có vấn đề thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc xem mạch chẩn bệnh…
Đến máy đo huyết áp
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, người ta đã chế ra được máy chẩn đoán mạch qua áp lực lên dòng máu đang lưu chuyển, từ đó tính ra được lực co póp của tim (tâm thu) hoặc sự dãn nở của tim (tâm trương)…
Tuy nhiên, khác với Đông y, Tây y lại chú ý không chỉ mạch máu ở cổ tay mà còn chú trọng đến động mạch ở khủy tay, vì vậy, máy đo huyết áp đã ra đời và vị trí để ghi nhận mạch là ở vùng giữa nếp gấp mặt trong khủy tay. Với một dụng cụ đơn giản buộc vào khủy tay, chỗ có động mạch, sau một ít thao tác bơm, áp lực không khí bơm vào đè lên mạch máu, sẽ cho biết kết quả của lượng máu từ tim đẩy ra (tâm thu) hoặc lượng máu đưa vào tim (tâm trương) như thế nào.
 
Và máy đo kỹ thuật số
Tiến hơn một bước nữa, máy đo huyết áp điện tử ra đời. Chỉ một cái ấn nút, máy sẽ làm tất cả các thao tác: bơm hơi, đọc các dữ kiện và hiển hiện trên bề mặt của máy. Đặc biệt là ngoài dữ liệu về tâm thu, tâm trương, máy còn cho biết cả nhịp mạch (nhịp tim) đập trong 1 phút… Rất dễ dàng và tiện lợi, ai cũng có thể làm được.
Kỹ thuật dùng máy đo huyết áp trong chẩn đoán
Để có thể dễ dàng và nhanh chóng theo dõi được tình trạng bệnh của mỗi người, cần phải có một ‘ông thầy thuốc’ theo dõi sức khỏe về khí huyết cho mình, đó là cái máy đo áp huyết.
 Máy đo huyết áp có 3 loại chính:

1) Đo bằng cơ, là loại rất thông dụng. Đồng hồ của loại dụng cụ này chỉ con số khi áp lực được bơm vào và đo ở mạch máu ở khủy tay.Khi có áp lực vào trong ống hơi, kim đồng hồ sẽ theo áp lực vào cơ vận động của máy để chuyển động kim và cho ra con số tương ứng trên đồng hồ. Loại dụng cụ này, chỉ đo được huyết áp tâm thu và tâm trương mà thôi, không đo được nhịp mạch.
 
 
 
2) Loại đo bằng thủy ngân. Loại này không có đồng hồ biểu thị các số đo nhưng là một cột thẳng, trong cột đó có thủy ngân. Khi đo,
áp lực do bơm sẽ đẩy thủy ngân trong cột lên xuống tương ứng với áp lực trong mạch máu. Loại đo này được giới chuyên môn đánh giá là chính xác hơn loại đo bằng cơ. Loại này không đo được nhịp đập của tim, mạch.

3) Máy đo điện tử: Không dùng cơ học hoặc thủy ngân nhưng bằng các mạch điện tử, rất tiện lợi cho người đo, vì không cần dùng đến ống nghe và không phải thật chú ý đến các con số biểu hiện khi áp lực xuống dần trên đồng hồ hoặc cột thủy ngân. Tất cả thao tác bơm áp lực, các chỉ số tương ứng tâm thu, tâm trương và nhịp mạch đều do máy thực hiện và cho kết quả rõ ràng trên mặt trước của máy. Máy cũng có bộ nhớ thông tin cho biết kết quả của nhiều lần đo HA trước đây, giúp người đo có thể so sánh và theo dõi kết quả HA của mình.
Tuy nhiên, vì là dạng điện tử, mạch điện rất nhạy, cho nên phải tuân theo các hướng dẫn cụ thể của từng loại máy khi đo. Ngoài ra, nên lựa loại máy đo vừa dùng pin vừa có thể dùng điện, vì pin chỉ có thể cung cấp điện năng để cho máy bơm hoạt động một số lần nhất định (tùy loại pin), nếu pin yếu, có thể dẫn đến sai lệch khi đo…
 Nên chọn loại đã được kiểm định chất lượng để có độ chính xác cao, nên sử dụng loại băng quấn cánh tay, không nên sử dụng loại đo ở cổ tay, ngón tay vì không chính xác. Máy đo huyết áp thích hợp là máy có chiều dài túi hơi ít nhất bằng 80% chu vi vòng cánh tay (hoặc vòng đùi), chiều rộng túi hơi ít nhất bằng 40% chu vi vòng cánh tay (hoặc vòng đùi) vì đôi khi chúng ta cũng cần phải đo ở dưới 2 cổ chân để biết bệnh về thận, bàng quang và đường ruột. Chọn máy có túi hơi lớn hơn chuẩn sẽ làm huyết áp thấp hơn bình thường và ngược lại. Nếu không có máy thích hợp thì nên chọn loại có túi hơi lớn hơn chuẩn một chút, không nên chọn loại nhỏ hơn chuẩn.

Cách sử dụng máy đo áp huyết

Cách đo huyết áp
Có nhiều yếu tố khiến đo huyết áp thiếu chính xác như túi hơi có kích thước nhỏ hoặc lớn hơn chuẩn, máy đo không đúng, tư thế người được đo sai, do các yếu tố ảnh hưởng huyết áp (nhiệt độ, hút thuốc, uống rượu, uống cà phê, trạng thái tinh thần và thể lực, thời điểm trong ngày…) vì vậy, cần đo vào các thời điểm khác nhau và đúng cách.
Trước khi đo, người được đo lưu ý:

  • Không uống cà phê một giờ trước khi đo. Không hút thuốc lá 15 phút trước khi đo.
  • Nghỉ ngơi ít nhất 5 phút trước khi đo.


Cách đo huyết áp bằng máy đo điện tử:

  • Ngồi tư thế thật thoải mái trên ghế tựa lưng, cẳng tay kê lên bàn ngang tầm tim. Nếu để cao quá, huyết áp sẽ thấp và ngược lại. Với tư thế nằm, tay cũng để ngang tim. Trong thời gian đo tay thả lỏng hoàn toàn, không được gồng hay nâng lên hạ xuống.

  • Vị trí đo, theo các chuyên viên thì muốn có được kết quả tốt nhất, mũi tên Ñở túi hơi phải được đặt ở đầu của cơ nhị đầu phía trong, mép trên của túi hơi cách nếp gấp khủy tay 2-3cm.


  • Quấn túi hơi bao trọn chu vi cánh tay và 2/3 chiều dài cánh tay người được đo. Túi hơi phải tiếp xúc với cánh tay, tránh để túi hơi bao luôn tay áo.

  • Đo theo hướng dẫn sử dụng từng máy.
  • Khi đo huyết áp bị báo lỗi hoặc nghi ngờ không chính xác thì không đo lại ngay mà đo lại sau 5 phút nghỉ ngơi.
Ý nghĩa các thông số báo trên máy đo theo Tây y
Tây y thường đo áp huyết bên tay trái. Máy cho ra các trường hợp :
1- Chức năng của máy là bơm ép khí đè nén trên mạch máu, tạo ra áp lực khí, nếu cơ thể có khí lực vừa đủ, tạo ra cân bằng áp lực, áp lực khí của máy sẽ hạ và cho ra kết qủa, là áp huyết trung bình (tốt) so với tiêu chuẩn thống kê.
Sau khi đo xong, máy cho ra 3 con số : Số đầu, tây y gọi là số tâm thu từ 90-140mmHg theo tây y là tốt. Số thứ hai, tây y gọi là số tâm trương, từ 65-90mmHg theo tây y là tốt. Số thứ ba, tây y gọi là mạch nhịp tim đập từ 60-90 là tốt.
2- Nếu cơ thể có nhiều khí lực dư thừa, khiến máy phải bơm ép khí nhiều hơn mới cân bằng được, máy đo sẽ cho ra kết qủa là áp huyết cao hơn một người bình thường theo thống kê tiêu chuẩn, gọi là áp huyết cao.
3- Nếu cơ thể thiếu khí, thì khi khí của máy ép vào mạch, không có lực chống đối, máy bơm lên rất ít rồi hạ xuống, cho ra kết qủa áp huyết thấp so với tiêu chuẩn.
Máy đo huyết áp giúp ích gì cho các thày thuốc Đông y?
Các thầy thuốc đông y trước đây khám tìm bệnh bằng cách bắt mạch ở động mạch quay (cổ tay) là để biết tình trạng Khí, Huyết, Hư hay Thực, Hàn hay Nhiệt, ở Biểu hay ở Lý. Việc làm này mới nhìn có vẻ đơn giản, dễ dàng nhưng thực chất là rất khó, đòi hỏi người thày thuốc phải có kinh nghiệm rất lâu, có khi đến cả hàng chục năm mới có thể thấu hiểu được. Bên cạnh đó còn nhiều yếu tố khác từ chính bản thân thày thuốc như hôm đó thày thuốc không được khỏe, tâm lý đang bị chi phối mất tập trung… dễ dẫn đến sai lạc khi chẩn mạch…
Những máy đo huyết áp chủ yếu là của Y học hiện đại, tuy nhiên, với các thày thuốc Đông y, chúng ta có thể tận dụng các máy đo này để bổ sung cho việc Thiết chẩn của Y học cổ truyền. Việc tận dụng các loại máy hiện đại này vừa giúp chúng ta dễ dàng và nhanh chóng trong việc chẩn đoán vừa có thể ‘là nhịp cầu’ nối kết Y học cổ truyền với Y học hiện đại, vì có thể có bằng chứng rõ ràng giúp thuyết phục các nhà y học phương Tây hơn…
Gần đây, sau hơn 30 năm nghiên cứu về việc ứng dụng máy đo huyết áp vào Khí công y đạo, thầy Đỗ Đức Ngọc, đã công bố những công trình nghiên cứu của ông. Nhận thấy đây là những công trình lợi ích rất thiết thực cho các thày thuốc Đông y trong việc tận dụng máy đo huyết áp của YHHĐ để phục vụ cho công việc chẩn đoán và định bệnh, chúng tôi tổng hợp, sắp xếp và hệ thống lại các công trình nghiên cứu của thày Đỗ Đức Ngọc với hy vọng bổ sung thêm một số lợi thế cho các thày thuốc Đông y trong việc nghiên cứu và học tập.
Chỉ cần các thày thuốc Đông y chịu khó quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này, sẽ giúp cho Đông y và Tây y có nhiều cơ hội ‘xích lại gần nhau’ hơn.
Với các thiết bị đo áp huyết như trên, các thầy thuốc đông y có thể phần nào dùng máy đo áp huyết thay cho bắt mạch, vừa nhanh vừa chính xác.
Máy đo huyết áp (đặc biệt các máy đo điện tử) luôn hiển thị 3 con số. Thí dụ 120 - 80  - 85. Trong đó:
Con số thứ nhất của máy đo áp huyết gọi là tâm thu, là lực co bóp qủa tim để bơm máu ra theo ống đại động mạch, theo hệ tuần hoàn đưa máu đi khắp cơ thể để nuôi các tế bào, nhờ đó chúng ta sẽ biết về khí (oxy), là khí lực của mỗi hạn tuổi khác nhau.
Nếu số thứ nhất cao hơn tiêu chuẩn ấn định theo hạn tuổi thì gọi là dư khí, đông y gọi là thực, nếu thấp hơn hạn tuổi, đông y gọi là hư.
Con số thứ hai chỉ biên độ giao động của van tim, gọi là số tâm trương, qủa tim nở ra để thu máu về tim, cũng có tiêu chuẩn, nếu lớn hơn là tim to, hở van tim, nếu nhỏ hơn tiêu chuẩn là tim bóp lại nhỏ qúa, van tim bị hẹp.
Con số thứ ba chỉ nhịp tim để biết về huyết (máu) chạy trong cơ thể, đông y gọi là huyết - mạch. Khi mạch tim đập nhanh, là máu chạy nhanh thì cơ thể nóng, càng nhanh càng nhiệt, tây y gọi là sốt, đông y gọi là mạch Sác (nhiệt). Khi mạch tim đập chậm là máu chạy chậm thì cơ thể ít nóng, chạy thật chậm thì chân tay lạnh, đông y gọi là mạch Trì (hàn ). Do đó, nếu nhịp tim đập nhanh hơn tiêu chuẩn, Đông y gọi là nhiệt, thấp hơn tiêu chuẩn, đông y gọi là hàn.
Như vậy, khi thầy thuốc đông y bắt mạch tìm bệnh, chỉ cần xếp khí huyết vào loại hư-thực, hàn-nhiệt thì ngày nay nhờ có máy đo áp huyết cho ra con số cụ thể rất chính xác để biết hư thực hàn nhiệt có tính khoa học trung thực hơn là do sự cảm nhận khác nhau ở bàn tay bắt mạch của thầy thuốc, nhờ cách này mà tây y có thể hiểu được thế nào là hư thực, hàn nhiệt, không còn cho rằng đông y bắt mạch mơ hồ nữa.
Như vậy, chỉ nhìn vào 3 con số kết qủa của máy đo áp huyết, chúng ta cũng đã thấy ngay được tình trạng Khí/Huyết ở số thứ 1 và số thứ 2; hư hay thực và hàn hay nhiệt ở số thứ 3 theo quy ước từ tây y là :                 

Tâm thu  / tâm trương / nhịp tim.

