LỤC PHỦ - NGŨ TẠNG
Căn cứ vào hoạt động của cơ thể con người lúc bình thường và lúc có bệnh người xưa qui nạp thành những nhóm chức năng khác nhau, rồi đặt tên cho các cơ quan trong cơ thể gọi là Tạng Tượng ( hiện tượng của tạng ).
I. TẠNG PHỦ
1. KHÁI NIỆM :
Tạng: Các tổ chức cơ quan trong cơ thể.
Tượng: Biểu tượng bên ngoài, các hiện tượng biểu hiện ra bên ngoài.
Tượng: Biểu tượng bên ngoài, các hiện tượng biểu hiện ra bên ngoài.
Quan sát cơ thể sống để nghiên cứu quy
luật hoạt động, sự biểu hiện của các nội tạng gọi là Tạng tượng.
Tạng tượng (hiện tượng của tạng) bao gồm
mọi tổ chức cơ quan và quy luật hoạt động của chúng : Ngũ tạng, Lục phủ, Phủ kỳ
hằng...
Tạng phủ của Đông y không phải là môn học
giải phẫu, hình thái học mà có thể tạm coi là môn Cơ thể Sinh Lý học. Mọi hoạt
động sinh lý của con người đều từ tạng phủ, mọi thứ biến hóa bện lý cũng đều có
liên quan đến tạng phủ
Dựa vào những hoạt động được thể hiện ra
bên ngoài, người xưa sắp xếp những nhóm chức năng vào thành Tạng Phủ.
Chẳng hạn như: Thận của Đông y không phải
là 2 quả thận đơn thuần mà là những chức năng một phần của Thần kinh trung ương
của Sinh dục, Tiết niệu, có liên quan đến cả Hô hấp (Thận nạp khí)...
Trong cơ thể có 5 tạng (Ngũ tạng), 6 phủ
(Lục phủ) và những thể chất khác như Não, Tử cung, Khí huyết, Tinh thần và Tân
dịch.
Nhóm
chức năng có nhiệm vụ chứa đựng, chuyển hoá gọi là Tạng, gồm có : Tâm. Can, Tỳ,
Phế, Thận, Tâm Bào.
Nhóm
chức năng có nhiệm vụ thu nạp và chuyễn vận gọi là phủ , gồm có : Tiểu Trường,
Ðại Trường, Ðởm (mật), Vỵ (bao tử), Bàng Quang, Tam Tiêu.
Ngoài
ra còn có các hoạt động khác như : Dinh, Vệ, Khí, Huyết, Tinh, Thần, Tân, Dịch.
Các tạng:
Tạng có chức năng chung là tàng giữ tinh
khí. Có 5 tạng chính và 1 phụ là:
Tâm
(phụ là Tâm bào) - Can - Tỳ (lá lách) - Phế - Thận.
Quan hệ giữa các Tạng là quan hệ Ngũ hành sinh, khắc.
Tương sinh: Can sinh Tâm, Tâm sinh Tỳ, Tỳ
sinh Phế, Phế sinh Thận, Thận sinh Can.
Tương khắc: Can khắc Tỳ, Tỳ khắc
Thận, Thận khắc Tâm, Tâm khắc Phế, Phế khắc Can.
Các phủ:
Chức năng chung của các Phủ là truyền tống,
hấp thu, bài tiết (Phủ có nghĩa là nơi trú ngụ) trên đầy thì dưới vơi và dưới
vơi thì trên phải đầy, phải luôn thay đổi.
Ví như khi Vị rỗng thì Đại trường và
Bàng quang phải đầy, khi ta ăn vào, Vị đầy thì Đại trường và Bàng quang phải
tháo rỗng.
Có 6 phủ là: Đởm - Tiểu trường - Đại trường
- Vị - Bảng quang và Tam tiêu.
Ngoài ra còn một số Phủ đặc biệt gọi là
Phủ kỳ hằng như Não, Tử cung.
Quan
hệ giữa Tạng và Phủ:
Là quan hệ Âm Dương, Biểu Lý. Biểu là ở
phía bên ngoài, Lý là ở phía bên trong, Biểu thuộc dương, Lý thuộc âm.
Mỗi Tạng đều quan hệ biểu lý với một Phủ.
· Tâm biểu lý với Tiểu trường
· Can biểu lý với Đởm
· Tỳ biểu lý với Vị
· Phế biểu lý với Đại trường
· Thân biểu lý với Bàng quang
· Tâm bào biểu lý với Tam tiêu.
2. CÁC TẠNG :
A/ TÂM :
Tâm thuộc hành Hoả, là tạng đứng đầu các
tạng phủ (Quân chủ chi quan). Tâm khai khiến ra lưỡi, vinh nhuận ra mặt, có những
chức năng:
· Tâm chủ thần minh: Hay còn nói là Tâm
tàng Thần. Tâm làm chủ những hoạt động tâm thần như nhận thức, tư duy, trí nhớ,
thông minh, tương ứng những chức năng của vỏ đại não.
· Tâm chủ huyết mạch: Tâm phụ trách về tuần
hoàn và máu. Huyết liên quan nhiều tạng khác như Can, Tỳ, Thận, nhưng Tâm là
chính.
· Tâm bào: Là bộ phận bên ngoài như tấm
áo ngoài của Tâm, có chức năng bảo vệ Tâm.
Ðứng
đầu các tạng phụ trách về các hoạt động thần kinh như : Tư duy, trí nhớ, thông
minh, khi có bệnh thường hay hồi hợp, sợ hải, phiền loạn, hay quên .v.v.
Quan
hệ với huyết mạch : Khi có bệnh sẽ sinh hiện tượng bần huyết, tóc khô, mạch yếu.
Khai
khiếu ra lưỡi : Khi sốt cao lưỡi đỏ, Tâm huyết hư lưỡi nhạt màu. Như vậy Tâm
bao gồm một so hoạt động về tinh thần và tuần hoàn huyết mạch. Khi có bệnh thường
có các hôi chứng sau :
Tâm
dương hư : Kinh khủng, hồi hộp, hay quên, tự hãn.
Tâm
âm hư : Mất ngũ, mộng mị, hồi hô?, lo sợ.
Tâm
nhiệt : Mắt đỏ, miệng khát, họng khô, lưỡi đỏ, nói nhảm.
Khi
nói đến Tạng Tâm vì là tạng đứng đầu mọi tạng nên có một tạng phụ bảo vệ nó gọi
là Tâm Bào Lạc. Các biểu hiện bệnh lý không khác gì Tạng Tâm.
B/ CAN :
Can thuộc hành Mộc, tính
ưa vận động và vươn toả, phò tá cho Tâm; cùng với Đởm là cơ sở cho tính
quyết đoán, dũng cảm. Ta nói: Người can đảm; người to gan, lớn mật là
dựa vào tính cách của tạng Can và Đởm.
Thường chia hai loại :
Can khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra
móng tay, chân.
· Can tàng huyết: Can chứa huyết và điều
tiết lượng huyết trong cơ thể. Khi ngủ, máu về Can, khi hoạt động Can đưa máu tới
các bộ phận. Xuất huyết có quan hệ tới chức năng của Can.
· Can chủ sơ tiết: Sơ là xua đẩy, tiết
là ngọn ngành. Can thúc đẩy khí huyết đến mọi bộ phận trong cơ thể. Khí huyết
lưu thông, tinh thần thoải mái, thư thái.
· Can chủ cân: Cân được hiểu là các giây
chằng quanh khớp, cũng là những thần kinh ngoại biên. Chứng teo cơ cứng khớp,
chân tay co quắp hoặc co giật là chứng bệnh thuộc Can.
Thường chia hai loại :
Can
khí : Biểu hiện tình trạng hưng phấn, găng động, cáu gắt, nhức đầu, hoa mắt,
chóng mặt.
Can
huyết : Phụ trách các hoạt động về kinh nguyệt và sự nuôi dưỡng các cân cơ
Quan
hệ với cân: bao gồm các hoạt động vận động, khi có bệnh run tay chân, teo cơ, cứng
khớp, vận động đi lại khó khăn.
Khai
khiếu ra mắt: mắt mờ, quáng gà, mắt sưng, nóng đỏ.
Can
âm hư: ( can huyết hư ) kinh nguyệt ít, móng tay, da khô, mắt mờ, gân thịt run
giật co quắp.
Can
dương thịnh: nhức đầu, hoa mắt, ù tai, mặt đỏ, mắt đỏ, hay cáu gắt
C/ TỲ:
Tỳ thuộc hành Thổ, tính
ôn hoà, nhu nhuận, đảm nhiệm công việc hậu cần cho cơ thể, chức năng hậu
thiên. Tỳ khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ra môi có các chức năng.
Phụ trách việc hấp thu đồ ăn và dinh dưỡng, phản ảnh hoạt động tiêu hoá từ miệng đến hậu môn. Về sinh lý, bệnh lý
· Tỳ chủ vận hoá: Tỳ cùng Vị đảm nhiệm
việc tiêu hoá thức ăn, chuyển thành Tinh chất. Tỳ vận hoá tốt cơ thể hoạt động
và phát triển tốt.
· Tỳ thông huyết, nhiếp huyết: Tỳ sinh
tinh (hậu thiên), tinh chuyển thành huyết. Tỳ đồng thời giúp huyết vận hành
đúng đường. Chứng xuất huyết kéo dài có liên quan đến chức năng của Tỳ. · Tỳ chủ
cơ nhục, chủ tứ chi: Tỳ trực tiếp nuôi dưỡng các cơ bắp, chân tay. Tỳ tốt thì
cơ bắp chắc, chân tay vững mạnh. Chứng sa nội tạng có liên quan đến Tỳ.
Phụ trách việc hấp thu đồ ăn và dinh dưỡng, phản ảnh hoạt động tiêu hoá từ miệng đến hậu môn. Về sinh lý, bệnh lý
Quan
hệ với cơ nhục : Tỳ hư, ăn kém, sút cân, thịt mềm nhảo, cơ yếu.
Khai
khiếu ra môi miệng : Ăn không ngon, nôn mửa.
Chức
năng nhiếp huyết :Chảy máu lâu ngày do Tỳ không nhiếp huyết.
Tỳ
hư : Ăn kém, chậm tiêu, đầy hơi, tiêu chảy kéo dài, cơ nhục mềm nhảo.
Tỳ
hư hàn: đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, ợ hơi, tay chân lạnh.
D/ PHẾ:
Phế thuộc hành Kim, có
liên quan đặc biệt với Tâm vì cùng ở thượng tiêu, quan hệ Tâm - Phế là
quan hệ Khí - Huyết.
Phế khai khiếu ra mũi, vinh nhuận ra tiếng nói, có những chức năng:
Phụ trách về hô hấp và sự khí hoá hoạt động toàn thân.
Phế khai khiếu ra mũi, vinh nhuận ra tiếng nói, có những chức năng:
· Phế chủ khí, chủ hô hấp: Phế tiếp thu
thanh khí và đào thải trọc khí, tiếp nhận tinh chất từ Tỳ chuyển lên, phối hợp
khí trời thành Tông khí.
Sự thở và tiếng nói trực tiếp do Phế đảm
nhiệm. Chứng ho, khó thở, khản tiếng đều liên quan tạng Phế.
· Phế chủ tuyên phát, túc giáng:
- Tuyên phát là đưa khí ra kinh mạch, đặc
biệt đưa Vệ khí ra phần biểu để bảo vệ cơ thể chống lại ngoại tà.
- Túc giáng là điều hành và phân bố thuỷ
dịch trong cơ thể. Nếu trắc trở, nước sẽ ứ đọng cục bộ gây phù nề, thường ở phần
trên cơ thể (Phù dị ứng).
· Phế chủ bì mao:
Phế đảm nhiệm phần biểu của cơ thể gồm
da, lông. Hiểu rộng ra là hệ thống bảo vệ cơ thể, hệ thống miễn dịch.
Hay bị cảm mạo, mụn nhọt, dị ứng đều
liên quan chức năng của Phế.
Phụ trách về hô hấp và sự khí hoá hoạt động toàn thân.
Quan
hệ với bì phu thông ra mũi họng và thanh quản biểu hiện lâm sàng có các triệu
chứng:
Phế
khí hư : thở nhanh nhỏ, yếu, nói nhỏ dễ ra mồ hôi sắc mặt trắng nhợt.
Phế
nhiệt : ho sốt, mạch nhanh, đờm đặc dính, lưỡi đỏ.
Phế
âm hư: ho khan, họng khô, khan tiếng lâu ngày, đạo hản, sốt âm triều nhiệt,
khát nước.
