LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT



LINK POST TRUTHLADY3.BLOGSPOT
http://truthlady3.blogspot.com/2016/11/link-post-truthlady3blogspot.html

goosee
The Sound of Silence

Sunday, October 2, 2016

21 Bài giảng Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài giảng 1: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp




Bài 1: MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ VINA THERAPY PHÉP CHỮA BỆNH THEO LỐI VIỆT NAM Phải chăng các nước trên thế giới đang có khuynh hướng tìm về những vấn đề mới lạ nói lên được bản sắc dân tộc mình. Phải chăng đó là những chỗ dựa vững chắc để cho một dân tộc có thể tiến lên? Và đồng thời cũng nói lên sự hiện diện của mình trong cộng đồng Thế giới.
Tại sao Trung Quốc thành lập những trung tâm chữa bệnh ở nước ngoài với tên gọi là SINOTHERAPY. Tại sao Nhật Bản lại viết sách về hướng dẫn SHIATSU (bấm huyệt) với tiêu đề là LE MASSAGE JAPONNAIS (JAPANESE MASSAGE) thì tại sao không thể và không có cái gọi là VINATHERAPY cho Việt Nam? Vẫn biết y học, khoa học là vốn quý của loài người, là tài sản chung của nhân loại, là luôn luôn kế thừa và học hỏi lẫn nhau. Nhưng tại sao các nước nói trên (và có lẽ nhiều nước khác mà chúng ta chưa được biết) lại phải làm như trên? Phải chăng có gì độc đáo hay vì tự hào dân tộc mà họ làm thế? Và nếu làm theo thì có gì sai, có gì xấu mà không thấy ta hưởng ứng? Hay vì tại chúng ta không có cái gì riêng biệt và độc đáo, cho nên chúng ta không thể nói được như họ ? CENTER
Lịch sử nước ta hiện nay cũng như trước kia có nhiều nhân tài về y học với những tên tuổi mà có lẽ không phải chỉ những người trong ngành Y mới biết như Tuệ Tĩnh, Nguyễn Đại Năng, Hải Thượng Lãn Ông,…hay thời gian gần đây như BS Phạm Ngọc Thạch, BS Đặng Văn Ngữ, GS Tôn Thất Tùng, BS Phạm Bá Cư,..và nhiều vị khác. Nhưng theo chúng tôi, bấy nhiêu vị đó chưa phải là nhiều so với một dân tộc có hơn 60 triệu người và 4000 năm văn hiến. Dân tộc Việt Nam vốn có óc quan sát tinh tế, nhạy cảm và có năng khiếu về Y học, ngoài ra vì điều kiện địa lý và xã hội đặc biệt nên có nhiều bệnh tật xảy ra, do đó thầy thuốc Việt Nam có điều bkiện trở nên giỏi giang, có nhiều kinh nghiệm trị bệnh. Do đó, theo chúng tôi, chúng ta có điều kiện để có những sáng tạo độc đáo về Y học để tiến tới hình thành TRƯỜNG PHÁI Y HỌC VIỆT NAM nếu chúng ta DÁM TỰ TIN và có Ý HƯỚNG CÙNG QUYẾT TÂM XÂY DỰNG MỘT TRƯỜNG PHÁI Y HỌC MANG SẮC THÁI VIỆT NAM.
Y học là một tài sản chung của nhân loại, nhưng trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng. Và cái đáng sợ nhất là THA HÓA-ĐỒNG HÓA-VONG THÂN mà khởi đầu là sự NÓI THEO NGƯỜI, LÀM THEO NGƯỜI, NGHĨ THEO NGƯỜI. Nói tóm lại, không có gì của riêng mình cả. Một điều như thế theo tôi là đáng buồn, và nhất là không có gì để đóng góp vào nền văn minh, tiến bộ chung của nhân loại cả.
Trở lại vấn đề đặt ra lúc đầu, cái gọi chung là VINATHERAPY là gì? Như thế nào mới gọi là VINATHERAPY? Phải chăng những phương pháp Y học cổ truyền đang sử dụng và thừa hưởng không phải là VINATHERAPY hay sao mà còn đề xướng cái mới? Tất nhiên, khi chúng tôi đề xướng như vậy là phải có lý do nào đó. Có lẽ chúng ta phải hết sức vô tư, khách quan để xem lại toàn bộ vốn liếng Y học của ta, từ sách vở kinh điển cho đến các phương pháp chẩn đoán và điều trị lâm sàng, có bao nhiêu phần trăm người (Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Mỹ,..) và bao nhiêu là của mình (tức là không tìm thấy ở bất kỳ dân tộc nào khác)? Hẳn ai cũng thấy rằng ta chịu ảnh hưởng nặng nề của người vô cùng, không chỉ ở lĩnh vực Y học hiện đại mà ngay cả lĩnh vực Y học dân tộc cổ truyền cũng vậy. Cho nên một lúc nào đó, chợt nghĩ lại hay có người ngoại quốc hỏi đâu là nền Y học mang nặng bản sắc độc đáo của dân tộc, cái gọi là riêng của Việt Nam thì quả là lúng túng khi trả lời (họa chăng chỉ có thuốc nam và một số thủ thuật trị bệnh có tính sáng tạo). Vì ta cũng có chung ông tổ Hippocrate của Tây Y và Hoàng Đế, Thần Nông như Đông Y. Chưa kể đến sách vở và cách làm cũng tương tự như cách làm của các Thầy thuuốc Đông và Tây Y. Phải chăng đó là thân phận bắt buộc của một nước tiểu nhược đứng cạnh một nước khổng lồ về mọi phương diện? Chúng tôi không nghĩ như thế. Một nước dù nhỏ đến đâu vẫn có nét độc đáo của nó má các nước khác lớn mạnh hơn cũng không thể nào có được. Đó chính là thế mạnh của nước nhỏ đó vậy.
Đến đây có lẽ các bạn đã hiểu: muốn thế giới gọi là VINATHERAPY thì phải như thế nào? Tôi nghĩ rằng dân tộc ta, trí thức ta nhất định sẽ tìm ra cái gọi là VINATHERAPY đúng nghĩa của nó. Vì rằng chúng ta có đủ điều kiện để làm việc đó, miễn là dám tin vào mình, dám nghĩ, dám làm và quyết tâm làm;đồng thời lãnh đạo ngành phải hết sức quan tân giúp đỡ để nhân tài phát triển về số lượng cũng như chất lượng.
Theo nhận định trên về VINATHERAPY, chúng tôi thấy hiện nay nước ta đã có thuốc Nam và một số phương pháp gọi là Y học Dân gian như cạo gió, chích lể (Ông Oắng) hay bấm huyệt (Bà Hùynh Thị Lịch), đốt bấc, biêm khoa, chữa mẹo,…(có thể còn nhiều liệu pháp nữa mà chúng tôi chưa biết được) là đích thực của dân tộc ta. Nhưng phần lớn những liệu pháp vừa kể hiện nay chưa đủ sức và tầm cỡ để phát triển ra các nước khác vì thiếu tính hệ thống và lý luận ở trình độ cao. Chúng tôi muốn nói ở đây về một VINATHERAPY với tính cách như một trường phái Y học độc đáoViệt Nam so với các trường phái khác của Thế giới (như Sinotherapy của Trung Quốc với các phương pháp chữa bệnh đặc thù của họ như thuốc Bắc, Thái Cực Quyền, Châm cứu…tức là nó phải có tính hệ thống, tính lý luận mang sắc thái riêng của Việt Nam và ở trình độ cao  tầm cở Thế giới và mang tính chất Quốc tế, chứ không phải chỉ là một số kinh nghiệm điều trị hay thủ thuật  mang tính chất địa phương khó áp dụng ở các nước khác nhau mà không có hệ thống lý luận đồng bộ và xuyên suốt.
Với ý thức như vậy, trong giai đoạn 13 năm qua (1980-1993), chúng tôi đã cố gắng hoàn thành và  giới thiệu phổ biến trong và ngoài nước phương pháp DIỆN CHẨN- ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP, gọi tắt là DIỆN CHẨN hay FACY(chữ viết tắt của FACE DIAGNOSIS-CYBERNETIC THERAPY) cũng như phương pháp Am Dương Khí Công (là một phương pháp thở mới do tôi nghiên cứu sáng tạo từ năm 1976 nhằm điều hòa hai khí Am Dương trong cơ thể, vừa có tính chất dưỡng sinh, vừa để phòng và trị một số bệnh do mất quân bình Am Dương gây ra) và Am Thực Liệu Pháp (là một phương pháp chữa bệnh bằng cách ăn uống đúng phép).
Chúng tôi cho rằng đã đến lúc Việt Nam phải đóng góp phần mình cho Thế giới. Tôi nghĩ: Dân tộc ta hoàn toàn có đủ khả năng và tiềm năng đó, nhất là ỡ lĩnh vực Y học và Khoa học. Làm được việc này là thể hiện rõ lòng yêu nước của mỗi cá nhân chúng ta.

GSTS. Bùi Quốc Châu


Bài giảng 2: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp



Bài 2Vài nét về lịch sử của môn Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (Facy) Bùi Quốc Châu ( 17 tháng 8 năm 1991)

Trong lịch sử Y học thế giới đã có một số phương pháp tương tự với Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (Facy) nếu xét qua về mặt hình thức


Vì nó dựa trên nguyên tắc phóng chiếu (Projection) - trong khi FACY dựa trên nguyên tắc Phản Chiếu (REFLECTION) là một hình thức tương tự phóng chiếu nhưng đa chiều (MULTI-DIRECTION) trong khi Phản Chiếu chỉ có một chiều trên một mặt phẳng duy nhất. Phản Chiếu (reflection) có thể gọii là Phản Chiếu nhiều chiều và đa hệ (multisystem). do đó nó cũng khác phàn xạ cổ điển là phản xạ đơn hệ.
Các phương pháp đó là Vọng chẩn của Đông Y cổ truyền (Medecine Traditionnelle Orientale). Nhãn chẩn (L’Iriscopie) của Ignas Peczely (1880), phương pháp kích thích vùng bên trong mũi để trị bệnh (Réflexothérapie endonassale) của Bonnier (1930), cũng như của Asuero (1931), Diện châm (Faciopuncture), Tỵ châm (Nasopuncture) của Trung Y (Médecine Chinoise), Nhĩ châm (Ariculothérapie) của P.Nogier, Thủ châm (Manophuncture) và túc châm (Podopuncture). Mỗi phương pháp trên đều có hình chiếu hoặc những điểm tương ứng với các bộ  phận trên cơ thể, dùng để chẩn đoán hay trị bệnh.
Tuy nhiên DC-ĐKLP (Gọi tắt là Diện Chẩn hay FACY mà ở Pháp hiện nay gọi tắt là Phản xạ học vùng mặt (Réflexologie faciale) hoàn toàn không phải là Vọng chẩn hay Diện chẩn của Trung Y vừa nêu trên. Trước hết vì đây là một phương pháp do người Việt Nam tìm ra và xây dựng (ông Bùi Quốc Châu) chỉ cách đấy 13 năm (từ đầu năm 1980 tại TPHCM). Kế đến vì nó không bắt nguồn hay thừa kế từ Vọng chẩn, Diện châm hay Tỵ châm của Trung Y cũng như châm cứu nói chung mà trái lại nó có xuất phát điểm từ những kinh nghiệm dân gian Việt Nam, từ nền văn hóa triết học đông phương, trong đó có ngôn ngữ Việt Nam, văn chương bình dân Việt Nam được thể hiện qua ca dao, tục ngữ phương ngôn và những câu nói dung tục (vulgaire) trong dân gian.
Thật vậy, chính từ những phát xuất kể trên mà phương pháp  DIỆN CHẨN (FACY) được hình thành. Việt Nam 4000 năm văn hiến, với những kinh nghiệm dân gian phong phú thuộc nhiều lĩnh vực, được thể hiện dưới dạng văn chương bình dân như ca dao, tục ngữ, những câu chuyện tiếu lâm hoặc trong văn chương bác học, ngôn ngữ học. Ngoài ra nó còn được thể hiện dưới dạng kinh nghiệm của quần chúng trên một số lĩnh vực nào đó, trong đó Y học Dân gianVí dụ: Từ nhỏ tôi đã thấy người ta “bắt gió” hoặc dán hai lát gừng ở hai bên thái dương cho những người bị nhức đầu ,”cạo gió” cho những người bị cảm, dán đuôi lá trầu vào Ấn đường (giữa hai đầu chân mày) cho em bé bị nấc cụt, giật tóc mai cho người bị xỉu tỉnh dậy (hoặc tạt nước lạnh vô mặt họ)… Khi lớn lên, tôi cũng thường nghe hoặc đọc thấy những câu tục ngữ như “Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo cỗ lòng mới ngon”, hay là “Trông mặt biết người” hoặc dung tục hơn “Mồm sao ngao vậy”, “Đa mi tất đa mao” (Chính những câu chuyện này là cơ sở để tôi khám phá và xây dựng nên đồ hình phản chiếu bộ phận sinh khoa). Tôi cũng được biết trong dân chúng có người chỉ cần nhìn vào nốt ruồi hay tàn nhang trên mặt của một người đó,họ cũng có thể đoán biết được người kia có một nốt ruồi hay tàn nhang ở chổ nào trong cơ thể. Ngoài ra còn có những người có tài xem tướng mặt (Diện, tướng) có thể nhìn mặt một người mà đoán biết được vận hạn tốt xấu hay bệnh tật sắp xảy ra. Đôi khi họ chỉ cần nhìn vào Ngọa tàm (Mí mắt dưới) mà đoán biết được tình trạng con cái của  người khác. Điều này đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc tìm ra và xây dựng Đồ hình buồng trứng (noãn sào) trên mặt một cách nhanh chóng và chính xác. Đối với tôi, những điều kể trên vô cùng quý báu. Nó chính là Chất xám của quần chúng. Ông cha ta truyềnlại từ đời này sang đời khác mà tôi chỉ là người biết kế thừa và khai thác vận dụng được TÚI KHÔN MUÔN ĐỜI này để xây dựng được phương pháp DIỆN CHẨN (FACY) ngày nay có ích lợi cho nhiều người, cho nên tôi rất trân trọng và yêu mến TÚI KHÔN đó.
Sau này, tôi có nghiên cứu thêm về Tây Y thì được biết thêm nhiều điều rất hay, phù hợp với kinh nghiệm dân gian và tướng học. Thí dụ như: Hai quầng mắt thâm ở các phụ nữ có vấn đề ở buồng trứng, hai má đỏ ở bệnh nhân lao phổi, bệnh yếu sinh lý thường gặp ở người bị viêm mũi dị ứng,….Nhà bác học nổi tiếng người Pháp, Alexis Carrel cũng giúp tôi rất nhiều khi ông viết trong tác phẩm của ông: “L’homme, cet inconnu”…và “Chaque homme porte sur sa face la description de son corps et son âme”. Phải chăng Đông Tây đã găp nhau ở chỗ này?”
Những đềiu vừa kể trên đã gơi ý cho tôi suynghĩ nhiều về vai trò quan trọng của bộ mắt cũng như sự liên quan giữa bộ mặt và cơ thể con người. Rồi nhờ những kiến thức Đông Y.Châm cứu (trong đó phải kể đến công trình của các cụ Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Đại Năng) và Tây y, tôi được biết một cách rõ ràng và khoa học hơn những mối liên hệ bộ mặt và cơ thể, nhưng phải thật tình mà nói, chính nhờ Đồ hìnhbào thai lộn ngược trên loa tai của Nhĩ châm mà tôi áp dụng lúc bấy giờ đã gợi ý cho tôi cố gắng tìm ra đồ hình tương tự như thế ở trên mặt (Về điều này, tôi phải đặc biệt cảm ơn bác sỹ P.NOGIER)
Từ đó với niềm tin tưởng và quyết tâm, cộng với môi trường rất tốt cho việc nghiên cứu(nơi tôi đang làm việc lúc bấy giờ là Trung tâm cai nghiện Ma Túy ở Bình Triệu (Thủ Đức) nay gọi là Trường Xây dựng lao động Thanh Niên mới, nơi thường xuyên có hàng ngàn bệnh nhân nghiện ma túy với đủ loại bệnh tật) đã giúp tôi có dịp quan sát các dấu vết bất thường trên gương mặt của họ cũng như có điều kiện châm từng mũi kim trên các huyệt ở MẶT với từng bộ phận của cơ thể, đồng thời để xác minh cho các giả thiết của mình về sau này.
Với sự say mê, kiên trì và làm việc nghiêm túc qua thời gian dần dà tôi phát hiện ra những mối quan hệ giữa những điểm trên MẶT và các khu vực với toàn thân. Nhưng có lẽ điều đặc biệt nói đến đây là tôi nghiên cứu khám phá ra những bí ẩn của BỘ MẮT theo hướng khác với các tác giả có những công trình tương tự trước đây (Nhĩ châm, Đầu châm, Thủ châm,Túc châm).