            Đổi sang đông y là : Khí lực /    huyết        /   mạch.

Chỉ số huyết áp
Con số xuất hiện trên máy đo HA Tây Y Đông Y
Số thứ nhất Tâm thu Khí lực
Số thứ hai Tâm trương Huyết
Số thứ ba Nhịp tim Mạch

Dưới đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi:
Từ trước đến nay, theo Tây y, con số huyết áp ‘lý tưởng’ là 120/80mmHg (110/70mmHg đối với người Việt Nam).
Và huyết áp được coi là bình thường nếu các thông số máy đo:
 
Tâm thu  (mm Hg) Tâm trương (mmHg)  Số đo huyết áp  (mm Hg)
Dưới 120 Dưới  80 Dưới  120/80

Thế nhưng, con người có lớn có bé, nhiều tuổi ít tuổi, cho nên nếu áp dụng con số chung chung như trên cho em bé và cho người lớn tuổi sẽ có thể dẫn đến sai sót… Vì vậy, qua thực tế lâm sàng, các nhà nghiên cứu Khí công y đạo đã tạm đề xuất bảng Tiêu Chuẩn Huyết Áp như sau:

Huyết áp theo tuổi Tâm thu/ mmHg      KHÍ Tâm trương/ mmHg      HUYẾT Nhịp tim/phút MẠCH
Tuổi thiếu nhi ( 5 - 12 tuổi). 95 - 100 60 - 65 60
Tuổi thiếu niên (13 – 17 tuổi). 100 - 110 60 - 65 65
Tuổi thanh niên (18 - 40 tuổi). 110 -120 70 - 80 65 - 70
Tuổi trung niên (41 - 59 tuổi). 120 - 130 80 - 90 70 - 75
Tuổi lão niên (41 - 59 tuổi). 130 - 140 80 - 90 70 - 80

Theo Tây y, trước đây, đối với người lớn tuổi, huyết áp trong khoảng 100-140/70-90mmHg là bình thường. Thế nhưng, nếu phân tích theo Đông y sẽ có điều bất cập.
Thí dụ: Một ông 60 tuổi, có huyết áp 110/70mmHg, mạch 60, nhiều người cho là tốt, vì nằm trong khoảng bình thường 100-140/70-90mmHg. Nhiều người còn cho rằng HA người cao tuổi càng thấp càng an toàn, không lo bị tai biến mạch máu não vì HA cao.
Thế nhưng con số 110/70mmHg, xét theo bảng tiêu chuẩn trên, là của tuổi thiếu nhi (5-12 tuổi), nếu quy đổi sang Đông y ta có 110 = Khí suy; 70 = Huyết suy; 60 = mạch yếu (hàn). Với lượng khí, huyết như trên, có thể đủ để nuôi dưỡng em bé 12 tuổi, còn đối với ông 60 tuổi, đúng ra HA của ông phải là 130-140mmHg. Như vậy, Khí và huyết của ông này bị hụt đến 30-40 (130 hoặc 140 – 100 = 30 – 40). Như vậy 30-40 phần trăm tế bào trong người ông này không được khí và huyết nuôi dưỡng… Là dấu hiệu của bệnh chứ không phải là bình thường. Bệnh này đang âm ỉ tiềm ẩn trong cơ thể người bệnh và khi nó phát ra thường là bệnh nặng, vì cơ thể suy nhược, hư yếu đã lâu…
Từ kết quả trên, khi điều trị, cần phải đại bổ khí huyết cho người bệnh này bằng ‘Thập toàn đại bổ’ hoặc ‘Nhân sâm dưỡng vinh thang'

  •      Một bệnh nhân nữ 45 tuổi, khi đo bằng máy đo huyết áp, cho các con số  130 – 70 – 72.
Quy theo Đông y ta thấy con số thứ 1 là 130 trong độ trung bình, như vậy Khí của người này đủ, con số thứ 2 là 70, dưới mức tiêu chuẩn (80-90), như vậy phần huyết của bệnh nhân bị suy yếu. Điều trị, cần bổ Huyết cho bệnh nhân bằng bài ‘Tứ vật’ hoặc ‘Đương quy bổ huyết thang’.

  • Bệnh nhân nam, 55 tuổi, khi đo bằng máy đo huyết áp, có các con số  110 – 80 – 70.
Quy theo Đông y, số đầu 110 (dưới mức tiêu chuẩn 120 – 130), số thứ 2 là 80 (nằm trong giới hạn tiêu chuẩn 80 – 90), mạch 70 (trong giới hạn tiêu chuẩn 70 – 75). Như vậy bệnh nhân này chỉ thiếu ở phần Khí. Điều trị cần bổ Khí. Dùng bài ‘Tứ quân tử thang’…
Trong trường hợp này (thiếu khí), có thể làm một thí nghiệm minh chứng như sau: Dùng điếu ngải cứu, hơ ấm huyệt Chiên trung (huyệt hội của tông khí), Khí hải (biển của khí), Quan nguyên (cửa của nguyên khí), Túc tam lý (Vị khí), mỗi huyệt cứu 2-3 phút, sau đó đo lại, sẽ thấy con số thứ nhất của máy đo tăng lên 125-130 rất rõ. Nhìn trên con số hiển hiện trên máy đo chỉ sau 10 – 15 phút được cứu các huyệt trên, cả thày thuốc lẫn bệnh nhân đều có thể hài lòng. Thày thuốc vui vì chẩn đoán và điều trị của mình đúng, có hiệu quả. Bệnh nhân vui vì nhìn thấy hiệu quả bệnh lý của mình tiến bộ, có kết quả tốt…
Con số của máy đo cũng giúp phát hiện thuốc đã dùng chất lượng ra sao. Một bệnh nhân được chẩn đoán là phần khí bị thiếu, được chỉ định cho ngậm sâm (Nhân sâm đại bổ nguyên khí), nhưng ngậm xong, khi đo lại, con số trên máy đo so với trước đó không hề thay đổi. Như vậy, có thể là vị thuốc Nhân sâm đó đã qua sử dụng (ngâm rượu)… làm cho nó không còn khí lực, dược lực nữa, đó chỉ là củ sâm chất lượng kém hoặc củ sâm giả…
Như vậy các con số của máy đo HA không đơn thuần dùng để kiểm tra huyết áp cao thấp mà còn có thể ứng dụng rất rộng trong nhiều lĩnh vực khác nữa.
   Nếu khéo ứng dụng, các thày thuốc Đông y sẽ còn khám phá được rất nhiều điều lý thú, hấp dẫn…
 
Vị trí đo huyết áp
Tây y thường chỉ đo áp huyết bên tay trái để biết tình trạng tim mạch, còn đông y bắt buộc phải đo cả hai tay và hai chân mới biết đủ số liệu để luận bệnh theo lý thuyết đông y.

  • Đo áp huyết ở tay trái biết được Khí của Vị (dạ dày) huyết của Tỳ (lá lách) và hàn hay nhiệt của mạch.
  • Đo bên tay phải biết được khí của Đởm ( mật) huyết của Can (gan), và hàn nhiệt của mạch.
  • Đo ở cổ chân trong bên trái biết được khí của Đại trường và huyết của Thận trái, và hàn nhiệt của mạch.
  • Đo ở cổ chân trong bên phải biết được khí của Bàng quang và huyết của Thận phải và hàn nhiệt của mạch.
Sở dĩ quy định bên trái thuộc về Tỳ Vị và bên phải thuộc về Can Đởm là vì: Huyết áp của con người thường bị dao động (lên xuống) trong những trường hợp:
Khi chúng ta chưa ăn, đo HA và sau khi ăn đo lại HA sẽ thấy có sự thay đổi rõ rệt, như vậy có sự quan hệ giữa áp huyết và Tỳ Vị (ăn uống)…
Huyết áp một người đang bình thường, khi tức giận hoặc gặp áp lực công việc, căng thẳng (stress)… HA sẽ tăng lên một cách bất thường, như vậy có sự liên quan giữa HA và Can Đởm.
Về mặt giải phẫu cơ thể, gan nằm ở bên tay phải còn dạ dày ở bên tay trái ®có thể tạm quy định bên trái liên hệ với Tỳ Vị và bên phải liên hệ với Can Đởm.

ĐO HUYẾT ÁP Ở CHÂN

 
Theo lý thuyết châm cứu thì ở cẳng chân có huyệt Tam âm giao (đỉnh mắt cá chân trong đo lên 4 ngang ngón tay – 3 thốn), là nơi hội tụ của 3 đường kinh âm (Thận, Can, Tỳ).
Bên dưới huyệt Tam âm giao, tại điểm giữa của đường nối đỉnh mắt cá chân trong và gân gót, có huyệt Thái khê, là Nguyên huyệt của đường kinh Thận, nơi người xưa vẫn dùng để chẩn đoán sự sống chết của con người, vì ở đây có mạch đập, gọi là mạch Thái khê.
Nếu để máy đo huyết áp vào vùng này, có thể biết được khí lực và huyết luân chuyển trong 3 kinh Thận, Can và Tỳ mạnh hoặc yếu…
Thận và Bàng quang có quan hệ biểu lý; Can có quan hệ biểu lý với Đởm; Tỳ có quan hệ biểu lý với Vị. Vì ở tay bên trái, đã được dùng để đo áp huyết ở dạ dày (Vị) rồi cho nên ở chân sẽ phải tìm một tạng phủ nào có quan hệ với Vị. Theo lý thuyết ‘đồng danh’ thì cùng tên như nhau sẽ có tác dụng như nhau. Vị là Túc Dương minh Vị, Đại trường là thủ Dương minh Đại trường, vì vậy, chọn dùng Đại trường để thay thế cho Vị.
Thận có Thận dương, Thận âm, cho nên đo ở 2 chân phải và trái sẽ biết được khí lực và huyết của Thận tương ứng.
Chỉ số huyết áp ở chân thường cao hơn ở tay 10mmHg. Thí dụ ở tay 130-140mmHg thì ở chân 140-150mmHg.

 

Phân tích các chỉ số ở chân
Giống như ở tay, 3 con số ở chân cũng sẽ tương ứng với 3 yếu tố liên hệ với huyết:

Tây y Đông y
Số thứ 1 Tâm thu Khí
Số thứ 2 Tâm trương Huyết
Số thứ 3 Nhịp mạch đập Mạch
SỰ QUAN TRỌNG CỦA MÁY ĐO HUYẾT ÁP ĐỐI VỚI ĐÔNG Y
Ngoài tác dụng chẩn đoán về tim mạch theo tây y, máy đo huyết áp (nhất là loại điện tử), có thể cung cấp cho thày thuốc đông y rất nhiều dữ liệu hấp dẫn để chẩn đoán và điều trị bệnh.
Máy đo áp huyết là máy đo áp lực (khí) đẩy huyết (máu), tuy nhiên, trong cơ thể tuần hoàn sẽ khác nhau khi có sự thay đổi 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần.
Theo Đông y, cơ thể con người nếu có bất cứ thay đổi ăn uống (Tinh), thay đổi hơi thở (Khí), hay thay đổi tính tình (Thần) đều làm cho khí huyết bị thay đổi, và muốn biết thay đổi như thế nào một cách chính xác thì cần phải đo áp huyết để cho ra kết qủa bằng con số cụ thể. Vì thế cơ thể khỏe hay yếu đều do 3 yếu tố là Tinh-Khí-Thần.
 