Ð/ THẬN:
Thận thuộc hành Thuỷ, là
gốc của tiêu thiên (di truyền, huyết thống), quan hệ với Tâm là quan hệ
Thuỷ - Hoả,
Thận khai khiếu ra Tai và nhị âm (Hậu môn và lỗ đái), vinh nhuận ra Răng, Tóc.
Chia làm hai loại chủ đề về Thuỷ và Hoả: Thận thuỷ hay Thận âm : thường biểu hiện quá trình ức chế.Thường có các triệu chứng: mất ngủ, đau lưng, ù tai, ra mồ hôi trộm, nhức xương, sốt hâm hấp, cầu táo, tiểu đỏ.
Thận khai khiếu ra Tai và nhị âm (Hậu môn và lỗ đái), vinh nhuận ra Răng, Tóc.
Tạng Thận có 2 phần gọi là:
- Thận âm hay Thận thuỷ bao gồm thận
tinh.
- Thận dương hay Thận hoả bao gồm thận
khí.
Thận có những chức năng:
· Thận chủ thuỷ: Thận cai quản và phân bố
các thuỷ dịch trong cơ thể. Tuy nhiên mỗi tạng lại liên quan trực tiếp đến một
loại dịch:
- Mô hôi là Tâm dịch
- Nước mắt là Can dịch
- Nước mũi là Phế dịch
- Nước bọt là Tỳ dịch
- Nước tiểu là Thận dịch.
Thận khí hoá nước, tham gia vào việc
chuyển hoá nước trong cơ thể, cùng với:
- Tỳ vận hoá thuỷ thấp
- Phế thông điều thuỷ đạo
- Tam tiêu là đường thuỷ dịch của cơ thể.
Thận thanh lọc nước để đưa lên Phế và dồn
phần trọc xuống Bàng quang để bài tiết ra ngoài.
· Thận tàng Tinh: Thận tàng giữ tinh tuý
của cơ thể:
- Tinh hậu thiên do nguồn ăn uống, là chất
nuôi dưỡng cơ thể, còn goi là tinh tạng phủ.
- Tinh tiên thiên còn gọi là tinh sinh dục;
là hệ thống gien di truyền trong các tế bào sinh dục.
Quá trình sinh dục và phát dục do tinh
tiên thiên và hậu thiên quyết định, liên quan trực tiếp đến thận khí.
- Quá trình phát dục ở nữ tính theo số
7:
7 tuổi: thân khí thịnh, răng thay, tóc mọc
dài.
14 tuổi: thiên quý đến, có kinh, có thể
mang thai.
21 tuổi: thận khí đầy đủ, thân thể lớn mạnh.
28 tuổi: phát triển cực mạnh mọi mặt.
35 tuổi: bắt đầu suy.
42 tuổi: suy rõ
49 tuổi: thiên quý cạn. Mãn kinh.
- Quá trình phát dục ở nam tính theo số
8:
8 tuổi: thận khí thực, răng tóc thay.
16 tuổi: thận khí thịnh, thiên quý đến,
có thể sinh con.
24 tuổi: thận khí đầy đủ, thân thể cường
tráng.
32 tuổi: phát triển cực mạnh moi mặt.
40 tuổi: bắt đầu suy.
48 tuổi: suy rõ, phải dùng kính, tóc bạc.
56 tuổi: can khí suy yêu, gân mạch kém.
64 tuổi: thiên quý cạn, râu tóc bạc,
răng long không sinh sản được.
(Ghi chú: Ngày nay con người có khác xưa
nên tuổi thọ kéo dài, thể lực tăng hơn.
Phân loại theo quốc tế: 50-60 mới là
trung niên; 60-70 mới là người có tuổi, trên 70 mới là người già)
· Thận chủ mệnh môn hoả: Mệnh môn hoả là
quá trình sinh nhiệt lượng, năng lượng cần thiết cho những hoạt động tối thiểu
của cơ thể. Hoả của Thận được coi là "Tướng hoả" ví tựa như sức nóng
trong lòng đất so với sức nóng mặt trời là quân hoả.
Hoả của Thận suy sẽ ảnh hưởng ngay đến
chức năng của Tâm và Tỳ.
· Thận nạp khí: Trong hô hấp, thận phụ
trách động tác hấp còn Phế phụ trách động tác thở ra (Hô). Bệnh hen phế quản có
liên quan đến tạng Thận.
· Thận chủ xương tuỷ, liên quan Não:
Tinh sinh ra tủy, tủy sinh cốt. Chứng còi xương, chậm đi ở trẻ, rụng răng ở người
lớn có liên quan tạng Thận.
Thận cũng luôn bổ sung tinh tuỷ cho não.
Thận tinh hư, trí tuệ chậm phát triển, đần độ nên phải bổ Thận.
Tinh sinh huyết, huyết nuôi dưỡng tóc
nên sự thịnh suy của Thận ảnh hưởng đến tóc.
Chia làm hai loại chủ đề về Thuỷ và Hoả: Thận thuỷ hay Thận âm : thường biểu hiện quá trình ức chế.Thường có các triệu chứng: mất ngủ, đau lưng, ù tai, ra mồ hôi trộm, nhức xương, sốt hâm hấp, cầu táo, tiểu đỏ.
Thận
hoả hay Thận dương: có những biểu hiện về hưng phấn. Nếu thận dương hư có các
triệu chứng chân tay sợ lạnh, tiêu chảy kéo dài, mạch yếu, di tinh, hoạt tinh,
liệt dương.
Thận
tàng tinh, chủ về sự phát dục cơ thể và hoạt động sinh dục nam: thận hư trẻ con
chậm phát triển trí tuệ, chậm biết đi, chậm mọc răng, người lớn hoạt động sinh
dục giảm, đau lưng, di tinh, liệt dương.
Quan
hệ với xương tuỷ, khai khiếu ra tai: Thận hư thường đau lưng, nhức mỏi, ù tai.
Trên
lâm sàng thường có hội chứng sau:
Thận
âm hư: họng khô,răng đau nhức lung lay, tai ù, hoa mắt, mất ngủ, nhức xương, đạo
hản. Tinh thần ức chế.
Thận
dương hư: đau lưng, lạnh cột sống, chân tay lạnh, hoạt tinh, liệt dương, ỉa chảy,
tiểu đêm, tinh thần giảm hưng phấn.
3. CÁC PHỦ:
A. ÐỞM :
Đởm chứa mật, giúp cho Tỳ
tiêu hoá, Đởm còn có chức năng về tinh thần, chủ quyết đoán. Chứng
hoàng đản có liên quan trực tiếp tới Đởm.
– Bài tiết ra chất mật.
– Bài tiết ra chất mật.
–
Chủ về sự quyết đoán và sự dũng cảm.
B. VỴ :
Vị chứa đựng và làm nhừ
đồ ăn, giúp cho Tỳ vận hoá thức ăn. Vị và Tỳ được coi là gốc của hậu
thiên. Dựa vào Vị khí người ta tiên lượng tốt xấu của bệnh và đánh giá
kết quả điều trị. "Còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ chết". Bảo vệ Vị
khí là một nguyên tắc điều trị của Đông y.
– Chứa đựng và nghiền nát thức ăn.
– Chứa đựng và nghiền nát thức ăn.
–
Luôn có biểu hiện về bệnh lý ở răng miệng, sâu răng, hôi miệng, loét miệng thường
do vị nhiệt.
C. TIỂU TRƯỜNG :
Tiểu trường phân lọc tinh
chất do Tỳ vận hoá từ thức ăn. Phần thanh được hấp thu tại Tiểu trường
rồi đưa lên Phế; phần trọc chuyển xuống Bàng quang và Đại trường để bài
tiết ra ngoài.
Tiểu trường biểu lý với Tâm nên Nhiệt ở tạng Tâm có thể đi xuống Tiểu trường gây chứng đái máu.
– Nhận thức ăn từ vị đưa xuống hấp thụ các chất tinh khiết biến thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, phân thanh giáng trọc, đưa các chất cặn bã xuống Ðại Trường và Bàng Quang.
Tiểu trường biểu lý với Tâm nên Nhiệt ở tạng Tâm có thể đi xuống Tiểu trường gây chứng đái máu.
– Nhận thức ăn từ vị đưa xuống hấp thụ các chất tinh khiết biến thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, phân thanh giáng trọc, đưa các chất cặn bã xuống Ðại Trường và Bàng Quang.
D. ÐẠI TRƯỜNG :
Đại trường chứa đựng và
bài tiết phân. Các chứng lói dom (thoát giang), trĩ, lỵ là bệnh của Đại
trường. Đại trường quan hệ biểu lý với Phế nên bệnh của Đại trường ảnh
hưởng đến Phế. Phế nhiệt gây táo bón và ngược Đại trường bón sẽ gây ho.
Truyến đạo để bài tiết cặn bã.
Truyến đạo để bài tiết cặn bã.
Ð. BÀNG QUANG :
Bàng quang chứa đựng và
bài tiết nước tiểu. Thận hư sẽ gây rồi loạn tiểu tiện. Các chứng đái
đục, đái buốt, đái rắt liên quan đến Bàng quang.
Tiếp với thận để bài tiết nước tiểu.
Tiếp với thận để bài tiết nước tiểu.
E. TAM TIÊU :
Tam tiêu là 3 phần của
thân mình: Thượng tiêu là phần từ miệng đến tâm vị; trung tiêu là phần
từ tâm vị đến môn vị; hạ tiêu là phần từ môn vị đến hậu môn.
Là nhóm chức năng quan giữa các tạng, phủ trên và dưới với nhau. Sự khí hoá tam tiêu được chia làm ba phần.
· Tam tiêu là đường phân bố thuỷ dịch
trong cơ thể: nước ở thượng tiêu toả như mây mù, ở trung tiêu đọng lại như ao hồ,
ở hạ tiêu chảy như nước trong suối lạch. Lực điều hành thuỷ dịch do Phế khí (Phế
thông điều thuỷ đạo).
· Tam tiện cũng là 3 trung tâm phát nhiệt
của cơ thể.
Là nhóm chức năng quan giữa các tạng, phủ trên và dưới với nhau. Sự khí hoá tam tiêu được chia làm ba phần.
–
Thượng tiêu : từ miệng đến tâm vị có các tạng Phế Tâm.
–
Trung tiêu : Từ tâm vị đến hậu môn vị có tạng Tỳ.
–
Hạ tiêu : Từ môn vị đến hậu môn có các tạng Can và Thận
II Tinh, khí, huyết, thần, tân dịch
ĐẠI
CƯƠNG
Tinh, khí, huyết, thần, tân dịch được
xem là 5 vật chất cơ bản của sự sống.
I. TINH:
Là cơ sở vật chất cấu tạo nên cơ thể và
dinh dưỡng cơ thể, gồm:
1. Tinh tiên thiên: Là tinh do cha mẹ
truyền lại cho con, được hiểu là các đặc tính về di truyền.
Chức năng của Tinh tiên thiên sẽ quyết định
sự hoàn thiện về mặt cấu trúc, hình thái của cơ thể cũng như cấu trúc và chức
năng của các bộ phận khác trong cơ thể. Do đó, Tinh tiên thiên khi khiếm khuyết
sẽ đưa đến các bệnh lý di truyền hoặc bẩm sinh.
2. Tinh hậu thiên: Có nguồn gốc từ thức
ăn. Thức ăn sau khi được tiêu hóa, hấp thu sẽ đi khắp châu thân để dinh dưỡng
các Tạng Phủ đồng thời được chuyển hóa thành Khí để duy trì các hoạt động của
cơ thể và Tạng Phủ. Do đó, khi rối loạn Tinh hậu thiên sẽ đưa đến các rối lọan
về dinh dưỡng.
* Quan hệ Tinh tiên thiên – Tinh hậu
thiên:
-Tinh tiên thiên dựa vào sự nuôi dưỡng của
tinh hậu thiên để không ngừng hình thành và bảo vệ thai nhi, giúp cho sự sinh
trưởng và phát dục của cơ thể.
-Tinh hậu thiên dựa vào sự thúc đẩy, khí
hóa của tinh tiên thiên, từ đó các chất tinh vi không ngừng được sinh mới nhằm
thúc đẩy công năng của tạng phủ, phần còn lại được tàng ở Thận.
3. Tinh sinh dục: Là tinh của Thận, có
chức năng điều hòa các hoạt động của Tạng Phủ đặc biệt là sự phát dục và sinh dục
ở nam nữ.Do đó, khi rối loạn Tinh sinh dục sẽ đưa đến rối loạn phát triển thể
chất đặc biệt là các bệnh lý bẩm sinh về giới tính.