Ai cũng biết trong việc khám páh xây dựng và phát triển một phương pháp phản xạ như kiểu Nhĩ châm hay Túc châm, vấn đề khó nhất là tìm ra huyệt một cáh chính xác và qua đó xác định vùng phản xạ một cách có hệ nhất quán (Unité).
Như trên đã nói, tôi không xây dựng phương pháp bằng những kinh nghiệm lần mò hoặc có tính cách ngẫu nhiên. Trái lại Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (Facy) xây dựng theo một hướng đã định trước dựa trên một phương pháp luận đã có ngay từ bước đầu. Thật vậy, những nguyên tắc tìm ra huyệt hay Đồ hình một cách chính xác và mau chóng đã được tôi khám phá và xây dựng từ  những câu nói giản đơn của cổ nhân, chủ yếu trong lĩnh vực Triết học, Văn học, Ngôn ngữ học Đông phương và Việt Nam. Ví dụ như: thuyết BẤT THỐNG ĐIỂM (Théorie de POINT NON DOULOUREUX) đã được tôi dùng để tìm ra và xác định huyệt một cách vô cùng chính xác hơn cả máy dò huyệt hiện đại) là do tôi vận dụng khái thác câu “ Dương trung hữu Âm, ÂM trung hữu Dương” (trong Dương có Âm, trong Âm có Dương) trong Dịch kinh và Nội kinh. Từ câu này tôi suy luận ra như sau: “Trong điểm(vùng)đau (Dương) tất sẽ có điểm không đau (Âm)”.
Tất nhiên điều này thoạt tiên chỉ là giả thiết, nhưng sau khi tôi đưa vào ứng dụng trên lâm sàng thì tôi thấy ngay kết quả hoàn toàn đúng với giả thiết mà tôi đã đề ra. Nhưng để đảm bảo tính khách quan và tính quy luật, tôi đã phải tiến hành nhiều lần thí nghiệm này trên nhiều bệnh nhân khác nhau (về sau này tôi còn yêu cầu các cộng tác viên và học viên của tôi lặp lại nhiều lần thí nghiệm ấy để kiểm tra lý thuyết nêu trên. Và tất cả đều xác nhận tính đúng đắn xác thực của nó). Để cho dễ hiểu lý thuyết này, tôi có thể nói “thay vì lấy điểm đau làm huyệt” như trong trường hợp A thị huyệt của châm cứu thì tôi lấy điểm không đau làm huyệt. Trên thực tế cách tìm huyệt của tôi, vốn được vận dụng một cách sáng tạo từ một nguyên lý trong Kinh dịch và Nội kinh đã giúp tôi tìm được nhiều huyệt rất chính xác và có giá trị. Việc này đã đóng góp rất lớn trong việc xác định những vùng tương ứng trên MẶT với các phần của toàn cơ thể. Lẽ dĩ nhiên quy tắc tìm huyệt như trên là một trong nhiều cách tìm huyệt mà tôi đã nghiên cứu ra.Nhưng có thể nói đó là quy tắc tìm huyệt đầu tiên của tôi và phải nói nó rất lạ, khác xa với các tìm huyệt đã được biết xưa nay, ví dụ: lấy điểm đau làm huyệt, điểm có điện trở thấp (đo bằng máy dò huyệt)…Điều đáng lưu ý là huyệt số 1 nằm nơi đầu mũi là huyệt đầu tiên tôi khám phá ra bằng cách châm bằng kim theo thuyết BẤT THỐNG ĐIỂM vừa nêu trên.
Còn việc khám phá và vẽ ra các Đồ hình trên Mặt( và sau này trên tòan thân) tức là những vùng phản xạ được hệ thống hóa một cách nhất quán  là do tôi vận dụng một trong những quy tắc cốt yếu và đồng thời cũng là quy tắc đầu tiên để khám páh và thiết lập Đồ hình. Đó là quy tắc Đồng hình tương tự (Correspondance en même forme). Phải nói chính nhờ quy tắc này mà tôi khám phá ra nhiều Đồ hình phản chiếu một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Quy tắc này do đâu mà có?- Thật ra ít có ai biết được rằng quy tắc này được gợi ý từ câu “ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU” trong Kinh Dịch (chương văn ngôn, quẻ Kiền)(1). Trong câu này, tôi khám phá ra điểm then chốt là chữ Đồng (tức là giống nhau hay tương tự nhau) nghĩa là hễ ĐỒNG là có LIÊN HỆ NHAU, TƯƠNG ỨNG NHAU.Từ đó tôi triển khai thêm một vế nữa là ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỰ, nghĩa là cái giống nhau hay cái tương tự hình dạng nhau thì có liên hệ hay quy tụ lại với nhau (Quy tắc này về sau được tôi khái quát hóa thành THUYẾT ĐỒNG ỨNG với ý nghĩa rộng lớn bao quát trên nhiều lĩnh vực họn).
Chính quy tắc ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỰ đã tham gia vào việc giúp tôi quyết định chọn giả thuyết đầu tiên trong việc thiết lập các Đồ hình phản chiếu trong FACY. Đó là giả thiết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG. Tôi nói quy tắc ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỰ góp phần vào việc tạo nên giả thiết vừa nêu trên là vì trước đó tôi có suy nghĩ về một nét đặc biệt trong ngôn ngữ học Việt Nam, đó là việc ghép cùng một chữ (đồng tự) vào những bộ phận hay vật khác nhau nhưng có hình dạng, tính chất, vai trò hay vị trí giống nhau hoặc tương tự nhau. Ví dụ như Cổ tay, Cổ chân, Cổ họng, Cổ gáy hoặc SỐNG LƯNG, SỐNG MŨI, SỐNG DAO,…Điều này không thấy rõ nét lắm ở ngôn ngữ Anh, Pháp, Hoa….Phải chăng cổ nhân Việt Nam đã thấy được sự liên quan giữa những bộ phận kể trên cho nên đặt cùng một chữ, ngoài ra còn có  những câu có nói dung tục trong dân gian như “ MÒM SAO NGAO VẬY” (tạm dịch ra tiến Anh là :LIKE MOUTH, LIKE VULVA” hoặc “TEL BOUCHE,TEL VULVE” trong Pháp văn) hoặc trong ngôn ngữ Pháp chữ LÈVRE là MÔI cũng dùng chỉ để tiểu và đại âm thần (Petit lèvre et Grand lèvre) của bộ phận sinh dục nữ. Một lần nữa, Đông Và Tây Y gặp nhau. Hay ĐA MI TẤT ĐA MAO (người có nhiều lông mày thường có nhiều lông ở bộ phận sinh dục- được hiểu ngầm), cũng diễn tả sự liên quan giữa những bộ phận của cơ thể có hình dạnh tương tự nhau. Rồi trong lĩnh vực Y học Dân gian Việt Nam, tôi cũng thấy có nhiều bài thuốc được cấu tạo theo quy tắc ĐÔNG HÌNH TƯƠNG TỰ.
Nêu trên (ví dụ: dùng tim heo chung với Thần sa, Châu sa để trị chứng hồi hộp tim, bao tử heo dồn với hột tiêu chưng cách thủy để rị bệnh đau bao tử do lạnh, hạt ké đầu ngựa dùng trị sạn ké trong thận…)
Chính những sự kiện này rải rác trong các lĩnh vực thuộc Khoa học nhân văn, Khoa học tự nhiên hay Y học Dân gian đã khiến tôi suy nghĩ rất nhiều về mối quan hệ có tính quy luật giữa những sự vật ở lĩnh vực hay bộ phận khác nhau mà trong đó nhũng liên hệ giữa những cái giống nhau hay tương tự nhau là một quan hệ có tính quy luật và quy luật này có giá trị phổ quát (universel) chứ không phải chỉ phổi trong phạm vi hẹp (như Y học chẳng hạn).
Từ suy nghĩ này cộng với việc thấm nhuần tư tưởng NHẤT NGUYÊN LUẬN (Monisme) trong Triết học Đông phương được thể hiện bằng những câu như “Vạn vật đồng nhất thể”,” Nhân thân tiểu thiên địa”, “Thiên nhân hợp nhất”(Vạn vật cùng một thể - Thân thể con người là một vũ trụ nhỏ- Trời và người hợp thánh một)…khiến tôi dễ dàng phát hiện ra một mối quan hệ giữa sống mũi và sống lưng cũng như dễ dàng chọn giả thiết hay cốt mốc đầu tiên. SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG HAY PHẢN CHIẾU SỐNG LƯNG để từ cơ sở này (sau khi đã xác định là đúng) phát triển thành Đồ hình Dương (hình người đàn ông) ở giữa mặt và sống mũi là sống lưng, hai gờ mày là hay cánh tay, đỉnh đầu ở giữa trán (mặt úp xuống), hai đùi là vùng môi trên giới hạn bởi hai nếp nhăn mũi má, đầu gối ở hai bên khóe miệng và bàn chân là ụ cằm….Điều này khá trùng hợp với nhận xét của người Pháp qua câu : LE NEZ C’EST’HOMME.
Việc xác nhận giả thiết sống mũi tương ứng với sống lưng là đúng, xảy ra vào sáng ngày 26/03/1980 trên bệnh nhân nghiện ma túy tên là Trần Văn Sáu tại Trường Fatima, Bình Triệu như các trường hợp nghiện ma túy khác bậnh nhân rất đau ở cột sống thắt lưng khi lên cơn nghiện ma túy. Thế mà chỉ sau hơn 1 phút kể từ khi tôi châm một mũi kim vào đầu mũi (ở chỗ cuối xương sụn mũi mà tôi ước tính là tương ứng với thắt lưng đang bị đau của bệnh nhân theo quy tắc CHÂM VÀO BẤT THỐNG ĐIỂM (điểm không đau) thì một sự kỳ diệu xảy ra là bệnh nhân giảm đau cột sống thắt lưng một cách rõ nét đến mức giảm đau nhiều hơn là hôm qua tôi châm vào điểm đốt sống thắt lưng ở đối vành tai theo Nhĩ châm(cũng châm vào điểm không đau) cũng để trị cơn đau cột sống thắt lưng của anh ta. Ngoài ra còn có hiện tượng đặc biệt là có một đường dẫn truyền như kiến bò chạy từ nơi châm vòng qua đầu đến nơi đang đau ở cột sống thắt lưng ngay sau khi châm, nghĩa là điều này đã chứng minh được giả thiết SỐNG MŨI TƯƠNG ỨNG VỚI SỐNG LƯNG là chính xác.
Với kết quả như trên được lặp lại trên nhiều bệnh nhân khác nhau, tôi càng tin tưởng vào THUYẾT BẤT THỐNG ĐIỂM cũng như THUYẾT ĐỒNG ỨNG với hệ luận của nó là quy tắc ĐỒNG HÌNH TƯƠNG TỤ, do đó tôi lại sử dụng những quy tắc trên vào việc tìm những huyệt và vùng tương ứng khác của cơ thể ở trên Mặt. Có thể nói các quy tắc này như chiếc đũa thần hay chiếc chìa khóa kỳ diệu giúp tôi mở được cánh cửa sinh học đầy kỳ bí trên cơ thể sống của con người một cách nhanh chóng.
Thật vậy, từ những Đồ hình phản chiếu ở trên Mặt được khám phá và vẽ ra trong vòng 3 năm (từ năm 1980 đến 1983) với 22 hệ, chó đến những hệ thống Đồ hình phản chiếu trên DA ĐẦU được tìm ra năm 1988 và hệ thống phản chiếu CÁC BỘ PHẬN Ở TOÀN THÂN (năm 1989), kể cả hệ phản chiếu trên LOA TAI với nhiều đồ hinh khác nhau(tất nhiên là khác với Đồ hình bào thai lộn ngược cũa Bs Nogier)đều có sự đóng góp của thuyết ĐỒNG ỨNG. Trong phương pháp DIỆN CHẨN FACY còn có nhiều thuyết khác, như thuyết PHẢN CHIẾU, ĐỐI XỨNG, GIAO THOA, BẤT THỐNG ĐIỂM ,TAM GIÁC, NƯỚC CHẢY VỀ CHỖ TRŨNG…Tất cả đều góp phần vỏa việc xây dựng phương pháp. Nhưng có một điều cần được nhấn mạnh ở đây là hầu hết những thuyết trên nền tảng của phương pháp đều được gợi ý từ những lĩnh vực bên ngoài  Y học chính thống mặc dù trong việc kiến trúc toàn bộ phương pháp đều có sự góp mặt của 3 dòng Y học.
Y học cổ truyền, Y học hiện đại và Y học dân gian. Đây có lẽ là nét đặc thù của phương pháp  DIỆN CHẨN (FACY)so với các phương pháp tương tự khác đã có trên thế giới trước đây. Vì rõ ràng từ phát điểm cho đến việc tiến hành xây dựng hệ thống lý thuyết không đi theo chiều dọc thẳng đứng từ Y học xuống mà lại đi theo chiều nagng từ các ngành KHOA HỌC NHÂN VĂN như Triết học, Văn học, Ngôn ngữ học, Tướng học…Sau đó được bổ sung bằng các chất liệu khác như điều khiển học, Hình học, Trường sinh học, vật lý học,…
Tóm lại, DIỆN CHẨN (FACY) không phải là một sản phẩm đơn thuần Y học mà là kết quả tổng hợp của nhiều ngành khác trong đó chủ yếu là văn hóa và triết học Đông Phương (như Phật, KHổng, Lão, Thiền, Dịch học….)có thể nói nó là đứa con tinh thần của VĂN HÓA VIỆT NAM vời tính TỔNG HỢP, CHIẾT TRUNG VÀ SÁNG TẠO NHUẦN NHUYỄN. Chúng tôi gọi nó là Y ĐẠO(I’TAO) hay Y HỌC-VĂN HÓA TRIẾT HỌC vì nó không dừng ở chổ Y thuật  hay Y đức, mà cái nó nhắm tới là không chỉ đem lại sức khoẻ cho thân thể và tinh thần của con người mà còn giúp mở mang tâm trí (minh triết hơn) rồi thông qua chữa bệnh cho mình và cho người mà dần dần đạt lý của trời đất vì con người và vũ trụ là một (thiên nhân hợp nhất) cho nên thấu hiểu mình tất sẽ hiểu cái lý của trời đất. Ngoài ra nó còn giúp mở rộng sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau(vì theo NHẤT NGUYÊN LUẬN, TẤT CẢ LÀ MỘT), đóng góp vào việc hình thành một nền văn hóa Thế Giới. Còn xét về mặt hình thức thì nó là tổng hợp của Phản xạ học nhiều hơn, nhưng là một phản xạ học mới:PHẢN XẠ ĐA HỆ (nếu có thể gọi được như vậy để phân biệt với phản xạ học cổ điển hay là Phản xạ đơn hệ). Hay còn gọi là PHẢN XẠ HỌC VIỆT NAM (Reflexologie Vietnamienme). Đây cũng là một loại  NHU Y (Médecine douce) hay Y HỌC TỰ NHIÊN (Médecine naturelle) vì không dùng thuốc cũng không dùng kim châm mà chỉ dùng tay hay dụng cụ (như cây lăn,cây cào,búa gõ, que dò, ngải cứu, máy xung điện facy). Nó cũng là một hình thức của Y tế CỘNG ĐỒNG (La Santé Commune) và có thể phổ biến rộng rãi cho nhiều người cùng học và làm được một cách dễ dàng và an toàn nhất trong phạm vi Chăm sóc sức khỏe ban đầu.




