2.1. RỐI LOẠN TIỂU TIỆN
RLTT gồm có các triệu chứng tiểu ít,
tiểu gắt, tiểu lắt nhắt, tiểu khó, tiểu gấp, tiểu nhiều, tiểu đêm, tiểu vàng
sẫm, tiểu đỏ, bí tiểu và vô niệu. Trung bình một ngày đêm mỗi người đi tiểu
chừng 3 đến 5 lần. Như thế nếu tiểu ít lần thì mỗi lần phải tăng lượng lên, nếu
tiểu lượng ít thì số lần phải tăng lên. Tổng lượng nước tiểu khoảng 1,5 lít màu
hơi vàng nhạt hơn màu bia một chút. Tuy nhiên số lượng và lần đi tiểu thay đổi
theo thời tiết, hoạt động và ăn uống của mỗi người. Vì lý do thời tiết hay hoạt
động làm ra nhiều mồ hôi hay đang bị tiêu chảy thì nước tiểu sẽ giảm xuống và
màu sắc đậm hơn. Chỉ xem là bệnh lý khi triệu chứng RLTT không thay đổi theo
các yếu tố gây ảnh hưởng nêu trên.
1)
Tiểu ít: Tiểu
ít gồm có số lượng ít hay số lần đi tiểu ít. Nếu bịnh nhân ra nhiều mồ hôi thì
gốc bệnh ở chỗ mồ hôi ra nhiều chứ không phải ở đường tiểu (cần điều trị làm giảm
mồ hôi). Nếu bịnh nhân đi tiêu lỏng và nhiều lần trong ngày thì gốc ở đường đại
tiện (cần điều trị tiêu chảy). Nếu tình hình mồ hôi và đại tiện của bịnh nhân
bình thường thì đây mới là bệnh lý ở hệ niệu. Gốc bệnh do Tam tiêu không thông,
ít chịu ảnh hưởng của hàn nhiệt. Chỉ cần tác động khai thông tam tiêu và phản
chiếu thận.
2)
Tiểu gắt:
Tiểu gắt là hiện tượng tiểu ít kèm theo khó đi tiểu và có cảm giác khó chịu
vùng bộ phận sinh dục khi đi tiểu. Trường hợp này đa số là do nhiệt uất ở
vùng hạ tiêu và Tam tiêu không thông. Điều trị như trên nhưng cần thêm giải
pháp hạ nhiệt.
3)
Tiểu lắt nhắt:
là hiện tượng đi tiểu với số lượng ít nhưng nhiều lần trong ngày. Đây là một
triệu chứng rất thường gặp do nhiều nguyên nhân khác nhau: thiếu máu (khám kỹ
về huyết của bệnh nhân), cơ vòng bàng quang yếu (tiểu thì dễ mà nín tiểu thì
khó), bàng quang bị chèn ép bởi một khối u trong hay ngoài nó hay sa bàng
quang, có khi là phẩu tích bàng quang (luôn thấy nặng nề vùng này, có thể cần
siêu âm để chẩn đoán phân biệt), viêm bàng quang mạn tính (kèm hiện tượng tiểu
vàng, tiểu đục, khó chịu vùng bàng quang). Điều trị: theo cơ chế.
4)
Tiểu khó: là
mắc tiểu nhưng khi đi tiểu thì khó khăn, tiểu chậm chạp, đứng lâu mới tiểu
được, thường són thêm nước tiểu sau khi tiểu xong. Nếu do sỏi bàng quang (sỏi
tròn không gây đau – sỏi có cạnh bén thì gây đau) thì có lúc đi rất dễ dàng
thông suốt, xem phần Sỏi niệu. Nếu do phì đại tiền liệt tuyến thì đi tiểu luôn
luôn khó khăn. Đây là bệnh lý khó điều trị, kết quả chậm nếu u xơ, kết quả
nhanh nếu phù nề. Chẩn đoán cần dựa vào kết quả siêu âm. Điều trị: viêm phù nề
thì tiêu viêm lọc thấp, phản chiếu tiền liệt tuyến. U xơ thì Bổ Âm huyết, tiêu
viêm, phản chiếu. Đề phòng ung thư tiền liệt tuyến, cần chẩn đoán thêm
theo cận lâm sàng của Tây y.