4. Tinh Tạng Phủ: Là vật chất cơ bản để
cấu tạo nên cơ quan Tạng Phủ đó. Nguồn gốc của nó là Tinh tiên thiên được khí
hóa mà thành . Đồng thời, không ngừng được bổ sung bởi Tinh hậu thiên. Do đó,
khi rối loạn Tinh của Tạng Phủ sẽ đưa đến rối loạn chức năng của chính Tạng Phủ
đó.VD: Khi tạng Tỳ thổ bị hư thì sẽ có biểu hiện của Tỳ khí hư như: Chán ăn, buồn
nôn, tiêu chảy (Do Tỳ bất kiện vận ).Chướng bụng, phù chân (Do Tỳ không vận hóa
thủy thấp ).Chảy máu tự nhiên (Do Tỳ bất thống nhiếp huyết ).
* Chức năng của Tinh: Có 4 chức năng.
•Sinh sôi nảy nở: Thận tinh sung túc thì
khả năng sinh sản mạnh mẽ; Thận tinh bất túc thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh
sản.
•Sinh trưởng và phát dục.
•Sinh tủy hóa huyết: Thận tàng tinh,
tinh sinh tủy, não là bể của tủy; Tinh sinh tủy, tủy hóa huyết.
•Nhu nhuận tạng phủ.
Tinh là cơ sở của sức sống, tinh đầy đủ
thì sức sống mạnh mẽ, cơ thể thích ứng được với sự thay đổi của hoàn cảnh, tinh
thiếu hoặc kém thì sức sống giảm, kém thích ứng và giảm sức đề kháng với bệnh
tà.
II. KHÍ:
Là chất dinh dưỡng (có nguồn gốc từ thức
ăn) vận hành trong cơ thể. Là sự hoạt động của các tạng phủ, khí quan trong cơ
thể.
Khí gồm có:
1. Nguyên khí: Còn gọi là Khí tiên thiên
do Tinh tiên thiên hóa sinh mà thành, có chức năng thúc đẩy mọi hoạt động của
cơ thể và của Tạng Phủ. Do đó, khi khiếm khuyết Tinh tiên thiên sẽ đưa đến thiếu
hụt Nguyên khí.
2. Khí hậu thiên: Là Khí hóa sinh từ đồ
ăn thức uống kết hợp với khí trời hít vào.
a. Tông khí: Là khí cần cho sự hoạt động
của Phế và Tâm. Tông khí kém sẽ có biểu hiện của: Mệt mỏi; Tiếng nói thấp, nhỏ,
hụt hơi; Gắng sức thì vã mồ hôi; Mặt trắng nhợt; Mạch yếu, nhỏ.
b. Dinh khí: Có nguồn gốc từ thức ăn uống
qua khí hóa của Tỳ Vị mà sinh ra, có chức năng dinh dưỡng tòan thân. Dinh khí
kém sẽ có biểu hiện suy kiệt.
c. Vệ khí :Có nguồn gốc từ thức ăn uống
qua khí hóa của Tỳ Vị mà thành nhưng được phân bố bởi Thượng tiêu, nó có chức
năng ôn dưỡng Tạng Phủ và bảo vệ bì mao tấu lý. Vệ khí kém thì cơ thể dễ bị mắc
các bệnh thời khí, truyền nhiễm.
III. HUYẾT:
Là chất dịch màu đỏ có nguồn gốc từ đồ
ăn thức uống được Tỳ Vị khí hóa mà thành. Chúng luân chuyển khắp cơ thể qua các
mạch máu để dinh dưỡng toàn thân.
Huyết được tạo thành từ: - Thận chủ cốt
tủy, tủy hóa sinh thành Huyết. - Tỳ khí hóa tinh hoa thủy cốc rồi qua tác dụng
khí hóa của Tâm Phế mà thành huyết
Huyết hư có biểu hiện: Người mệt mỏi; Sắc
mặt, môi, móng nhợt nhạt; Da, lông thưa khô; Hoa mắt; Chóng mặt.Huyết bị ứ trệ
không lưu thông được sẽ sinh tím tái toàn thân hoặc cục bộ sưng, nóng đỏ, đau.
IV. THẦN:
Thần được sinh ra bởi Tinh tiên thiên và
nuôi dưỡng bởi Tinh hậu thiên. Thần là khái niệm chung về hoạt động tinh thần của
con người. Thần bị rối loạn sẽ có biểu hiện: Hôn mê; Cuồng sảng, Trầm uất; Mất
trí nhớ; Rối loạn hành vi, ngôn ngữ.
Thần còn thì sống, mất thần thì chết
V. TÂN DỊCH
1. Tân: Là một loại thể dịch của cơ thể
sinh ra từ đồ ăn thức uống do Tỳ vận hóa thăng phần thanh lên Phế, qua tác dụng
tuyên phát của Phế mà phân bổ khắp cơ thể phân bố đến cơ nhục, bì phu để ôn dưỡng
cơ nhục và tươi nhuận da lông. Sau đó, trở thành trọc theo Tam tiêu (dưới sự
túc giáng của Phế) xuống Bàng quang. ở đây dưới tác dụng của Thận Khí sẽ trở
thành 2 phần, phần thanh đưa trở lại Phế để phục nguyên thành tân dịch mới, phần
trọc thành nước tiểu thải ra ngòai theo khí của Tam tiêu. Tân bao gồm nước bọt,
dịch vị, dịch trường, mồ hôi, nước tiểu …
2. Dịch: Có từ nguồn gốc từ đồ ăn thức uống
hóa sinh mà thành. Thường xuất hiện trong các lổ tự nhiên (Khiếu), dịch não tủy,
khớp có tính chất trơn nhớt đậm đặc hơn Tân.
Sự thiếu hụt Tân dịch sẽ biểu hiện: Khô
khát; Ho khan; Mất tiếng; Tiểu ít; Da lông khô; Các khớp vận động khó khăn.
Tân dịch bị ứ đọng sẽ biểu hiện: Đàm ẩm;
Thủy thũng; cổ trướng.
Tóm tắt :
Tâm
khai khiếu ở lưỡi
Tâm
khí thông với lưỡi, tâm hoà, lưỡi sẽ tự có thể
phân biệt được ngũ vị. Trên thực tế, tâm khí đủ không chỉ giúp lưỡi có thể phân biệt được rõ ràng năm loại vị, mà đầu lưỡi còn
chuyển động linh hoạt hơn, việc nói năng sẽ lưu loát hơn. Thông thường, lưỡi có
màu hồng nhuận biểu thị sự đầy đủ khí huyết ở tâm.
Thận
khai khiếu ở tai
Gan
khai khiếu ở mắt
Thị
lực tốt hay xấu có liên quan mật thiết đến gan. Theo Đông y, gan tàng huyết, mà
huyết lại là vật chất cơ bản trực tiếp
nhất liên quan đến hoạt động của mắt. Do đó, gan huyết suy hay thịnh có ảnh hưởng
trực tiếp đến chức năng thị giác. Nếu gan huyết không đủ, mắt sẽ bị thiếu dưỡng
chất, dẫn đến tình trạng hoa mắt, nhìn không rõ, quáng gà… Nếu gan bốc hoả, mắt
sẽ bị đỏ, sưng phù. Khi gan âm suy, mắt sẽ khô, nhìn không rõ, hoặc con ngươi
không linh hoạt. Gan khí bị ách tắc quá lâu sẽ dẫn đến miệng đắng, mắt hoa…
Phổi
khai khiếu ở mũi
Về
lâm sàng, một số bệnh về phổi được biểu hiện qua mũi, như cảm phong hàn ảnh hưởng
đến phổi, sẽ khiến mũi bị tắc, chảy nước
mũi, ảnh hưởng đến khứu giác. Khi phổi bị nóng, mũi sẽ bị khô. Ngược lại, khi
mũi có biểu hiện bất thường, cũng có thể suy đoán phổi đã mắc bệnh.
Tì
khai khiếu ở miệng
1. Hội chứng bệnh về khí
Khí là các dạng năng lượng giúp cho tạng
phủ hoạt động. Bệnh về khí có ba hội chứng là
1.1
Khí hư
Là tình trạng thiếu năng lượng hoạt động,
thiểu lực. Thường gặp ở thời kỳ khỏi bệnh, ở người bệnh mạn tính, ở người già yếu.
-
Triệu chứng: thở ngắn, yếu sức, cơ bắp teo nhẽo, tiêu hóa kém, tự ra mồ
hôi, lưỡi bệu, mạch hư.
-
Phép chữa: Bổ khí (ích khí)
- Thuốc: hoàng kỳ, nhân sâm, đảng sâm,
đinh lăng, bạch truật ....
- Châm cứu: Túc tam lý, đại chúng.
1.2
Khí trệ (khí uất)
Do chấn thương tinh thần (stress) căng
thẳng, kéo dài. Hoặc do ăn uống không điều độ, còn do ngoại cảm.
-
Triệu chứng: Đau tức, đầy chướng, vị trí đau không cố định, rõ rệt. Tính
tình dễ bực tức, cáu gắt. Ợ hơi, trung tiện thì dễ chịu, vú căng tức, đau mót rặn,
bế kinh, thống kinh.
-
Phép chữa: Hành khí, sơ can lý khí.
- Thuốc: Hương phụ, tràn bì, chỉ thực,
chỉ xác, hậu phác. Mộc hương sa nhân, tô ngạnh .....
- Châm cứu: châm tả cách huyệt theo bộ vị,
tạng phủ bị đau.
1.3
Khí nghịch
Nguyên nhân thường do khí uất trệ mà
sinh ngịch, hoặc do ngoại cảm, thường gặp ở phế, can, vị.
-
Triệu chứng:
— Phế khí nghịch: ho, khó thở
— Vị khí nghịch: nôn, nấc, ợ hơi.
Can khí nghịch: đau tức ngực sươn, đau
vùng thượng vị.
-
Phép chữa: Thuận khi - giáng khí nghịch.
- Thuốc: Thị đế, đinh hương, sinh
khương, mộc hương, ô dược thanh bì, chỉ sác....
- Châm cứu: Châm tả các huyệt tùy chứng
bệnh.
Phế khí ngịch: Thiên đột, khí xác, đản
trung.
Vị khí ngịch: Trung quản, cáchdu.
Can khí nghịch: Thái xung - bách hội.
2. Hội chứng bệnh về huyết
Huyết được tạo ra từ tinh, do tạng tâm
làm chủ, can tàng chứa tỳ dẫn dắt. Có 4 chứng bệnh về huyết là:
2.1
Huyết hư
Nguyên nhân do mất máu cấp tính hoặc mạn
tính (giun móc, rong huyết, sốt rét .... ) còn do thiếu thức ăn, hoặc bệnh đường
tiêu hóa không hấp thu được tinh chất.
-
Triệu chứng: Da xanh tái, môi nhạt, lưỡi nhạt, hay hoa mắt, trống ngực nhức
đầu, mất ngủ, mạch tế nhược.
-
Phép chữa: Bổ huyết - dưỡng huyết
- Thuốc: Thục địa - đương quy, hà thủ ô,
kê huyết đằng, Sữa, tử hà sa ....- Thủy châm: Vitamin B12, huyệt tuc tam lý,
Huyết hải.
2.2
Huyết ứ:
Thường do chấn thương, do ngoại cảm và
do khí trệ.
-
Triệu chứng: Đau xương, điểm đau cố định, ấn vào đau (cự án), lưỡi có những
điểm xanh tím, nơi đau thường xưng, nóng đỏ mạch huyền, sáp.
-
Phép chữa: Hoạt huyết - tiên ứ (thường kèm theo thành khí)
- Thuốc: Ích mẫu, ngưu tất, đan sâm,
xích thược, huyết đằng, hồng hoa, đào nhân, gai bò kết ....
- Tiêu ứ: Uất kim, nghệ, tam lăng, nga
truật, tô mộc, huyết giác ....- Châm cứu: Châm tả các huyệt A thị, tại chỗ hoặc
trên kinh lạc có huyết ứ.
2.3
Huyết nhiệt
Do ngoại cảm, nhiệt tà vào huyết và lưu
tại đó hoặc do bẩm tố cơ địa dị ứng.
-
Triệu chứng: Với các bệnh nhiễm khuẩn: miệng khô khát, sốt nhiều đêm, vật
vã, mê sảng, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch tế sác.
— Dị ứng ngoài da, mẩn ngứa, mày đay, mụn
nhọt
-
Phép chữa: thanh nhiệt, lương huyết.
- Thuốc: Huyền sâm, sinh địa, rau má, lá
cối xay, đan bì, cỏ màn chầu, dừa nước, mướp đắng.