Bài giảng 3: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp




Bài 3: Cơ sở Khoa học của Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp (DC - ĐKLP)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Cho đến nay, không ít người đã gặt hái hoặc chứng kiến những kết quả gần như kỳ diệu của “DC - ĐKLP” trong một số trường hợp chẩn đoán và điều trị.
Trước những kết quả đó, nhiều người không khỏi thắc mắc: “Tại sao tác động trên mặt mà lại hết bệnh dưới chân? Tại sao lại có kết quả quá nhanh chóng hầu như khó tin nếu không chứng kiến tận mắt? Tại sao nhìn mặt mà biết trong thận có sạn..”
Để giải đáp phần nào những thắc mắc đó, chúng tôi sẽ trình bày những luận thuyết mới trên Thế giới trong lĩnh vực CHÂM CỨU, từ đó, chúng ta sẽ hiểu được phần nào kết quả màDiện Chẩn - Điều khiển liệu pháp đã làm được. Tuy nhiên đây chỉ là một phần của vấn đề. Ngoài ra bạn đọc còn phải tham khảo những giả thiết mà chúng tôi đã trình bày trong sách “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp” để tạm thời giải thích những bí mật của cơ thể chúng ta, đặc biệt trong lĩnh vực “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp”. Mong các bạn đọc hiểu trên tinh thần đó vì cho đến nay chưa ai có thể tự hào là nắm rõ được cơ sở khoa học, cơ chế của CHÂM CỨU là gì? Trong khi “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp” của chúng ta là một vấn đề còn mới mẽ, tuy rằng, thoạt nhìn qua nó giống như CHÂM CỨU. Thật ra, phương pháp của chúng ta không phải là môn CHÂM CỨU mà là một bộ môn khác mang nhiều màu sắc mới lạ. Thời kỳ đầu phạm vi tác động chỉ thể hiện trên vùng MẶT gồm Đồ hình , tuy nhiên kể từ năm 1988, DIỆN CHẨN đã phát triển lên Da đầu và từ năm 1989 đã triển khai ra toàn thân (cũng gồm nhiều ĐỒ HÌNH PHẢN CHIẾU) làm cơ sở cho việc chẩn đoán và điều trị
II. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA DIỆN CHẨN:
Nếu coi DIỆN CHẨN chỉ là NHÌN MẶT ĐOÁN BỆNH thì đây không phải là một vấn đề mới vì từ xưa trong Kinh điển Đông Y đã có VỌNG CHẨN (chẩn đoán bệnh bằng cách nhìn). DIỆN CHẨN của chúng ta mặc dù cũng dựa trên nguyên tắc biểu hiện những hình thức khảo sát căn cứ vào nhiều yếu tố, đặc biệt trong đó có các dấu vết xuất hiện trên da, dưới da. Trong phần dưới đây, chúng tôi sẽ giới thiệu những vấn đề có  liên quan đến việc SỜ, ẤN các điểm đau trên bề mặt cơ thể và nhìn các dấu vết trên da để đoán bệnh của Đông Y, Tây Y và cơ sở khoa học cảu vấn đề này xuyên qua các công trình nghiên cứu của các tác giả Nhật Bản. Thông qua các tư liệu này, bạn đọc sẽ hiểu được DIỆN CHẨN một cách khoa học hơn.
            1. Theo”Y học hiện đại” và “Y học cổ truyền”:
            Tây Y có môn DEMATOLOGY (Khao bệnh da) là phương páhp nhìn vào các dấu vết và màu sắc  riêng biết hiện ra trên da  mà biết bệnh, không chủ yếu dựa trên phạm vi vùng mặt mà là trên toàn cơ thể. Phương pháp này có cơ sở khoa học, giải thích được vì sao mắc bệnh giang mai lại hiện ra những nét đặc biệt trên mình và bộ phận sinh dục, hoặc bệnh cùi thì có những biểu hiện ta ở vành tai, dái tai, ngón tay.
            Sỡ dĩ người ta có thể biết được bệnh qua các biểu hiện tr6en da là vì Y học hiện đại nghiên cứu thấy rằng : Trong phôi thai Da và nội tạng là một .Do đó, lúc phát triển thành con người thì lẽ tất nhiên  khi Nội tạng có bệnh thì ngoài da sẽ hiện ra các dấu vết khác thường tương ứng với bệnh của nội tạng. Vì vậy chỉo cần vào biểu hiện ngoài da, người Thầy thuốc chuy6en khoa sẽ biết bệnh nhân đang bị bệnh gi?
            Bệnh tật của một hện thống ở sâu thường thể hiện ra những vùng tương ứng trên bề mặt cơ thể một cảm giác đau tức, mỏi tự phát. Đó là cảm giác đã được cả Y học phương Tây lẫn Y học cổ truyền phương Đông quan sát mô tả, nhưng Y học hiện đại thì tổng kết những vùng đau tự phát ấy tàhnh những vùng gọi là Zakharine- Head và tìm ra cơ chế của nó là một cung phản xạ cảm giác- nội tạng da. Do cùng một TIẾT ĐOẠN thần kinh chi phối còn Y học cổ truyền  phương Đôg sử dụng những vùng đau tê mỏi là một trong những phương tiện để tìm ra cấu tạo của hệ thống Kinh lạc.
            Những vùng đau tự phát hoặc ấn vào mới thấy đau như thế là nội dung của việc chẩn đoán dựa trên cơ sở Kinh lạc cũng là một phương pháp của châm cứu  (Huyệt A trị). Do đó, để phát huy tốt tác dụng của CHÂM CỨU, các nhà châm cứu cần vận dụng  tốt các vùng đau vào chẨn đoán và điều trị.
            Dựa trên quan sát các điểm đau và một số biểu hiện ở loa tai mỗi khi gặp một bộ phận nào đó của cơ thể bị bệnh có một số vòng tương ứng trên loa tai thường có biểu hiện đau hoặc một số biểu hiện đặc biệt khác. Dựa trên kết quả quan sát được, kết hợp vớpi tư duy khái quát hóa, tác giả Nogier (người Pháp) đã vẽ được bản đồ các vùng của cơ thể. Nó giống như một bào thai nằm  lộn ngược ở loa tai. Dựa trên cơ sở đ1o, tác giả đã xây dựng thánh công phương pháp châm ở loa tai và sử dụng loa tai vào chẩn đóan.
            Việc quan sát những vùng nhìn thấy có sự thay đổi khác biệt : sờ  thấy nóng lạnh bất thường hoặc ấn thấy kết thành đám cứng nhắc  hay mềm nhão  cũng là phương tiện để nền y học cổ truyền phương Đông tìm ra cấu tạo của hệ thống Kinh lạc và xây dựng học thuết Kinh lạc (Viện Đông Y CHÂM CỨU HỌC II).
            Cơ sở vật lý-sinh vật của sự biến đổi điện trở vùng da cùng huyệt: Các tác giả Nhật Bản TACHINO và ISHIKAWA đã quan sát và giải thích hiện tượng biến đổi điện trở của Da vùng Huyệt trong trường hợp bệnh lý như sau:
            - Khi nội tạng có bệnh, những kích thích bất thường từ nội tạng đi vào tủy sống, rồi phản chiếu ra vùng da cùng tiết đoạn. Ngoài những phản xạ phức tạp (cảm giác mạnh, gân cơ co rút, bài tiết thất thường, chuyển hóa, trở ngại….)Nó còn gây ra những phản ứng của động mạch nhỏ ở hạ bì, những động mạch nhỏ co lại, máu chảy không đều, da ở vùng động mạch chi phối xuất hiện tượng giống như thiếu máu, gây nên sự tiết dịch thành những điểm tròn rõ rệt, đường kính không quá -1mm.
            - Hiện tượng trên gọi là “Điểm phản xạ Da”. Đại bộ phận các “Điểm phản xạ Da” chỉ thấy được qua kính hiển vi, đôi khi nhìn thấy bằng mắt thường dưới dạng BAN NHỎ.
            - NhỮng biến đổi về tổ chức học trên kéo theo những biến đổi về diện Sinh học. Biểu hiện bằng sự giảm điện trở và tăng điện dung. Sự biến đổi này phụ thuộc vào mức độ thấm xuất của các động mạch nhỏ dưới Da (Viện Đông Y – CHÂM CỨU HỌC II)
            2. Theo “DIỆN CHẨN”
            Qua những luận thuyết trên, ta sẽ hiểu được cáh chẩn đoán bằng DIỆN CHẨN LÀ CÓ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA NÓ.Tuy nhiên cũng giống như Nhĩ Chẩn, DIỆN CHẨN có điểm khác và độc đáo là căn cứ vào Đồ hình là những VÙNG PHẢN CHIẾU (còn gọi là HÌNH CHIẾU) của cơ thể lên trên mặt được hệ thống hóa, ta có thể chẩn đoán được bệnh mốt cách nhanh chóng và chính xác, tiện lợi hơn thay vì phải khám cục bộ nơi đau như Thể châm. Các dấu hiệu chẩn đoán cũng phong phú, đa dạng hơn như không chỉ có cảm giác không đau ở tại 1 điểm (Bất thống điểm) hoặc không chỉ lưu tâm đến Nốt ban mà còn để ý đến mụn ruồi, vết sẹo, nếp nhăn, lỗ chân lông nở to, tai máu,….làm tiêu chuẩn định bệnh.
            Tuy nhiên cùng cùng một nguyên tắc như ở các phương pháp vừa trình bay ở trên, tất cả cùng có ý nghĩa trong chẩn đoán.
III.CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA “DIỆN CHẨN LIỆU PHÁP”:
Cho đến nay, có lẽ không ít người còn thắc mắc không rõ tại sao tác động trên MẶT mà lại trị được bệnh bên dưới một cách hiệu quả. Phần trình bày sau đây sẽ cho thấy những liên hệ giữa ĐẦU, MẶT và CƠ THỂ. Và qua đó, bạn đọc sẽ tự giải đáp được phần nào thắc mắc nêu trên.
            1. Theo Tây Y: Cơ thể học Tây Y cho biết có nhiều dây thần kinh đến Mặt trong đó có hai dây số 5 và số 7 phân bổ đều vùng mặt.
            a) Dây số 5: (Thần kinh sinh ba: Nerf trijumeau) chỉ huy cảm giác ở mặt phát ở hai bên đầu não có 3 nhánh: 2 nhánh đầu là nhánh cảm giác, nhánh thứ 3 là nhánh hỗn hợp bởi vì trong nhánh có những sợi vận động đến các cơ nhai. Nhanh cảm giác th1ư nhất phân bố vào vùng da trên trán và ở mắt. Nhanh thứ 2 phân bố vào hàmtrên và Da mặt ở ngang mức hàm trên. Nhanh thứ 3 phân bố hàm dưới.
            b) Dây số 7: (thần kinh mạch” Nerf facial) xúât phát ở hành não, đi vòa ống tai trong của xương thái dương và đi ra khỏi xương thái dương bởi một lỗ trâm chũm đến các cơ ở vùng Mặt. Ngoài các thầnh phần dây thền kinh. Mặt káhc nó còn có những sợi thần  kinh Mặt  còn có những sợi thần kinh phó giao cảm đi đến tuyến lệ, tuyến nước bọt dưới hàm và dưới lưỡi.
            2. Theo Đông Y : Mặt là nơi hội tụ và xuất phát các kinh mạch.
            a/ Kinh: Mặt là nơi tận cùng và cũng là nơi khởi phát của các kinh dương như:
            + Thủ dương minh Đại Trường: Từ góc móng tay trỏ (huyệt Thương dương) theo mặt ngoài cánh tay đi ngược  lên đến vai rồi theo cạnh cổ đi lên mắt, chấm dứt ở huyệt Nghinh hương (cạnh cánh mũi).
            + Túc dương minh Vị kinh: Khởi từ huyệt Nghinh hương chạy lên huyệt Tinh minh (cạnh đầu mắt) rồi xuống huyệt Thứa khấp(dưới mắt), từ đâu đổ xuống theo hai bên ngực bụng, xuống mặt trước chân rồi chấm dứt ở huyệt Lê đoài(sát móng chân trỏ)
            + Thủ thái dương Tiểu trường: Từ huyệt Thiếu trạch ở phía ngoài móng tay út, chạy ngược lên mặt ngoài phía cánh tay đi lên mặt rồi chấm dứt ở huyệt Thính cung (cạnh lỗ tai)
            + Túc thái dương bàng quang kinh: Bắt đầu từ huyệt  Tinh minh ở đầu mắt, chạy lên đầu qua gáy, xuống hai bên lưng, vào mặt sau chân, tận cùng ở huyệt  Chí âm (góc ngoài ngón chân  ngón út)
+ Thủ thái dương Tam tiêu kinh: Khởi từ huyệt Quan xung (cạnh móng tay của ngón áp út) đi ngược lên mặt ngoài cánh tay qua cổ chạy phía sau tai ra tai trước đến huyệt Tỵ trúc không cạnh đuôi mắt.
+ Túc thiếu dương Đởm kinh: Từ đuôi mắt (Huyệt đồng tử tiêu) qua Thái dương ra sau tai vòng lên đầu, xúông vai, chạy dọc hông sườn xuống mặt ngoài chân, chấm dứt ở góc ngoài móng chân ngón áp út(huyệt Khiếu âm).
b/ Mạch: Mặt còn là nơi hội tụ của các Mạch như:
+ Nhâm mạch: Từ hội âm qua giữa bụng, ngực, lên mặt đến dưới mắt.
+ Đốc mạch: Từ tầng sinh môn, đi dọc cột sống, lến gáy, xuống sống mũi, chổ giáp nướu và môi trên.
+ Xung mạch: KHởi đầ từ trong hố chậu, chạy xuống và nhô ra tại Hội âm. Đi lên bên trong dọc cột sống, nhánh xuống chẻ ra làm hai và hợp với Thận kinh, chạy dài hai bên bụng lên đến họng và vòng quanh môi.
+ Dương kiểu mạch: Từ mắt cá ngoài chạy theo mặt ngoài chân lên hông sườn vòng qua vai lên cổ qua má rồi vào đầu mắt, hợp với mạch Âm kiểu đến sau tài vào não.
+ Âm kiểu mạch: Từ mắt cá trong theo mặt trong chân lên bụng(qua bộ phận sinh dục ngoài) lên ngực, qua họng lên đầu mắt, hợp với mạch Dương kiểu đến sau tai và não.
+  Dương duy mạch: Từ huyệt Kim môn ở canh bàn chân chạy theo mặt ngoài của chân lên hông sườn qua vai lên mặt ra trán vòng ra sau tai đến gáy hợp với Mạch đốc.
c/ Kinh nhánh: Ngoài ra các nhánh lớn của các Kinh (gọi là kinh nhánh) cũng lên Mặt như:
+ Kinh nhánh của Thủ thiếu âm tâm kinh: Từ nách lên thanh quản, họng, lên mặt ở đầu mắt.
+ Kinh nhánh của Thủ quyết âm tầm bào kinh: Từ hốc nách lên dọc Uyên Dịch (dưới nách 3 thốn) lên thanh quản, họng.
+ Kinh nhánh của Thủ thái âm phế kinh: Từ nách lên dọc thanh quản.
d/ Các kinh cân: Cũng có một số lên MẶT như:
+ Túc thái dương cân kinh: Từ chân lên gò má, cánh mũi.
+ Túc thiếu dương cân kinh: Từ chân lên ặmt ở xương má canh maũi và đuôi mắt.
+ Túc dương minh cân kinh: Theo lộ trình Kinh tiểu trường lên mắt, trước tai, kết ở hàm rồi lên nối ở đuôi mắt.
+ Thủ thiếu dương cân kinh: Theo lộ trình Kinh tam tiêu lên trên mặt trước tai nối với đuôi mắt kết ở góc trán.
+ Thủ dương mình cân kinh: Theo lộ trình Kinh đại trường lên đầu và vòng sang hàm bên kia ( VIỆN ĐÔNG Y – CHÂM CỨU HỌC I)
Xuyên qua phần trình bày trên , ta thấy giữa MẶT và CƠ THỂ bên dưới có quan hệ rất chặt chẽ. Có thể nói mọi cơ quan, bộ phận bên dưới và bên trong cơ thể đều có thể thông tin lên mặt và được điều khiển từ bộ mặt và đầu não.
Tuy nhiên, bao nhiêu đó cũng chưa đủ, thật ra vai trò của bộ mặt còn quan trọng hơn nhiều đối với vấn đề tâm lý, sinh lý, và bệnh lý của con người, nếu ta biết rằng qua Thuyết phản chiếu , thuyết đối xứng, thuyết đồng bộ, thuyết đồng ứng, hầu hết các cơ quan đầu não như: hệ thần kinh trung ương, hành tủy, cầu não, não giữa, tiểu não, não trung gian và bán cầu não và một phần của hệ thần kinh ngoại vi đều phản chiếu lên mặt. Ngoài ra còn kể các hệ phản chiếu khác của hệ pảhn chiếu kinh huyệt của Thể ch6m, hệ pảhn chiếu Nội tạng, ngoại vi, vỏ não,….(xem phần: Các hệ phản chiếu trong sách “Diện Chẩn - Điều khiển liệu pháp).
Như thế, ta càng thấy rõ “Bộ mặt” thật là quan trọng vì thông qua các hệ phản chiếu, ta thấy rõ ràng nó có liên hệ với toàn bộ đời sống tinh thần và sinh lý con người.
Điều này càng được xác minh rõ ràng trong thực tế vì như ta đã biết xoa mặt bằng khăn mặt nhúng nước ấm hàng ngày, ta thấy sức khỏe được cải thiện rõ rêt. Và khi tác động vào các vùng và huyệt trên mặt, ta thấy có thể giải quyết được nhiều bệnh chúng một cách hữu hiệu và nhanh chóng.
KẾT LUẬN: Qua phần trình bày trên ta thấy rõ ràng: Bộ mặt không phải chỉ là Bộ mặt  mà còn là toàn thân, là cả con người vớ đầy đủ ý nghĩa về thể xác lẫn tinh thần. Do đó ta cần cố gắng siêng năng bảo vệ và chăm sóc bộ mặt của mình hàng ngày. Đó là điều kiện để có một sức khỏe tốt và một tinh thần sảng khoái.



Bài giảng 4: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 4: Trị bệnh tất cầu kỳ bản
Trị bệnh phải tìm đến nguyên nhân của nó.Người xưa đã dạy thế.Ngày nay,Với Y học hiện đại,vẫn coi trọng nguyên tắc này.Vì nếu không,ta sẽ không chữa được lành hẳn bệnh.
Đây là vấn đề khó đôi khi thật khó,vì nguyên nhân thì rất nhiều, trong khi biểu hiện bên ngòai của bệnh đó khi không khác nhau mấy.Ví dụ: Bệnh suyễn, có rất nhiều nguyênm nhân nếu phân tích sâu.Theo Đông Y thì ít ra cũng rơi vào trong các nguyên nhân Tâm, Thận, Tỳ, Phế, Can. Nếu kết hợp với yếu tố Hàn, Nhiệt, Hư, Thực, Biểu, Lý thì còn nảy sinh ra nhiều vấn đề nữa.
Theo Tây Y thì do dị ứng mà dị ứng là một vấn đề rất lớn của Tây Y. Làm sao biết được ca SUYỄN này dị ứng cái gì? Thời tiết hay thức ăn hay khóai xe, phấn hoa…? Cả một vấn đề phải nghiên cứu. Cho nên phải nói rằng chữa triệu chứng thì dẽ, tìm đúng gốc bệnh và chữa gốc mới khó.
Tuy nhiên, để đơn giản hóa vấn đề giúp các bạn mới vào “nghề chữa bệnh” có thể nắm được các nguyên nhân bệnh, tôi sẽ phân tích dưới đây một số nguyên nhân thường gặp của các bệnh.có thể nói tóm gọn theo Đông Y là bệnh tật con người gồm:
Nguyên nhân bên ngòai (Ngọai nhân) và nguyên nhân bên trong (Nội nhân). Bên cạnh đó còn có Bất nội ngọai nhântức là không do nguyên nhân bên ngòai hay bên trong.
*Nguyên nhân bên ngòai: Như do ảnh hưởng của thời tiết, của vũ trụ, của xã hội, của môi trường tác động lên cơ thể con người sinh ra bệnh tật.
*Nguyên nhân bên trong: Là do cơ quan này ảnh hưởng đến cơ quan kia. Âm thắng hay Dương thắn. Khí vượng hay huyết vượng. Thất tinh Lục dục bị xáo trộn.v.v..
* Bất nội ngọai nhân: trùng,thú cắn,trúng độc…
Đối với Tây Y thì một thì một trong những nguyên nhân chủ yếu của bệnh là vi trùng và siêu vi trùng. Ví dụ: Bệnh SIDA,Tây Y vẫn cho là một lọai VIRUS gây ra. Kế đến là bệnh do thần kinh, sau nữa là do tổn thương thực thể (do nguyên nhân bên ngòai hay bên trong…).
Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói mấy lọai nguyên nhân chính của bệnh tật theo Đông Y và Tây Y.Nếu phân tích chi tiết thì còn nhiậu điều phức tạp hơn. Nhưng ở đây chỉ trình bày những nét khái quát về các lọai nguyên nhân lớn của bệnh cho các bạn hiểu, để từ đó có hướng tìm ra nguyên nhân đúng của bệnh cần được điều trị.
Với sự chịu khó quan sát các dữ kiện lâm sàng và cận lâm sàng, hỏi han tỉ mỉ bệnh nhân với thái độ vô tư,khách quan và sự nhẫn nại,ta có thể tìm ra gốc bệnh không khó (trừ các trường hợp quá phức tạp) nhất là với phương pháp “Lọai trừ những yếu tố không thật và kém giá trị” ta có thể đi dần đến kết luận chính xác. Ví dụ: Bệnh SUYỄN có thể do TỲ, THẬN, PHẾ, CAN, TÂM, nhưng sau khi kiểm tra các triệu chứng và ấn chẩn các huyện phản chiếu tạng phủ ở trên MẶT, ta có thể biết được gốc bệnh là do THẬN hay TỲ CAN.. hoặc do cả sự rối lọan,suy yếu của TẠNG đó.
Thông thường, Huyện nào ấn vào thấy đau nhiều nhất, hơ nóng thấy rút hơi nóng vào nhiều nhất, áp lạnh thấy lạnh buốt nhất hoặc xung điện vào thấy điện vào mạnh và lâu nhất thì đó là Huyệt gốc của bệnh. Ví dụ: Có 3 huyệt 50, 37, 300 đều báo đau, khi lấy QUE DÒ ấn vào,nhưng chỉ có huyệt 50 là đau nhất và khi xung điện vào thì điện vào lâu nhất và mạnh nhất. Điều đó có nghĩa là gốc của bệnh ở CAN, không phải ở TỲ và THẬN.
Ngoài ra,nếu chú ý ở khâu “HỎI BỆNH NHÂN” (gần như điều tra, khảo sát) chịu khó hỏi kỹ từng thức ăn,đến chỗ ăn, chỗ ngủ đến quan hệ thấm kín vợ chồng,tình cảm riêng tư,quan hệ xã hội, bạn bè, nơi chỗ làm (nhất là NHỮNG CHI TIẾT tưởng như tầm thường nhưng đôi khi có giá trị trong việc tìm ra gốc bệnh).
Cả quá khứ của họ vì quá khứ gây ảnh hưởng đến hiện tại, nhất là về mặt tình cảm, tinh thần không thể bỏ qua. Vì con người là một tổng thể phức tạp gồm nhiều yếu tố và đồng thời là một vũ trụ nhỏ cực kỳ nhạy bén,cho nên nó chịu sự ảnh hưởng mật thiết của sự thay đổi thời tiết, vũ trụ. Mỗi lần thay đổi là một lần xáo trộn,nếu lại không thích nghi được thì rất nguy hiểm.
TÓM LẠI:TRỊ BỆNH thì phải tìm ta nguyên nhân cho được. Đừng chữa tùy tiện,kết quả sẽ không cao.
Mong các bạn chú ý và thực hiện đúng nguyên tắc này.