5)
Tiểu gấp: là
mắc tiểu thì phải đi tiểu ngay không nín được. Số lượng nước tiểu bình thường
chứ không ít. Theo Tây y thì chưa rõ cơ chế. Nhưng với Đông y thì do dương khí
hạ hãm ở hạ tiêu. Cần dùng bộ Thăng, cần chẩn đoán hàn nhiệt để chọn kỹ thuật
thích hợp.
6)
Tiểu nhiều:
là nhiều về số lần đi tiểu lẫn số lượng nước tiểu. Cần cảnh giác với bệnh tiểu
đường. Theo Tây y có thể do có rối loạn ở tuyến tùng, tuyến yên. Với Đông y thì
do thận dương suy. Cần khám kỹ về Âm Dương. Thường dùng bộ Thăng. Biện
pháp ôn ấm.
7)
Tiểu đêm:
Với trẻ em thì thường là tiểu mế, tiểu dầm cần ổn định thần kinh. Với người lớn
thì thường do thận dương suy – bộ Thăng làm chủ lực. Với người già thì cần lưu
ý về tuyến tiền liệt.
8)
Tiểu vàng sẫm:
do nhiệt vùng hạ tiêu hoặc có thể ở tiểu trường. Thanh nhiệt tiêu viêm,
phản chiếu.
9)
Tiểu đỏ: là
tiểu có máu. Đây là một bệnh viêm nhiễm đường niệu, thuộc diện cấp cứu nếu
mới phát, nên ưu tiên cho bệnh nhân đi theo bác sĩ điều trị.
Nếu đã điều trị theo Tây y mà không khỏi thì mới nên nhận điều trị vì nó đã
chuyển sang viêm mạn. Chẩn đoán hàn nhiệt để dùng biện pháp chống viêm thích
hợp. Tiêu viêm, phản chiếu nơi bị viêm trong hệ niệu dựa theo kết quả chẩn đoán
của Tây y.
10)
Bí tiểu: là
mắc tiểu nhưng không tiểu được. Bụng dưới của bệnh nhân căng cứng lên. Đây là
trường hợp cấp cứu, chỉ tạm can thiệp trong khi chờ nhập viện. Có thể do:
sỏi niệu, co thắt cơ vòng bàng quang (cần chẩn đoán hàn nhiệt). LƯU
Ý: Đôi khi chúng ta can thiệp ngay được nhưng coi chừng nếu do sỏi
bàng quang thì rất dễ tái phát. Do đó siêu âm chẩn đoán là biện pháp nên làm dù
đã điều trị được.
11)
Vô niệu: là
không có nước tiểu trong Bàng quang. Đôi khi bệnh nhân có cảm giác mắc tiểu
nhưng không tiểu được, nếu không chẩn đoán kỹ ta sẽ lầm là bí tiểu! Cách chẩn
đoán vô niệu là dùng tay ấn từ từ vào bụng dưới khu vực của bàng quang. Ta thấy
không có lực đối kháng, hay nói cách khác ta sẽ cảm thấy vùng này trống rỗng
(xẹp lép). Đây là một bệnh chứng do Thận mất khả năng lọc nước tiểu do đó
không có nước tiểu. Là một loại bệnh khó, có nhiều nguyên nhân, tôi chưa thể
kết luận được gì mặc dù đã có thành công!
2.2. RỐI LOẠN KINH NGUYỆT
RLKN xét cho cùng là rối loạn tổng
thể theo cả hai khía cạnh Đông và Tây y. Với Tây y thì cần quan tâm về tuyến
nội tiết và thần kinh cũng như thành phần máu là chính. Với Đông y
thì do rối loạn về khí huyết âm dương. Nhưng nói chung vẫn không ngoài các
chứng suy yếu âm dương khí huyết gây bế tắc hoặc không đủ huyết để hành
kinh. Ngoài ra, đối với châm cứu thì sự bế tắc kinh mạch cũng là một
nguyên nhân thường gặp. Cần phân biệt hàn nhiệt. Hàn thì có thực hàn và hư hàn,
nhiệt thì hầu như chỉ do hư nhiệt (có gốc từ âm huyết hư), rất ít khi do
thực nhiệt.
Vì vậy, điều chỉnh RLKN chính là
điều chỉnh âm dương khí huyết. Nói một cách cụ thể chính là điều chỉnh tổng
thể. Ngày nào tổng thể cân bằng thì ngày đó kinh nguyệt được điều chỉnh xong.
Do đó, không có phác đồ đặc hiệu.