- Châm cứu: Châm bình bổ, bình tả các
huyệt huyết hải, khúc trì, hợp cốc, cách du, đại chùy.
2.4
Xuất huyết:
Máu chạy ra ngoài thành lòng mạch, chảy
máu do rất nhiều nguyên nhân, cũng tùy nguyên nhân mà đề ra phép chữa
- Huết nhiệt gây chảy máu, phép chữa:
lương huyết, chỉ huyết.
- Nhiệt độc, thường gặp trong sốt nhiễm
khuẩn, phép chữa là thanh nhiệt giải độc.
- Do tỳ hư gây chảy máu, phép chữa là kiện
tỳ, chỉ huyết.
- Do can uất không tàng huyết (thổ huyết)
phép chữa là thư can, chỉ huyết, xuất huyết, có nhiều dạng, xuất huyết ra
ngoài, như trĩ, rong kinh, rong huyết, máu cam, xuất huyết dưới da, xuất huyết
nội tạng như huyết não, xuất huyết phổi, dạ dày ....
Các thuốc cầm máu chung cho mọi nguyên
nhân: Cỏ nhọ nồi, trắc bá diệp sao đen, tam thất, A giao ....
3. Hội chứng bệnh tân dịch
Thủy dịch do thận làm chủ bao gồm ngũ dịch
và tân dịch. Có hai hội chứng bệnh là:
3.1
Tân dịch khô kiệt
- Là tình hình mất nước, thường do tiêu
chảy, nôn nặng, ra mồ hôi nhiều hoặc sốt cao kéo dài, do nắng nóng (thử nhiệt)
-
Triệu chứng: Môi miệng khô khát, da khô, tiểu ít, táo bón, lưỡi thon nhỏ,
rêu khô, mạch tê sác, khớp cử động khó, có tiếng kiêu khi cử động.
-
Phép chữa: Bổ âm sinh tân (bồi âm, dưỡng âm)
- Thuốc: Cát căn, mạch môn, thiên môn,
sa sâm, nước gạo rang, nước mía, nước khoáng.....
3.2
Tân dịch ứ đọng (thủy thủng)
Nguyên nhân do thận dương hư không khí
hóa và bài tiết thủy dịch do phế không thông đều được thủy đạo, do tỳ hư không
vận hóa được thủy thấp gây tình trạng ứ đọng tân dịch.
-
Triệu chứng:
— Do phế: phù nửa thân trên, khó thở, tức
ngực, đờm khò khè.
— Do tỳ: phù nửa ngườ dưới, phù do suy
dinh hưỡng
— Do thận: Phù mặt, phù toàn thân
(viêieôt nam cầu thận, thận nhiễm mỡ)
-
Phép chữa: Bổ phế khí, hành thủy.
Kiện tỳ hóa thấp, lợi thấp.
Ôn bổ thận dương, lợi thủy thông dương,
tiêu phù.
- Thuốc lợi tiểu: Trạch tả, sa tiền, râu
ngô, lá râu mèo, ý dĩ, tỳ giải .....
Phải kết hợp thuốc điều trị nguyên nhân
và hành khí.
4. Hội chứng bệnh tạng tâm
4.1.
Tâm hàn (tâm dương hư)
-
Triệu chứng: đau tức vùng ngực trái, chân tay lạnh, mặt xanh tái, có khi ngất
xỉu.
Thường gặp trong hội chứng suy mạch
vành, trụy tim mạch, nhồi máu cơ tim.
-
Phép chữa: hồi dương cứu nghịch, thông dương.
- Thuốc: Phụ tử, can khương, nhục quế, đại
hồi.
Bài thuốc: tứ nghịch thang, phụ tử chế
20 gam, can khương 12.
- Châm cứu: châm thập tuyên, các huyệt tỉnh,
nhân trung, cam thảo 16, cứu lao cung, dũng khuyễn quan nguyên.
4.2
Tâm nhiệt (Tâm hỏa thịnh)
- Thể hiện sốt cao, mê sảng (giai đoạn
toàn phát bệnh nhiễm) loét lưỡi, lở miệng ...
-
Phép chữa: thanh tâm hỏa
- Thuốc: hoàng liên, liên tâm, trúc diệp,
thạch cao ....
- Cham tả: Khúc trì, hợp cốc, nội quan,
thần môn, tam âm giao
4.3
Tâm hư:
Có 2 thể:
— Tâm huyết hư: triệu chứng và phép chữa
nư huyết hư kèm theo an thần. — Tâm khí hư: triệu chứng như khí hư nhưng tập
trung ở hệ tâm mạch như huyết áp thấp, tiếng tim nhỏ yếu, điều trị như khí hư.
4.4
Tâm thực (đàm mê tâm khiêu)
-
Triệu chứng: Rối loạn tâm thần, rối loạn nhân cách.
-
Phép chữa: trừ đàm khai khiếu
- Thuốc: trúc như, trúclịch, qua lâu
nhân, bối mẫu, bán hạ chế trần bì (Bài thuốc nhị trần thang): Bán hạ 6g, trần
bì 4 bạch linh 10, cam thảo 6.
- Châm: nội quan, thần môn, bách hội,
tam âm giao.
5. Hội chứng bệnh tạng CAN
5.1
Can hàn (Hàn trệ can kinh)
Triệu chứng: Đau bụng dưới, thống kinh,
bế kinh, đau bọ phận sinh dục
- Phép chữa: Tán hàn noãn can (ôn can
- Thuốc: Nải cứu, xuyên tiêu, phụ tử chế,
can khương, quế- Cứu: quan nguyên, khí hải, thái xung.
- Ghi chú: loại trừ viêm ruột thừa cấp,
soắn thừng tinh, soắn u nang buồng trứng.
5.2
Can nhiệt: (Can hỏa vượng - Can hỏa thượng viêm)
- Triệu chứng: Hoa mắt, chóng mặt, rức
đau, ù tai, mặt nóng đỏ, mắt đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác.
Thường gặp trong hội chứng tiền đình,
cơn tăng huyết áp.
- Pháp chữa: thanh can hỏa - bình can
giáng hỏa.
- Thuốc: Hoàng cầm, hè hoa, cúc hoa, hạ
khô thảo, thiên ma - câu đằng.
- Châm: Hành gian - thái xung - tam ân
giao - bách hội.
5.3
Can hư (can huyế hư - can âm hư)
- Triệu chứng: mắt mờ, quáng gà, móng
chân tay khô nứt, gân khớp teo cứng, co rút.
- Phép chữa: Bổ can huyết
- Thuốc: đương quy, bạch tược, hà thủ ô.
- Xoa bóp các chi hoặc khớp bị xơ cứng.
5.4
Can thực (Can khí uất - can khí phạm vị)
- Triệu chứng: Đau tức ngực sườnc,, đau
vùng thượng vị, thông kinh, bế kinh, hay ợ hơi, ợ chua, tính tình dễ cáu gắt.
- Phép chữa: sơ can lý khí - sơ can hòa
vị.
- Thuốc: Hương phụ - thanh bì - chỉ sác,
sái hồ.
- Châm cứu: Bách hội, thái xung, trung
quản, kỳ môn.
6. Hội chứng bệnh tạng tỳ.
6.1
Tỳ hàn (Tỳ dương hư)
- Triệu chứng: Hayđầy bụng, tiêu chảy,
hoặc phân nát sống, thích ăn uống,nóng, sợ lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm trì.
- Phép chữa: ôn trung, kiện tỳ.
- Thuốc: Can khương, cao lương khương, bạch
truật, ý dĩ- Cứu: Trung quản, thiên khu, quan nguyên, túc tam lý.
6.2
Tỳ nhiệt (cam tích)
- Triệu chứng: Mụn nhọt nhiều, môi đỏ,
đau quặnbụng từng cơn, phân lẫn bọt, rêu lưỡi vàng, mạch nhu sác, trẻ em do ăn
nhiều bánh kẹo, thức ăn mỡ béo khó tiêu, gây rối loạn tiêu hóa thường xuyê, nên
thân thể gầy xanh, cơ bắp teo nhẽo, bụng ỏng.
- Phép chữa: Thanh nhiệt, kiện tỳ tiêu
tích.
- Thuốc: Hoàng bá, sơn tra, mạch nha, thần
khúc, chỉ thực, nhân trần.
Kết hợp điều chỉnh chế độ ăn uống.
6.3
Tỳ hư (Tỳ khí hư)
- Triệu chứng: Chân tay mềm yếu, cơ bắp
teo nhẽo, tiêu hóa kém, phân thường sóng nát, lưỡi bệu nhạt, rêu trắng dày.
- Phép chữa: Ích khí - Kiện tỳ.
- Thuốc: Đảng sâm, bạch tuật, hoài sơn,
ý dĩ
- Thủy câm: Strichnin + Vitamin B1, huyệt
túc tam lý, tỳ du, vị di.
6.4
Tỳ thực: (thực tích)
-
Triệu chứng: Do ăn quá nhiều, hức ăn nhiều tihịt mỡ, .... dụng đầy tức, ấm
ách miệng đắng, rêu lưỡi dày trắng bẩn hoặc vàng. Mạch hoạt sác hữu lực.
- Phép chữa: tiêu đạo.
-
Thuốc: Mọc hương, riềng, củ sả,, trần bì, mộc hương,
Bài thuốc: việt cúc hoàn (hương phụ,
thương truật, xuyên khung, tầhn khúc, chi tử đều 10 gam.
- Châm: Trung quản - thiên khu - túc tam
lý.
Ấn dây, can du, đởm du, tỳ du, vị du.
7. Hội chứng bệnh tạng phế
7.1
Phê hàn (phong han thúc phế)
- Triệu chứng: Hắt hơi, sổ mũi nước
trong, ho đờm loãng, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng bóng, mạch phù.
- Phép chữa: khu phong, tán hàn, chỉ
khái (ôn phế, chỉ khái)
- Thuốc: Cát cánh, hạt nhân, cam thảo.
Bài thuốc: Chỉ khái tán (hạnh nhân 10
cát cánh 8 cam thảo 4, tiền hồ 12, tử uyển 12)
7.2
Phế nhiệt: (phong nhiệt phạm phế)
- Triệu chứng: sốt, đau, rát họng, không
sợ lạnh, ho cơn đờm đặc, lưỡi đỏ, rêu vàn, mạch sác.
- Phép chữa: Thanh nhiệt, chỉ khái.
- Thuốc: Hoàng cầm, kim ngân, liên kiều,
sài đấ, tang bạch bì, tỳ bà diệp, tiền hồ.
Bài thuốc: Tang hạnh thang
(Tang bạch bì 12 gam hạnh nhân 8 tang bạch
bì 12, tiền hồ 10, bối mẫu 10, sa sâm 8, Cam thảo 4)
7.3
Phế hư: Phân chia hai thể:
— Phế khí hư:
- Đoản hơi, tiếng nói yếu, tự hãn, mặt
tái, lưỡi nhạt, mạch hư.
- Phép chữa: kiên tỳ ích khí.
- Thuốc: đẳng sâm, hoàng kỳ, bạch truật.
— Phế âm hư:
- Triệu chứng: Ho khan gầy sút, môi đỏ,
gò mà hồng, lưỡi hơi đỏ, mạch tế sác, đạo hãn âm he nên hỏa vượng thường sát về
chiều, ho ra máu.
- Phép chữa: tư âm, dưỡng phế
- Thuốc: Mạch môn, san âm, tử hà sa.
- Thủy châm: Philatôp tiêm vào thể du,
túc tim lý.
7.4
Phế thực (háo suyễn)
- Triệu chứng: Tức ngực, khó thở kèm tiếng
cò cử gặp trong cơn hen phế quản.
- Phép chữa: Trừ đàm, định suyễn.
- Thuốc: Trần bì, bán hạ chế, bỗi mẫu,
ma hoàng, hạnh nhân, cát cánh, cam thảo. Cơn hen phế quản còn phải phân định
hàn, nhiệt để điều trị thích hơp hợp.
- Châm cứu: Thiên đột, khí xả, định xuyển,
phế du, đản trung.
8. Hội chứng bệnh tạng thận
Bệnh lý của Thận thường là hư chứng, do
vậy chữa thận thường dùng phép bổ (thận nghi bổ bất nghi tả - can nghi tả bất
nghi bổ)
8.1
Thận dương hư (thận hư hàn)- Triệu chứng: Sợ lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt
tái, đau lưng, tiêu chảy, buổi sáng sớm (ngũ cánh tả) chất lưỡi nhạt, mạch trầm
trì, thường gặp ở bệnh nhân kéo dài, người có tuổi, lão sung.