Bài giảng 5: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 5: Bốn bước khám bệnh và các kỹ thuật chữa bệnh:
Việc đầu tiên của chữa bệnh là khám bệnh, tức là tìm hiểu bệnh nhân bị bệnh gì?Ở bộ phận nào? Mức độ bệnh ra sao? Đau thế nào? Đau bao lâu? Có chu kỳ hay không?
Đây là việc bắt buộc phải làm, vì nếu không,ta làm sao biết chữa bệnh gì? Nhiều người hễ bệnh đến là cứ”nhắm mắt nhắm mũi”nhào vô lấy que dò ấn,day lung tung trên mặt bệnh nhân hoặc châm liền chẳng cần khám bằng cáchdò sinh huyệt (Ấn chẩn) hay quan sát mặt người bệnh (Diện chẩn) hoặc sờ da mặt bệnh nhân (thất chẩn) hay hỏikỹ.
Hỏi kỹ bệnh nhân (Vấn chẩn) để xem họ bị bệnh gì,mức độ ra sao? Như thế làm sao có thể chữa đúng và tốt bệnh được.
Xưa nay, trong nhgành Y,Đông cũng như Tây, vấn đề khám để chẩn đóan,định xem bệnh nhân mắc phải bệnh gì và nguyên nhân ở đâu là vấn đề trước tiên phải đặt ra của việc chữa bệnh. Nếu Đông Y có Tứ Chẩn (Vọng, văn, vấn, thiết) thì Tây Y cũng có: NHÌN, SỜ, NẮN, GÕ, NGHE và một cách khám cận lâm sàng như: Chụp X-quang (nôm na gọi là Rọi kiếng),đo điện tâm đồ, điện não đồ, xét nghiệm… Tất cả nhằm mục đích là làm sao để định rõ được bệnh nhân bị bệnh gì,mức độ ra sao? Để từ đó có cách sử lý thích đáng, ngõ hầu đem lại kết quả trị liệu mau chóng nhất và tốt đẹp nhất.
Công việc khám bệnh do đó thường nhắm vào những mục tiêu sau đây: Tìm cách biết thật rõ bệnh ở cơ quan nào, bộ phận nào? Bệnh như thế nào? Đao bao lâu? Nguyên nhân gần và xa của nó? Lúc nào thì bệnh diễn tiến trầm trọng (kịch phát),lúc nào thì dịu xuống tức là phải tìm hiểu chu kỳ diễn biến của bệnh hặoc bệnh đang ở giai đọan nào?Rồi bệnh nhân ở vùng nào thì bệnh nặng hơn. (Hoặc giảm đi)? Ăn món gì thì trở nên bệnh nặng hơn? Ăn món gì thì bệnh giảm?
Tóm lại, có rất nhiều điều phải quan tâm tìm hiểu về BỆNH lẫn NGƯỜI BỆNH như:Tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, tư tưởng của họ ra sao? Bệnh nhân có đang ở trong hòan cảnh khó khăn về vật chất hay tinh thần không? Ảnh hưởng của nơi ăn chốn ở, nơi việc làm ra sao?Thậm chí ảnh hưởng của xã hội cũng như tình hình thế giới tác động ra sao đối với họ?  Rồi quan hệ giữa cha mẹ,vợ chồng, con cái, bạn bè, đồng nghiệp…? Tất cả đều có thể là nguyên nhân gần hay xa đến bệnh tình của họ.
Để thực hiện công việc rất phức tạp và tế nhị nhưng cũng tối cần thiết này, ta cần phải tuần tự tiến hành BỐN BƯỚC KHÁM BỆNH như sau:
1.NHÌN (Vọng chẩn).
2.SỜ (Thiết chẩn).
3.DÒ SINH HUYỆT (Ấn chẩn,Đả chẩn,Nhiệt chẩn).
4.HỎI (Vấn chẩn).
*Giải thích :
1/ Nhìn (Vọng chẩn):Thọat tiên bệnh nhân đến, ta phải để ý quan sát xem sắc mặt,dáng điệu,cử chỉ,đi đứng,nằm ngồi của họ ra sao. Ví dụ: Sắc mặt của họ màu gì (tái xanh, trắng bệt, đỏ tía, tím tái hay thâm xạm…),mặt mày có nhăn nhó, khó chịu, có ôm bụng rên la, có đổ mồ hôi hột, có đi cà nhắc, có mệt mỏi, rã rượi, rêu lưỡi, mí ra sao?.v.v....
Ngòai ra,trên da MẶT họ có TÀN NHANG không? Nó đóng ở đâu? Hoặc có nhiều NẾP NHĂN, nó đóng ở đâu? Hay nhiều VẾT NÁM, nó đóng ở đâu?.v.v..
Ta phải nhớ rằng: Mỗi DẤU HIỆU TRÊN MẶT cũng như mỗi trạng thái, cử chỉ của bệnh nhân hoặc tổng hợp các dấu hiệu đó là phản ánh biểu lộ của tình trạng sức khỏe,bệnh tật của bệnh nhân. Cho nên, cần phải chịu khó khảo sát thật kỹ để từ đó tìm ra đúng gốc bệnh. Có thể việc chữa bệnh mới mang lại nhiều hiệu quả tốt.
2/ Sờ (Thiết chẩn): Chẩn đóan bằng cách SỜ DA hoặc SỜ VÀO HUYỆT. Nhiệt độ của da thịt cũng như độ săn chắc hay trơn láng.mịn màng của nó cũng đêu phản ánh biểu lộ tình trạng sức khỏehay bệnh tật của bệnh nhân. Ví dụ:Da thịt ở CẰM mềm nhảo và lạnh phản ánh các cơ quan ở bàng quang bị nhão,suy yếu nên bệnh nhân mắc bệnh đi tiểu nhiều, tiểu đêm hoặc tiểu không cầm được. Hoặc nhiệt độ giữa TRÁN và CẰM khác nhau rõ rệt chỉ rõ bệnh nhân đang mắc bệnh CAO HUYẾT ÁP. Hay ĐẦU MŨI lạnh là phản ánh tình trạng MÁU về TIM không đủ (VÌ đầu mũi PHẢN CHIẾU QUA TIM).Ngòai ra thiết chẩn còn có nghĩa là SỜ vào mạch đầp ở MẶT(vùng huyệt 57 và Đại nghinh) để biết tình trạng bệnh nhân HÀN hay NHIỆT, HƯ hay THỰC (tương tự mạch ở cổ tay).
3/ Dò sinh huyệt (Ấn chẩn): Chẩn đóan bằng cách DÒ ẤN HUYỆT - Đả chẩn: Chẩn đóan bằng cách GÕ VÀO HUYỆT - Nhiệt chẩn:Chẩn đóan bằng cách DÒ SINH HUYỆT BẰNG ĐIẾU NGẢI CỨU).
Đây là công tác thông dụng nhất để tìm hiểu bệnh trạng của người bệnh qua việc khám phá các ĐIỂM NHẠY CẢM (Sinh huyệt) TRÊN DA MẶT. Có thể thực hiện bằng QUE DÒ(bằng thuỷ tinh,sừng hay Inox)hay BÚA GÕ (bằng Inox có đầu bằng cao su). Cũng có thể DÒ các vùng NHẠY CẢM TRÊN DA MẶT bằng các dụng cụ trên hay bằng BÚA GAI (Mai Hoa Châm) hoặc CÂY LĂN (bằng sừng,đồng,Inox,hay nhôm) hay CÂY CÀO (5 răng). Theo lý thuyết “ĐỒNG BỘ THỐNG ĐIỂM”.Khi các bộ phận,cơ quan trong cơ thể bị rối lọan chức năng hay bị tổn thương sẽ gởi tín hiệu lên MẶT qua các vùng và huyệt tương ứng của chúng. Do đó,thông qua việc khám phá các ĐIỂM hay VÙNG NHẠY CẢM này, chúng ta sẽ suy ra được các bộ phận hay vùng đang,đã hoặc sắp có bệnh trong cơ thể, cũng như có thể biết được bệnh nặng hay nhẹ,đang tăng hay giảm. Ví dụ: Lấy QUE DÒ dò qua huyệt số 3 thấy bệnh nhân nhăn mặt và kêu đau thì ta có thể suy luận ra cơ quan hô hấp của bệnh nhân đang suy yếu (cụ thể là :ho,cảm hoặc tức ngực…).
Sau khi chữa một thời gian. DÒ lại huyệt trên không còn đau nhiều như lúc đầu thì biết ngay bệnh nhân đã giảm và khi không còn đau,đó là đã hết bệnh hay dùng BÚA GÕ và huyệt số 275 (cạnh dái tai) thấy bệnh nhân nhăn mặt kêu đau, ta biết ngay là bệnh nhân đang viêm họng hay SƯNG Amidan,hoặc dùng CÂY LĂN lăn vùng sống mũi thấy bệnh nhân kêu đau, ta biết bệnh nhân đang mỏi lưng.
Hoặc ta có thể DÒ SINH HUYỆT bằng ĐIẾU NGẢI CỨU (theo kỹ thuật hơ ngải cứu theo kiểu DIỆN CHẨN) khi bắt gặp điểm nào HÚT NÓNG NHIỀU NHẤT, MẠNH NHẤT, SÂU NHẤT thì biết ngay là cơ quan hay bộ phận tương ứng đang có bệnh (thường là do HÀN). Đâycũng là cách DÒ SINH HUYỆT NHẠY NHẤT VÀ CHÍNH XAC NHẤT.
4. HỎI (Vấn: chẩn đoán bằng cách hỏi bệnh nhân).
“Hỏi” là việc cần thiết để tìnm hiểu bệnh tình (tình trạng bệnh) bệnh nguyên (nguyên nhân bệnh) mà Đông hay Tây Y cũng thế. Vì có nhiều vấn đề liên quan đến bệnh mà chỉ thông qua việc HỎI KỸ BỆNH NHÂN mới có thể hiểu được tỏ tường… Cho nên qua việc HỎI,ta có thể biết được bệnh nhân đau như thế nào? Đau vào lúc nào? Đau ở đâu? Cũng như nguyên nhân sâu kín của bệnh đ1o do đâu mà có? (như:do quan hệ vợ chồng hay quan hệ nơi làm việc…).
Biết đặt câu hỏi một cách KHOA HỌC và KHÉO LÉO thì người chữa bệnh sẽ nắm vững được tình trạng bệnh cũng nguyên nhân bệnh gây ra, từ đó chọn phương án thích hợp để chữa bệnh cho họ. Ví dụ: Sau khi hỏi một lúc,ta khám phá bệnh nhân hay bị Viêm họng là vì có thói quen hay hút thuốc lá và sử dụng nhiều nước đá lạnh trong ngày. Ta bảo bệnh nhân kiêng cữ hay giảm hẳn việc sử dụng hai món trên là bệnh tự nhiên bớt hẳn và không cần phải chữa trị nhiều lần,bệnh nhân cũng mau hết bệnh. Hoặc có nhiều bệnh nhân bị mệt mỏi cổ, gáy, vai nguyên nhân lớn là do ngủ ở chỗ có gió lạnh lùa vào (đổi chỗ ngủ này thì mới mau hết bệnh) hay sử dụng nước đá lạnh, ăn ít mà làm việc nhiều. Rất nhiều bệnh sẽ được chữa khỏi một cách dễ dàng, nếu ta biết cách hỏi để tìm ra nguyên nhân bệnh phải chịu khó HỎI bệnh nhân đừng sợ mất thì giờ. VÌ MẤT THỜI GIỜ HỎI, SẼ BỚT ĐƯỢC THỜI GIAN TRỊ LIỆU. Tóm lại, đứng trước bệnh nhân, ta phải bình tĩnh, tự tin và tiến hành đầy đủ, cẩn thận BỐN BƯỚC KHÁM BỆNH đó, ta có thể yên tâm nắm chắc ít nhất 50% kết quả trị bệnh.
CÁC KỸ THUẬT CHỮA BỆNH
Để chữa bệnh, trước tiên ta cần phải hiểu rằng: thế nào là bệnh và thế nào là chữa bệnh.
Theo quan điểm Đông Y. Bệnh là do khí quyết không thông và Âm Dương mất quân bình( có thể do ảnh hưởng của thời tiết hoặc ăn uống không điều độ hay tinh thần, tình cảm bị xáo trộn hoặc do sự vận động quá mức hoặc ít vận động…. và do đó, chữa bệnh là làm cho khí huyết lưu thông và tái lập quân bình Âm Dương (Tất nhiên là hiểu theo một cách khái quát và cơ bản). Còn có nhiều nguyên nhân sinh ra bệnh như đã nói ở trên . Theo Tây Y, chủ yếu là do vi trùng hay siêu vi trùng hoặc do rối loạn về thần kinh hay do tổn thương một cơ quan nào đó hoặc do thiếu sinh tố, thiếu dinh dưỡng,v.v..Và như thế,chữa bệnh có nghĩa là tìm ra những phương thức diệt trùng (như Trụ sinh) hoặc an thần hay thuốc bổ.
Hiểu như thế,ta sẽ bớt thắc mắc và không ngạc nhiên khi thấy được tác dụng nhanh chóng của CÂY LĂN, CÂY CÀO, BÚA GÕ, QUE DÒ, CAO DÁN, XỨC DẦU, HƠ NÓNG, CHƯỜM LẠNH tác động lên vùng và huyệt.
Phần dưới đây giới thiệu các thao tác kỹ thuật. Tất cả đều nhằm vào mục đích kích thích Huyệt trên ĐẦU, MẶThoặc các bộ phận khác trong TÒAN THÂN để điều chỉnh các rối lọan chức năng của CƠ THỂ.
LỜI DẶN CHUNG:
*Bất cứ dùng kỹ thuật,dụng cụ nào đều cần phải tìm cho được những vùng hay những điểm nhạy cảm hơn so với xung quanh (đau, thốn, lõm, cộm, rát, nóng ,lạnh..) đó là những nơi cần được tác động để trị bệnh (không nên tránh né những chỗ đó). Sau khi tác động tòan bộ một lần,cần tác động kỹ hơn vào những nơi nhạy cảm ấy cho đến khi chứng giảm hẳn hoặc các nơi nhạy cảm ấy giảm nhạy cảm trong mỗi lần điều trị. Nếu không muốn tác động tòan bộ (vì ít thời giờ chẳng hạn). Ta có thể tìm ra các nơi nhạy cảm trong HỆ PHẢN CHIẾU của DC- ĐKLP hoặc tại nơi đang có bệnh,nếu thấy cần thiết.
*Trước và sau khi dùng dụng cụ để chữa bệnh,phải lau sạch dụng cụ bằng Acool (cồn) để tránh lây bệnh ngòai da.
1. Lăn: Cầm cây lăn cho thật thỏai mái, thuận tay, cây lăn luôn luôn tạo với mặt da góc 45o(xéo góc với mặt da).Lăn mặt thì theo da mặt,lăn đầu thì theo da đầu, lăn cơ thể thì theo da cơ thể.Lăn đủ nhanh theo hai chiều tới và luisức đè tay vừa phải tùy theo người bệnh(nhưng nên biết: Lăn nhẹ quá thì không kết quả). Lưu ý nơi nhạy cảm lăn tới lăn lui nhiều lần từ nhẹ đến mạnh dần. Lăn cho đến khi cảm giác cảm giác của nơi đó giảm hẳn thì ngừng lăn. Cây lăn nhỏ dùng lăn ở mặt. Cây lăn trung dùng lăn ở cổ, gáy, tay, chân hoặc vùng rộng ở mặt như trán chẳng hạn. Cây lăn lớn dùng lăn ở đầu, gáy, cổ, tay, chân, lưng và ngực, bụng. Cây lăn đôi  dùng lăn ở hai bên thăn lưng (dọc Bàng quang kinh).
Tác dụng: Cải thiện hệ tuần hoàn, hệ bạch huyết, hệ thần kinh, lưu thông khí huyết. Có tác dụng trong hầu hết các chứng bệnh do sự bế tắc khí huyết mà ra như nẵng đầu, căng thẳng thần kinh, mệt mỏi, tê nhức do khí huyết bị bế tắc.
2. Có hai loại búa: Loại nhỏ có 2 đầu, một đầu có cao su và một đầu có gai (gồm 7 kim như Mai Hoa Châm)-Loại lớn cán dài, đầu nhôm có 5 gai bằng cao su lớn và một đầu có viền cao su.
Búa nhỏ: dùng gõ vào huyệt, dùng sức bật của cổ tay và độ rung của búa, gõ thẳng góc vào mặt da nơi nhạy cảm. Nếu gõ mạnh (hơi quá sức chịu đau) thì gõ chừng 5 cái rồi nghỉ một tí rồi lại gõ tiếp (tổng cộng chừng 20-30 cái), không nên gõ quá mạnh hay quá nhiều có thể gây bầm. Nếu gõ nhè nhẹ thì có thể gõ liên tục chừng 20-30 cái hoặc nhiều hơn.
Búa toCán dài, có 5 gai bằng cao su và một đầu có viền cao su dùng để gõ vào lưng, vai, mông, đùi,…Các nơi có nhiều thịt thay cho quả đấm bằng tay người, tạo nên một cảm giác dễ chịu, thoải mái vì làm cho máu ứ được lưu thông tạo sự trao đổi lưu lượng máu ở các vùng khác nhau của cơ thể. Ngoài ra, còn làm mềm cơ, dẻo gân.
Tác dụngBúa nhỏ có đầu cao su có tác dụng cao trong những trường hợp co cơ, bong gân, co mạch vì lạnh (trong chứng nhực đầu do lạnh). Búa đầu gai (phải gõ thật nhẹ vì dễ trầy da) có tác dụng của ĐẦU GAI là tiết khí và tán khí.
3. CàoCầm cán CÀO chắc tay, các răng cào thẳng mặt da. Cào dọc hay ngang tùy sự thuận tay lúc cào. Lực đè đều tay, lưu ý những nơi nhạy cảm. Sau đó, có thể đẩy CÀO tới, lui nơi nhạy cảm đó.
Tác dụng: Làm huyết lưu thông mạnh, giải trừ những bế tắc về huyết, nhờ đó mà khí thông theo. Ngoài ra còn có tác dụng an thần (làm dịu thần kinh), do đó chống đau nhức, căng thẳng.
4. ẨnCầm QUE DÒ thẳng góc mặt da. Ấn vào huyệt tìm được, vừa sức chịu đựng của bệnh nhân cho đến khi cảm giác đau nơi đang ấn giảm hẳn hoặc chứng bệnh giảm hẳn thì ngưng ấn, đổi huyệt khác. Cách dò tìm sinh huyệt: Dùng QUE DÒ vạch trên da với lực đủ mạnh, xem điểm nào đau nhất trong các điểm đau,đó là điểm có giá trị cao trong chẩn đoán và điều trị bệnh(Huyệt được tìm đúng thường có dấu lõm hoặc cộm cứng khi vạch QUE DÒ trên da ngoài cảm giác đau thốn đã nói trên).
Tác dụng: Tác dụng của QUE DÒ (day, ấn, vạch,…) rất rộng, có thể thay thế cho kim châm hay các kỹ thuật dụng cụ khác mà vẫn có hiệu quả dù có thể không đặc hiệu như từng thủ pháp riêng biệt.
5. Day: Sau khi tìm được điểm nhạy cảm cần tác động (sinh huyệt) bằng QUE DÒ, ta day tròn hay di động tới lui đầu bi của QUE DÒ quanh huyệt, tóm lại là tạo được một kích thích động đều,còn Ấn là kích thích tĩnh.
Tác dụng: như kỹ thuật Ấn nhưng tác dụng mạnh hơn, gây đau cho bệnh nhân hơn.
6. Gạch: (Vạch): Dùng QUE DÒ vạch dọc hoặc ngang (theo các đường cong đặc biệt như:viền mũi, bờ cong ụ cằm, gờ xương lông mày,…)nhiều lần nơi nhạy cảm. Bệnh nhân sẽ rất đau nhưng sau đó chứng bệnh sẽ dịu rất nhanh. Đây là thủ pháp gây kích thích mạnh hơn DAY- ẤN. Dùng kỹ thuất này khi DAY-ẤN không đạt kết quả cao.
7. Dán cao, sức dầu, dùng cao gián: (Salonpas hay loại tương tự): Cắt từng miếng nhỏ vuông, cạnh 4mm, dán lên Huyệt đã được tìm thấy bằng QUE DÒ. Nên dán theo hình thoi, cạnh hình vuông tạo với trục thẳng đứng góc 450 để tạo nét thẩm mỹ. Thời gian lưu dán khỏang 2 giờ, mỗi ngày dán một lần cho các bệnh cần điều trị lâu dài (các bệnh mãn tính, Hư, Hàn). Đối với người lớn tuổi suy nhược, bệnh Hư Hàn có thể TỐI DÁN,SÁNG GỠ(dán qua đêm)để có kết quả cao hơn và thuậnlợi hơn.Với những bệnh mới phát có thế dán 3 lần một ngày,chia đều trong ngày.Dùng Dầu nên dùng lọai Dầu Cao(Dầu Cù là),chấm đầu ngón tay vào Dầu Cao rồi chấm lên huyệt,lập lại quy trình này 3 lần cho mỗi huyệt đề sức nóng đủ độ bền trên huyệt.Sau khỏang 2 giờ,có thể chùi sạch dầu và lúc này mới được tắm rửa.Nếu làm ướt nơi xức dầu sớm,có thể bị trúng nước,cảm lạnh.
Tác dụng: Có kết quả trong tất cả các chứng bệnh do lạnh gây ra như các chứng đau nhức dữ dội mà không có nguyên nhân cụ thể nào gây ra.Vì có tác dụng chống lạnh mạnh.Riêng DÁN CAO còn có tác dụng hút ẩm,làm khô ráo.
Lưu ý: Không dùng kỹ thuật CAO DÁN,XỨC DẤU cho những bệnh nhân nóng nhiệt(vì có thể sinh Táo bón,khô da,ngứa).
8. Hơ nóngDùng điếu ngải nhỏ(đặc biệt của DIỆN CHẨN,cỡ điếu thuốc lá)hay bất cứ vật liệu nào tỏa nhiệt như điếu thuốc lá,nhang.Cầm điếu ngải nhỏ(đã đước đốt cháy đỏ)bằng 3 ngón tay cái,trỏ và giữa,dùng ngón tay út đè nhẹlên mặt da làm điểm tựa,mồi lửa cách mặt da khỏang gần 1cm,di chuyển rất chậm(rà)điếu ngải và để ý xem đến chỗ nào bệnh nhân có phản xạ mạnh(như:giật tay nếu là hơ ở tay,né mặt là hơ ở mặt)hoặc kêu nóng quá,thì biết đó là huyệt cần hơ để điều trị bệnh (lưu ý: Nếu bệnh nhân chỉ thấy ấm bình thường chỉ không nóng như phỏng hoặc nóng buốt sâu vào trong thịt thí đó không phải là huyệt cần hơ).
Cách hơ điều trị: Sau khi đã tìm đúng huyệt(nóng như phỏng,nóng buốt hoặc nóng rát tại một điểm nhất định),ta lập tức nhấc điếu ngải xa cách mặt da độ 2cm(khỏi tầm hút nhiệt của huyệt) và bôi VASELINE hay DẦU CÙ LÀ vào ĐIỂM VỪA HÚT NÓNG.Rồi lại tiếp tục HƠ lại chỗ cũ 3 lần nữa.Như thế là đủ(HƠ nhiều hơn sẽ gây phỏng da).
Lưu ý: Đối với những người da mỏng và không quen với sức nóng nên lại càng phải HƠ ít hơn kẻo phỏng da.Trường hợp mới tập hơ,không nên hơ trên mặt mà nên hơ ở bàn tay hoặc trong thân thể.
Tác dụng: Thủ pháp này rất hiệu quả trong những bệnh do lạnh gây ra như:Cảm lạnh, thấp khớp,viêm mũi dị ứng,viêm xoang,đau nhức, tê…Tốt hơn DÁN CAO hay XỨC ẦU.Nhưng cần cẩn thận,không nên dùng bừa bãi và lạm dụng.
Chỉ nên dùng cách này mỗi ngày 1 lần,dùng quá một lần,cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng và theo dõi sát.Vìe cách này dễ gây phỏng và nếu lạm dụng sẽ làm cho bệnh nhân nóng nhiệt,khô người,có thể sinh ra nổi nhọt,nhức đầu,mất ngủ,táo bón.Nếu lỡ gặp được trường hợp này nên uống thức uống mát để giải trừ:nước dừa,rau má,bột sắn…
Chườm lạnh: Dùng cục nước đá cỡ ngón táy cái áp sát và rà trên da mặt.Nơi nào lạnh buốt (khác với lạnh mát thông thường)thì áp vào cho đến khi nơi đó tê dại hoặc người bệnh chịu không nổi hay triệu chứng bệnh giảm hắn thì ngưng,đổi huyệt bằng cách tìm nơi lạnh buốt khác.
Lưu ý: Nơi vùng trán không nên áp đá lâu quá,dễ gây nhức đầu.
Tác dụng: Làm co rút cơ,mạch máu,hạ nhiệt,chống viêm nhiễm sưng đau do nhiệt. Chữa trị tốt các bệnh do nhiệt gây ra như:Cảm nóng,trúng nắng,Kiết lỵ mới phát trong ngày đầu tiên (đột nhiên thấy đau bụng đi cầu,phân nhão,nóng hậu môn,nhức răng do nóng,say rượu.v.v..) lòi dom, trĩ.