Nhưng với nghiên cứu cụ thể của Tây
y, ngày nay chúng ta thấy khi bệnh nhân có u bướu trong tử cung thì thường gây
rong huyết hoặc ngày hành kinh kéo dài. Do đó cần lưu ý khi điều trị không
có hiệu quả rõ rệt. Tốt nhất là cho bệnh nhân siêu âm để loại trừ bệnh căn này
trước khi nhận điều trị. Vì một u bướu thường bị xuất huyết rất dễ biến chứng
thành ung thư.
2.3. SỎI NIỆU
Sỏi niệu là có sỏi ở hệ thống bài
tiết nước tiểu gồm thận, niệu quản và bàng quang. Sỏi được cấu tạo bằng nhiều
chất và bằng nhiều phương thức khác nhau. Có loại rất dễ tan rã, có loại không
tan được, nhưng siêu âm hay X quang không thể phân biệt được là loại nào (hiện
nay, còn tương lai thì… chờ những tiến bộ của Tây y)!
Chẩn đoán hàn nhiệt tổng thể và cục
bộ hệ niệu. Điều trị: Điều chỉnh tổng thể, với cục bộ ta có các phản chiếu
thường gặp sau:
1)
Hệ niệu thuộc Đồ hình phản chiếu nội tạng ở mặt.
2)
Hệ niệu thuộc Đồ hình phản chiếu nội tạng trên trán.
3)
Hệ niệu nằm trong phản chiếu Đồ hình Dương (vùng huyệt
43 xuống đến 143, lan ra tuyến B hai bên).
4)
Loa tai là thận, môi và cằm là bàng quang, niệu quản
chạy từ 0 xéo theo bờ dưới xương gò má xuống đến vùng huyệt 38.
Kỹ
thuật: với tổng thể ta chọn kỹ thuật thích hợp, điều chỉnh
xong. Với cục bộ hệ niệu ta chọn lại kỹ thuật phù hợp, phản chiếu thì chỉ cần
dùng hệ nào nhạy cảm nhất mà thôi:
-
Có hàn: dùng ngải cứu hơ có xoa dầu theo hệ
niệu.
-
Có nhiệt: dùng lăn gai lăn mạnh theo hệ niệu.
Lăn đinh hiệu quả cao hơn lăn cầu gai.
-
Có thể kết hợp với kết quả cận lâm sàng: độ pH
của nước tiểu thấp, ta cho bệnh nhân dùng thêm chất kiềm như rau ngò om, rau
ngò gai… đại khái là chất chát. Độ pH của nước tiểu cao, ta cho bệnh nhân dùng
thêm chất chua, trường hợp này chỉ dùng khi bệnh nhân không có tiền căn hay
đang bị loét dạ dày tá tràng.
LƯU
Ý:
-
Ta nên khuyên bệnh nhân dùng mỗi ngày 4 - 5 hột
Lười ươi (Ươi, Đười ươi) ngâm nước nở hoàn toàn, bỏ vỏ và hột, uống phần còn
lại, có thể pha đường cho dễ uống. Vì sỏi hình thành được là do các protein có
trong nước tiểu kết dính các tinh thể lại với nhau, hạt Ươi có thể làm tan các
protein này giúp phần làm rã các tinh thể sỏi.
-
Đa số các trường hợp sỏi thận lớn đều đưa đến
huyết áp cao. Cần cẩn thận vì có thể gây tai biến tim mạch cho bệnh nhân.
-
Ta thành công tương đối dễ dàng khi sỏi nhỏ 4-5
mm trở lại, nằm ở vùng bể thận, niệu quản hay bàng quang. Nếu sỏi nằm sâu trong
nhu mô thận thì không thể trục xuất một cách dễ dàng được. Vì thế ta thấy có
nhiều trường hợp thành công rực rỡ nhưng cũng không ít trường hợp thất bại.
-
Cần dặn bệnh nhân: đang trong giai đoạn
điều trị mà bỗng nhiên đau quặn bụng và vùng lưng tương ứng (cơn đau quặn thận)
thì phải nhập viện ngay, đề phòng trường hợp khi sỏi đi ngang qua niệu quản làm
rách niệu quản là một trường hợp thuộc dạng cấp cứu tại bệnh viện, nếu nằm ở
nhà là không an toàn cho tính mạng bệnh nhân.
TP. Hồ Chí Minh, 1993.
2.4. SUY NHƯỢC SINH DỤC
SNSD gồm có dương nuy, tảo tinh (sậu
tinh), lãnh cảm. Có nhiều nguyên nhân:
-
Do tổng trạng suy yếu: khả năng sinh hoạt tình
dục giảm dần. Điều chỉnh tổng trạng.