- Phép chữa: ôn bỏ tậhn dương.
- Thuốc: Can khương, phụ tử, quế tâm. Cổ
phương, bát vị địa hoàng hoặc hữu quy hoàn.
- Cứu: Quan nguyên, khí hải, mệnh môn, tận
du, xát nóng bàn chân.
8.2.
Thận khí hư
- Triệu chứng:
— Phù thủng do thân không khí hóa được
nước.
— Hen suyễn do thận không nạp được khí.
— Di tinh, hoạt tinh, tiểu đêm nhiều do
thận không bế tàng.
- Liệt dương, lãnh cảm.
Lưỡi bệu nhạt, mạch trầm nhược.
- Phép chữa: bổ thận khí.
- Thuốc: Đỗ trong, nhụcthung dung, phá cổ
chỉ. Dân dương hoặc tắc kè, hải mã.
- Châm cứu: mệnh môn, thận du, thái khê
tam âm giao, dùng truyền.
8.3
Thận âm hư:
Thận chủ thủy, thận tàng tinh. Tạm tách
thành 2 hội chứng.
— Âm hư: phần dịch thể (tân dịch), bị suy giảm nên sinh chứng
âm hư cũng gọi là cứng hư nhiệt, vì âm hư sinh nội nhiệt.
- Triệu chứng: Người nóng, da kho, lòng
bàn chân, tay nóng, người gầy, sốt chiều, ra mồ hôi trộm, môi miệng khô, táo
bón, tiểu ít và đậm, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.
- Pháp chữa: tâm âm - sinh tân.
- Thuốc: Mạch môn, thiên môn, nước mía,
nước khoáng.
— Thận âm hư
- Triệu chứng: Hoa mắt,
chóng mắt, ù tai, giảm thính lực, răng long, tóc bạc sớm, rụng tóc, đau lưng, mỏi
gối, đau buốt, trong xơng, di tinh, vô sinh. Miệng kho, lòng bàn chân tay nóng,
mồ hôi trộm, lưỡi đỏ thon, mạch tế sác thường gặp trong các bệnh suy nhược thần
kinh, lao phổi, tiểu đường, tăng huyết áp, xơ cứng động mạch, bệnh chất tạo
keo.
- Phép chữa: Tư bổ thận âm.
- Thuốc: Thực địa: Hà thủ ô, thiên môn
đông, địa cốt bì quy bản, cao ban long ....
- Châm cứu: huyệt dùng thân du, tùy chứng
trạng mà chọn thuốc để thủy châm.
8.
4. Thận âm, thận dương đều hư
Vì âm dương hỗ căn nên thận âm hư kéo
dài sẽ làm cho thận dương cũng hư yếu, ngược lại thận dương hư cũng kéo theo thận
âm hư.
- Triệu chứng: Các triệu chứng của hai hội
chứng thận âm, thận dương, hư. Lưỡi thon hoặc bệu mạch trầm tế vô lực.
Thường là suy nhược cơ thể hiệu quả của
các bệnh mạn tính.
- Phép chữa: tùy theo hội chứng thận âm
nổi bật hay tận dương là chính mà đề ra phép bổ thận âm là chính hay bổ thận
dương là chính.
9. Hội chứng bệnh can đởm
Can đởm quan hệ biểu lý, bệnh của đởm
cũng là bệnh của can, thường gặp nhất là hội chứng cam đởm thấp nhiệt.
-
Triệu chứng: Da mắt vàng, nước tiểu vàng đậm, đau tức mạng sườn, ngán ăn,
miệng đắn, buồn nôn, nôn, tiêu lỏng hoặc táo bón, bụng đầy hoặc bọ phận sinh dục
ngoài phù, ngứa, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác. Thường gặp trong bệnh viêm gan
víut cấp và mạn, vàng da do tát mật, viêm nhiễm bộ phận sinh dục ngoài.
-
Phép chữa: Thanh nhiệt trừ thấp thoái hoàng
- Thuốc: Nhân trần, khương hoàng, rau
má, râu ngo, hoàng bá, long đởm thảo.
10. Hội chứng bệnh của vị
10.1.
Vị hàn
- Triệu chứng: Đau vùng thượng vị, lạnh
đau tăng, nôn nước trong, rêu lưỡi trắng bóng, mạch trầm trì.
- Phép chữa: ôn vị tán hàn.
- Thuốc: Quế chi, sinh cương, bạc thược.
- Cứu: Trung quản, thiên khu, lương môn,
túc tam lý.
10.2.
Vị nhiệt
- Triệu chứng: Đau rát vùng thượng vị,
khát, thích uống mát, mau đối, hơi thở hôi, sưng đau răng lợi, ợ chua, ợ hơi,
chất lỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác.
- Phép chữa: Thanh nhiệt hòa vị
- Thuốc: hoàng liên, thanh lộc, rau má,
cát căn.
Bài thuốc: thanh vị tán (hoàng liên 6g,
Đương quy 6, sinh địa 6, đan bì 4, thăng ma 4, tán bọt mỗi ngày 12gam.
- Châm: Hợp cốc, túc tam lý, lương môn,
trung quản.
10.3
Vị hư (vị âm hư)
- Triệu chứng: thường sau sốt cao, môi
miệng khô nhưng không muốn ăn uống, táo bón, tiểu ít và đậm.
Lưỡi thon đỏ không rêu, mạch tế sác.
- Phép chữa: tư dưỡng vị âm
- thuốc: Thạch hộc, cát căn, rau má, ngọc
trúc, mạch môn.
10.4
Vị thực
- Triệu chứng: do ăn nhiều thức ăn ngọt
béo, đầy tức bụng, nôn mửa, chất nôn mùi chua hàng, đại tiện lỏng, rêu lưỡi dày
dính, mạch hoạt.
- Phép chữa: Tiêu thực đạo trệ.
- Thuốc: Sơn tra, mạch na, thần khúc, kê
nội kim
Bài thuốc: kê nộ kim tán (kim nội kinh
100 gam, hoài sơn 400 gam,, án bột, ngày 2 lần, mỗi lần 5-10gam)
11.
Hội chứng bệnh tiểu trường
Tâm và tiểu trường quan hệ biểu lý. Bệnh
của tâm ảnh hưởng đến tiểu trường gây rối loạn tiểu tiện như đái buốt, đái rắt,
đái máu, môi miệng lở loét, sưng đau.
- Pháp chữa: Thanh tâm hỏa, lợi niệu, chỉ
huyết.
- Thuốc: Hoàng liên, hoàng bá, rau má,
sa tiền tử ....
12. Hội chứng bệnh đại trường
12.1
Đại trường hàn
- Triệu chứng: đau uăqnj bụng, ỉa lỏng,
phân tanh nồng.
- Pháp chữa: ôn trường, chỉ tả.
- Thuốc: kha tử (chiêu liên) búp ổi,
sim, riềng, gừng.
- Cứu: Thần khuyết, thiên khu, quan
nguyên, túc tam lý.
12.2
Đại trường nhiệt (thấp nhiệt đại trường)
- Triệu chứng: M ôi miệng khô, phân rắn
có mũi nhảy chung quan mùi thối khẳm, hậu môn nóng rát, hội chứng lỵ.
- Pháp chữa: thanh nhiệt, trừ thấp.
- Thuốc: Hoàng bá, khổ sâm, rau sam, cỏ
sữa, đại hoàng.
12.3
Đại trường hư:
- Triệu chứng: đại tiện không tự chủ động,
phân không táo rắn mà đại tiện khó, lòi đom.
- Thuốc: Đảng sâm, bạch truật, hoài sơn,
ý dĩ, Mạch môn, vừng đến, chỉ thực, hậu phác.
Nếu lòi đom (thoát giang) dùng bài thuốc
Bổ trung ích khí thang gồm Hoang kỳ, đảng sâm, bạch truật), trích thảo, trần
bì, thăng ma, sài hồ, đương quy.
- Châm: đại trường du, bách hội, túc tam
lý.
12.4
Đại trường thực
- Triệu chứng: Đại tiện táo bón, đau quặng
bụng, ấn đau tăng (cần toại trừ bệnh cấp cứu ngoại khoa).
- pháp chữa: nhuận trường, lý khí.
- Thuốc: đại hoàng, ma nhân, chỉ thực,
mang tiêu.
- Châm: Đại trường du, thiên khu, túc
tam lý.
13. Hội chứng bệnh bàng quang
- Bàng quang hàn: Nước tiểu trong và nhiều
- Bàng quang nhiệ: nước tiểu đỏ, đái sản,
đái rắt, đái buốt, đái máu.
- Bàng quang hư: Tiểu tiện không tự chủ, đái són.
- Bàng
quang thực: Bụng dưói tức căng, bí đái.
14. Hội chứng bệnh các tạng phối hợp
- Thực tế
lâm sàng bệnh xảy ra thường không đơn thuần ở một tạng phủ., do quan hệ âm
dương và sinh khắc nên thường gặp bệnh cảnh kết hợp. Những bệnh cảnh phối hợp
thường gặp là:
- Tâm phế
khí hư. Thường gặp trong bệnh tâm phế mạn.
Tâm tỳ hư
thường gặp trong bệnh đường tiêu hóa mạn.
- Tâm thận
bất giao: thường trong bệnh suy nhược thần kinh, can tỳ bất hòa: trong bệnh
viêm loét dạ dày.
- Can thận
âm hư: Trong bệnh tăng huyết áp.
Sinh Lý Và Bệnh Chủ Yếu Của Tạng Phủ
Học thuyết Tạng Phủ là một bộ phận quan trọng cấu thành lý luận của Đông y. Học thuyết này
xuất phát từ quan điểm cơ thể hoàn chỉnh, cho rằng mọi biểu hiện sinh lý, bệnh lý của ngũ tạng,
lục phủ đều thông qua hệ thống kinh lạc đưa đến các tổ chức cơ quan toàn thân, kết thành một
chỉnh thể hữu cơ. Giữa tạng, phủ (ngũ tạng, lục phủ) về mặt sinh lý, cũng có tương hỗ giữ gìn,
tương hỗ ức chế, khi sinh bệnh cùng nhau ảnh hưởng, cùng nhau chuyển hóa.