Bài giảng 6: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 6:

Thông tin bài giảng chi tiết được cập nhật trong ô bên dưới: 
Tạng, Phủ, Kinh, Mạch
Nhìn
Ấn đau (thốn nhói) ấn lõm, cộm, cứng, hơ nóng
Triệu chứng
Bệnh
1
2
3
4
5
PHẾ
Tàn nhang hay nám ở quanh vùng huyệt 3,13,73,467
3,13,269,276,73,125,467
-       Đau hố trên đòn.
-       Đau huyệt Vân Môn trung phủ
-       Đau dọc kinh Thủ thái âm phề (mặt trong cánh tay)
-       Đau dọc Túc Thái Âm Tỳ kinh (mặt trong đùi).
-       Mắt nóng mờ, có ghèn, táo bón.
-       Ho, suyễn, viêm phế quản, tức ngực, nhói tim. Đổ mồ hôi tay chân. Bệnh ngoài da.
Ở KINH
Ở TẠNG
TỲ
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám ở vùng tỳ (huyệt 37,40,132)
37,40,132
-       Tiểu vàng, tiểu gắt, nóng, cảm sốt.
-       Đau dọc tỳ kinh (mặt trong đùi)
-       Cơ quan chân tay bị teo
-       Đau thần kinh tam thoa
-       Tiểu vàng, gắt nóng, đái khó. Đầu bụng, kém ăn, ăn chậm tiêu. Huyết áp thấp. Suyễn do tỳ-tiêu chảy do Tỳ hàn.
Ở KINH
Ở TẠNG
ĐẠI TRƯỜNG
Tàn nhang hay nám ở quanh vùng huyệt 38,19,63
38,39,19,
32497,98,99,100
-   Vai và cánh tay đau giơ lên khó khăn (đau dọc kinh Đại trường mặt ngoài cánh tay). Ngón tay trỏ bị đau. Cổ tay đau- Đau răng hàm dưới. Sung nướu răng- Nghẹt mũi.
-   Đau thượng vị
-   Miệng khô, đau cổ, đau bụng, ỉa chảy hoặc táo bón-Đau lưng vùng thận
Ở KINH
Ở PHỦ
VỊ
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám ở huyệt 39,5, hoặc bờ môi trên hay ở huyệt 422 trái
19,39,121,5,120,
61,75,64,63,7,113,
422,405
-   Sốt cao, U nhọt
-   Đau dọc kinh Vị (mặt trước ngoài cẳng chân. Đau thốn huyệt Túc Tam Lý)
-   Đau ngón tay trỏ và ngón chân trỏ. Viêm họng, sốt cao
-   Miệng môi mọc mụn
-   Nhức răng, sưng nướu
-   Nghẹn họng
-   Sưng vú, tắt tia sữa
-   Đau dạ dày(bao tử lạnh hay bao tử nóng)
-   Loét tá tràng
-   Đau thượng vị, đau trung quản.
-   Đầy bụng, kém ăn
Ở KINH
Ở PHỦ
TÂM
Nếp nhăn thẹo hay tàn nhang hay gân xanh ở vùng huyệt số 8,12,269,191
8,12,269,3,73,61,19,191
-   Vai, mặt trong cánh tay (dọc Kinh tâm)
-   Gan bàn tay nóng hoặc lạnh-Miệng khô đắng- Lưỡi lở- Đau mắt-Cổ gáy cứng mỏi- Ngứa cổ, ho khan- Đau nơi huyệt Thiếu hải (mặt trong khuỷu tay)
-   Đau vùng tim, sườn, ngực đau tức,hay sợ sệt, nằm ngủ, thấy giấc mộng. Nặng ngực, khó thở, thiếu hơi.
Ở KINH
Ở TẠNG
THẬN
Tàn nhang hay vết mụn nám, mụn ruồi ở Ngọa tằm (mí mắt dưới) ở vùng cằm (huyệt 85, 87) vùng huyệt 38,17,45,300,0
0,17,38,29,222,
45,340,300,301,302,51
-   Cột sống, thắt lưng đau dọc mặt trong chân (dọc kinh thận). Lòng bàn chân nóng hay lạnh, đau dọc Tâm kinh (mặt trong cánh tay). Miệng nóng, lưỡi khô.
-   Phù thủng, đái không thông, đau vùng hố chậu lan ra sau lưng (vùng thận), ho ra máu, suyễn, mắt hoa.
-   Tim đập yếu chân lạnh, suy yếu tình dục. Liệt dương.
-   Dương suy, xuất tinh sớm. Nhức xương chân.
Ở KINH
Ở TẠNG
TIỂU TRƯỜNG
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám, thẹo ở huyệt 22,53,85,348,228,191
22,348,53,228,127,191,226
-   Ù tai, điếc tai, đau cổ gáy,họng, vai và bờ trong cánh tay.
-   Đau dọc tiểu trường. Nhức răng hàm dưới.
-   Đau bụng, tiêu chảy, đau bụng lan ra thắt lưng. Tiểu nhiều.
Ở KINH
Ở PHỦ
BÀNG QUANG
Tàn nhang,mụn ruồi, nếp nhăn ở cằm
87,85,126
-   Mắt đau, kém mắt, chảy nước mắt sống, chảy mũi. Đau đầu, gáy, lưng, hai bên cột sống(dọc kinh bàng quang)
-   Đái không thông, bí tiểu, đau tức bụng dưới, đái dầm, đái đục, đái đỏ, tiểu đêm, tiểu nhiều
Ở KINH
Ở PHỦ
TAM TIÊU
Tàn nhang hay thẹo, nốt ruồi ở vùnghuyệt235,138, 100 và dọc kinh Tam tiêu (mặt ngoài) cánh tay chạy xuống ngón áp út
235,100,29,185,290
-   Ù tai, điếc tai, chảy mũi tai, thanh quản sưng đauy, đau đầu, đau mắt. Ngón tay áp út cử động khó. Cánh tay giơ lên không được.
Ở KINH
Ở PHỦ
ĐỞM
Mụt ruồi, tàn nhang, hay vết nám ở huyệt 41,124, bên mặt
41,124
-   Ù điếc, viêm tai, đau mắt, đau nửa bên đầu, đau hố trên đòn, lao hạch, khớp háng đau ngón chân áp út cử động khó. Đau thần kinh tọa dọc Đởm kinh(mặt ngoài của chân)
-   Đau tức cạnh sườn. Miệng đắng, buồn nôn, xơ gan cổ trướng
Ở KINH
Ở PHỦ
TÂM BÀO
tàn nhang , Mụn ruồi hay vết nám ở gò má
60,269,73,3
-   Mặt đỏ, nách sưng. Cánh tay, khuỷu tay đau. Gan bàn tay nóng.
-   Gan bàn tay nóng hoặc lạnh-Miệng khô đắng- Lưỡi lở- Đau mắt-Cổ gáy cứng mỏi- Ngứa cổ, ho khan- Đau nơi huyệt Thiếu hải (mặt trong khuỷu tay)
-   Đau vùng tim, bồn chồn, hồi hộp, tức ngực sườn, tim đập mạnh, nói nhảm, hôn mê.
Ở KINH
Ở TẠNG
CAN
Tàn nhang huyệt 50,233,423
50,233,423
-   ĐỈNH ĐẦU ĐAU. Móng tay đau. Tắt tia sữa- mắt hoa-kinh phong-viêm mũi-dị ứng-bệnh ngoài da-đỗ mồ hôi chân
-   Tức ngực-Nôn-Nấc-đau tức thượng vị -da vàng, ỉa lỏng- Thoát vị đệm
Ở KINH
Ở PHỦ