 
TINH
Tinh là sự thay đổi những thức ăn khác nhau mà chúng ta ăn hằng ngày, mỗi loại thức ăn ảnh hưởng trên cơ thể mỗi người mỗi khác sẽ cho ra kết qủa áp huyết khác nhau.
Tinh ảnh hưởng đến cơ thể như thế nào?
Cần nghiên cứu về đặc tính của Tinh để biết phân loại theo nguyên tắc chữa bệnh, chất nào làm tăng hay làm giảm nhịp tim, chất nào tăng nhiệt làm tăng nhịp tim, chất nào làm tăng áp huyết, chất nào làm hạ áp huyết, hay làm tăng giảm van tim… cứ theo dõi thử nghiệm nhiều lần bằng máy đo áp huyết để biết nó thay đổi như thế nào.
Cách thử nghiệm để biết đặc tính của Tinh ảnh hưởng đến cơ thể
Trước khi ăn nên đo áp huyết, sau khi ăn 30 phút lại đo áp huyết, để biết món ăn đó có lợi hay không có lợi cho sức khỏe của mình trong việc trị bệnh áp huyết cao hay thấp…
Thí dụ có người cho rằng cà phê có lợi cho tim mạch hoặc cà phê làm táo bón… nhưng có người lại cho rằng cà phê có hại cho tim mạch hoặc nó làm cho tiêu chảy… đó là do tình trạng áp huyết của mỗi người khác nhau, chứ thật ra cà phê làm tăng áp huyết, tim mạch và thân nhiệt, cứ mỗi ly cà phê áp huyết tăng 2/2mmHg, mạch tăng 2 nhịp.
Nếu người thứ nhất, trước khi uống cà phê, áp huyết là 140/68mmHg mạch 80 thì sau khi uống sẽ là 142/70mmHg mạch 82, nếu mỗi ngày uống 3 ly áp huyết sẽ là 146/74mmHg mạch 86. Kết luận cà phê đối với người này làm tăng áp huyết tâm thu không có lợi, làm tăng áp huyết tâm trương có lợi, và làm tăng nhiệt gây táo bón thì không có lợi.
Còn người thứ hai trước khi uống đo áp huyết là 125/68mmHg mạch 60, sau khi uống 3 ly, đo lại, áp huyết trở thành 131/74mmHg mạch 66 thì mạch vẫn dưới tiêu chuẩn hàn, nếu đang có bệnh tiêu chảy thì vẫn còn bị tiêu chảy.
Những người có bệnh cao áp huyết mà ăn khô mực, cam thảo, sầu riêng, nhãn, ăn nhiều đường làm tăng áp huyết, tăng mạch tim, thí dụ một múi sầu riêng tăng 10/2mmHg, mạch lên 2 nhịp cho nên có người sau khi ăn 1 trái sầu riêng thì gục đầu xuống bàn chết do đứt mạch máu não. Nếu chúng ta có kiểm chứng bằng máy đo áp huyết trước khi ăn đo được 140/80mmHg mạch 80, đây là mạch theo đa số của những người lớn tuổi bị bệnh cao áp huyết đang uống thuốc kiểm soát áp huyết mỗi ngày, chúng ta cứ nghĩ rằng áp huyết được ổn định, ăn sầu riêng sẽ không sao, nhưng sau khi ăn bị tai biến mạch máu não. Thí dụ ăn 10 múi thì áp huyết sau khi ăn sẽ là 240/100mmHg nhịp tim 100 ®rất dễ dẫn đến Tai biến mạch máu não…
 
KHÍ
Khí là hơi thở, trước khi chưa tập thở, thở bình thường thì đo áp huyết, sau khi tập thể dục, chạy bộ, tập khí công… sau 30 phút đo lại áp huyết, chúng ta cũng có kết qủa số đo áp huyết khác với ban đầu, có loại tập làm áp huyết tăng, có loại tập làm áp huyết giảm…
 
THẦN
Thần là tâm lý, bình thường đo áp huyết sẽ khác với lúc tinh thần vui vẻ cười nói sang sảng, hay sau cơn giận dữ la hét, hay buồn, chán đời thở dài, đo lại áp huyết cũng có kết qủa làm tăng hay giảm áp huyết.
Làm thế nào để biết mình ăn những thức ăn đúng, tập luyện khí công, thể dục thể thao hay tập thở đúng, và tinh thần tình cảm tâm lý đúng, thì tất cả những kết qủa số đo áp huyết của mình đem so sánh với áp huyết tiêu chuẩn sẽ biết được, nếu áp huyết của mình cao hơn tiêu chuẩn gọi là dư thừa thì mình bị bệnh cao áp huyết, nếu áp huyết đo bên tay trái cao thì do mình ăn uống những thức ăn quá bổ, ăn không tiêu, nếu áp huyết bên tay phải cao là do gan dư thừa máu làm áp huyết cao…
Máy Đo Huyết Áp Và Tạng Phủ
 
Ngoài cách đo huyết áp ở hai tay bình thường, nhưng khi dùng tay ấn vào một số huyệt như chức năng của Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, Vị, Tiểu trường, Đại trường, hay bất kỳ một đại huyệt hay giao hội huyệt nào, huyết áp đều thay đổi khác nhau, có huyệt làm cho huyết áp xuống rất thấp, có huyệt làm cho huyết áp lên rất cao, có huyệt tăng hàn, có huyệt tăng nhiệt, có huyệt làm tăng nhịp tim đập, có huyệt làm hạ nhịp tim v.v... mặc dù máy đo huyết áp vẫn để ở tay. Điều đó chứng tỏ dùng huyệt cũng có thể chỉnh được huyết áp trở lại bình thường, hay muốn chỉnh riêng từng số, tâm thu, tâm trương, nhịp mạch theo ý muốn, tương đương với hiệu quả của thuốc, từ đó chúng ta có thể biết rằng người xưa gọi các huyệt là ‘nội dược’ để điều chỉnh quân bình âm dương trong cơ thể.
 

Tìm bệnh Khí, Huyết ở Phổi



Ấn huyệt Vân môn hay Trung phủ bên trái thì đo áp huyết bên tay trái, ấn huyệt bên phải thì đo áp huyết bên tay phải, để biết phổi bên nào hư hay thực, hàn hay nhiệt.

 


          Tìm bệnh khí, huyết của riêng tạng Can

          Ấn huyệt Kỳ môn bên phải thuộc Can Tỳ. Ấn huyệt Chương môn bên phải thuộc chức năng Can-Tỳ và để máy đo huyết áp bên tay phải. Ấn huyệt Nhật nguyệt bên phải để biết chức năng hoạt động của túi mật, máy đo đặt bên tay phải.

 

          Tìm bệnh Khí Huyết của Tim
Ấn huyệt Cưu vĩ để biết bệnh bên trái quả tim, để máy đo bên tay trái. Bên phải quả tim, để máy đo bên tay phải.
Còn để máy đo bình thường, không bấm huyệt nào, là đo bệnh tim do ảnh hưởng ăn uống, đặt máy đo bên tay trái. Đặt máy đo bên tay phải là đo tim do chức năng của Can.

 

Tìm bệnh Khí Huyết của Thận

Ấn huyệt Khí hải, đặt máy bên tay trái để biết Tỳ khí và Thận khí; đặt máy bên tay phải để biết Can khí và Thận khí.

Ấn huyệt Ấm giao để biết chức năng Thận thủy của Thận trái, đặt máy bên tay trái, của Thận phải, đặt máy bên tay phải.

 

Tìm bệnh khí, huyết của Vị

Ấn huyệt Trung quản, xem bệnh riêng của bao tử, về hư-thực, hàn-nhiệt, để máy đo áp huyết ở tay trái. Nếu cũng ấn huyệt Trung quản mà để máy đo áp huyết bên tay phải thì xem chức năng Can ảnh hưởng đến bao tử để chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu.
Ấn huyệt Chu vinh bên trái, đo máy bên tay trái, biết bệnh thuộc chức năng Tỳ, Vị hư-thực, hàn-nhiệt.

Ấn huyệt Thiên khê trái, để máy đo bên tay trái, sẽ biết bệnh liên quan đến Phế-Vị-Tỳ.
 
Định bệnh theo Âm-Dương Hư - Thực, Hàn - Nhiệt theo kết qủa máy đo áp huyết
Thí dụ : Áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi trung niên:
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi).
Số thứ nhất là Khí lực thuộc kinh dương:

Nếu cao hơn 130 là khí thực (dư thừa), phải tả bớt cho khí hạ xuống.

Nếu thấp hơn 120 là khí hư (thiếu) phải bổ cho thêm khí tăng lên.
Số thứ hai là Huyết thuộc kinh âm:

Nếu cao hơn 80 là huyết thực, dư thừa, phải tả bớt cho huyết hạ thấp.

Nếu thấp hơn 70 là huyết hư thiếu, không đủ, phải bổ cho huyết tăng lên đúng tiêu chuẩn.
Số thứ ba nhịp tim chỉ Hànhay Nhiệttrên kinh dương hay âm.

Nếu nhịp tim cao hơn 75 là nhiệt phải làm bớt nhiệt.

Nếu nhịp tim thấp hơn 70 là hàn, phải làm tăng nhiệt.
Liên quan đến Tim mạch
Bệnh hở van tim: Trường hợp số thứ hai tâm trương đúng tiêu chuẩn, không do tim lớn hay nhỏ, khi đo áp huyết, máy cũng bị bơm nhồi 2 lần, chứng tỏ van tim đóng mở đúng tiêu chuẩn, nhưng do có vật cản ngay nơi van tim nên đóng không sát, giống như cánh cửa đóng bị vênh, khi chụp hình sẽ thấy rõ.
Nguyên nhân do tâm trương nên hay bị mệt tim khó thở mặc dù áp huyết tốt :
Khi đo áp huyết có số tâm thu và nhịp tim đúng hạn tuổi, nhưng số thứ hai tâm trương làm ra bệnh, có 2 trường hợp:
a- Tâm trương nhỏ hơn tiêu chuẩn, có nghĩa là biên độ hoạt động co bóp của tim hẹp không mở lớn ra được, nguyên nhân do tim suy hay do bẩm sinh.
b-Tâm trương lớn hơn tiêu chuẩn, có nghĩa là biên độ hoạt động của tim mở qúa lớn mà không thu vào chặt nên van tim còn bị hở, gây ra bệnh hở van tim.
 
Tim nhẩy mất nhịp, hẫng nhịp tim: Khi van tim hai bên đóng mở không đồng bộ, số thứ hai tâm trương đo ở hai cánh tay trái phải chênh lệch nhiều, có nhiều nguyên nhân như dầy tâm thất, dầy vách thành tim, nghẹt một bên động mạch hay tĩnh mạch, số thứ nhất tâm thu hai bên tay bên yếu bên mạnh, vận tốc chuyển máu bơm máu không đồng bộ nên mất, nhảy nhịp.
 
Cholesterol đóng cục trong ống mạch quanh tim gây ra bệnh nhồi máu cơ tim: Lý thuyết đông y tìm bệnh về khí và huyết để xếp loại khí huyết hư hay thực ở số thứ nhất, và hàn hay nhiệt ở số thứ ba, còn số thứ hai là sự hoạt động đóng mở của qủa tim xem van tim bị hở hay hẹp, nhẩy nhịp, hẫng nhịp, hoặc cholesterol trong các ống mạch quanh tim. Khi có cholesterol đóng cục quanh tim, đo áp huyết nhiều lần thấy kết qủa lúc cao lúc thấp, là bệnh còn nhẹ, nếu đo liên tục, máy bơm nhồi 2-3 lần và cho ra kết qủa lúc nào cũng cao, mặc dù vẫn đang uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết mỗi ngày, và có dấu hiệu nhói tim ngực, thì tim sắp bị nghẹt dẫn đến nhồi máu cơ tim.
 
Áp huyết liên quan đến gan do tiêu hóa
Nếu đo áp huyết bên tay phải thì kết qủa áp huyết liên quan đến gan.
Người bình thường không bệnh tật, đo áp huyết ở hai tay giống nhau, nằm trong tiêu chuẩn tốt.
Trước khi ăn áp huyết tay phải cao hơn tay trái: Trước khi ăn áp huyết tay phải cao hơn tay trái là chức năng gan đang làm việc tạo men gan, chuẩn bị giúp cho bao tử khi ăn sẽ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn nhanh và hấp thụ chất bổ, đó là áp huyết bình thưòng vẫn nằm trong tiêu chuẩn.
 Sau khi ăn áp huyết bên tay phải thấp hơn tay trái: Sau khi ăn áp huyết bên tay phải thấp hơn tay trái cũng là bình thường, vì chức năng gan đã chuyển men gan sang giúp bao tử hoạt động xong.
 Sau khi ăn áp huyết bên tay phải cao hơn tay trái: Sau khi ăn áp huyết bên tay phải cao hơn tay trái, là chức năng gan hoạt động không bình thường, bệnh nhân không biết đói, và sau khi ăn xong, cảm thấy mệt, vì không có men gan giúp chuyển hóa, khi bao tử ăn vào, gan mới nhận tín hiệu sản xuất men gan để tống thức ăn ra ngoài, không hấp thụ thành chất bổ được, vì can vị bất hòa, không hoạt động đồng bộ.
 