Ngũ tạng: Tâm - Can - Tỳ - Phế - Thận. Lục phủ: Đảm - Vị - Đại trường - Tiểu trường - Bàng quang - Tam tiêu. Khái niệm Đông y về công năng của lục phủ, ngũ tạng cơ bản cũng giống như. Tây y nhưng có những điểm khác rất lớn, ví dụ như Tây y không có tạng khí tương ứng vớ Tam tiêu, do đó chúng ta không thể nghĩ đơn giản mà đem khái niệm tạng khí của Đông y so với Tây y, đem tạng khí của Tây y gán vào Đông y được. Cơ sở của học thuyết Tạng Phủ là thực tiễn lâm sàng lâu dài mà phát triển thành lý luận, vì vậy nó có ý nghĩa chỉ đạo trọng yếu về chẩn trị bệnh tật trong Đông y. Tuy nhiên, trong đó có một số vấn đề mà bản chất chưa được rõ ràng, cần được chỉnh lý, nâng cao lên một bước. SINH LÝ VÀ BỆNH CHỦ YẾU CỦA TẠNG PHỦ Cơ thể con người là chinh thể, giữa ngũ tạng và lục phủ có mối quan hệ phức tạp. Chúng có công năng riêng, song lại phối hợp chặt chẽ với nhau. Chức năng của chúng là: Ngũ tạng chứa giữ Tinh khí. Lục phủ hấp thụ thủy cốc, phân biệt trong đục, đào thải cặn bã. Ngoài ra còn có Não - Tủy - Xương - Mạch - Mật - Dạ con, có những chức năng gần giống với Tạng và Phủ nên được phân riêng thành một loại gọi là: "Phủ kỳ hằng" (phủ lạ thường). A. Tâm và tiểu trường Tâm là chủ soái của lục phủ, ngũ tạng con người, nó có địa vị đứng đầu trong các tạng phủ. Các tạng phủ khác đều hoạt động hợp đồng, điều hòa với Tâm, cho nên Tâm là chủ soái của lục phủ, ngũ tạng. 1. Sinh lý và bệnh lý tạng tâm a. Tâm chủ thần chí: Tâm chủ quản các hoạt động tinh thần, ý thức, tư duy, tương đương với hoạt động tinh thần, thần kinh cao cấp. Nếu công năng chủ thần chí của Tâm bình thường thì tinh thần của con người bình thường, tỉnh táo, thần chí rõ ràng. Nếu như Tâm không bình thường thi phát sinh những bệnh chứng như: Hồi hộp, thổn thức, sợ hãi, hay quên, mất ngủ, phát cuồng, cời cợt không ngừng, hôn mê, nói nhảm. b. Tâm chủ huyết mạch: Tâm và mạch vốn nối liền với nhau. Huyết dịch có thể tuần hoàn trong mạch quản là nhờ vào khí của Tâm thôi động. Tâm khí mạnh, trực tiếp ảnh hưởng đến vận hành của máu, vì vậy nó thể hiện trên mạch chẩn. Tâm khí bất túc, mạch sẽ nhỏ, yếu, vô lực. Khí đến không đều, mạch luật không chỉnh, loạn nhịp (gọi là Súc, Kết, Đại). c. Tâm kỳ hoa khai khiếu ở lưỡi, ở mặt (thấy rõ Tâm thể hiện ở lưỡi, ở mặt): Sự phân bố huyết mạch trên mặt và lưỡi rất phong phú, vì vậy công năng của 'Tâm có bình thường hay không sẽ phản ảnh đầy đủ thành màu sắc ở mặt và lưỡi. Khi bình thường thì sắc mặt hồng nhuận và sáng sủa, sắc lưỡi hồng nhạt. Khi Tâm khí bất túc, tuần hoàn không trơn tru thì sắc mặt trắng bợt hoặc xanh tím, không sáng sủa, sắc lưỡi tím xám không tươi; Tâm hỏa quá vượng, lưỡi hồng tía hoặc sinh lở loét. Khi đàm mê Tâm khiếu, có thể thấy lưỡi cứng không nói, vì thế mới có câu: "Lưỡi là mầm của Tâm". d. Tâm quan hệ với mồ hôi. Tâm và mồ hôi có quan hệ rất mật thiết, cho nên mới có câu: "Mồ hôi là tân dịch của Tâm". Người bệnh dùng thuốc phát hãn quá liều, hoặc do nguyên nhân nào đó mất nhiều mồ hôi, đều có thể làm tổn hại tới Tâm dương, thậm chí làm xuất hiện những chứng trạng nghiêm trọng như: "Đại hãn, vong dương" (ra nhiều mồ hôi mất thân nhiệt) đ. Tâm bào: Tâm bào cũng gọi là Tâm bào lạc (màng ngoài) vì ở bên ngoài Tâm. Do Tâm là nội tạng tối trọng yếu nên ở ngoài phải có một lớp cơ quan bao bọc để bảo vệ nó. Thông thường khi ngoại tà phạm Tâm, nói chung là phạm vào tâm bào trước. Như bệnh ôn nhiệt. khi sốt cao, mê man, nói nhảm, chính là biểu hiện của nhiệt nhập Tâm bào lạc. Vì vậy Tâm bào chủ yếu là chỉ sự hoạt động của thần kinh cao cấp. 2. Sinh lý và bệnh lý của tiểu trường Công năng của tiểu trường chủ yếu là nhận đồ ăn từ dạ dày chuyển sang, tiếp tục tiêu hóa, phân biệt "trong", "đục". Trong, là chỉ một phần đồ ăn đã được tinh hóa (thủy cốc chi tinh), từ Tiểu trường (sau khi hấp thụ) chuyển vận sang Tỳ. Đục, là chỉ phần cặn bã của đồ ăn lừ Tiểu trường đưa xuống Đại trường hoặc chuyển qua Bàng quang. Khi Tiểu trường có bệnh, ngoài ảnh hưởng về công năng tiêu hóa, hấp thụ ra, lại còn xuất hiện tiểu tiện dị thường. 3. Tâm và Tiểu trường thông qua quan hệ kinh lạc cấu thành quan hệ biểu lý. Nếu Tâm hỏa vượng thịnh, thấy xuất hiện chứng trạng Tâm phiền, đầu lưỡi đỏ đau, miệng lở loét, nứt tiểu tiện ít mà đỏ, có khi đái ra máu. Hiện tượng bệnh lý này gọi là Tâm di nhiệt sang Tiểu trường (nhiệt ở Tâm chuyển sang Tiêu trờng). Phần sinh lý, bệnh lý trên đây được Tây y nói là bao quát cả công năng và bệnh tật của Tâm và một phần trong các hệ thần kinh trung khu, thần kinh thực vật. B. Can và đảm 1. Sinh lý và bệnh lý tạng can a. Can chủ sơ tiết. Can có tác dụng thăng phát, thâu tiết∗, làm cho sự vận hành các phủ tạng khác được thông suốt. Nó chủ quản về thư giãn và điều đạt khí cơ phân bố toàn thân. Nếu Can khí sơ tiết, điều đạt thất thường, khí cơ không thư, có thể gây nên bệnh tật. Can khí uất kết thường dễ cáu, sườn ngực đầy tức, đau đầu, kinh nguyệt rối loạn. Nếu Can khí thăng phát thái quá là Can dương thượng cang sẽ thấy đầu váng, đau đầu, đỏ mắt, ù tai, điếc tai. Nếu can dương cang cực mà hóa hỏa sinh phong, tức có thể sinh hàng loạt chứng của trúng gió. Can khí thăng phát không đủ, cũng gây ra các chứng váng đầu, mất ngủ, tinh thần hoảng hốt. b. Can chủ tàng huyết . Can có công năng chứa giữ huyết dịch và điều tiết huyết lượng. Khi ta ngủ hoặc nghỉ ngơi, bộ phận huyết dịch quay về chứa giữa ở Can. Khi ta hoạt động, Can lại cung cấp huyết dịch cho mọi tổ chức cơ quan, dẫn đi toàn thân. Can tàng huyết, còn có ý nghĩa nữa là đề phòng xuất huyết. Nếu công năng tàng huyết có diễn biến xấu thì gây xuất huyết, thổ huyết, nục huyết (nôn ra máu, chảy máu cam). c. Can khai khiếu ra mắt. Can tàng huyết, mắt nhờ huyết mà thấy. Can có bệnh thường có ảnh hưởng đến tròng mắt. Can hư làm giảm thị lực, quáng gà, mờ mắt. Can hỏa thượng viêm thì mắt đỏ. d. Can chủ cân, kỳ hoa tại móng. Can chủ quản hoạt động của gân, chi phối hoạt động của bắp thịt và khớp xương trong toàn thân. Gân nhờ vào Can huyết nuôi dưỡng, nếu Can huyết bất túc không nuôi dưỡng được gân sẽ sinh ra đau gân, tê dại, khó co duỗi, co quắp. Nếu nhiệt cực dẫn động Can phong cũng có thể gây nên co giật. "Móng và Can cũng có quan hệ mật thiết. Can huyết đầy đủ thì móng tay hồng nhuận. Can huyết bất túc thì móng tay khô xác hoặc mỏng di, mền ra, gọi là "Kỳ hoa tại móng" (can thấy rõ ở móng). 2. Sinh lý và bệnh lý của đảm Đảm là một trong sáu phủ, nhưng lại có công năng khác các tạng phủ khác nên gọi là "kỳ hằng chi phủ”. Bệnh của Đảm (mật) chủ yếu biểu hiện ở sườn đau, vàng da, đắng miệng, nôn nước đắng. 3. Can và Đảm thông qua quan hệ kinh lạc cấu thành quan hệ biểu lý, Can và Đảm gần nhau nên khi có bệnh thì cũng ảnh hởng đến nhau, khi chữa bệnh thì chữa cả Can và Đảm. Trên cơ bản Can và Đảm bao quát công năng của gan, mật và một phần hệ thần kinh thực vật, hệ vận động, huyết dịch, thị giác. C. Tỳ và vị 1. Sinh lý và bệnh lý của tỳ a. Tỳ chủ vận hóa: Tỳ chủ tiêu hóa, hấp thụ và vận chuyển đồ ăn. Đồ ăn vào dạ dày sau khi đã sơ bộ tiêu hóa, lại có Tỳ vận hóa thêm một bước, tạo thành chất tinh vi dễ hấp thụ, rồi được chuyển vận đi khắp cơ thể để nuôi dưỡng các tổ chức cơ quan toàn thân. Tỳ ngoài việc vận hóa đồ ăn đã tinh hóa ra, còn vận chuyển thủy thấp, cùng với Phế và Thận duy trì mức vừa đủ của chất lỏng trong cơ thể. Khi công năng vận hóa của Tỳ bình thường, tiêu hóa, hấp thụ tốt, Tỳ khí khỏe, thì khí huyết thịnh vượng, tinh lực dồi dào. Nếu như Tỳ hư thì vận hóa thất thường, khả năng tiêu hóa, hấp thụ (kiện vận) không tốt, sẽ xuất hiện chứng kém ăn, bụng trướng, ỉa lỏng, nhão. Có thể do chất lỏng vận chuyển bị trở ngại mà gây nên thủy thấp bị đình trệ, dẫn đến phù thũng hay đàm ẩm (do không sinh huyết tất sinh đàm lỏng hoặc dẻo ở dạ dày, đường ruột). b. Tỳ thống huyết. Tỳ có công.năng thống nhiếp huyết dịch toàn thân. Nếu Tỳ hư, công năng thống huyết diễn biến xấu cũng làm cho “huyết bất tùng kinh"* gây nên các chứng: xuất huyết; thổ huyết, nục huyết, băng lậu huyết, tiện huyết. Ngoài ra, còn có quan hệ sinh huyết rất mật thiết. Tỳ hư làm cho công năng sinh hóa huyết dịch giảm thấp, đưa đến bần huyết (thiếu máu, nghèo máu). c. Tỳ chủ tứ chi, cơ nhục, khai khiếu ra mồm, kỳ hoa ở môi: Tỳ mà vận hóa bình thường thủy cốc tinh vi nuôi dưỡng toàn thân thì sức ăn tăng tiến, cơ bắp đầy đặn khỏe mạnh, tay chân cứng cáp, mồm miệng hồng tươi. Tỳ khí hư yếu, vận hóa thất thường, thì sức ăn kém, cơ bắp gầy mòn, chân tay mềm yếu, môi trắng nhợt hoặc vàng, khô khan. 2. Sinh lý và bệnh lý của vị Công năng chủ yếu của Vị !