Bài giảng 7: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 7: Cảm mạo
I. Định nghĩa:
“Cảm”: Là danh từ dùng để chỉ bệnh do sự thay đổi thời tiết. Ta thường gọi là bệnh khi trái gió,trở trời. Đông Y hay gọi là Cảm mạo hay Ngoại cảm. Tây Y cũng dùng để chỉ một bệnh do Virus gây nên.
Cần phân biệt với Cúm (Grippe) là bệnh có thể lây làn nhanh chóng thành dịch lớn. Cúm thường gây ra những biến chứng tai hại hơn Cảm.
II. Nguyên nhân
·         Theo Tây Y: Bệnh cảm là bệnh có ảnh hưởng của thời tiết và do vi-rút(Virus)gây nên .
·         Theo Đông Y : Do sức chống đỡ của cơ thể kém,PHONG HÀN xâm nhập làm PHẾ KHÍ không tuyên thông,gây nên CẢM MẠO.Nếu khí hậu trái thường uế khí nhiều,nhiệt độ mạnh,xâm nhập PHẾ sẽ gây CÚM.Nếu lan truyền sẽ gây thành DỊCH CÚM.
III. Triệu chứng
·        Đông Y: Có hai thể bệnh chính:
1/ Thể Phong hàn: Đau đầu, phát nóng, sợ lạnh, không có mồ hôi, nghẹt mũi (chãy nước mắt), rêu lưỡi mỏng, trắng, mạch phù, khẩn.
2/ Thể Phong nhiệt: Đau căng đầu, đau họng, ho có đàm vàng đặc, sốt cao, không sợ lạnh, ít mồ hôi, đau mình mẩy, khô miệng, rêu lưỡi mỏng vàng, mạch phù.
·         Tây Y: Không phân chia CẢM nóng hay lạnh như Đông Y mà chỉ ghi triệu chứng nhức mỏi, sốt nhẹ, đau mình, nghẹt mũi, đau họng.
·         Theo “Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp”
Qua nhận xét trên thục tế chúng ta thấy:
-         Về nguyên nhân bệnh: Chủ yếu là do sức đề kháng của cơ thể kém, do sự thay đổi thời tiết đột ngột hoặc do sinh họat không hợp lý (lao lực,lao tâm, thói quen tắm đêm,tắm ngay sau khi đi làm mệt về đổ mồ hôi:sau khi giao hợp còn để quạt may hay ăn uống một số thức ăn có tính hạ nhiệt, giải biểu hạ áp như; chanh,cam, rau má, rễ tranh, nước dừa.. lâu ngày khiến da thưa hở, do đó dễ cảm nhiễm thời tiết). Bệnh bị xâm nhập chủ yếu qua đường hô hấp, da lông, tạng phế và thận bị ảnh hưởng nhiều nhất.
-         Về triệu chứng: Cảm mạo do thời tiết thường đi liền với ho (cảm ho) và sổ mũi (cảm sổ mũi), ớn lạnh, sợ gió, đau mình, mỏi mệt, hơi thở lạnh,tay chân lạnh ở trường hợp cảm lạ. Đôi khi sốt cao, viêm họng, hơi thở nóng, tiểu nóng, mạch nhanh ở trường hợp cảm nóng.
-         Về chẩn đóan: Dùng QUE DÒ khám, ta thường thấy xuất hiện những điểm đau(thống điểm)ở các huyệt 26 ,3-,39, 38 ,15, 143 ,14, 16, 222 ,29 ,85 ,87 ,60 trên mặt của các bệnh nhân bị cảm nóng.Và đối với các bệnh nhân bị cảm lạnh thường khám thấy các điểm đau ở huyệt số 0-17-127-1-7-37-19-13-63 (vận dụng thuyết ĐỒNG BỘ THỐNG ĐIỂM).
-         Về mặt điều trị: Chỉ cần áp dụng một trong những cách sau đây(hoặc tổng hợp các cách).Bôi dấu xoa vuốt ấm nóng vùng mang tai(trước tai) và vành tai,hai bên rườn mũi,đầu mũi,cằm,hai cung mày(gờ mày),  vành môi trên đối với bệnh cảm lạnh Day ấn hoặc lấy cục nước đá nhỏ áp vào các huyệt 26-3-39-38-29-222-85-87-14-15-16-275 đối với bệnh cảm nóng.Có thể dùng phương pháp DÁN CAO vào các huyệt trên hay để ngón tay lên huyệt (Mỗi huyệt 1-2- phút).
-         Đặc biệt, để ngửa bệnh Cảm mạo, chỉ cần làm một động tác đơn giản là đánh dầu cù là vào vùng mang tai (nhất là huyệt số 0) hai bên rườn mũi và cằm mỗi ngày vài phút. Sau đó, có thể DÁN CAO vào các huyệt số 0-287-7-127-51 mỗi đêm, sáng gỡ ra.
-         Lý giải: Tác động huyệt dố 0 để tăng sức đề kháng, làm ấm người. Huyệt số 7-287 để làm ấm, cầm sổ mũi huyệt 51 để làm ấm chân.
-         Về thuốc Nam: Ta có thể áp dụng toa Âm dương thang tức toa Tắc nghệ với liều lượng và cách dùng như sau:
+ Bệnh cảm nóng: 2 hoặc 3 trái tắc to, bổ đôi để vào chén.giã nát 3 lát nghệ sà cừ bỏ vào, thêm 3 muỗng mật ong 2/3 chén nước rồi đem chưng cách thủy. Sau khi  sôi độ 10-15 phút, uống ngày 3 lần sau bữa ăn. Tránh uống lúc đói.
+ Bệnh cảm lạnh: Giã nát 1 củ nghệ độ 30-40gr (cỡ ngón chân cái người lớn) thêm vào nửa trái tắc 3 muỗng mật ong, 2/3 chén nước. Cách dùng như trên.
+ Bệnh không rõ NÓNG hoặc LẠNH; 2 trái tắc + 1 củ nghệ 30gr. Cách làm và cách dùng như trên.
CỮ ĂN: Cam, nước dừa, nước mía, nước đá nếu bị cảm lạnh.
Lưu ý:
-         Không nên dùng quá liều lượng đã quy định trên,có hại .
-         Cần linh động gia giảm tùy tình trạng bệnh.
-         Trái TẮC thuộc ÂM làm mát (nếu dùng nhiều sẽ làm lạnh cơ thể). CỦ NGHỆ thuộc DƯƠNG làm ấm(nếu dùng nhiều sẽ làm nóng cơ thể).
Phòng bệnh tổng quát
Mỗi ngày ,ngay sau khi thức dậy,lúc còn trong mùng xoa mặt bằng tay( có thể chấm thêm một ít dầu cù là) chà sát khắp mặt,đầu,vành tai, cổ,gáy.Sau đó,lấy ngón tay chà từng vùng trên mặt tương ứng với các cơ quan nội tạng hay bộ phận bên dưới,làm khỏang 2 phút,xong ngồi trên giường xếp bằng để hai tay bắt chéo ra sau lưng cúi gập 3 phía;trước mặt,bên phải, bên trái .Mỗi phía từ 5-10 lần.Vừa làm vừa hít sâu.Xong đi ra rửa mặt bằng khăn nhúng nước ấm,chà sát khắp đầu, mặt cổ, gáy, tai trong vòng 2 phút. Tất cả động tác thực hiện khỏang 10 phút, sau đó đi tắm.Các động tác trên phải làm thường xuyên mỗi buổi sáng.
Tối có thể chỉ nên xoa nóng gan bàn chân bằng 2 tay 2 chân (cọ sát nhau).Nếu tối xoa mặt bằng nước ấm hoặc chạy tại chỗ sẽ làm khó ngủ.
Phương pháp tập luyện đơn giản này,nếu được thực hiện một cách nghiêm túc và đều đặn mỗi ngày, sẽ giúp cho cơ thể bạn khỏe mạnh và khoan khóai.Đó là một cách phòng bệnh đơn giản mà hữu hiện lại ít tốn sức, ít mất thời giờ,phù hợp với nhiều người .
Mong Cô, Bác , Anh, Chị thử thực hiện xem sao!.



Bài giảng 8: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp




Bài 8: Nhức đầu
I/ Đại cương
Chưa có triệu chứng cơ năng nào thông thường, phổ biến bằng Nhức đầu. Chưa có triệu chứng nào màn guyên nhân phức tạp bằng.
Vì lý do đó nên thầy thuốc cang không chú ý khám xét điều trị. Thường là bệnh nhân tự chữa lấy bằng những thuốc được bạn bè mách sau khi đã khám nhiều thầy thuốc, bằng những thuốc điều trị Nhức đầu bán tự do cólẽ đượctiêu thụ nhiều nhất thế giới ( ĐẶNG VĂN CHUNG-Điều trị học II).
II/ Nhắc sơ lược về Đông Y và Tây Y
Nguyên nhân:
  1. Tây Y: Những danh từ: nhức đầu, vàng đầu, buốtóc chỉ là mức độ khácnhau. Nhức đầu thường ở các vị trí sau: Vùng trán, tháidương, đỉnh đầu, chẩm(occiput) không có giá trị nhiều về chẩn đóan nguyênnhân. Chỉ có nhức nửa đầu (migraine). Đau dây thần kinh số V là rõ rệt.Không thể kểhết nguyên nhân nhức đầu và phần lớn lại không tìm ra được nguyên nhân.
Theo một số tác giả thì nguyên nhân nhức đầu có thể là :
+         Do mạch máunhư huyết áp tăng,chứng nhức nửa đầu,dị ứng,
+         Do chấnthương sọnão,
+         Do phản ứngvìbệnh: Tai, mũi, họng, xoang, răng, bệnh mắt(cận thị,viễn thị,) bệnh cột sống, cổ hay có bệnh xa não (tiêu hóa, gan, mật, thận, sinh dục, nhiễm độc,  thiếu máu).
+         Do rối lọan tinhthần,suy nhược thần kinh.
Đứng về phương diện điều trị, người ta phân biệt:
+         Nhức đầu do một bệnh tìm thấy được,
+         Nhức đầu đơn độc không tìm thấy nguyên nhân.
Nói chung,  có nguyên nhân hay không trừ vài nguyên nhân có thể điều trị khỏi hẳn như:  Viêm xoang, răng, mặt, mắt phần lớn nhức đầu khó khỏi hẳ, tái phát và cần điều trị triệu chứng bắng thuốc ( ĐẶNG VĂN CHUNG- Điều trị Học).
  1. Đông Y: Đầu là nơi hội họp của các Kinh dương cũng là nơi tụ tập khí huyết của Tạng phủ.  Vì vậy Ngoại cảm hay Nội thương đều làm cho Mạch lạc mất điều hòa, khí huyết bị trở ngại mà sinh ra đau đầu.  
Nguyên nhân:
+        Có thể Ngoại cảm tức là cảm nhiễm tà khí của Phong, Hàn, Thử, Thấp làm cho Mạch Lạc cũng tắc, khí huyết không thông,  phát sinh ra bệnh Đau đầu.
+        Có thể Nội thương như: Tình chí không điều hòa làm cho Can khi xung nghịch nên ăn uống không điều độ làm cho đàm trọc uất kết lại,  phòng dục không tiết chế làm cho Thận khí suy yếu dần.
Sau khi bệnh nặng đã khỏi ,khí huyết còn suy yếu kém các nguyên nhân trên đều gây ra bệnh đau đầu.
III. Theo Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp
  1. Nguyên nhân:
Nhức đầu là bệnh phổ biến và donhiều nguyên nhân,nhưng cũng khôngngòai các yếu tố: Thần kinh, Nội tạng, Môi trường, Khí hậu, Sinh họat, Ăn uống. Cho nênmuốn chữa có kết quả chứng ĐAU ĐẦU thìphải tìm hiểu xem nguyên nhân gây ra chứng ĐAU ĐẦU là do ở cơ quan,  bộ phận nào hay do môi trường (khói xe, khói thuốc lá, thời tiết nóng nực,  thiếu ôxy,  nhiều gió) do thức ăn (nước đá,  rau má,  nước chanh,  cam,  nước dừa ,  rượu,  cà phê,  thuốc là) hoặc sinh họat (quá căng thảng đầu óc, lo sợ,  buồn rầu).
Nhức đầu
  1. Triệu chứng
Trên thực tế Nhức đầu có nhiềudạng do cảm giác của bệnh nhân ghinhận được như nặng nề,ê ẩm,nhức buốt,nhứccăng,nhức có cảm giác như có cái gìgiật bên trong,nhức như thanh sắt xuyên quađầu hoặc búa bổ vào đầu,nhức như niềnxiết đầu,như như lồi mắt ra,nhức gân gáylan ra hai vai,nhức sau chẩm,giữa đỉnhđầu,giữa trán,nhức ½ bên đầu…tùy theokiểu đau và vị trí chỗđaumà có cáchchữa khác nhau.
  1. Hướng dẫn điều trị:
Cũng giống Đông Y và TâyY”DC-ĐKLP” tìm nguyên nhân gây ra ĐAUĐẦU là do ở cơ quan,bộ phận nào và từ đótìm cách chữa cùng lúcnguyên nhân vàtriệu chứng.
Vi dụ:Tìm rachứng NHỨCĐẦU của một bệnh nhân là do Huyết áp cao hoặc thấp thì chữa huyết áp làchính,đồng thời vẫn chữatriệu chứng ĐAU ĐẦU.
Nếu đau dâythần kinh Tamthoathì chữa đauthần kinh Tam thoa là chính,đồng thời vẫnlàmgiảm cơn đaunhức.Nếu làđau răngthườngthì chữa răng là chínhhoặc nếu dođau taithìchữa tai làchính,chữa triệu chứng là phụ hoặc NHỨC ĐẦU dotáo bónthìchữa táo bón là chính hoặcđôi khi do nguyên nhân ở bên ngàoi như do ăn uống sailầm,sinh họat không đúngcách…thì lo chữa nguyên nhân đó,song song với việc chữatriệu chứng.Tuynhiên,nói chung làphải kiên trì vớibệnhnày thì mới có kết quả tốt.
  1. Chuẩn đoán và cách điều trị
Dùng QUE DÒ khám cáchuyệt về thần kinh và Nội tạng để biết đau do Thần kinh hay Nội tạng.
Ví dụ:  Dò thấy huyệt 124-34 đau biết là nhức đầu do thần kinh căng thẳng hay do mất ngủ,hoặc thấy đau ở huyuệt 50 biết là do huyết áp thấp.  Thấy đau ở huyệt 26-8 biết là do huyết áp cao.  Thấy đau ở huyệt 7-53-156biết đau do kinh huyệt không đều.
Cần kết hợp khám lâm sàng (kiểu Tây Y ) và hỏi triệu chứng để biết rõ thêm gốc bệnh và cảm giác bệnh,  từ đó chọn huyệt thích hợp,  khi biết rõ đích xác gốc bệnh thì dùng các hình thức tác động ở bài số 5để điều trị.
Kiêng cữ
-          Nước đá,  nước dừa, cam,  chanh,  cho bệnh NHỨC ĐẦU do HƯ HÀN,  PHONG HÀN,  HUYẾT ÁPTHẤP.
-          Thức ăn mặn,  cà phê,  thuốc lá,  rượu cho bệnh HUYẾT ÁP CAO.
-          Gió,  quạt máy,  nước dừa cho bệnh YẾU GAN THẬN.
Tóm lại:
Nên theo dõi sát bệnh mình:  Để ý những gì làm mình khó chịu thì kiêng cữ. Mặt khác,  phải rèn luyện cơ thể để chống chọi với bệnh tật.


Bài giảng 9: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp




Bài 9: Mất ngủ
I/ Đại cương:
Mất ngủ là một triệu chứng rất phổ biến,nhất là trong giới lao động trí óc và nhân dân thành thị. Mất ngủ là một hiện tượng phức tạp có nhiều nguyên nhân.
Giải quyết đơn thuần bằng thuốc chưa đủ, cần phải tìm nguyên nhân và tạo điều kiện cho bệnh nhân có thể ngủ mà không cần thuốc.
Mất ngủ là phản ánh sinh họat xã hội căng thẳng,ồn ào, vội vã của đời sống . Người mất ngủ thường  lo âu, có nhiều mâu thuẫn xung độ nội tâm.

II/ Sơ lược về Đông Y và Tây Y
Nguyên nhân:
A. Theo Tây Y
Có nhiều nguyên nhân như: Khi có bệnh(sốt,khó tiêu hóa,đau nhức,bệnh thần kinh) hoặc lúc không có bệnh nhưng có những vấn đề (lo lắng, sợ sệt, chờ đợi,sợ lỡ tàu,n gủ chỗ lạ, hoặc đêm thức quá giấc,có cuộc bàn cãi sôi nổi…).Có niều tác nhân kích thích như: tDùng nhiều huốc lá,cá phê, trà đặc, ăn đêm, xem phim truyền hình hấp dẫn hoặc phải nghe trẻ em đùa nghịch, loa phóng thanh gây ồn ào…
Nhưng cũng có trường hợp không tìm thấy nguyên nhân.Chính trường hợp này  mới gay go nhất. Nói chung, người mất ngủ không nguyên nhân thường ít nhiều có vấn đề về rối lọan thần kinh (ĐẶNG VĂN CHUNG: Điều trị Học II).
B. Theo Đông Y
Chứng mất ngủ có nhiều hình trạng khác nhau và nhiều nguyên nhân khác nhau như:
1. Tâm và Tỳ yếu: làm việc mết nhọc quá, lo nghĩ nhiều hại Tâm, Tỳ, Huyết dịch hao tổn, sinh ra mất ngủ.
2. Âm hư Hỏa vượng:Thận Thủy suy kém Tâm Hỏa vượng lên (Tâm-Thận bất giao) sinh ra mất ngủ
3. Đởm hư và Đởm nhiệt: Sinh buồn phiền, bứt rứt không ngủ được.
4. Khi trong Vị không điều hòa: Đởm hỏa ngưng trệ trong Vị làm cho Khí trong vị mất điều hòa sinh ra mất ngủ
5.Sau khi ốm bị suy nhược: Không ngủ được.
Triệu chứng:
A. Theo Đông Y
1. Tâm và Tỳ yếu: Sắc mặt không tươi, người mỏi mệt, tinh thần uể oải ăn không ngon, hay quên, hồi hộp, mạch Tế Nhược.
2. Âm hư hỏa vượng: Đầu nặng, choáng váng, ù tai, tâm phiền, miệng khô, tân dịch ít hoặc có mộng tinh, di tinh, chất lưỡi đỏ, mạch Tế.
3. Đởm hư Đởm nhiệt: Hay hoang mang, đặc biệt gặp việc hay sợ hãi, ngủ hay mộng, dễ tỉnh dậy, mạch Huyền Tế.
4. Vị không điều hòa: Hay ợ hơi, vùng thượng vị khó chịu, trong bụng không khoan khoái, rêu lưỡi nhờn, mạch họat.
5. Sau khi khỏi bệnh, còn suy yếu: Hình vóc gầy còm, sắc mặt trắng nhợt, mệt nhọc, lưỡi nhạt,mạch Tế Nhược  (Viện Đông Y: Thuốc Nam và Châm cứu I).
 B. Theo Tây Y:
Tây Y không chia ra nhiều lọai rõ rệt như Đông Y mà chỉ phân lọai mất ngủ một phần, mất ngủ hòan tòan hay ít ngủ hoặc ngủ không sâu (lơ mơ): khó ngủ.
III. Theo DC – Điều khiển liệu pháp
A. Nguyên nhân
Như Tây Y và Đông Y đã phân tích.Tuy nhiên nhận thấy thêm: Mất ngủ có thể do nóng nhiệt trong người, hay do lạnh, nhất là Thận yếu (Thận thủy suy), sinh Tâm Hỏa vượng, tiểu đêm, lạnh chân khiến không ngủ thẳng giấc được .