Chẩn đoán định bệnh tiêu hóa ( Bao tử )
Nếu đo áp huyết bên tay trái, thì kết qủa số đo áp huyết lệ thuộc vào bao tử, mặc dù có uống thuốc điều trị kiểm soát áp huyết mỗi ngày, nhưng ít ai để ý đến đo áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn, hai kết qủa áp huyết khác nhau rất nhiều. Có 3 trường hợp xảy ra như sau, được chia thành ba nguyên nhân do Tinh hoặc do Khí hay do cả Tinh và Khí làm ra bệnh:
a. Trước khi ăn, lúc đói áp huyết cao, sau khi ăn 30 phút đo lại thấy áp huyết thấp: Không phải do uống thuốc điều trị bệnh áp huyết, mà do 2 nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất do chức năng bao tử hư yếu không chuyển hóa, đông y gọi là không có vị khí, là khí lực dùng để co bóp bao tử xay nghiền thức ăn thành dưỡng trấp, đó là nguyên nhân do Khí, nguyên nhân thứ hai vị khí tốt xay nghiền thức ăn thành dưỡng trấp, nhưng trong thức ăn đó có loại thức ăn chứa một dược chất tương đương với thuốc làm hạ áp huyết, như chanh, cà chua, cần tây, canh chua, đu đủ, đậu trắng, tỏi, hoặc như món ăn làm hạ áp huyết bằng súp đậu thận trắng… đó là nguyên nhân do Tinh.
b. Trước khi ăn áp huyết thấp, sau khi ăn 30 phút, đo lại, thấy áp huyết cao: Mặc dù bệnh nhân đã uống thuốc điều trị áp huyết vào buổi sáng, và đo trước khi ăn, áp huyết thấp, sau khi ăn không để ý đến áp huyết nữa, nhưng có biết đâu rằng, mỗi lần sau khi ăn thấy mệt, buồn ngủ, nhức đầu, chính là do áp huyết tăng cao mà không ngờ, khi đó áp huyết có thể cao lên đến 190/95mmHg mạch 90. Áp huyết tăng do hai nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất, thuộc Tinh, do bệnh nhân có ăn những chất làm tăng áp huyết như nhiều gia vị cay, nóng, ngọt, bia rượu, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, mít, ổi, măng cụt, cam thảo, khô mực, coca, cà phê,... và đã có nhiều người sau khi ăn gục xuống bàn chết, hay đi dự tiệc hội hè tối hôm trước, ngủ một đêm sáng dậy tê liệt hay chết, đó là nguyên nhân do Tinh. Nguyên nhân thứ hai do ăn nhiều bội thực làm tăng vị khí đưa hơi lên tim, như trong bệnh trào ngược thực quản, đó là nguyên nhân do Khí.
c- Trước khi ăn áp huyết thấp, sau khi ăn bữa sáng áp huyết cao, sau khi ăn bữa chiều áp huyết tăng cao nữa. Thông thường người khỏe mạnh không có bệnh áp huyết, trước khi ăn, áp huyết thấp, sau khi ăn áp huyết cao, đến bữa ăn chiều trước khi ăn áp huyết thấp trở lại, sau khi ăn áp huyết cao vẫn nằm trong tiêu chuẩn tốt.
Còn bệnh nhân càng ăn, áp huyết càng cao thêm là bệnh nhân đã có thêm bệnh bao tử, như vị khí thực, vị khí nhiệt, nếu cơ thể phải uống thêm nhiều loại thuốc chữa bệnh theo cách chữa vào chứng là chữa ngọn, bao tử sẽ là thùng rác chứa nhiều vị thuốc trở thành một hỗn hợp tương phản, sẽ không còn công hiệu trong điều trị mà trở thành độc tố, chỉ làm cho bao tử thực nhiệt thành bệnh loét bao tử, ung thư bao tử, đông y gọi là bệnh phiên vị, lúc đó áp huyết sẽ cao thường xuyên mặc dù có uống thuốc điều trị áp huyết, đó là nguyên nhân vừa do Tinh vừa do Khí.
Theo dõi việc hấp thụ và chuyển hóa thức ăn của dạ dày
Thường người ta dễ bỏ qua không chịu đo áp huyết sau mỗi bữa ăn, để biết chức năng bao tử có làm nhiệm vụ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn có tốt hay không.
Nếu chức năng hấp thụ và chuyển hóa tốt thì trước khi ăn áp huyết tay trái bên bao tử phải rỗng là đói, thì áp huyết thấp tối đa 130mmHg, bên tay phải (gan) áp huyết tối đa cao 140mmHg là gan đang làm nhiệm vụ tiết mật và chất chua cho bao tử biết xót và đói đòi ăn. Nhưng sau khi ăn thì bao tử no, áp huyết tăng tối đa 140mmHg, bên tay phải gan nghỉ ngơi áp huyết xuống thấp tối thiểu 130mmHg.
Trong trường hợp ăn bữa cơm sáng áp huyết bên tay trái (dạ dày) 140mmHg mà đến bữa cơm chiều áp huyết tay trái không xuống vẫn còn cao 140mmHg, có khi bao tử lên men làm đầy hơi dội khí lên tim làm áp huyết cao hơn đến 150mmHg, nếu không đo thì không biết, thay vì cần phải bỏ bữa ăn chiều cho áp huyết đừng tăng cao, nhưng lại ăn vào làm áp huyết tăng cao theo lượng thức ăn và chất bổ của thức ăn, ăn xong làm mệt đi nghỉ ngơi, lúc đó nếu đo áp huyết sẽ thấy đã tăng đến 180mmHg ngủ qua đêm khí bao tử tăng cao lúc đó áp huyết có thể lên tới 220mmHg đứt mạch máu não mà không biết vì không đo sau khi ăn, bệnh nhân ngủ say trong giấc ngủ ngàn thu.
Chênh lệch áp huyết tay trái (dạ dày) và tay phải (gan) là 10mmHg thì sự chuyển hóa mạnh nhanh 100%; Nếu chệnh lệch ít (thí dụ 3mmHg) thì chuyển hóa có 30%, thức ăn còn đọng lại trong bao tử lên men làm đầy hơi, ợ hơi, sẽ làm tăng áp huyết, lâu ngày bao tử nóng bị loét bao tử, thức ăn cũ ứ đọng trong bao tử mà bao tử không đủ lực co bóp tống nó ra ngoài thì đáy bao tử cứng dần làm đau khi ấn vào, dễ dẫn đến ung thư bao tử.
Ngược lại áp huyết sau khi ăn, đo bên tay trái lại xuống thấp, bên tay phải lại lên cao là chức năng bao tử sau khi ăn vào thì bị liệt nó không đủ sức làm việc dễ gây ra buồn ngủ, uể oải, mệt mỏi; Đó là chức năng chuyển hóa nghịch thành bệnh ăn không tiêu. Sau khi ăn, tiêu hóa tốt thì áp huyết bên tay trái cao 140mmHg, sau 4 tiếng áp huyết tay trái bên bao tử lại đói xuống thấp 130mmHg khiến thèm ăn, đó là chuyển hóa thuận.
 
Chẩn đoán định bệnh thận
Số thứ 1– Khí, có thể có 2 trường hợp:
Thấp hơn mức chuẩn suy ra Khí bị suy yếu (Khí hư): hoạt động, cử động của chân yếu, chân mỏi, yếu, đi lại khó khăn…
Cao hơn mức chuẩn suy ra Khí tăng (Khí thực), khí bị nghẽn, gặp trong trường hợp bụng to, béo phì, uống nhiều nước, bia, nghẽn khí ở háng, phì đại tiền liệt tuyến.
Số thứ 2– Huyết, có thể có 2 trường hợp:
Thấp hơn mức chuẩn, nhỏ hơn 70 (< 70) suy ra Huyết suy (Huyết hư): Hẹp van tĩnh mạch chân do thiếu máu xuống chân, chân bị teo…
Cao hơn mức chuẩn, lớn hơn 90 (> 90) suy ra Hở van tĩnh mạch chân, chân sưng phù do khí, nước, máu tụ lại, ứ trệ không thông…
Số thứ 3– Nhịp mạch, có thể có 2 trường hợp:
Nhỏ hơn 70 (< 70): hàn, khí huyết không thông.
Lớn hơn 90 (> 90): nhiệt, viêm tĩnh mạch chi dưới.
Huyết áp liên quan đến các bệnh ở chân

Đo huyết áp dưới cổ chân trong nơi huyệt Tam âm giao:

Huyết áp tâm thu ở dưới chân:

Huyết áp tâm thu ở dưới chân chỉ khí lực ở chân, cao hơn ở tay từ 10 đến 20mmHg là đúng tiêu chuẩn.

Sẽ xảy ra các trường hợp sau:

  • Nếu cao hơn tiêu chuẩn nhiều thì chân bị sưng, ứ tắc, nặng, tê, đau.
  • Nếu thấp hơn tiêu chuẩn nhiều là chân yếu không có sức, teo chân, liệt chân.

Huyết áp tâm trương dưới chân:

  • Nếu cao hơn tiêu chuẩn là có dấu hiệu ống mạch chân bị trương căng phình do ứ nước, mạch lươn, phình tĩnh mạch, nguyên nhân do uống nhiều nưốc làm bụng dưới to nặng đè chặn nơi động mạch háng.
  • Nếu thấp hơn tiêu chuẩn là mạch máu ở chân bị teo, do thiếu máu, có dấu hiệu gân chân và dây thần kinh bị co rút đau nhức, tê, chứng tỏ thận thiếu nước, khô xương, thoái hóa cột sống lưng, đĩa đệm bị chèn ép gọi là bệnh gai cột sống, năm ngón chân tê cứng mất cảm giác.

Nhịp mạch đập ở chân:

  • Nếu mạch đập chậm hơn tiêu chuẩn là thiếu máu, và chân lạnh, co rút đau.
  • Nếu mạch đập nhanh hơn tiêu chuẩn, chân nóng, thận nhiệt, sưng đau nhức.

Cả 3 số của hai chân cao hơn tiêu chuẩn, có dấu hiệu bệnh viêm sưng tuyến tiền liệt, bệnh đường tiết niệu, ung thư tử cung, sa tử cung dây chằng.

 Bên quá cao, bên bình thường, bí tiểu, chân lạnh là có dấu hiệu đau lưng một bên xuyên ra phía rốn liên quan đến sạn thận; hai bên đều thấp dưới tiêu chuẩn là chân vô lực, có dấu hiệu liệt chân, teo chân.

Cao hơn tiêu chuẩn
Thấp hơn tiêu chuẩn
Tâm thu
Chân bị sưng, ứ tắc, nặng, tê, đau.
Chân yếu không có sức, teo chân, liệt chân.
Tâm trương Ống mạch chân bị trương căng phình do ứ nước, mạch lươn, phình tĩnh mạch, nguyên nhân do uống nhiều nước làm bụng dưới to nặng đè chặn nơi động mạch háng. Mạch máu ở chân bị teo, do thiếu máu, có dấu hiệu gân chân và dây thần kinh bị co rút đau nhức, tê, chứng tỏ thận thiếu nước, khô xương, thoái hóa cột sống lưng, đĩa đệm bị chèn ép gọi là bệnh gai cột sống, năm ngón chân tê cứng mất cảm giác.
Nhịp mạch Chân nóng, thận nhiệt, sưng đau nhức. Thiếu máu, và chân lạnh, co rút đau.

LIÊN QUAN GIỮA KẾT QUẢ MÁY ĐO VÀ THỨC ĂN

  Biết được thức ăn thuốc uống nào làm tăng hay giảm áp huyết có phù hợp với nhu cầu cơ thể đang cần hay không.
Trước và sau khi ăn 1 món, uống 1 loại thuốc hay ăn 1 loại trái cây, đều phải đo áp huyết ở 2 tay, trước và sau khi ăn 30 phút, rồi so sánh kết qủa làm tăng hay giảm khí lực, tăng hay giảm lượng máu qua tim, tăng hay giảm nhịp tim, từ đó biết cách chọn thức ăn thuốc uống phù hợp cho khỏi bệnh.
Thí dụ : ăn 1 trái hồng, 1 múi sầu riêng, hay 10 trái nhãn hoặc chôm chôm, hoặc 5 múi mít, hoặc ngậm mấy miếng cam thảo, uống 1 lon cô ca.... đo áp huyết thấy tăng lên 10mmHg, nếu người đang có áp huyết cao thì sẽ làm tăng thêm áp huyết, bệnh nặng thêm thì không hợp, những thứ này chỉ có lợi cho ngươi có áp huyết thấp.
Ngược lại, khi ăn gạo lức muối mè trong 1 tháng, uống nước đậu xanh, uống trà xanh, ăn canh củ sen, khổ qua... đo áp huyết thấy càng ngày càng giảm, nếu người có bệnh áp huyết thấp thì áp huyết sẽ thấp hơn khiến người mất khí lực bị ốm gầy dần thì không có lợi, chỉ có lợi với những người có bệnh cao áp huyết.
Cũng nhờ phương pháp kiểm soát các món ăn thức uống này, chúng ta biết món ăn thức uống nào hợp hay không hợp, đó là cách ngừa bệnh, không làn cho tình trạnh bệnh nặng thêm.
 