à chứa nạp thủy cốc, nghiền ngấu đồ ăn, nên gọi: "Vị là thủy cốc chi hải"**. Vị có bệnh thì xuất hiện chứng bụng trên đầy tức, đau đớn, ăn uống giảm, quặn bụng buồn nôn. 3. Tỳ với Vị thông qua quan hệ kinh lạc mà cấu thành quan hệ biểu lý. Vị chủ nạp, Tỳ chủ vận hóa, phối hợp với nhau thành công năng sinh lý tiêu hóa, hấp thụ, vận chuyển dinh dưỡng. Tác dụng của Tỳ, Vị trong cơ thể con người chiếm địa vị trọng yếu, cho nên trên lâm sàng có câu nói: "Có Vị khí thì sống, không Vị khí thì chết" và câu "Tỳ, Vị là gốc của hậu thiên". Nhưng Tỳ, Vị lại có những đặc điểm khác nhau: Tỳ chủ thăng, ưa táo, ghét thấp. Vị chủ giáng, ưa thấp, ghét táo, cả hai đều tương phản tương thành. Vị khí giáng, đồ ăn mới đi xuống, tiện cho việc tiêu hóa; Tỳ khí thăng, thủy cốc tinh vi mới có thể đi đến Phế, lại đưa rải khắp toàn thân, đến các tạng phủ. Nếu Vị khí không giáng mà lại ngược lên, sẽ gây ra quặn bụng, nôn mửa, ợ hơi, nấc và đau dạ dày. Tỳ khí không thăng, ma lại hãm xuống (trung khí hạ hãm) thì xuất hiện hụt hơi, nói yếu, ỉa chảy kéo dài, lòi dom, sa dạ dày, sa dạ con hoặc sa các tạng phủ khác. Tỳ thuộc âm, bản thân rất dễ sinh thấp. Tỳ không vận khỏe, thủy thấp đình ở trong, lại cũng rất dễ bị tà thấp xâm phạm. Nếu Tỳ bị ngoại thấp xâm phạm thì thấy phát sốt, nặng đầu, đau mình, tay chân rã rời, mệt mỏi, bụng trướng khó chịu, rêu lưỡi trắng dày, mạch nhu hoãn, khi chữa nên ôn tỳ, táo thấp. Vị thuộc dương, nói chung bệnh của Vị là Vị nhiệt, Vị hỏa, làm xuất hiện miệng khô, khát, kém ăn hoặc răng đau, lợi, răng chảy máu, thổ huyết, nục huyết. Chữa nên thanh nhiệt, giáng hỏa. Tlheo những điều nói về Vị thì Đông, Tây y đều nói giống nhau, nhưng Đông y nói về Tỳ bao gồm công năng và bệnh tật thuộc tiêu hóa, hấp thụ, đại tạ (thay thế vật chất), ổn định thể dịch và một phần tuần hoàn huyết dịch, so với bài giảng Tây y thì thật khác xa. D. Phế và đại trường 1. Sinh lý và bệnh lý của phế a. Phế chủ khí : Phế giữ hô hấp, tiến hành thay đổi khí trong cơ thể, duy trì công năng hoạt động sống của con người. Mặt khác, Phế hướng về trăm mạch đa thủy cốc tinh vi phân bố toàn thân. Ngoài ra, Đông y cho rằng Phế chủ khí cả người, khí của lục phủ, ngũ tạng thịnh, suy đều có quan hệ mật thiết với Phế. Công năng của Phế diễn biến xấu sẽ gây nên bệnh tật chủ yếu ở đường hô hấp: Ho hen, mệt nhọc, tiếng nói nhỏ yếu, hụt hơi. b. Phế chủ túc giáng*, thông điều thủy đạo : Phế khí lấy thanh túc hạ giáng làm thuận, nếu Phế khí ngược lên sẽ phát sinh chứng ho hen. Sự vận hành chất lỏng trong người và bài tiết chẳng những cần sự vận hóa, chuyển đưa của Tỳ, còn cần sự túc giáng của Phế khí mới có thể thông điều thủy đạo mà chuyển đến Bàng quang. Nếu như Phế mất túc giáng cùng ảnh hưởng đến việc đại tạ** của thủy dịch, dẫn đến thủy thấp đình lưu, sinh ra khó đái và phù thũng. Do đó có câu: "Phế là thượng nguồn của thủy". Phế khí không túc giáng được có khi quan hệ với Phế khí bế trở (Phế khí vướng tắc). Vì thế một số chứng suyễn và phù thũng thường phối hợp dùng thuốc khai phế khí như Ma hoàng, Tế tân, Khổ Hạnh nhân để chữa. c. Phế chủ bì mao : Phế và da dẻ cơ biểu có quan hệ mật thiết. Phế, Vệ khí đầy đủ thì cơ biểu kín chắc, da dẻ tươi sáng, sức chống đỡ của cơ thể mạnh mẽ, ngoại tà không dễ xâm phạm được. Khí của Phế, Vệ không vững, lỗ chân lông trống trải, dễ bị ngoại tà xâm phạm, thậm chí phạm thẳng vào Phế. Ngoài ra, nếu như cơ biểu không chắc, tinh dịch tiết ra ngoài, lại sinh ra mồ hôi và mồ hôi trộm. d. Phế khai khiếu ở mũi : Mũi và Phế thông nhau, mũi là cửa của hệ hô hấp. Khi Phế có bệnh thường sinh tắc mũi, chảy nước mũi, khó thở, có khi cánh mũi phập phồng. đ. Phế có quan hệ với tiếng nói : Tiếng nói phát sinh do tác dụng của Phế khí. Phế khí đủ thì tiếng nói vang, trong. Phế khí hư thì tiếng nói thấp, đục, nhỏ. Phong hàn phạm phế, Phế khí vướng tắc thì tiếng nói như câm. Bệnh lao do Phế tà làm tổn hại, hoặc do Phế khí tiêu hao quá mức cũng dẫn đến mất tiếng. 2. Sinh lý và bệnh lý của đại trường Công năng chủ yếu của Đại trường là chuyển tống cặn bã, bài tiết phân. Đại trường có bệnh gây ra: Táo bón, bí ỉa, đau bụng, ỉa chảy, hoặc lị máu mủ. 3. Phế và Đại trường thông qua kinh lạc cấu thành quan hệ biểu lý . Phế khí túc giáng thì công năng của Đại trường bình thường, đại tiện dễ dàng. Nếu đại tiện tích trệ thì cũng ảnh hưởng ngược lại sự túc giáng của Phế khí. Khi trị liệu trên lâm sàng, có khi chữa bệnh của Phế lại chữa từ Đại trường. Có khi chữa bệnh Đại trường lại kèm chữa bệnh của Phế. Như chữa bệnh bí ỉa, ngoài việc dùng thuốc thông tiện ra, còn dùng cả thuốc nhuận Phế hoặc giáng Phế cũng tốt. Có một số chứng thực nhiệt ở Phế, ngoài việc thanh Phế, còn cần thông đại tiện. Kết hợp cả hai việc này thường thu được kết quả rất tốt. Theo sinh lý và bệnh lý kể trên, về cơ bản Tây và Đông y đều giảng giống nhau. Nhưng Đông y giảng về Phế, ngoài công năng về hô hấp, lại bao quát một bộ phận tuần hoàn huyết dịch, trao đổi chất lỏng và công năng điều tiết thân nhiệt. Đ. Thận và bàng quang 1. Sinh lý và bệnh lý của thận a. Thận chủ tàng tinh : Công.năng của Thận là tàng tinh. Có thể chia làm hai loại: chứa "tinh" sinh dục, cũng là chủ quản việc sinh sản của con người. Mặt khác, còn chứa tinh của lục phủ, ngũ tạng, cũng là chủ quản việc sinh trưởng của con người, bao gồm sự phát dục và các hoạt động trọng yếu khác. Trên lâm sàng, số lớn bệnh Thận là chứng hư. Bệnh ở hệ sinh dục và có một số bệnh ở hệ nội tiết có thể dùng phép bồ Thận mà chữa. b. Thận chủ thủy : Thận là cơ quan trọng yếu để điều tiết và thay thế nước trong cơ thể, cho nên gọi Thận là "thủy tạng". Thận có bệnh,.điều tiết nước không bình thường, làm khó đái, thủy dịch đình lưu, phù toàn thân, hoặc đái không ngừng, uống nhiều, đái nhiều, đái són, đái dầm. c. Thận chủ xương, sính tủy, thông về não : Thận tàng tinh, tinh sinh tủy. Thận và não có quan hệ. Thận tinh đầy đủ thì xương, tủy, não đều khỏe mạnh, chân tay nhanh nhẹn, có sức hành động linh lợi, tinh lực dồi dào, tai thông, mắt sáng. Thận tinh không đủ thường sinh ra động tác chậm chạp, xương mềm, sức yếu, thiếu máu hoặc choáng váng hay quên, cũng như trẻ em bị chứng trí lực phát triển chậm. Ngoài ra, răng là chỗ thừa của xương, nếu Thận khí hư suy thì răng lợi dễ bị lỏng lẻo và rụng. d. Thận chủ mệnh môn hỏa : Thận là thủy tạng, nhưng lại chứa mệnh môn hỏa (Thận dương là lực lượng chủ yếu duy trì sinh mệnh, có tên mệnh môn hỏa). Thận hỏa và Thận thủy (thận tinh), một âm, một dương, cùng nhau duy trì sinh dục và sinh trưởng, phát dục, cũng như công năng của các tạng phủ. Mệnh môn hỏa suy dẫn đến xuất tinh sớm, liệt dương, không đủ sức sưởi ấm Tỳ gây ra bệnh ỉa chảy mạn tính. Mệnh môn hỏa vượng sẽ xuất hiện mộng tinh, di tinh, tình dục tăng tiến, bứt rứt. đ. Thận chủ nạp khí : Hô hấp tuy do Phế chủ quản nhưng tất nhiên cần sự hiệp đồng của Thận. Thận có tác dụng hỗ trợ phế hít khí, giáng khí gọi là "nạp khí". Nếu Thận không nạp khí sẽ sinh ra hư suyễn, ngắn hơi. Đặc điểm của loại hư suyễn này là thở nhiều, hít ít. Trị liệu lâm sàng cần theo cách bổ Thận. e. Thận khai khiếu ở tai (phía trên), ở nhị âm* (phía dưới): Tai và Thận liên quan với nhau, vì là khiếu trên của Thận, cho nên Thận khí sung túc thì tai nghe được bình thường, thận khí hư thì tai ù, tai điếc. Nhị âm là lỗ đít và lỗ đái, là khiếu dưới của Thận, cho nên sự bài tiết của Thận có liên quan đến đái, ỉa. Nếu thận khí hư sẽ đưa đến đái không cầm hoặc đái són không dứt. Thận âm bất túc sẽ đưa đến bí ỉa. Mệnh môn hỏa suy gây nên ỉa chảy lúc sáng sớm. e. Thận kỳ hoa tại tóc : Lông tóc rơi rụng và sinh trưởng thường phản ánh sự thịnh suy của Thận khí. Thận khí thịnh vượng thì lông tóc tốt dày và đen bóng. Thận khí suy thì lông tóc thưa, rụng hoặc bạc mà khô xác. 2. Sinh lý và bệnh lý của bàng quang Công năng chủ yếu của Bàng quang là chứa giữ và bài tiết nước tiểu. Nếu bàng quang có bệnh sinh ra đái són, đái vội, hoặc khi dứt bãi đái thấy đau. 3. Thận và Bàng quang thông qua quan hệ kinh lạc mà cấu thành quan hệ biểu lý. Công năng bài tiết của Bàng quang mất bình thường có khi quan hệ tới bệnh của Thận. Như Thận hư không cố nhiếp*, cũng xuất hiện chứng đái không cầm hoặc đái dầm. Thận hư, khí hóa không kịp cũng ra bí đái hoặc đái khó. Theo sinh lý, bệnh lý kể trên, Đông y giảng về Thận, cơ bản bao quát công năng và bệnh tật ở hệ sinh dục, tiết niệu, bộ phận tạo máu, nội tiết và công năng của hệ thần kinh, khác vôi bài giảng Tây y. Còn Bàng quang trong bài giảng Đông, Tây y đều giống nhau. E. Tam tiêu Tam tiêu là một trong lục phủ, gồm có Thượng tiêu, Trung tiêu và Hạ tiêu. Hình thái và công năng của Tam tiêu tới nay chưa có lý thuyết ổn định. Đại đa số cho rằng Thượng tiêu là Tâm, Phế, tương đương với công năng tạng khí ở lồng ngực. Trung tiêu chỉ Tỳ, Vị tương đương với công năng tạng khí ở bụng trên. Hạ tiêu chỉ Can, Thận, Bàng quang, Đại trường, Tiểu trường, tương đương với công năng tạng khí ở bụng dưới. Theo tác dụng sinh lý mà nói, Thượng tiêu như "sương", chỉ tác đụng của Tâm, Phế đối với việc đưa rải chất dinh dưỡng. Trung tiêu như "giọt nước", chỉ tác dụng vận hóa của Tỳ, Vị. Hạ tiêu như "cống rãnh", chỉ tác dụng bài tiết của Thận và Bàng quang. Lý thuyết Tam tiêu biện chứng trong học thuyết ôn bệnh đã dùng Tam tiêu làm cương lĩnh để biện chứng phân loại bệnh và luận trị. So với ý nghĩa kể trên có chỗ khác nhau.. Nói tóm lại, công năng của Tam tiêu là tổng hợp công năng sinh lý của mấy tạng phủ trong lồng ngực, ổ bụng. Bệnh biến của Tam tiêu xuất hiện phần lớn có liên quan với công năng chuyển tống chất lỏng, nuôi dưỡng và bài tiết. G. Nữ tử bào Nữ tử bào gồm dạ con và phần phụ. Công năng chủ về chửa đẻ và kinh nguyệt. Nữ tử bào, Thận và Xung, Nhâm mạch có quan hệ rất mật thiết, cả 3 đều cùng giữ kinh nguyệt, chửa đẻ, sinh dục được bình thường. Thận tinh đầy đủ, Xung, Nhâm mạch thịnh thì kinh nguyệt, sinh dục bình thường. Thận tinh hao tổn, Xung nhâm mạch hư thì kinh nguyệt không đều, thậm chí không chửa đẻ. * Túc giáng: đưa xuống nghiêm chỉnh ** Đại tạ: thay cũ đổi mới * Huyết bất tùng kinh: huyết không đi theo kinh mạch ** Vị là thủy cốc chi hai: dạ dày là bể chứa nước và đồ ăn * Nhị âm: chỗ đái và chỗ ỉa, gọi là tiền âm và hậu âm ∗ Thang phát: Đưa lên. Thâu tiết: Gom về để hạn chế. * Cố nhiếp: giữ chắc |
**************************************************************************************************************
NGŨ VẬN - LỤC KHÍ
Lục Khí tương ứng với Lục khí(còn gọi là Lục dâm) : PHONG-HÀN-THỬ-THẤP-TÁO-HỎA.