-
Do tâm lý: lúc mạnh lúc yếu, hoặc ân ái với
người này thì tốt người kia thì không tốt. Điều trị như sau: dán cao 124, 34,
103, 106, 342, 340, 175, 107, 0 cho hàn chứng (dương nuy). Với nhiệt chứng (tảo
tinh) thì day vaseline 0 + -, 124, 34, 106, 60. Tuy nhiên cũng cần điều chỉnh
thêm về tổng trạng.
-
Do bế tắc thần kinh vùng thắt lưng và xương
cùng: tăng giảm thuận theo triệu chứng đau lưng, khám thấy có sinh huyệt vùng
này. Giải tỏa bế tắc vùng này.
2.5. HIẾM MUỘN
Trước hết cần biết hiếm muộn là một
bệnh không liên quan đến khả năng hoạt động tình dục. Một người có năng lực
tình dục mạnh vẫn có thể vô sinh hay hiếm muộn như thường. Những nam nhân bị
tảo tinh vẫn có thể gây thụ thai cho phụ nữ bình thường, những phụ nữ lãnh cãm
vẫn có thể sinh nở hàng chục lần. Chúng ta có thể điều trị tương đối dễ
dàng những trường hợp hiếm muộn do cơ năng như co thắt ống dẫn tinh – vòi
trứng, tinh loãng, noãn sào thiểu năng, tử cung lạnh. Nếu có biến đổi thực thể
như u bướu thì khó khăn hơn, nhưng vẫn có thể điều trị những trường hợp
bướu mềm lành tính.
Hầu hết nguyên nhân gây hiếm muộn là
vùng hạ tiêu - sinh thực khí (vùng có cơ quan sinh dục) bị hàn khí và thấp khí
nhiễm lâu ngày. Khí lạnh làm co thắt các cơ trơn cơ vòng và các mạch máu nuôi
các cơ quan vùng này. Do đó chúng bị thiểu năng và sản sinh tinh trùng hoặc
trứng không đủ số lượng hay chất lượng. Chưa kể sự co thắt ống dẫn tinh hay vòi
trứng làm nghẽn tắc đường đi của tinh trùng và trứng. Với tử cung thì vì thiếu
máu làm giảm khả năng nuôi dưỡng trứng dễ gây trụy thai sớm. (Tôi đã từng thành
công một ca bệnh nhân còn trẻ dưới 30 tuổi hư thai 3 lần, bệnh viện
đòi mổ và cột cổ tử cung khi có thai lần thứ tư, tôi dùng nguyên lý này làm ấm
tử cung trong khoảng 2 tháng (bằng DC-ĐKLP), sau đó vì bận việc riêng, tôi tạm
ngưng, kết quả là bệnh nhân sinh được một cháu trai vào tháng thứ 7, tuy sinh
non nhưng vẫn khỏe mạnh và phát triển bình thường. Một năm sau khi cháu 1 tuổi
tôi mới gặp lại bệnh nhân trên khi cô dẫn bạn đến nhờ tôi trị bệnh).
Với bệnh này, không có phác đồ mà
chỉ là nguyên tắc điều chỉnh tổng trạng và làm ấm tử cung, buồng trứng, vòi
trứng, tinh hoàn, ống dẫn tinh. Với vòi trứng và ống dẫn tinh thì còn cần biện
pháp chống co thắt (gõ phản chiếu với dầu).
Nếu bị chèn ép do u bướu trong
hay ngoài đường ống thì cần phải trị cho tiêu u bướu này (loại này không dễ).
Ngoài phác đồ chính để chỉnh tổng thể thì những vùng tác động phụ gồm có phản
chiếu và phóng chiếu vùng này, vùng thần kinh cột sống liên quan từ L1 đến
mõm cụt.
Nếu do bế tắc thần kinh vùng cột sống
thắt lưng (đau lưng mạn tính) thì chỉ cần giải tỏa bế tắc vùng này. Tôi cũng đã
thành công loại này ở nam giới sau khi nhận thấy anh này hiếm muộn không do
thận suy (theo Đông y) mà do thần kinh vùng này bị thiểu năng, trường hợp này
chỉ điều trị một đợt 2 tuần trước ngày rụng trứng của vợ. Ngay lần đó vợ anh ta
có thai.
No comments:
Post a Comment