Biết chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu
Theo lý thuyết đông y khi chúng ta biết đói là do chức năng gan làm việc trước để tiết chất chua và mật sang bao tử khiến chúng ta xót bụng, bị đói, muốn ăn, như vậy khi đo áp huyết bên tay phải thuộc chức năng gan thì áp huyết đo bên tay phải cao ở mức tối đa trong tiêu chuẩn tuổi, áp huyết đo bên tay trái thuộc chức năng bao tử chưa ăn bụng đói thì áp huyết sẽ ở mức tối thiểu trong tiêu chuẩn.
Thí dụ tuổi trung niên áp huyết là : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75
Khí lực 120 là tối thiểu, số 130 là tối đa trong tiêu chuẩn tuổi.
 
Có 3 trường hợp theo dõi áp huyết để biết chức năng hấp thụ chuyển hóa tốt hay xấu :
a-Chức năng hấp thụ chuyển hóa thuận được bao nhiêu phần trăm :
Khi bao tử đầy, đo áp huyết bên tay trái sau khi ăn no sẽ tăng cao ở mức tối đa, bên gan nghỉ ngơi áp huyết hạ xuống mức tối thiểu, và độ chênh lệch 10mmHg thì sau 4 tiếng đồng hồ thức ăn trong bao tử được chuyển hóa hết, áp huyết trong gan lại sẽ tăng tối đa làm bao tử đói, và áp huyết trong bao tử lại hạ thấp tối thiểu để lại thèm ăn, như vậy là chức năng hấp thụ và chuyển hóa thuận đúng quy luật.
Nếu 2 tay áp huyết chênh lệch 5mmHg thì chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn giảm một nửa, thí dụ bao tử chứa 500g thức ăn, nếu chuyển hóa được một nửa, thì thức ăn còn đọng lại trong bao tử 250g, tích lũy lâu ngày trong bao tử sẽ tăng nồng độ acid làm ợ chua, ợ chất đắng lên họng, đưa khí lên tim làm tăng áo huyết và phần còn lại kết khối đóng cục cứng trong bao tử, sờ ấn ở bụng thấy đau ở một chỗ, lâu ngày thành ung thư bao tử, phải cắt một phần bao tử nơi bướu do thức ăn dư thừa thối loét tạo ra bướu đó.
Lý do chức năng hấp thụ và chuyển hóa ít, do ăn qúa no dư thừa, hay vẫn ăn như bình thường mà khí lực của vị khí co bóp hết năng lượng co bóp, do thiếu đường chuyển hóa, đo đường-huyết sẽ thấy thấp dưới tiêu chuẩn.
b-Chức năng hấp thụ chuyển hóa nghịch :
Ngược lại, chức năng bao tử và gan hoạt động không đồng bộ thì khi bụng đói, đo áp huyết bên trái vẫn cao ở mức tối đa, áp huyết bên gan ở mức tối thiểu là gan chưa tiết mật và acid, nhưng sau khi ăn, gan mới tiết mật và acid để làm tiêu thức ăn cũ nên chúng ta đo áp huyết sau khi ăn thì áp huyết bên gan lại tăng cao, áp huyết bên bao tử lại xuống thấp, có nghĩa là thức ăn vừa ăn vào bao tử thì bao tử lại nghỉ không làm việc nữa. Nếu không theo dõi bằng máy đo áp huyết chúng ta cũng biết được, sau khi ăn thì cơ thể mệt, buồn ngủ, đó là bao tử muốn nghỉ dưỡng sức.
Đông y gọi bệnh này là gan-tỳ bất hòa, khi ăn xong thì đau tức hông sườn, là bệnh do chức năng tiết mật và acid của gan. Nguyên nhân do gan có bệnh như thiếu máu, thiếu mật, gan teo, gan sưng...


CHẨN ĐOÁN VÀ ĐỊNH BỆNH HƯ THỰC QUA MÁY ĐO HUYẾT ÁP

Từ số đo áp huyết sẽ có những trường hợp xảy ra như sau : Bệnh thực chứng ở một bên tay, thực chứng ở 2 bên tay, bệnh thực trong thực, bệnh hư chứng một bên tay, hư chứng hai bên tay, bệnh hư trong hư, bệnh nửa thực nửa hư, bệnh khí thực huyết hư, bệnh khí hư huyết thực, bệnh nhiệt chứng, bệnh hàn chứng, bệnh nhiệt giả hàn, bệnh hàn giả nhiệt….

Dưới đây là những thí dụ kết qủa từ số đo áp huyết để xếp loại bệnh :

Bệnh thực chứng ở một bên tay
+ Chênh lệch ở 2 tay, một tay là thực chứng số đo áp huyết cao hơn tiêu chuẩn, như 160/92mmHg mạch 80, một tay bình thường như 130/80mmHg mạch 70, bệnh nhân sẽ có dấu hiệu đau tê tay, lúc đó hỏi bệnh nhân đau tay nào bệnh nhân sẽ trả lời đau tay bên áp huyết cao, vì: khi thần kinh ngoại biên bị co rút làm đau tê tay là do áp huyết tăng cao, ngược lại : khi áp huyết tăng cao, thần kinh ngoại biên sẽ bị co rút làm đau tê tay... Cách chữa là châm nặn máu 5 đầu ngón tay bên cao, rồi đo lại áp huyết xuống bình thường thì tay cũng hết đau.

Thực chứng ở 2 bên tay

Đo áp huyết ở hai tay cao hơn tiêu chuẩn mà chúng ta thường gọi là bệnh cao áp huyết, nhưng nhờ số đo áp huyết, chúng ta biết được 3 trường hợp sau :
a- Khi hai bên số đo tương đương bằng nhau không chênh lệch đáng kể như tay trái 160/92mmHg mạch 80, tay phải 162/92mmHg mạch 82. Kết luận bệnh nhân bị bệnh cao áp huyết mà chưa dùng thuốc điều trị bệnh cao áp huyết.
b- Khi hai bên số đo áp huyết cao nhưng có chênh lệch, bên phải cao hơn bên trái chứng tỏ bệnh nhân bị bệnh cao áp huyết, đang dùng thuốc điều trị áp huyết nên tay trái mới xuống, nhưng tay phải lại cao hơn tay trái, do ảnh hưởng của thuốc giãn mạch.
c- Khi hai bên số đo thấp hơn tiêu chuẩn dưới 100/60mmHg mạch 60-70, bệnh nhân cảm thấy chân tay liệt dần không có sức, không do stroke, đi đứng thường hay ngã không do bị vấp ngã mà do hai chân yếu không có sức, theo đông y khí công gọi là bệnh áp huyết thấp cần phải bổ tăng khí huyết cho áp huyết lên cao bình thường trở lại, nhưng ngược lại, tiền sử bệnh nhân bị bệnh cao áp huyết cần phải uống thuốc trị bệnh cao áp huyết đến suốt đời không được bỏ mặc dù áp huyết xuống thấp.

 

Bệnh thực trong thực ở hai tay: Trường hợp đo áp huyết hai bên tay, bên trái 140/90mmHg mạch 75, bên phải  150/95mmHg mạch

 75, chứng tỏ bệnh nhân này có bệnh cao áp huyết và có uống thuốc điều trị bệnh cao áp mới được một thời gian ngắn, nên 2 bên tay là bệnh thực nhưng bên phải là thực trong thực, nguyên nhân do áp lực khí trong gan vẫn có bệnh can khí thực, nếu mạch cao hơn 100 là can khí thực nhiệt. Ngược lại, nếu hai số đổi lại tay trái 160, tay phải 140, nếu vẫn đang dùng thuốc chữa áp huyết mà không xuống bên tay trái là do vị khí thực bởi chức năng bao tử đầy hơi (thực chứng), nếu mạch bên tay trái 100 trở lên là bao tử bị thực nhiệt, để thời gian lâu mạch tăng cao thường xuyên là bệnh loét trường vị.

 

Bệnh hư chứng một bên tay: Chênh lệch mạch ở 2 tay, một bên áp huyết cao, như bên tay trái 150/95mmHg mạch 110, và tay phải áp huyết bình thường 125/80mmHg mạch 75, bệnh này không phải áp huyết cao do thực chứng mà do hư chứng của suy tim. Đem mạch cao 110 trừ cho tiêu chuẩn như mạch bình thường là 75, thì tim đã phải đập nhanh hơn 35 lần. Lấy số đo áp huyết 150 trừ đi 35 thì áp huyết thực sẽ là 115/60mmHg mạch 75, nguyên nhân do can khí hư là mẹ của tâm không cung cấp năng lượng nuôi con đủ khiến suy tim, cả hai can hư, tâm hư thuộc âm hư sinh nội nhiệt mới hiện ra mạch hai bên không đều nhau. Nếu bệnh này không biết điều chỉnh ăn uống thuộc Tinh, nếu có uống thuốc áp huyết suốt đời cũng không thể nào ổn định được.

 

Bệnh hư chứng hai bên tay: Áp huyết đo hai bên tay thấp dưới 110/70mmHg cũng thuộc hư chứng nhưng tùy theo mạch để phân biệt bệnh nặng nhẹ khác nhau, có nguy hiểm hay không.

Thí dụ 110/70mmHg mạch 75 là người bình thường không có bệnh.

Nếu 110/70mmHg mạch 65 thân nhiệt bị hàn, đầu chân tay lạnh, dễ bị nhiễm cảm lạnh.

Nếu 110/70mmHg mạch 55 người luôn lạnh vì thiếu huyết nhiều nhưng khí còn tạm đủ.

Nếu 110/70mmHg mạch 110 là huyết bị nhiễm trùng, người bị nội nhiệt, mạch tim đập nhanh, có nghĩa áp huyết thực rất thấp do thiếu khí. Nếu lấy tiêu chuẩn bình thường mạch 80, thì vì thiếu máu tuần hoàn, nên tim phải bơm đập nhanh thêm 30 nhịp khí mới lên được 110 để giúp khí đẩy huyết lưu thông đủ một chu kỳ châu thân, chứ áp huyết thật sẽ là 110-30 còn 80 là bệnh thiếu máu, chóng mặt, hay quên, hay lo sợ, mất ngủ, tiêu chảy… những bệnh này muốn khỏi phải điều chỉnh cách ăn uống cho tăng khí, tăng huyết, tăng nhiệt…

 
 
 

 

 
Bệnh hư trong hư ở hai tay: Áp huyết tay trái 105/67mmHg mạch 65, tay phải 100/60mmHg mạch 60, người có áp huyết thấp như trên khi đi khám bác sĩ tìm không ra bệnh, vẫn cho là bình thường. Theo đông y khí công, bệnh này thuộc bệnh mãn tính, bệnh nhân không biết trong người mình đang tiềm ẩn một bệnh nan y nếu không chữa kịp lúc. Nếu bắt mạch theo đông y, là bệnh hư chứng, thiếu khí thiếu huyết, chân tay lạnh. Về ăn uống, bệnh thiếu máu kỵ ăn chất chua sẽ phá mất máu, áp huyết càng xuống thấp có những số đo áp huyết khác biệt cho từng bệnh như:  
Áp huyết số đầu giữ nguyên như 110 nhưng mạch thuộc huyết tăng trên 80, đối với người thường có mạch 80 là bình thưòng, nhưng đối với người luôn có mạch 60 bị tăng lên 80 có nghĩa là mạch phải đập nhanh lên 20 lần so với bình thường, thì áp huyết 110 trừ đi 20. Áp huyết thực trong người bệnh nhân bây giờ là 80, như vậy sẽ có dấu hiệu nội nhiệt nhưng sợ lạnh thuộc chứng dương hư tự hãn, hồi hộp sợ hãi, mất ngủ, hay bị xuất mồ hôi lạnh, hay quên, rụng tóc.
Nếu áp huyết thấp hai tay đều dưới 90-80/60mmHg mạch 60 sẽ có dấu hiệu hốt hoảng, lo sợ, mất trí nhớ, nói lảm nhảm, tây y chẩn bệnh thuộc bệnh tâm thần, điên. Đối với đông y do khí huyết thiếu không đủ máu và oxy nuôi thần kinh não bộ, cần bổ khí và huyết cho đúng tạng phủ để phục hồi lại áp huyết bình thường là khí và huyết được đầy đủ là khỏi bệnh ngay trong vòng 1 tháng.
Trường hợp hai tay áp huyết thấp và hai tay chênh lệch nhau nhiều như một bên 105/70mmHg mạch 70, một bên 88/60mmHg 65, sẽ có những bệnh nhẹ như đau nhức cổ gáy vai tay do thiếu khí huyết, thoái hóa xương cổ, tay đau không cử động được… nặng hơn nữa là đau nửa đầu bên áp huyết thấp, nặng hơn nữa là bướu sọ não bên áp huyết thấp, khi áp huyết hai bên xuống 80/60mmHg mạch 60 sẽ đau nhức toàn thân.
Ngược lại, trường hợp áp huyết 90/60mmHg vừa thiếu khí thiếu huyết, nhưng mạch bỗng nhiên cao hơn 120, thân nhiệt nóng, người sốt, sợ lạnh, đau nhức toàn thân phát khóc, khi xét nghiệm máu mới khám phá ra bệnh ung thư máu cấp tính cũng đã muộn.
 