Ngũ Vận ứng với Thiên Can. Lục Khí ứng với Địa chi.
Ngũ hành của Thiên Can theo thứ tự từ Giáp đến Quý, chúng ta có sắp
xếp như sau:
GIÁP-ẤT-BÍNH-ĐINH-MẬU-KỶ-CANH-TÂN-NHÂM-QUÝ.
Giáp - Ất MỘC.
Bính - Đinh HỎA.
Mậu - Kỷ THỔ.
Canh - Tân KIM.
Nhâm - Quý THỦY.
Từ Giáp đếm đến Quý,theo thứ tự 1 đến 10, chúng ta có những Can thuộc
số lẻ là Can Dương.
Những Can thuộc số chẵn là Can Âm.
Ngũ hành của Địa chi theo thứ tự từ Tý đến Hợi, chúng ta có sắp xếp
như sau : TÝ-SỮU-DẦN-MÃO-THÌN-TỴ-NGỌ-MÙI-THÂN-DẬU-TUẤT-HỢI.
Tý/Hợi - Thủy
Dần/Mão - Mộc
Tỵ/Ngọ - Hỏa
Thân/Dậu - Kim
Thìn/Tuất/Sửu/Mùi - Thổ
Từ Tý đếm đến Hợi theo thứ tự từ 1 đến 12, chúng ta có những Chi thuộc
số lẻ là Chi Dương, những Chi thuộc số chẵn là Chi Âm.
Trong lục thập hoa giáp, Can Dương sẽ đi với Chi Dương.
VD: Giáp Tuất
Giáp = 1, Tuất = 11 (đều là các số lẻ trong Thiên Can - Địa Chi) thuộc
DƯƠNG.
Can Âm sẽ đi với Chi Âm.
VD: Ất Hợi
Ất = 2, Hợi = 12 (đều là các số chẵn trong Thiên Can - Địa Chi) thuộc
ÂM.
Ứng dụng Ngũ hành trong Ngũ vận thì sắp xếp theo Thiên Can hợp. Có
nghĩa là Can Dương hợp với Can Âm có ngũ hành tương khắc.
VD:
Giáp - Kỷ --> Thổ.- Giáp là Dương MỘC phối hợp với Kỷ là Âm THỔ.
Ất - Canh --> Kim.- Ất là Âm MỘC phối hợp với Canh là Dương KIM.
Bính - Tân --> Thủy.- Bính là Dương Hỏa phối hợp với Tân là Âm
KIM.
Đinh - Nhâm --> Mộc.-Đinh thuộc Âm HỎA phối hợp với Nhâm là Dương
THỦY.
Mậu - Quý --> Hỏa.-Mậu là Dương THỔ phối hợp với Quý là Âm THỦY.
Trong THỌ THẾ BẢO NGUYÊN có đúc kết như sau:
Giáp Kỷ hóa THỔ - Ất Canh - KIM,
Đinh Nhâm hóa MỘC tận thành lâm,
Bính Tân hóa THỦY mịch mịch xứ...
Mậu Quý Nam phương HỎA diệm xâm.
Vì vậy chúng ta chú ý vào Thiên Can của các năm để phân biệt Ngũ vận
của năm đó.
VD: Năm Quý Tỵ, Quý: thuộc vận HỎA "Mậu Quý Nam phương HỎA diệm
xâm."
Ứng dụng Lục Khí Sắp xếp theo Địa Chi Xung.Có nghĩa là 6 cặp Địa Chi
Xung khắc nhau.
Trong THỌ THẾ BẢO NGUYÊN có ghi rằng :
Tý-Ngọ Thiếu Âm Quân thử HỎA.
Sữu-Mùi Thái Âm vi Thấp THỔ.
Dần-Thân Thiếu Dương Tướng HỎA viêm.
Mão-Dậu Dương Minh Táo KIM chủ.
Thìn-Tuất Thái Dương tư THỦY Hàn.
Tỵ-Hợi Quyết Âm Phong MỘC khởi.
Do đó chúng ta chú ý vào Địa Chi của năm để phân biệt Lục Khí của
năm đó.
VD: Năm Quý Tỵ, Tỵ thuộc Khí Quyết Âm Phong MỘC.
Tóm lại năm Quý Tỵ - Ngũ Vận thuộc HỎA - Lục Khí thuộc Quyết Âm
Phong Mộc.
NGŨ VẬN
1-CHỦ VẬN:là khí hóa vận
hành trong một năm nào cũng như năm nấy.Như:
Mùa Xuân thuộc MỘC.
Mùa Hạ thuộc HỎA.
Trưởng Hạ thuộc THỔ.
Mùa Thu thuộc KIM.
Mùa Đông thuộc THỦY.
2-KHÁCH VẬN: là khí chuyển
vận trong 5 năm, mỗi năm mỗi khác, vận hành năm này qua năm kia, đi đủ một vòng
10 năm rồi Giáp lại hoàn Giáp. Như:
Giáp Kỷ hóa THỔ. Ất Canh KIM...( các bạn xem lại phần trên )
Trong mỗi vận lại chia ra Âm Dương;
Năm Dương Can: Giáp-Bính-Mậu-Canh-Nhâm là Vận Thái Quá.
Năm Âm Can: Ất-Đinh-Kỷ-Tân-Quý là Vận Bất Cập.
Thái Quá là thịnh vượng, dư thừa.
Bất Cập là yếu kém, không đầy đủ.
VD:Năm Giáp(Tý-Tuất-Thân-Ngọ-Thìn-Dần)là Dương Can, thuộc THỔ Vận
Thái Quá.THỔ Thái
Quá thì Thấp( THỔ) khí dư thừa.
VD: Năm Kỷ(Tỵ-Mão-Sữu-Hợi-Dậu-Mùi)là Âm Can, thuộc THỔ Vận Bất Cập.THỔ
Bất Cập thì MỘC( Phong) khí lấn át.
Các năm Ngũ Vận lại có cách gọi tên riêng, những năm Thái Quá gọi là
Thái, những năm Bất Cập gọi là Thiếu.
Lại chia ra Ngũ Hành mà gọi như sau:
THỔ gọi là Cung.
KIM gọi là Thương.
MỘC gọi là Giốc.
HỎA gọi là Chủy.
THỦY gọi là Vũ
VD:Năm Nhâm Thìn. Nhâm thuộc Dương Can, Vận MỘC Thái Quá. Gọi là
Thái Giốc.
VD:Năm Quý Tỵ. Quý thuộc Âm Can, Vận Hỏa Bất Cập. Gọi là Thiếu Chủy.
LỤC KHÍ
1-CHỦ KHÍ:là nói về khí hậu
trong một năm, năm nào cũng như năm nấy, như:
Tháng Giêng-Hai thuộc về khí Quyết Âm Phong Mộc (Phong khí).
Tháng Ba-Tư thuộc về khí Thiếu Âm Quân Hỏa (Nhiệt khí).
Tháng Năm-Sáu thuộc về khí Thiếu Dương Tướng Hỏa (Thử khí).
Tháng Bảy-Tám thuộc về khí Thái Âm Thấp Thổ (Thấp khí).
Tháng Chín-Mười thuộc về khí Dương Minh Táo Kim (Táo khí).
Tháng Mười Một-Mười Hai thuộc về khí Thái Dương Hàn Thủy(Hàn khí).
2-KHÁCH KHÍ:thì chia ra
Tư Thiên - Tại Tuyền
Tư Thiên là ở trên.Là khí chủ nữa năm về trước(6 tháng đầu năm).
Tại Tuyền là ở dưới. Là khí chủ nữa năm về sau(6 tháng cuối năm)
Tư Thiên - Tại Tuyền đối chiếu nhau theo nguyên tắc:
Táo-Nhiệt tương hợp.
Hàn-Thấp tương lâm.
Phong-Hỏa tương trị.
VD: Năm Tý-Ngọ khí Thiếu Âm Quân Hỏa(Nhiệt) Tư Thiên(6 tháng đầu
năm), thì khí Dương Minh Táo Kim Tại Tuyền(6 tháng cuối năm).
VD: Năm Mão-Dậu khí Dương Minh Táo Kim Tư Thiên(6 tháng đầu năm),thì
khí Thiếu Âm Quân Hỏa(Nhiệt) Tại Tuyền(6 Tháng cuối năm).
Theo đó mà các bạn suy ra những năm còn lại.
VẬN KHÍ PHỐI HỢP NGŨ TẠNG
1-NGŨ VẬN: thuộc về Thiên
Can chia ra Âm Can và Dương Can.
GIÁP Dương THỔ hợp với Vị,
KỶ Âm THỔ hợp với Tỳ.
ẤT Âm KIM hợp với Phế,
CANH Dương KIM hợp với Đại trường.
BÍNH là Dương THỦY hợp với Bàng quang,
TÂN là Âm THỦY hợp với THẬN.
ĐINH là Âm MỘC hợp với Can,
NHÂM là Dương MỘC hợp với Đởm.
MẬU là Dương HỎA hợp với Tiểu trường,
QUÝ là Âm HỎA hợp với Tâm,..
Tam tiêu thuộc về Dương HỎA,
Tâm bào thuộc về Âm HỎA.
2-LỤC KHÍ: thuộc về Địa
Chi, chia ra Âm Chi và Dương Chi.
TÝ-NGỌ hợp với Tâm_Tiểu trường.
SỮU-MÙI hợp với Tỳ-Vị.
DẦN-THÂN hợp với Bào lạc-Tam tiêu.
MÃO-DẬU hợp với Phế-Đại trường.
THÌN-TUẤT hợp với Bàng quang-Thận.
TỴ-HỢI hợp với Can-Đởm.
NGŨ VẬN TỀ HÓA-KIÊM HÓA
1-TỀ HÓA:là năm Vận Thái
quá, Ngũ hành Vận đó ngang bằng với Ngũ hành Vận khắc nó.
VD:năm Giáp THỔ Vận Thái quá, thì THỔ khí ngang bằng MỘC khí.
2-KIÊM HÓA: là năm Vận Bất
cập, Ngũ hành Vận đó suy yếu, bị Ngũ hành của Vận nó khắc chen lẫn vào bên
trong.
VD: năm Quý HỎA Vận Bất cập, thì KIM khí chen lẫn vào trong HỎA khí.
LỤC KHÍ CHÍNH HÓA-ĐỐI HÓA
1-CHÍNH HÓA: là khí hóa ở
phương chính, thì khí đầy đủ.
Trong 12 năm thì DẦN-NGỌ-MÙI-DẬU-TUẤT-HỢI là CHÍNH HÓA.
2-ĐỐI HÓA:là khí hóa ở
phương đối chiếu, thì khí suy kém.
Trong 12 năm thì TÝ-SỬU-MÃO-THÌN-TỴ-THÂN là ĐỐI HÓA.
VD:
Năm TÝ-NGỌ là khí Thiếu Âm Quân Hỏa tư thiên. Thiếu Âm là Nhiệt khí,
Nhiệt sinh ra từ phương Nam, nên khí CHÍNH HÓA ở NGỌ.TÝ đối xung với NGỌ nên gọi
là ĐỐI HÓA.
Năm SỬU-MÙI là khí Thái Âm Thấp Thổ tư thiên.Thái Âm là Thấp khí, Thấp
sinh ra từ Tây Nam, nên khí CHÍNH HÓA ở MÙI.SỬU đối xung với MÙI nên gọi là ĐỐI
HÓA.
Năm DẦN-THÂN là khí Thiếu Dương Tướng Hỏa tư thiên.Thiếu Dương là Thử
khí, Thử khí sinh ra từ Đông Nam, nên khí CHÍNH HÓA ở DẦN.THÂN đối xung với DẦN
nên gọi là Đối HÓA.
Năm MÃO-DẬU là khí Dương Minh Táo Kim tư thiên.Dương Minh là Táo
khí, Táo khí sinh ra từ phương Tây, nên CHÍNH HÓA ở DẬU.MÃO đối xung với DẬU
nên gọi là ĐỐI HÓA.
Năm THÌN-TUẤT là Thái Dương Hàn Thủy tư thiên.Thái Dương là Hàn khí,
Hàn khí sinh ra từ Tây Bắc, nên CHÍNH HÓA ở TUẤT.THÌN đối xung với TUẤT nên gọi
là ĐỐI HÓA.
Năm TỴ-HỢI là Quyết Âm Phong Mộc tư thiên.Quyết Âm là Phong khí,
Phong khí sinh từ chánh Đông,nên CHÍNH HÓA ở HỢI.TỴ đối xung với HỢI nên gọi là
ĐỐI HÓA.
No comments:
Post a Comment