B. Chẩn đoán và điều trị
1- Trường hợp chung: Dùng QUE DÒ khám thường thấy đau, thốn ở huyệt 124-34-217-7-17-127-51-87-60-3-26-16. Nguyên tắc là “ấn đau đâu trị đó” Do đó,có thể dùng các hình thức sau tác động lên huyệt ấn đau:
- Bôi dầu (nước hay dầu cù là) vào các huyệt An thần và các huyệt Nội tạng có liên hệ (có thể là gốc bệnh).
- Dán cao: Huyệt 124-34-16 hoặc 124-26-16-217.
- Vuốt: Từ quai hàm đến cằm mỗi đêm trước khi ngủ, cho trường hợp MẤT NGỦ do lạnh chân (hoặc xoa căm mỗi đêm).
- Chà nóng: Hai bàn chân.
2- “Biện chứng luận trị” đối với bệnh mất ngủ do:
+ Tâm và Tỳ yếu: 8-60-37-39.
+ Âm hư Hỏa vượng  26-61-3-51-17-7-63-87 và 0
+ Can, Đởm đều có Hỏa nhiệt: 124-423-26-41
+ Tiêu hóa không tốt: 41-50-19-39-37
+ Khỏi bệnh còn yếu: 22-127-19-45-1-37-50-60-103-0
- DÁN CAO, BÔI DẦU hay XOA VUỐT nhẹ các huyệt trên ngày 2-3 lần và tối lúc sắp đi ngủ.
3. Bài thuốc dân gian: Uống nước sắc lá vông nem, lá mắc cỡ.
Lưu ý: Những người huyết áp thấp không nên sử dụng hai lạoi thuốc nam trên chúng làm hạ huyết áp.

Tóm lại
Mất ngủ cùng với đau đầu hiện nay là bệnh phổ biến và hay đi chung với nhau. Có thể nói, đây là bệnh thời đại, chủ yếu do bệnh họan cũng có, mà do cuộc sống cũng có. Phải tích cực và kiên trì vận dụng mọi phương pháp để chữa cho lành. Vì bệnh mất ngủ trầm trọng kéo dài sẽ đưa đến hấu quả xấu như: Suy nhược thần kinh, có những triệu chứng bệnh tâm thần.


Bài giảng 10: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp




Bài 10TĂNG HUYẾT ÁP
I/. Đại cương
Tăng huyết áp là một bệnh rất phổ biến ở các nước Âu, Mỹ. Ở nước ta, bệnh này đang có xu hướng tăng lên, mặc dù tỉ lệ còn thấp hơn so với các nước khác.
Điều trị Nội khoa có nhiều tiến bộ vì mang tính toàn diện, nhưng hiện nay chưa có phương pháp đặc hiệu để có khả năng giảm huyết áp xuống mức bình thường một cách lâu dài. Chì có thể làm giảm nhất thời khi huyết áp tăng quá cao và hạn chế những tai biến có thể xảy ra.
Người ta cũng chỉ biết được một vài khâu trong toàn bộ cớ chế sinh bệnh tăng huyết áp nên việc phòng tránh bệnh và ngừa những biến chứng cũng khó khăn, ít kết quả.  (Đặng Văn Chung : điều trị học II)
II/. Nhắc sơ lược về Đông Y và Tây Y
A.     TÂY Y:
1. Bệnh học: Tăng huyết áp là hậu quả của một cơ chế phức tạp trong đó thần kinh đóng một vai trò quan trọng, sau đó là Thể dịch và Nội tiết. Do thần kinh luôn luôn ở trong tình trạnh kích thích nên các động mạch nhỏ ngoại biên co lại, ban đầu còn thuộc cơ năng nghĩa là hồi phục được, sau dần dần thành thực thể gây xơ cứng các động mạch nhỏ, nghĩa là không hồi phục được nữa Huyết áp tăng vĩnh viễn.
* Tăng huyết áp: là hậu quả của nhiều bệnh (gọi là Cao huyết áp thứ phát) như:
 a. Thận
- Viêm thận cả hai bên
- Bệnh mà tổn thương chỉ ở một bên Thận như:Lao, sỏi, teo thận hậu phát hay bẩm sinh.
b. Động mạch:
- Hẹp động mạch chủ bẩm sinh.
- Hẹp động mạch thận
- Viêm tắc động mạch do xơ cứng.
c. Nội tiết:
- Cường tuyến Yên hay Thượng Thận
- U tuyến Thượng Thận
Tăng huyết áp được coi như là một bệnh nếu không tìm thấy nguyên nhân nói trên (gọi là Cao huyết áp nguyên phát). Gần đây người ta phát hiện TÂM NHĨ tiết ra chất Auracline làm giảm huyết áp.
2. Các thể bệnh:
a. Thể nhẹ: huyết áp tối thiểu từ 95 đến 104mmHg
b. Thể vừa: huyết áp tối thiểu từ 105 đến 115mmHg
c. Thể nặng: huyết áp tối thiểu cao hơn 115mmHg
- Xuất hiện biến chứng : Mắt, thận, Tim
- Biến chứng nhanh.
Phân loại theo tuổi: Tuổi nào cũng có thể  bị tình trạng này nặng hay nhẹ, nhưng nói chung thể nặng thường xảy ra ở người tuổi trẻ (dưới 40), thể nhẹ xảy ra tuổi người già (trên 60).
3. Biện pháp điều trị:
+ Chế độ ăn uống: Ở người mập nên hạn chế  thực phẩm nhiều calo (trong thực đơn để làm gầy bớt, nên hạn chế Na(Muối) dưới 5g mỗi ngày, nên hạn chế chất béo. Nên sử dụng dầu ăn,  tránh dùng mỡ động vật, bơ. Hạn chế đường, bột. Nên kiêng cữ: rượu, thuốc lá, trà.
+ Chế độ làm việc: Tránh lao động quá sức, tinh thần căng thẳng, lo lắng, sợ sệt, tránh thức khuya. Lao động chân tay vừa phải là tốt nhất, thực hiện thể dục thể thao nhẹ hằng ngày.
B-ĐÔNG Y
1. Nguyên nhân và Cơ chế sinh bệnh:
Nguyên nhân thường là do mất cân bằng Âm Dương của CAN, THÂN. Can âm hư thì can dương vượng, Can Dương  vượng thì can âm hư. Can âm hư còn có nguyên nhân do Thận âm hư. Thận âm hư làm ảnh hưởng đến thận dương làm cho Âm dương còn hư. Ngoài ra còn có các  nguyên nhân tính khí thất thường, đàm thấp, đàm hỏa, nội phong huyết ứ , làm cho bệnh càng phức tạp hơn.
2. Triệu chứng:
* Can hư Dương vượng: Nhức đầu, bứt rứt, vật vã, dễ cáu gắt, mắt đỏ, miệng khô, táo bón, rêu lưỡi vàng, mặt đỏ, Mạch huyền và mạch sắc.
* Âm hư Dương vượng: Chóng mặt, ù tai, đau lưng, mỏi gối, mất ngủ, hay mộng  mị,  sắc mặt tái nhợt, chân tay tê dại, đái rát, đái đêm nhiều, di tinh, liệt dương, chất lưỡi nhạt, mạch Trầm tế.
III. Theo DIỆN CHẨN - ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP:
1. Nguyên nhân:
Như Tây Y và Đông Y đã phân tích. Ngoài ra còn thấy thêm: 
Do không biết cách sinh hoạt và ăn uống, ví dụ: làm việc đầu óc căng thẳng, không biết cách thư giãn, không biết cách sắp xếp công việc hay ăn những thức ăn quá mặn, quá lên men, thức ăn và đồ uống có nhiều chất kích thích như: cà phê,rượu, trà…Có thói quen tắm đêm bằng nước lạnh, đêm nằm ngủ để quạt máy. Do ảnh hưởng của xã hội công nghiệp, môi trường ồn ào, căng thẳng xung quanh.
2. Triệu chứng:
Ngoài các triệu chứng như Tây Y và Đông Y đã trình bày, chúng tôi nhận thấy bệnh nhân CAO HUYẾT ÁP thường có triệu chứng cứng và mỏi cổ, gáy, nhức thái dương, nổi gân tthái dương và gân trán, chóng mặt, tê cứng chân tay, mệt tim. Mắt nóng, khó ngủ, căng đầu, nhức đỉnh đầu, mạch cổ căng cứng đập mạnh.
Nếu dò bằng que dò sẽ thấy ấn đau ở các huyệt 
26-65-51-3-188-173-143-85-87-51-39-60(bên trái)-300-0(bên trái)-14-15-16-180-100-57
3. Điều trị: Dùng một (hoặc phối hợp) trong nhiều cách sau đây:
+ Vuốt bằng tay hay Que cào vùng thái dương và giữa 2 đầu mày (vùng ấn đường) xuống đến Sơn căn (tránh: vuốt mạnh và đụng đầu mũi sẽ phản tác dụng) trong vòng 3-5 phút.
+ Luân phiên Day Ấn nhẹ bằng QUE DÒ các huyệt 14-15-16-180-61-3-39-87-51
+Dùng búa gõ các huyệt 85-87 một cách đều đặn nhẹ nhàng và liên tục.
4. Phòng bệnh: Cữ ăn thức ăn mặn, thức ăn lên men (mắm, cơm rượu), thuốc lá, cà phê, rượu, nói nhiều, cãi vã. Tránh: thay đổi thời tiết và nhiệt độ đột ngột, đi chơi thể thao  rồi về tắm nước lạnh, tắm tối bằng nước lạnh, ngủ ban đêm dưới quạt máy, sáng sớm ngủ dậy ra ngoài sân tập luyện ngay. 
Một lối sống điều hòa, quân bình là biện pháp tốt nhất để phòng tránh bệnh Tăng huyết áp.






Bài giảng 12: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp




Bài 12: Đau dạ dày (đau bao tử)
I/. Đại cương
Đau dạ dày là triệu chứng chủ yếu của cácbệnh ở Dạ dày: viêm loét dạ dày,  át tràng,  sa dạ dày, ung thư dạ dày…Đông Y gọi là vị quản thống,  ở đây chúng ta chỉ đề cập đến việc giải quyết triệu chứng của bệnh. Viêm dạ dày và viêm loét dạ dày và tá tràng mãn tính.
II/. Sơ lược về Đông Y và Tây Y:
            * Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh:
            A-Theo Đông Y:
            Nguyên nhân thường có :Tỳ vị hư hàn,  Vị nhiệt khí uất,  Can vị khí trệ.Thức ăn tích trệ,  đàm ẩm,  huyết ứ ngưng trệ …Tất cả những nguyên nhân trên đều làm rối loạn vận hóa và thăng giáng của Vị KHÍ gây nên ĐAU DẠ DÀY.Nhưng lâm sàng thường gặp có hai thể:CAN KHÍ PHẠM VỊ và Tỳ VỊ HƯ HÀN.
            B-Theo Tây Y:
            a/ Viêm Dạ Dày:
+         Rượu,  thuốc lá
+         Thuốc men,  Aspirine, corticoid
+         Tâm lý
+         Dị ứng
+         Độc tố vi khuẩn
b/ Loét Dạ Dày –Tá tràng:
+         Yếu tố tâm lý
+         Thiếu đạm
+         Bệnh gan(xơ gan)
+         U tụy tạng
Triệu chứng:
1. CAN KHÍ PHẠM VỊ: Lo lắng,  tức giận,  thất thường,  khí uất làm thương tổn đến GAN, CAN KHÍ hòanh nghịch,  xúc pạhm đến VỊ,  VỊ bị trở ngại sinh đau vùng Dạ Dày. Triệu chứng: Bụng trên đầy chướng,  đau xuyên lên sườn,  ợ hơi hoặc ợ chua.
2. TỲ VỊ HƯ HÀN: Vùng bụng trên đau lâm râm,  nôn ra nước trong,  thích nóng,  ghét lạnh,  ấn vào đau giảm,  người mệt mỏi,  không có sức,  mạch hư.
B. Theo Tây Y:
1. Viêm Dạ Dày mạn tính:
Đau rát vùng Thượng vị,  không có gì đặc hiệu cả khi đau lúc đói,  có khi đau lúc no,  ấn vào đau ngay hoặc một lúc sau,  không có chu kỳ rõ rệt,  có khi chỉ đau lúc ăn cơm bữa trưa,  còn buổi tối và sáng không đau.Đầy bụng,  ợ hơi,  ợ chua,  nôn ọe,  co khi nôn ra máu.Biếng ăn,  mệt mỏi,  do đó gầy xanh và xanh xao.
Trong khi đó khám thực tế không thấy gì đặc biệt.
2. Loét dạ dày - tá tràng: Đau vùng Thượng vị liên quan đến bữa ăn,  đau lan sang bờ sườn trái hoặc bờ sườ phải thốn ra sau lưng và tái phát theo mùa,  kèm theo ợ hơi hay ợ chua,  đầy bụng.
III/.Theo DC – Điều khiển liệu pháp
Qua nhận xét thực tế và kinh nghiệm điều trị chúng ta thấy:
+ Nguyên nhân: Chủ yếu là do suy nghĩ quá nhiều,  căng thẳng đầu óc (thường xuyên hoặc tức giận thái quá,  hay ăn uống thất thường (quá no hay quá đói),  ăn thức ăn nhiều dầu,  mỡ,  đồ cay nóng,  hoặc uống trà,  cà-phê quá đậm đặc lúc bụng trống hay uống nhiều rượu mạnh,  hút nhiều thuốc lá.
Ngoài ra,  còn có nhiều thói quen uống nhiều nước đá lạnh lúc đói. Ăn xong đi làm nặng ngay hoặc phải tập trung suy nghĩ nhiều sau khi ăn.
Tất cả những yếu tố trên là nguyên nhân dẫn đến bệnh DẠ DÀY.
+ Chẩn đoán: Những người có bệnh Dạ Dày thường có các dấu hiệu sau đây hiện lên trên mặt:
-         Vành môi trên nám đen như có râu.
-         Có tàn  nhang ở vùng Dạ Dày trong đồ hình phản chiếu NỘI TẠNG (ở cánh mũi,  ở môi,  ở vùng huyệt 39-120-121-37)
-         Có thẹo ở vùng huyệt 423 (bên trái).
-         Nếu dùng que dò,  ta khám sẽ thấy ẤN ĐAU các huyệt 61-120-3-121-39-63-19-113-37-50-45-14-423-0-124-34-127-222-16.
Điều trị: Dùng QUE DÒ day,  ấn thường xuyên các huyệt trên mỗi huyệt 1 phút. Ngày vài lần. Lúc đau thì ấn để cắt cơn đau,  sau đó DÁN CAO Salonpas vào các huyệt đau thốn nhiều nhất (hoặc bôi dầu).
Giải thích: Dùng 61 để cắt cơn đau thắt DẠ DÀY,  huyệt 50 để là tiêu hơi,  huyệt 127-37 để ấm bụng, huyệt 0-16 để giảm tiết dịch,  huyệt 61-3 để hàn vá các vết loát,  giảm xót xa trong bao tử,  huyệt 124-34 để an thần.
Dùng toa ÂM DƯƠNG THANG với lượng NGHỆ NHIỀU HƠN ở các bệnh LOÉT DẠ DÀY (hoặc dùng NGHỆ và MẬT ONG một chung nhỏ uống lúc bụng đói).
Kinh nghiệm dân gian:
-  Mật ong (đơn thuần thứ tốt) uống một chung nhỏ lúc sáng sớm lúc bụng đói và tối trước khi ngủ.
- Cam thảo nấu như nước trà uống thay nước cả ngày
Ăn uống và sinh hoạt:
-   Cữ: Uống nước đá trước và trong bữa ăn, cà phê hoặc trà đậm lúc đói, rượu quá mạnh lúc bụng trống nhất là chuối già hương.
-         Cữ sau khi ăn làm việc nặng nhọc hoặc căng thẳng đầu óc.
-         Cữ giao hợp sau khi ăn no.
SÁCH THAM KHẢO
-         Thuốc Nam – Châm cứu của VIỆN ĐÔNG Y
-         Bệnh học - Nội khoa của ĐẶNG VĂN CHUNG
-         Điều trị học của ĐẶNG VĂN CHUNG
-         Gazette Médicale.



Bài giảng 13: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 13: Kiết lỵ
I/. Đại cương
Theo Tây Y: Kiết lỵ chia làm hai loại: loại do trực trừng Shigella và các loại do ký sinh trùng Amib. Bệnh lỵ trực tràng là một bệnh cấp tính thường ít tái phát nhưng dễ nguy hiểm đến tính mạng do đi cầu quá nhiều lần trong ngày (920-30 lần) có thể gây trụy tim mạch.
Lỵ do Amib là bệnh ít nguy hiểm hơn nhưng dễ tái phát thành bệnh kinh niên (mạn tính) hoặc đưa đến những biến chứng tai họa. 
Trong bài này chỉ đề cập đến loại Kiết lỵ do Amib là loại bệnh thường gặp ở nước ta.
II/. Nhắc sơ lược về Đông Y và Tây Y
Nguyên nhân và cơ chế bệnh lý:
Bệnh do lây lan mà ra. Trùng Amib và kén theo phân người bệnh ra ngoài. Phân theo nước mưa chảy xuống ao hồ,  rạch,  nước ao hồ được múc lên để tưới rau; ăn rau sống không rửa sạch,  người ta sẽ nuốt theo vào bụng những KÉN vào ruột,  KÉN biến thành thể hoạt động gây vết lóet ở ruột già,  các MỤN LOÉT lở ra. Bệnh nhân bắt đầu đi pâhn có lẫn đàm và máu.
Triệu chứng: Ở đây chia thành hai thể: Cấp và mãn tính
1. Ở thể Cấp tính: Phát bệnh đột ngột,  sốt cao hoặc nhẹ,  đi cầu nhiều lần cấp bách,  mót rặn,  ngồi lâu,  phân ít hoặc không có phân,  trong phân có lẫn ít hoặc tàn chất đàm đính máu.
2. Ở thể Mạn tính: Do bệnh cấp tính không chữa được hoặc chữa không khỏi hẳn,  lâu ngày biến thành Mạn tính, hoặc người vốn nguyên khí Hư hàn,  mắc bệnh lý chứng trạng lâm sàng nhẹ hơn so với cấp tính nhưng khó chữa hơn.
III/. Theo “Diện Chẩn - ĐKLP”
Qua nhận xét và kinh nghệim trên thực tế,  chúng tôi thấy:
Nguyên nhân: Ngoài lý do nhiễm trùng do lây lan từ thức ăn như rau sống…còn có những trường hợp do ăn uống bất hợp lý như ăn xoài sống rồi uống nước đá lạnh hoặc ăn chuối tiêu rồi uống trá đá, …cũng sinh ra KIẾT LỴ rất nhanh. Đôi khi do trong mình quá nóng vì dùng nhiều thức ăn,  thức uống tích có tính nóng tích nhiệt ở Đại trường cũng sinh ra bệnh.
Chẩn đoán: Dùng que dò khám,  ta thường thấy những điểm đau ở huyệt 143 -19-38-127-61-50-37-104-222-63-0-132.
Các dấu hiệu thấy bằng mắt :tàn nhang ở viền môi và cằm hoặc đầu chót mũi.
Điều trị: Dùng que dò ấn vào các huyệt trên,  mỗi huyệt vài phút. Ngày làm 3-4 lần hoặc mỗi khi đau quặn bụng quá.Đồng thời uống thêm rau má rửa sạch hãm nước sôi hặoc giả nát lấy nước chưng và cách thủy hay rau má + nước dừa xiêm. Cũng có thể dùng toa ÂM DƯƠNG THANG với lượng trái tắc nhiều hơn nghệ,  hoặc lấy cục nước đá áp lần lượt vào các huyệt trên cho đến khi khỏi bệnh.
Giải thích phương huyệt: Tác động lên huyệt 143-36-222-104 để làm giảm mát ruột già,  huyệt 37-132 tiêu đàm,  mát huếyt,  19-61-127-50 để giảm Nhu động ruột,  huyệt 37-0 để làm bớt mệt mỏi tứ chi.
* Phòng bệnh và trị bệnh bằng ăn uống
+         Cữ: ăn uống cùng lúc chuối chiên (hoặc các đồ chiên xào) với nước đá lạnh hoặc xoài sống hay me chua với nước đá.
+         Tránh: Dùng thức ăn có dầu mỡ trong khi bệnh ,  cà phê,  rượu,  thuốc lá,  trà đậm.
+         Nên: ăn cháo trắng trong khi bệnh,  ăn rau má,  rau sam luộc,  xương xa,  xương xáo.