Bệnh khí thực huyết hư ở hai tay: Áp huyết đo ở hai tay đối với tây y là bình thường như 142/90mmHg mạch 58. Số đầu, là số đo khí trên 140 là thực, nhưng mạch 58 dưới tiêu chuẩn 70-80 gọi là huyết hư, nhưng chênh lệch hai tay khác nhau là một bệnh chứng, như tay trái  142/90mmHg mạch 58, tay phải 165/mmHg mạch 58, cũng là khí thực huyết hư, cơ thể chắc chắn có bệnh, đã có nhiều trường hợp áp huyết của nhiều bệnh nhân đều như vậy nhưng mỗi người có một bệnh khác nhau, như có người khai bệnh đau nhức đầu bên phải, có người đau hông sườn , vì áp huyết cao bên vị trí gan, có người khai đau nhức cánh tay phải, có người khai mắt đỏ bên phải, có người khai tai phải bị ù, có người khai sưng hạch cổ, sưng tuyến giáp trạng, đau cổ họng phải, có người khai vẫn đang dùng thuốc trị áp huyết nhưng tay bên phải bị đau dơ lên cao không được…, nếu ngược lại áp huyết cao nhiều bên tay trái thì có người khai ăn bị ợ hơi, hôi miệng, đau răng, ợ chua, miệng đắng, đau tay vai bên trái dơ lên không được…Tất cả những bệnh kể trên khi làm hạ áp huyết xuống bình thường thì bệnh sẽ khỏi, như vậy các dấu hiệu bệnh khám theo máy đo áp huyết đề do nguyên nhân nào làm tăng áp huyết, muốn tìm nguyên nhân phải để máy đo áp huyết ở tay, bấm ngón tay cái vào từng huyệt liên quan đến tim, can, tỳ, vị, tiểu trường, thận, đại trường để ý xem khi bấm huyệt nào áp huyết tăng cao hay thấp vượt ra ngoài tiêu chuẩn, lúc đó mới biết rõ nguyên nhân hư thực do tạng phủ nào và phải chữa theo nguyên tắc ngũ hành.

 

Bệnh khí hư huyết thực ở hai tay: Áp huyết tay trái thấp dưới 110/70mmHg mạch 130 hay tay phải 95/68mmHg mạch 110 vẫn là bệnh khí hư người lạnh, huyết thực, mạch đập nhanh thuộc âm hư nội nhiệt mà sợ lạnh, những bệnh này cũng thuộc nan y thể hiện ở nhiều bệnh như chóng mặt nhức đầu xây xẩm, mất ngủ, lo sợ, khi nóng khi lạnh, bệnh tâm thần, mất trí nhớ, hơi thở nhanh gấp, mau mệt, ăn uống không tiêu , bụng trướng đầy…đo áp huyết khi bấm trên huyệt liên quan đến tạng phủ sẽ tìm ra được nguyên nhân bệnh của tạng phủ.

Nếu tính theo mạch bình thường là 80, mạch đã đập nhanh hơn 50, thì áp huyết thực tay trái là 60 và mạch tay phải đã đập nhanh hơn 30 thì áp huyết thực tay phải là 65. Nếu thực sự một người có áp huyết như vậy con người sẽ dễ bị chết, cho nên cơ thể tự điều chỉnh cho phù hợp vớ thể trạng, nhưng đông y biết lý luận như thế nên mới chú trọng đến cách chữa chỉ làm hạ nhịp mạch đập của tim, vì nó cũng là trường hợp thiếu máu mà tây y không  biết chỉ chữa vào tim, trong khi đông y chữa vào huyết, dùng sirop bổ máu Đương Quy Tửu, khí và huyết sẽ tăng lên bình thường, khi huyết đủ  thì mạch sẽ hòa hoãn chậm lại bình thường, vì thế thầy thuốc đông y  bắt mạch bệnh của một bệnh nhân thấy mạch hòa hoãn (70-80) là bệnh đã thuyên giảm.

Số đo huyết áp chỉ hư giả thực, thực giả hư

Có bệnh nhân khi đo huyết áp, tay bên phải cao 220/140mmHg mạch 44, tay bên trái 160/120mmHg mạch 120.Trường họp này, huyết áp tay phải là thực và hàn, tay trái là thực và nhiệt. Huyết áp tay phải liên quan đến gan, tay trái liên quan đến bao tử, như vậy thuộc chứng mộc thổ (Can Vị) bất hòa, hàn nhiệt tương tranh.
 
Bệnh nhiệt chứng: Trường hợp một người bình thường, khi bị nhiễm trùng, cảm sốt, áp huyết trước khi chưa bị bệnh, áp huyết trung bình là 130/80mmHg, mạch 80, nhưng khi bệnh sốt nhiệt áp huyết lên 140/90mmHg mạch 120 trở lên đó là bệnh nhiệt chứng. Tìm nguyên nhân khi đo áp huyết ở các huyệt của tạng phủ để điều chỉnh.
 
Bệnh hàn chứng: Trường hợp áp huyết bình thường nhưng khi bệnh sốt rét, ho cảm lạnh, thân nhiệt xuống thì áp huyết có thể giữ nguyên hay xuống thấp một chút, nhưng mạch sẽ nhảy yếu chậm hơn, từ trung bình 80 xuống còn 60-65, đó là bệnh thuộc hàn chứng, muốn chữa tận gốc phải tìm nguyên nhân khi đo áp huyết ở tạng phủ để điều chỉnh.
Số đo huyết áp chỉ hư hàn
Vớisố đo huyết áp của một người là 90/75mmHg, mạch 60, chân tay mát hay hơi lạnh, đối với Tây y, đó là khí huyết không đủ nuôi khắp cơ thể, nếu khí huyết không lên đầu sinh chóng mặt, hay quên, tóc rụng, Tây y tìm không ra nguyên nhân, nếu khí huyết không nuôi cơ quan Tạng Phủ nào thì cơ quan Tạng Phủ đó sẽ bị bệnh. Khi người có huyết áp thấp mà tuổi càng cao, chân tay yếu, rất khó tìm ra bệnh.
Những trường hợp huyết áp chỉ hư hàn đa số là mầm mống ung thư loại mạn tính như ung thư máu mạn tính. Qua xét nghiệm máu, kết quả cũng nằm trong tiêu chuẩn, nhưng để ý theo dõi kết quả từng kỳ về hồng cầu, lần thứ nhất kết quả nằm trong tiêu chuẩn bên tối đa, dần dần nằm trong tiêu chuẩn tốỉ thiểu, khi nào lọt ra ngoài dưới tiêu chuẩn, lúc đó mới kết luận là tủy bất sản, tế bào tủy không sinh sản ra hồng cầu thì đã quá muộn để chữa trị.
 
Số đo huyết áp chỉ hư nhiệt
Hư chỉ về Khí là số đầu của máy đo, nhiệt là số thứ ba chỉ mạch tim đập, thí dụ một bệnh nhân có số đo huyết áp rất thấp so với tiêu chuẩn như 85/65mmHg mạch 120, số 85 là hư, số 120 là nhiệt, đo nhiệt độ, đầu trán, chân tay nóng, da khô, lưỡi khô, sắc mặt đỏ bầm tối. Nguyên nhân vừa thiếu khí vừa thiếu huyết, cần phải bổ khí và huyết.
 Số đo huyết áp chỉ hư nhiệt giả hàn
Nếu bệnh nhân có số đo huyết áp như trên (85/65mmHg mạch 120), nhưng mặt trắng xanh, môi lưỡi khô, tay chân lạnh, đắp chăn, mặc áo ấm, nếu không phải thầy giỏi không thể biết được chứng nghịch với mạch là nhiệt giả hàn, nhưng nhờ máy đo huyết áp chỉ nhịp mạch 120 là nhiệt, trong khi bệnh nhân lạnh là giả hàn, chữa sai lầm, bệnh nhân có thể chết ngay sau khi chữa (hàn ngộ hàn tắc tử).
Với trường hợp huyết áp của bệnh nhân 115/75mmHg mạch 120. Trường hợp bệnh nhân ung thư, nếu mạch 120 chân tay nóng là bệnh hư-nhiệt do thiếu máu, nếu chân tay lạnh là hư nhiệt giả hàn, vừa thiếu máu vừa thiếu khí, muốn biết khí lực thực trong cơ thể bệnh nhân, lấy mạch 120 trừ cho tiêu chuẩn 75, mạch đã phải đập nhanh hơn 45 lần, lấy số đo khí 115 trừ 45, huyết áp thực sẽ là huyết áp bên lề cửa tử 70/75mmHg mạch 75.
Số đo huyết áp chỉ hư hàn giả nhiệt

Trường hợp huyết áp 88/65mmHg mạch 55, số88 chỉ hư, mạch 55 chỉ hàn, nhưng bệnh nhân chân tay nóng, đổ mồ hôi dầm dề, người cảm thấy mệt mỏi mất sức, chân tay vô lực, nói không ra hơi, không nhấc tay chân cử động được. Trường hợp này theo Đông y gọi là thoát dương, cho uống Đương quy tửu pha với nước gừng nóng vừa bổ khí, vừa bổ huyết, liễm dương, cầm mồ hôi, người mát trở lại.
Bệnh nhiệt giả hàn hoặc hàn giả nhiệt: Bệnh hàn giả nhiệt hay nhiệt giả hàn khi đo áp huyết có mạch lúc cao hơn 120 rồi xuống thấp dưới 60, có khi mạch nhanh ở tay này, thấp ở tay kia, thường gặp ở bệnh sốt xuất huyết.
Trường hợp bệnh nan y như viêm màng não thì áp huyết cao trên 140 nhưng mạch cũng lúc qúa nhanh trên 120 thuộc bệnh cấp tính, khi mạch đập qúa chậm thuộc bệnh mãn tính.
Có loại bệnh mãn tính không tìm ra bệnh cụ thể để cho uống đúng loại thuốc như áp huyết 142 mạch 60 ở tay này, mạch 70 ở tay kia, tây y không tìm ra bệnh, nhưng khi bệnh trở thành cấp tính, mạch hai bên tay tăng cao nhưng vẫn chênh lệch từ 110 đến 130 thường bị sốt mê man trong bệnh viêm màng não.
 
Huyết áp giả – Huyết áp thật
Trước hết đo áp huyết thực ở hai cánh tay, có những trường hợp khác nhau xẩy ra sau đây
a- Áp huyết tự nhiên ở hai tay bằng nhau dưới 140/90mmHg mạch 75 là người không bị bệnh áp huyết.
b- Áp huyết 2 tay cao bằng nhau 150/95mmHg là người có bệnh cao áp huyết, mà không uống thuốc chữa bệnh áp huyết.
c- Áp huyết tay bên trái thấp 140/90mmHg mạch 75, bên tay phải 150/90mmHg mạch 78 là bệnh nhân đang uống thuốc chữa cao áp huyết.
d- Áp huyết tay trái 135/90mmHg mạch 72, tay phải cao hơn nhiều 160/95mmHg, mạch 80, có dấu hiệu tê 5 ngón tay phải, đau cổ gáy tay vai phải, không dơ cánh tay lên đươc. Nếu chữa thuốc giảm đau hau giải phẫu thần kinh hay gân cổ tay, vai là chữa ngọn. Nguyên nhân chính là áp huyết cao, thần kinh ngoại biên bên tay phải bị co thắt làm đau. 
e- Áp huyết tự nhiên ở một tay tốt như 120-130/80mmHg mạch 65-75, một tay qúa thấp dưói 100/65mmHg mạch 65. Bên nào thấp là nửa đầu bên đó bị đau thiên đầu thống, tây y gọi là migraine, do tắc ống mạch dẫn máu ở sau tai lên nuôi não là huyệt Ế phong. Bấm giữ huyệt này lâu trong thời gian đang đo áp huyết bên thấp, áp huyết nửa bên đầu sẽ tăng cao hơn 140/90mmHg, lúc đó mặt đỏ hồng, trán nóng ấm rịn mồ hôi, và đo lại áp huyết lên tự nhiên khoảng 110/80mmHg. Bấm huyệt Ế phong một lần nữa cho áp huyết lên hơn 145/90mmHg, sau đó đo áp huyết tự nhiên ở cả 2 tay thấy xuống bằng nhau khoảng 110-115/80mmHg mạch 65-70. Như vậy áp huyết bất bình thường trước khi chưa điều chỉnh là áp huyết giả làm ra bệnh.
f- Đo áp huyết hai tay thấp dưới 110/70mmHg mạch 65, đối với tây y là áp huyết tốt, nhưng bệnh nhân vẫn bị mệt, chóng mặt, rụng tóc, mất trí nhớ, kém ăn, mặt mất sắc không có thần, tinh thần suy nhược, hay phải chữa đau cổ gáy tai vai kinh niên mà không khỏi. Đây là áp huyết giả, khi bấm huyệt điều hòa khí thông toàn thân, áp lực khí của lục phủ ngũ tạng chia đều, lúc đó áp huyết thực xuống ở cả 2 bên tay còn 95/60mmHg mạch 60, cần phải uống thuốc bổ máu để áp huyết lên đúng và đủ mới tránh được những bệnh ung thư sọ não vì thiếu máu não và máu toàn thân.
g- Nếu áp huyết đo bình thường ở 2 tay thấp dưới 100/65mmHg mạch mạch 65 là thiếu máu bẩm sinh, khi lớn tuổi áp huyết vẫn không lên do ăn uống kiêng khem, ăn chay, không có chất bổ máu, những người này thường hay bị bệnh ung thư, vì hồng cầu mất dần, bạch cầu tăng. Nếu phụ nữ, thường ung thứ vú sau di căn sang ung thư tử cung, đàn ông thường ung thư phổi di căn sang gan hay bao tử
h- Những người có áp huyết 125/80mmHg mạch lúc nào cũng cao trên 110, tây y cho rằng áp huyết tốt, chỉ có mạch hơi cao. Thực ra bệnh này do thiếu lượng máu trong cơ thể trầm trọng, áp huyết giả đã ‘đánh lừa’ thày thuốc. Áp huyết thật sự của loại người này là 95/65mmHg mạch 80. Nếu mạch 80 không đủ lực bơm máu tuần hoàn cho đủ một chu kỳ toàn thân, nên tim phải đập nhanh thêm 30 lần nữa trong một phút, làm áp huyết tăng giả lên thêm 30 mới được 125.

 
ĐIỀU CHỈNH BỆNH THEO KẾT QUẢ MÁY ĐO HA
Cách điều chỉnh bệnh theo máy đo áp huyết là chữa vào gốc bệnh
Máy đo áp huyết không phải chỉ đo tim mạch như tây y mà còn dùng để bắt mạch theo Đông y về tình trạng Khí/Huyết, hư thực, hàn nhiệt của lục phủ ngũ tạng.
Ba số đo của máy đo áp huyết quy ra Đông y sẽ là Khí/ Huyết/  Mạch.
 Xét về Tạng Phủ sẽ tương ứng :                            Phủ/   Tạng/    Hàn-nhiệt.
 
Nguyên tắc Bổ Tả
Sách Nội kinh hướng dẫn: Thực tắc tả, Hư tắc bổ – Thực thì tả, Hư thì bổ.
 Như vậy, cách chữa Phủ là khí thực thì tả bớt thực, khí hư thiếu thì phải bồi bổ cho đủ.
Cách chữa Tạng là huyết thực thì tả bớt thực, huyết hư thiếu phải bồi bổ cho đủ.
Hàn lạnh thì tả bớt hàn hay phải bổ thêm nhiệt và ngược lại dư nhiệt thì phải bớt nhiệt hay tăng hàn.
Có 3 cách điều chỉnh theo đông y là điều chỉnh theo Tinh-Khí-Thần thuận theo âm-dương hư-thực, hàn-nhiệt.
 
1-Điều chỉnh Tinh
Là điều chỉnh bằng thuốc uống hay bằng thức ăn cũng phải theo quy luật âm-dương ngũ hành. Dương là chất tạo khí, âm là chất tạo huyết, ngũ hành là chất chua vào Can mộc, chất đắng vào tâm hỏa, chất ngọt vào tỳ thổ, chất cay vào phế kim, chất mặn vào thận thủy…
Cách điều chỉnh Tinh là phạm vi chuyên môn của các thầy chuyên môn ngày nay về dược và dinh dưỡng.
Như cao áp huyết phải ăn những chất làm hạ như cam, chanh, buởi, trà xanh, hoa cúc, canh chua, gạo lức….
Áp huyết thấp thì ăn uống những chất làm tăng áp huyết như nhãn, xoài, mít, sầu riêng, trái hồng, khô mực, chất cay nóng, chất chiên xào nướng…
Nếu ăn uống ngược lại là sai, Đông y gọi là thực làm thêm thực, hư làm thêm hư…
 2- Điều chỉnh Khí 
Là điều chỉnh theo âm-dương, hư thực, hàn-nhiệt, bằng huyệt hay bằng cách tập Khí công trị liệu cũng phải theo khí âm-dương, hàn-nhiệt, thăng-giáng, xuất-liễm…
Hiện nay vẫn dùng bấm huyệt, châm huyệt, vuốt huyệt nhưng chỉ chữa ngọn theo tên bệnh bằng những công thức huyệt có sẵn chứ không chữa gốc theo âm dương, tạng phủ, hư thực, hàn nhiệt.
Chữa theo khí công cũng chưa có loại khí công nào phân ra các bài tập làm tăng giảm khí huyết của tạng hay phủ, và được kiểm chứng xem đúng sai bằng máy đo áp huyết và máy đo đường xem kết qủa bài tập có trở lại bình thường hay không.
3- Điều chỉnh Thần
Là điều chỉnh tâm tính làm thay đổi khí cũng phải biết thuận theo ngũ hành như :
Vui qúa hại Tâm, Lo qúa hại Tỳ Vị (lo ăn mất ngon), Buồn qúa thở dài hại Phế, Sợ qúa vãi đái hại Thận, Giận qúa bầm gan hại Can, làm sung huyết não đứt mạch máu não làm liệt chân tay…
Cách điều chỉnh Khí/Huyết/Hàn-nhiệt bằng huyệt
Khi cơ thể có một bệnh, thì liên quan đến 3 đường kinh là chính kinh bị bệnh, nếu bệnh hư thì kinh mẹ cũng hư, nếu bệnh thực thì kinh con cũng thực.
Mỗi đường kinh cổ nhân cũng đã tìm ra 5 huyệt có mang tên ngũ du để điều chỉnh cho chức năng hoạt động của đường kinh mạnh lên hay yếu đi. Như vậy một bệnh liên quan đến 3 kinh là 15 huyệt để điều chỉnh, thì chúng ta lý luận bệnh thế nào chỉ cần dùng 1 huyệt để chữa mà khỏi bệnh.
Dưới đây là công thức cổ điển chữa được mọi bệnh do xáo trộn Khí/huyết/nhịp tim. Nhiều người thấy dùng ít huyệt qúa nên không tin, chỉ lý luận tìm ngọn mà không tìm gốc.
Bây giờ chúng ta dùng máy đo áp huyết kiểm chứng lại, trước khi áp dụng và sau khi áp dụng, áp huyết 3 số thay đổi xem có đúng những huyệt này đã làm thay đổi như kết qủa mong muốn hay không.
Một số quy luật căn bản Đông y áp dụng để chữa bệnh bằng huyệt
Chữa bệnh theo Đông y là điều chỉnh sao cho khí hóa ngũ hành tạng phủ trở lại tiêu chuẩn bình thường.
 
1-Hai đường kinh âm-dương mang tên một hành riêng tùy theo chức năng như:
Kinh hỏa có 1 cặp âm dương, dương hỏa chủ khí là kinh Tiểu trường, âm hỏa thuộc huyết là kinh Tâm.
Kinh thổ có 1 cặp âm-dương, dương thổ chủ khí là kinh Vị, âm thổ chủ huyết là kinh Tỳ.
Kinh kim có 1 cặp âm-dương, dương kim chủ khí là kinh Đại trường, âm kim chủ huyết là kinh Phế.
Kinh thủy có 1 cặp âm-dương, dương thủy chủ khí là kinh Bàng quang, âm thủy chủ huyết là kinh Thận.
Kinh mộc có 1 cặp âm-dương, dương mộc chủ khí là kinh Đởm, âm mộc chủ huyết là kinh Can.
 
2- Ngũ Du Huyệt trên mỗi đường kinh:
Mỗi đường kinh có 5 huyệt ngũ hành gọi là Ngũ Du huyệt để điều chỉnh chức năng Bổ hư, Tả thực làm cho Khí hay Huyết mạnh lên khi nó suy yếu hay yếu đi khi nó qúa dư thừa.
Ngũ du huyệt hay còn gọi là huyệt Tỉnh, Vinh, Du, Kinh, Hợp.
Đường kinh âm bắt đầu là huyệt Mộc ở đầu ngón tay hay chân, tiếp tục theo vòng tương sinh là : Huyệt mộc (huyệt Tỉnh), huyệt hỏa (Vinh), huyệt thổ (Du), huyệt kim (Kinh) , huyệt thủy (Hợp).
Đường kinh dương bắt đầu là huyệt Kim ở đầu ngón tay chân, tiếp tục theo vòng tương sinh là : Huyệt kim (huyệt Tỉnh), huyệt thủy (Vinh), huyệt mộc (Du), huyệt hỏa (Kinh), huyệt thổ (Hợp).
3. Quy luật Bổ Tả:
a- Chọn huyệt Bổ hay Tả trên chính kinh bệnh, rồi chọn huyệt bổ tả trên kinh mẹ hay kinh con theo quy luật con hư bổ mẹ (hư bổ mẫu), mẹ thực tả con (thực tả tử).
Thí dụ : Kinh Vị khí lực hư yếu chỉ đo được 105mmHg so với theo tiêu chuẩn tuổi trung niên : 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 - 59 tuổi).
Nếu 1 bệnh nhân trong tuổi này có số đo áp huyết tay trái là :
105/73mmHg nhịp tim 70 có nghĩa : khí lực hư/huyết đủ/ nồng độ đường đủ.
Chỉ cần làm tăng khí lực tay trái bằng 2 huyệt bổ Giải khê, bổ Hậu khê.
 
b- Cách Bổ-Tả:
Có nhiều cách bổ tả khác nhau theo nhiều phương pháp :
 
Phương pháp châm bằng kim châm cứu
 
Nếu châm thẳng vuông góc vào huyệt, thì vê kim để bổ theo chiều thuận kim đồng hồ 9 lần, vê kim để tả nghịch chiều kim đồng hồ.
Nếu theo phương pháp nghinh-tùy, nghinh là tả, hướng mũi kim đón chặn đầu ngược với chiều đường đi của kinh mạch. Tùy là bổ hướng mũi kim thuận xuôi theo chiều đường kinh.

Phương pháp hơ cứu huyệt

 
Nếu tả thì cầm cây hơ bằng ngải cứu hay cây nhang để cách huyệt lúc 3cm, lúc 5cm, như vậy là lúc huyệt nóng nhiều, lúc nóng ít (gọi là nhấp trên huyệt).
Nếu bổ thì để xa huyệt 5cm giữ nguyên vị trí đếm từ 1 đến tối đa 60 tiếng đếm cho huyệt nóng dần, không để qúa 1 phút sẽ làm phỏng da.
Cấm kỵ hơ huyệt cho những người bị bệnh tiểu đường, da mất cảm giác, nhưng cứ qúa 60 giây mặc dù bệnh nhân không cảm thấy nóng nhưng da vẫn bị cháy phỏng gây vết lở loét loang rộng khó lành da.
 


Phương pháp bấm huyệt

  Bổ : Dùng ngón tay ấn vào huyệt day tròn thuận chiều kim đồng hồ 9 lần.
  Tả : Dùng ngón tay ấn vào huyệt day tròn ngược chiều kim đồng hồ 6 lần
Có thể bổ hay tả 2-3 lần cho áp huyết lọt vào tiêu chuẩn tuổi.
 
Phương pháp day vuốt huyệt
 
Dùng phương pháp vuốt trên một đoạn huyệt ngũ du tác động trên đường kinh.
Trước khi vuốt huyệt trên da bệnh nhân, cần phải thoa dầu bôi trơn vừa dễ vuốt vừa không bị trầy da bệnh nhân. Chỉ cần vuốt bổ thì không làm đau bệnh nhân, nếu đau sẽ phản tác dụng thành tả. Muốn vuốt tả thì vuốt hơi đau.
Công thức làm tăng hay giảm áp huyết và tăng, giảm nhiệt

  • Làm tăng Khí lực (tâm thu):
    • Làm tăng khí lực bên tay trái : Bổ Giải khê, bổ Hậu khê.
Bổ hỏa đoạn là vuốt từ Túc tam lý đến Giải khê 9 lần rồi mới ấn day Giải khê thuận 9 lần.
Bổ mộc đoạn là vuốt từ Hậu khê đến Dương cốc 9 lần, rồi mới ấn day Hậu khê thuận 9 lần.

  • Làm tăng khí lực bên tay phải : Bổ Hiệp khê, bổ Chí âm.
Bổ thủy đoạn vuốt từ Túc Lâm khấp đến Hiệp khê 9 lần, rồi ấn day Hiệp khê 9 lần thuận.
Bổ kim đoạn vuốt từ Thông cốc đến Chí âm lần, rồi ấn day Chí âm 9 lần thuận.

  • Làm giảm Khí lực (tâm thu):
    • Làm giảm khí lực bên tay trái : Tả Lệ đoài, tả Nhị gian.
Tả kim đoạn từ Nội đình đến Lệ đoài 6 lần rồi ấn day Lệ đoài 6 lần nghịch chiều.
Tả thủy đoạn từ Nhị gian đến Tam gian 6 lần rồi ấn day Nhị gian 6 lần nghịch chiều.

  • Làm giảm khí lực bên tay phải : Tả Dương phụ, tả Tiểu hải.
Tả hỏa đoạn vuốt từ Dương lăng tuyền đến Dương phụ 6 lần rổi ấn day Dương phụ 6 lần nghịch.
Tả thổ đoạn vuốt từ Tiểu hải lên nách 6 lần rồi ấn day Tiểu hải 6 lần nghịch.

  •  Làm tăng Huyết (tâm trương):
    • Làm tăng huyết bên tay trái : Bổ Đại đô, bổ Thiếu xung.
Vuốt từ Đại đô đến Thái bạch 9 lần rồi ấn day Đại đô 9 lần thuận.
Vuốt từ Thiếu phủ đến Thiếu xung 9 lần rồi ấn day Thiếu xung 9 lần thuận.

  • Làm tăng huyết bên phải : Bổ Khúc tuyền, bổ Phục lưu.
Vuốt từ Khúc tuyền lên háng (Âm liêm) 9 lần rồi ấn day Khúc tuyền 9 lần thuận.
Vuốt từ Phục lưu lên Âm cốc 9 lần rồi ấn day Phục lưu 9 lần thuận.

  • Làm giảm Huyết (tâm trương)
    • Làm giảm huyết bên tay trái : Tả Thương khâu, tả Xích trạch.
Vuốt từ Trung phủ dồn huyết vào huyệt Xích trạch 6 lần rồi ấn day Xích trạch 6 lần nghịch.
Vuốt từ Thái uyên xuống Ngư tế 6 lần rồi ân day Ngư tế 6 lần nghịch.

  • Làm giảm huyết bên tay phải : Tả Hành gian, tả Thần môn.
Vuốt từ Hành gian lên Thái xung 6 lần rối ấn day Thái xung 6 lần nghịch.
Vuốt từ Linh đạo đến Thần môn 6 lần rồi ấn day Thần môn 6 lần nghịch.

  • Làm tăng nhiệt (nhịp tim):
    • Làm tăng nhiệt bên tay trái : Bổ Đại đô, ấn day thuận chiều 9 lần.
    • Làm tăng nhiệt bên tay phải : Bổ Hành gian, ấn day nghịch chiều 6 lần.

  • Làm hạ nhiệt (nhịp tim):
    • Làm hạ nhiệt bên tay trái : Tả Đại đô, ấn day huyệt nghịch chiều 6 lần.
    • Làm hạ nhiệt bên tay phải: Tả Hành gian, ấn day huyệt nghịch chiều 6lần.
Lưu ý: Cơ thể nóng hay lạnh là do máu chạy nhanh hay chậm, vì vậy chữa trên chính kinh âm, mà không chữa trên kinh dương.

        
  
  

Tóm kết

Trước hết nhân loại phải cảm ơn nhà khoa học nào đã có sáng kiến chế tạo ra máy đo áp huyết để kiểm soát sức khỏe con người. Máy tuy đơn giản, ít ai để ý sâu sắc về lý thuyết mà người chế tạo máy đã suy nghĩ như thế nào để thực hiện nó, tây y chỉ biết cách áp dụng trong thực nghiệm lâm sàng, rồi thống kê thấy rằng áp huyết từ 95-140/65-90mmHg mạch nhịp tim đâp từ 60-80 là áp huyết của tim mạch tốt. Nếu cao hơn và thấp hơn mới cho là có bệnh, và có bệnh thì phải uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết suốt đời, dẫn đến biến chứng thành nhiều bệnh khác, ngoài ý muốn.
Còn đông y trước kia, muốn khám bệnh cần phải có thầy giỏi biết bắt mạch để xem Khí-Huyết, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biều-Lý thì ngày nay chức năng của máy đo áp huyết cũng có thể thay thế cho việc khám bệnh bằng mạch lại tiện lợi và có con số chính xác, khi biết cách sử dụng nó theo lý thuyết đông y. Lý thuyết về kinh mạch, huyệt đạo của Đông y mọi người tưởngmơ hồ vì từ trước đếnnay không aichứngminh được sự khí hóa của Lục phủ, Ngũ tạng về khí, về huyết, về Tam tiêu có thật hay không. Nhưng ngày nay nhờ có máy đo huyết áp đem áp dụng vào huyệt đạo trên kinh mạch mới phát hiện ra nhiều điều ngạc nhiên, lý thú về sự chính xác của lý thuyết kinh mạch đã có cách đây mấy ngàn năm.
Những ứng dụng của máy đo dùng trong chẩn đoán và điều trị tương đối có giá trị cao nhất là đã được kinh qua lâm sàng thực nghiệm. Tuy chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng trước mắt mở cho những người muốn nghiên cứu về Đông y có được một ‘con đường mới’. Nếu các thày thuốc Đông y biết tận dụng những công trình nghiên cứu này, sẽ thấy được nhiều hứng thú trong việc nghiên cứu và học hỏi về Đông y với một cách nhìn khoa học và dễ tiếp cận hơn.
 

PHỤ LỤC BẢNG HUYỆT DÙNG
 

Tên huyệt Vị trí
Chí âm Tại gốc móng ngoài ngón chân 5.
Dương phụ Trên đỉnh mắt cá ngoài 4 thốn, ở bờ trước xương mác.
Đại đô Ở chỗ lõm nơi khớp đầu xương ngón chân cái, gân xương gan bàn chân, trên đường tiếp giáp lằn da gan bàn chân, mu chân của bờ trong bàn chân.
Giải khê Ở chỗ lõm trên nếp gấp trước khớp cổ chân, giữa 2 gân cơ cẳng chân trước và gân cơ duỗi dài ngón chân cái.
Hành gian Ép ngón chân cái sát vào ngón thứ 2, huyệt nằm ngay trên đầu kẽ của 2 ngón chân, về phía mu chân.
Hậu khê Trị cổ gáy đau cứng, đầu đau, lưng đau, tai ù, điếc, chi trên liệt, động kinh, sốt rét, ra mồ hôi trộm.
Hiệp khê Khe giữa xương bàn chân ngón thứ 4 và 5, huyệt nằm ở đầu kẽ giữa 2 ngón chân, phía trên mu chân.
Khúc tuyền Ở đầu trong nếp gấp nhượng chân, nơi khe giữa của bờ trước gân cơ bán mạc và cơ thẳng trong.
Lệ đoài Ở phía ngoài góc ngoài móng chân ngón thứ 2, cách chân móng 0,1 thốn, trên đường tiếp giáp da gan chân - mu chân.
Nhị gian Huyệt ở chỗ lõm, phía trước và bờ ngoài khớp xương bàn và ngón trỏ, trên đường tiếp giáp da gan tay, mu tay.
Phục lưu Giữa mắt cá chân trong và gân gót (huyệt Thái khê (Th.3) đo thẳng lên 2 thốn, trong khe của mặt trước gân gót chân và cơ gấp dài riêng ngón cái.
Thiếu xung Ở ngón tay út phía tay quay, cách chân góc móng tay út 0,1 thốn, trên đường tiếp giáp da gan tay - mu tay.
Thương khâu Ở chỗ lõm phía dưới - trước mắt cá chân trong, bờ trên gân cơ cẳng chân sau, sát khe khớp gót - sên - thuyền.
Tiểu hải Co khủy tay, huyệt ở giữa mỏm khủy và mỏm trên ròng rọc đầu dưới xương cánh tay, nơi tận cơ 3 đầu cánh tay.
Xích trạch Gấp nếp khủy tay lại, huyệt ở chỗ lõm bờ ngoài gân cơ nhị đầu cánh tay, bờ trong phần trên cơ ngửa dài, cơ cánh tay trước.
 

 

 
 
 
 
 
 
 

CÁC VỊ THUỐC BÀI THUỐC DÙNG BỔ KHÍ - HUYẾT
Mục đích của việc dùng máy đo HA để điều chỉnh KHÍ và HUYẾT trong cơ thể con người, bình thường khi cơ thể suy yếu, não sẽ huy động phần Khí và Huyết dự trữ để bù đắp vào những chỗ thiếu hụt, nếu vì một lý do nào đó mà cơ thể không đủ Khí và Huyết, cần phải tiếp viện từ ngoài vào để cơ thể đủ sức hoạt động bình thường. Chúng tôi liệt kê các vị thuốc, bài thuốc liên quan đến bồi bổ Khí Huyết cũng như phương pháp Bấm huyệt để hỗ trợ nâng cao Khí Huyết. Tùy trường hợp mà chọn dùng cho thích hợp.
 
BỔ KHÍ
Các vị thuốc bổ khí: Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Đông trùng hạ thảo…
Tứ quân tử thang (Đảng sâm 12g, Bạch truật 10g, Bạch linh 8g, Cam thảo 4g).
Nhân sâm dưỡng vinh thang (Bạch thược 12g, Bạch truật, Đương quy, Cam thảo, Hoàng kỳ, Đảng sâm, Ngũ vị tử, Trần bì, Thục địa, Phục linh, Viễn chí đều 8g, Nhục quế, Sinh khương, đều 4g).
Sâm linh bạch truật tán (Đảng sâm 80g, Bạch linh 80g, Bạch truật 80g, Sơn dược 80g, Chích Cam thảo 80g, Sao Biển đậu 40g, Liên nhục 40g, Ý dĩ nhân 40g, Sa nhân 40g, Cát cánh 40g).
Bổ Khí cho Tỳ:
Bổ trung ích khí thang: Hoàng kỳ 20g, Chích thảo 4g, Thăng ma 4 - 6g, Đảng sâm 12 - 16g, Đương qui 12g, Sài hồ 6 - 10g, Bạch truật 12g, Trần bì 4 - 6g.
Lục quân tử thang (Đảng sâm 12g, Bạch truật 10g, Bạch linh 8g, Cam thảo 4g, Bán hạ 6g, Trần bì 4g).      
Bổ khí cho Can:
Tiêu dao tán (Sài hồ 40g, Đương qui 40g, Bạch thược 40g, Bạch truật 40g, Bạch linh 40g, Chích thảo 20g.
Sài hồ sơ can tán:  Sài hồ 8g, Hương phụ 6g, Chích thảo 2g, Bạch thược 6g, Chỉ xác 6g,  Trần bì 8g, Xuyên khung 6g. Tán bột, ngày uống 8g. Có thể sắc uống.  
Bổ Khí cho Thận:
Kim quỹ thận khí hoàn (Can địa hoàng (Sinh địa) 32g, Sơn dược 16g, Sơn thù (sao rượu) 16g, Phục linh 12g, Trạch tả 12g, Đan bì 12g, Quế chi 8g, Phụ tử (chế) 8g.   
 
BỔ HUYẾT
Các vị thuốc bổ huyết: Thục địa, Đương quy, Bạch thược, Tang thầm, Hà thủ ô đỏ, Long nhãn, Cao quy bản, Lộc nhung…
Tứ vật thang (Thục địa 16g, Đương quy 12g, Bạch thược 8g, Xuyên khung 4g).
Đương quy bổ huyết thang, Hoàng kỳ 20 - 40g, Đương qui 12 - 16g. Cách dùng: sắc nước uống.
Quy Tỳ thang ( Nhân sâm ( Đảng sâm) 12g, Phục thần 12g, Toan táo nhân sao 12 - 20g, Viễn chí 4 - 6g, Hoàng kỳ 12g, Mộc hương 4g, Bạch truật 12g, Long nhãn nhục 12g, Đương qui 8 - 12g, Chích thảo 4g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 2 - 3 quả. Cách dùng: sắc nước uống.
BỔ KHÍ HUYẾT
Bát trân thang (hoàn): Là bài Tứ vật (Thục địa, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung) + Tứ quân (Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo).
Thập toàn đại bổ : Là bài Bát trân + Hoàng kỳ và Nhục quế.





No comments:

Post a Comment