Bài giảng 15: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 15: Yếu sinh lý hay suy nhược sinh dục
I/ Đại cương
Cần phân biệt giữa Thận của Đông Y và Tây Y. Thận (Đông Y) chủ yếu nói về chức năng của Thận bao gồm vấn đề sinh lý,  sinh dục của nam,  nữ trong đó có Quả Thận và Cơ quan sinh dục.
Còn Thận (Tây Y) chỉ là quả thận và bệnh Thận là các bệnh có liên quan đến thực thể của THẬN như: Viêm cầu thận,  hội chứng thận hư nhiễm mỡ,  lao thận, …
Ngoài ra,  ngay chính trong Đông Y cũng cần phân biệt chữ YẾU THẬN (Thận suy) như : mỏi lưng,  đau lưng,  tiểu đêm,  đái rát,  mắt mờ,  tai điếc với yếu thận (hiểu theo nghĩa là yếu sinh lý)…Ví dụ: xuất tinh sớm (tảo tinh), dương vật mềm nhão (Dương nuy),  không ham muốn tình dục ở phụ nữ (Lãnh cảm),  dương vật không cương (Liệt dương)…dù rằng trong một số trường hợp chúng có liên quan với nhau.
Trong bài này,  chủ yếu đề cập đến bệnh XUẤT TINH SỚM,  DƯƠNG NUY,  LIỆT DƯƠNG,  LÃNH CẢM mà thôi.
II/. Theo Đông Y và Tây Y
            A. TÂY Y: Phải nói là tài liệu TÂY Y về bệnh yếu sinh lý rất hiếm hoi ở Việt Nam,  do đó chúng tôi không đề cập đến phần này.
            B. ĐÔNG Y: Đông Y ngược lại rất sở trường về việc cho thuốc phục hồi sự suy yếu của Thận.
            Qua các bài thuốc Bắc rất nổi tiếng,  những toa thuốc tễ,  thuốc rượu,  những đơn thuốc có tính kích dục, làm bền tinh đầy dẫy trong kho tàng Đông Y : tắc kè,  hải mã,  rắn hổ,  ba kích,  câu kỷ tử,  dâm dương hoắc, …
            Căn cứ vào lý thuyết và lý luận Đông Y:THẬN là một tạng rất quan trọng, đứng hàng đầu trong Năm tạng và Sáu phủ.
            Tạng là nguồn gốc tiên thiên,  là cơ sở của Âm Dương Thủy Hỏa trong cơ thể của chức năng sinh dục, phát dục và hoạt động của con người. Nếu một cơ năng của THẬN bị yếu,  bất cứ trường hợp nào cũng đều ảnh hưởng đến cơ thể,  bệnh Thận sinh ra nhiều triệu chứng như: đau lưng,  mỏi gối,  di tinh,  mộng tinh,  hoạt tiết tinh,  liệt dương và phù thủng…
Bệnh chứng: Những tiêu chuẩn để xác định bệnh thận như :
1.      Lưng và cột sống đau mỏi
2.      Đùi,  gối,  cẳng chân,  gót chân đau nhức
3.      Tài ù,  tai điếc
4.      Tóc rụng và khô héo
5.      Răng lung lay và hở thưa
6.      Cơ năng của bộ máy snh dục mất bình thường
7.      Xích mạch yếu
Khi thấy có ba trong bảy tiêu chuẩn trên thể hiện ra,  ta có thể chẩn đoán là THẬN TẠNG SUY YẾU (Thận hư)
·  Những điểm thuộc loại THẬN ÂM HƯ:
-         Gan bàn tay,  bàn chân nóng – không ngủ được
-         Nóng hâm hấm nửa người về phía trên. Mạch tế,  Huyền,  Sác
-         Lưỡi đỏ hoặc có nứt rạn – Về buổi chiều miệng khô,
-         Quay đầu chóng mặt – Mộng tinh. Di tinh
-         Nứơc đái vàng,  đỏ,  phân táo bón.
Kết hợp ba trong bảy tiêu chuẩn trên,  cộng với ba,  bốn hiện tượng này nữa,  ta sẽ khẳng định là THẬN ÂM HƯ TỔN.
·  Những điểm thuộc loại THẬN DƯƠNG HƯ:
-         Sợ lạnh – Lưỡi nhạt
-         Tay chân thường lạnh – Nước đái trắng
-         Hay đi đái đêm – Thở yếu,  nói mệt.
-         Đại tiên lỏng – Tinh thần mờ tối
-         Tự ra mồ hôi – Liệt dương
-         Sắc mặt kém tươi – tảo tinh
-         Phù thũng – mạch vi,  Trì,  Nhược
Kết hợp với ba trong bảy tiêu chuẩn trên cộng với 3-4 hiện tượng này,  ta khẳng định là thuộc loại THẬN DƯƠNG HƯ TỔN.
III/. Theo Diện Chẩn- ĐKLP
A.     NGUYÊN NHÂN:
Nguyên nhân của bệnh yếu sinh lý là do nhiều yếu tố như: bẩm sinh,  di truyền,  hoàn cảnh địa phương, giống (race),  khí hậu,  thời tiết,  thức ăn,  tiếng động,  sự giao hợp quá độ hoặc quá kiêng cữ giao hợp,  già yếu, nhưng chủ yếu là do trạng thái thần kinh,  do mức độ tự chủ của mỗi người.
B.     TRIỆU CHỨNG:
1.      XUẤT TINH SỚM: Mới giao hợp hoặc chưa giao hợp đã xuất tinh
2.      DƯƠNG NUY: Dương vật mềm nhũn,  không đủ cứng để giao hợp
3.      LIỆT DƯƠNG: Dương vật không hoạt động được
4.      LÃNH CẢM:Phụ nữ không có cảm giác hoặc rất ít cảm giác ham muốn tình dục khi gần người khác phái. Đôi khi còn chán ghét dự sinh hoạt tình dục.
C.     CÁCH CHỮA:
1.      XUẤT TINH SỚM: Day ấn hoặc dán cao các huyệt 124+- 34+- 45+-1-127*22-7+-16+-0+,  đồng thời ăn trái cau,  chuối chát,  khoai sọ,  khoai môn,  hải mã hoặc tắc kè (ngâm rượu), …Đông thời phải chà sát vùng mang tai,  vùng cằm,  vùng đầu mũi và trên trán (vùng huyệt 300+ -301+ -0302+)
2.      DƯƠNG NUY: Day ấn hay dán cao,  hơ nóng các huyệt 127-19-0-40-37-7-63-1-45,  đồng thời ăn uống củ cà rốt,  chuối chát,  sa bô chê,  hột gà,  ca cao.
3.      LIỆT DƯƠNG: Day ấn,  dán cao,  hơ nóng các huyệt 127-19-1-7-0-17-113-50-37-300 (bên phải). Chú ý: tránh huyệt 300 (bên trái). Ăn uống (như trên)
4.      LÃNH CẢM: Dán cao,  bấm day huyệt 63-7-113-287 chà sát thường xuyên vùng môi trên (ngày 3 lần,  mỗi lần vài phút). Kết hợp ăn tròng đỏ trứng gà,  sa-bô-chê,  cà rôt (quay sinh tố) vài lần mỗi tuần.
CỮ: Cà phê,  thuốc lá,  rượu. Riêng trường hợp xuất tinh sớm,  tránh xem phim ảnh hay phim truyện có tính kích thích,  khiêu dâm.
NÊN: Tập thở sâu,  tập chạy tại chổ,  tập nằm ngữa cong mình lên,  hai chân đạp (kiểu xe đạp) hoặc đá chân tới lui (2 chân thay phiên nhau).




Bài giảng 16: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 16: Ẩm thực liêu pháp hay là ăn uống trị bệnh
I. Đặt vấn đề
Ăn uống là một vấn đề sống còn của con người. Không Ăn uống thì chết nhưng ăn uống sai lầm ,
không điều độ cũng sinh bệnh,  đôi khi dẫn đến cái chết một cách nhanh chóng.
Do đó có câu: “Bệnh tòng nhập khẩu” (Bệnh theo miệng mà vào).
Đây là một vấn đề lớn khó thể trình bày hết qua một bài giảng. Do đó,  chúng tôi trình bày ở đây một số nguyên tắc về ăn uống,  một BẢNG TỔNG HỢP CÁC THỨC ĂN được phân loại theo ÂM DƯƠNG và một số thức ăn,  thức ăn  uống có hại cho sức khỏe. Và nếu ăn uống sai lầm sinh bệnh thì ăn uống cho đúng cách lại có khả năng trị bệnh.
II. Nguyên tắc Ăn, Uống
TÂY Y cũng có đề cập đến vấn đề ăn uống trị bệnh nhưng lấy thước đo là Protêin,  Calorie,  Vitamin…. ĐÔNG Y khác hơn,  phong phú và phức tạp hơn, đặt tiêu chuẩn đo lường  là Âm dương, cho rằng hệ thống âm dương quân bình là không bệnh.
Chúng tôi nghiên cứu cả hai lối ăn,  hai loại thức ăn và thấy có trùng nhau ở một số điểm như: Calorie,  Protein tương đương với dương tính,  ít Calorie,  protein tương đương với âm tính. Điều này sẽ được trình bày trong BẢNG CHỮA BỆNH BẰNG THỨC ĂN do chúng tôi soạn thảo.
            1. Nguyên tắc thứ nhất: của ăn uống là ĐIỀU ĐỘ và TIẾT CHẾ,  nhưng nên nhớ rằng nếu có người bệnh vì dư ăn thì cũng có người bệnh vì thiếu ăn.
            2. Nguyên tắc thứ hai: là ăn uống sao cho trong cơ thể được quân bình ÂM DƯƠNG . Ví dụ:
            - Người tạng HÀN thì đừng ăn thức ăn mát.
            - Người tạng NHIỆT thì tránh thức ăn có tính nóng.
            3. Nguyên tắc thứ ba: là phải biết dùng thức ăn bổ dưỡng thích hợp với TẠNG của mình. Không nên ăn ĐỒ BỔ cũng như cây chỉ tưới nước mà không bón phân thì không thể nào lớn mạnh,  tươi tốt được,  nhưng BỔ bậy bạ có khi còn mau chết hơn.
III. Một số thức ăn cần thận trọng khi sử dụng
Một số loại thức ăn,  thức uống thường được bà con sử dụng tưởng là có lơi cho sức khỏe để cho khoái khẩu, không dè nó là thủ phạm gây một số bệnh mà bà con hay mắc phải và rất khó chữa (vì không biết thủ phạm). Đó là nước đá,  nước dừa,  nươc chanh,  nước mía,  sữa hộp,  nước sâm,  nước ngọt vô chai (nói chung là thức uống công nghiệp).
            1. Nước đá: Đây là sản phẩm công nghiệp nhiều người tiêu thụ nhất và cũng chính vì vậy mà hậu quả của nó càng to lớn,  nhất là khi bà con ta không ý thức được cái hại của nó, nó hại như thế nào.
            Tại sao lại có hại?
            Nếu phân tích,  ta sẽ thấy nước đá ở dạnh hình khối đặc va rất lạnh.Cơ thể ta vốn nóng,  nhất là bên trong cơ thể. Do đó,  khi uống nước đá vào,  nhiệt độ cơ thể của ta sẽ bị xáo trộn, thường xuyên do thói quen uống nước đá sẽ sinh ra nhiều bệnh tật về sau.
            Đặt vấn đề: Chai nước lọc để thường xuyên trong tủ lạnh,  mỗi khi đi nắng về uống cho đã,  thì đó là chai thuốc độc. Nó thường gây  ra những bệnh sau đây:
-         NHỨC MỎI,  CỨNG CỖ và BẢ VAI
-         Đau lưng
-         Thấp khớp
-         U nhọt
-         Suyễn
-         Tiểu gắt,  tiểu đỏ,  đái dắt
-         Viêm họng
-         Trĩ,  lòi đom…
Nếu ta biết hạn chế sử dụng hoặc cữ hẳn nước đá thì bệnh sẽ giảm rất nhiều,  việc chữa trị của thầy thuốc sẽ hiệu quả hơn.
2. Nước dừa: Nhiều người theo Tây Y cho nước dừa là thức uống lý tưởng vì có nhiều Vitamin,  muối khoáng….nên có dịp là uống,  nhất là những khi đi nắng hoặc trời nóng thì tha hồ uống. Có biết đâu rằng nước dừa rất ÂM cho nên uống nhiều sẽ tự động là ÂM HÓA cơ thể mình nên sau đó sinh ra: lạnh bụng,  lạnh tay chân,  yếu tim, trĩ nội,  xuất huyết,  tiêu hóa,  thấp khớp, …là những bệnh do lạnh sinh ra. Thật ra nước dừa uống ít thì giải nhiệt mà uống nhiều thì có hại.
3. Cam: Rất nhiều người lầm tưởng uống cam là bổ (vì có nhiều Vitamin C): muốn bổ phổi uống nhiều Cam tươi,  Cam vắt có thêm mật ong hay tròng đỏ trứng gà càng tốt. Thật ra nó chỉ đúng ở một số trường hợp bệnh nhất định như bệnh do nóng nhiệt trong mình. Còn đối với bệnh HƯ HÀN,  bệnh MẠN TÍNH như: Suyễn hàn,  Thấp khớp,  đau đầu kinh niên,  huyết áp thấp,  viêm xoang,  viem mũi dị ứng,  cứng mỏi cổ,  gáy,  vai,  đổ mồ hôi,  ảnh chân tay,  lạnh bụng,  mệt tim,  lả người, …đều phải nên tránh dùng cam tươi. Có nhiều bệnh mà thầy thuốc chữa hoài không hết cũng vì không dè bệnh nhân hay dùng nhiều Cam vắt mỗi ngày (vì bệnh nhân tưởng CAM là thuốc bổ,  uống càng nhiều càng khỏe).
Thật ra CAM và CHANH cũng là trái cây có nhiều dược tính: Hạ nhiệt,  hạ áp,  làm loãng máu,  giản mạch và trị được một số bệnh. Nhưng cần phải biết dùng cho đúng cách của nó. Còn dùng sai chỗ hoặc lạm dụng loại trái cây này thì dễ sinh các bệnh như: ĐAU ĐẦU KINH NIÊN,  HAY BỊ CẢM CÚM,  THẤP KHỚP,  MỆT MỎI,  ĐỔ MỒ HÔI,  SUYỄN HÀN,  BAO TỬ LẠNH,  VIÊM MŨI DỊ ỨNG,  TIÊU RA MÁU,  VIÊM XOANG,  MỎI CỔ,  GÁY, ….
4. Sữa:
Theo Tây Y thì SỮA (sữa đặc có đường) cũng như CAM là loại thức ăn rất bổ dưỡng và cho bệnh nhân dùng rất tốt. Cho nên thói thường, hễ đi thăm bệnh ở Bệnh viện,  người ta cho CAM hay SỮA. Thật ra,  thói quen nên xét lại. Vì rằng SỮA cũng như CAM (đã nói ở phần trên ) dùng không đúng sẽ có hai.
Thật vậy,  sữa đặc có đường là một thức ăn bổ,  nhiều Protêin sản sinh nhiều Calorie và có thể dùng thay thế SỮA TỰ NHIÊN,  nhưng cũng là thức ăn có hại vì chứa nhiều chất nhầy,  chất ngọt,  chất lòng trắng trứng (albumine). Do đó,  nếu đang bị các bệnh đường hô hấp,  đường ruột, đau dạ dày thì nên hạn chế sử dụng, vì sẽ làm cho tình trạng SUYỄN tăng nặng hơn,  có đàm nhiều hơn,  dễ tiêu chảy , …
Do đó,  ta phải hạn chế dùng nhiều sữa,  nhất là khi có bệnh về đường HÔ HẤP,  đường RUỘT, …(chú ý: Sữa mà chúng tôi đề cập ở đây không phải là sữa tươi,  mà là sữa hộp tức là SỮA ĐẶC CÓ ĐƯỜNG mà bà con thường dùng khi có bệnh )
            TÓM LẠI: ĂN để mà sống nhưng không biết cách ăn hoặc ăn quá nhiều sẽ sinh ra bệnh tật. Phần trên trình bày 4 thức ăn uống mà nhiều người hay lạm dụng vì nghĩ rằng nó bổ hoặc thích khẩu. Thật ra,  dù là thức ăn bổ cũng phải nên biết rằng: THUỐC BỔ CŨNG LÀ THUỐC ĐỘC NẾU KHÔNG KHÉO SỬ DỤNG NÓ.
            Ngoài ra cón các món ăn,  thức uống cũng dễ sinh ra một số bệnh nhất là bệnh đường ruột,  bệnh nhiễm trùng. Đó là nước mía,  nước sâm,  nước rau mà,  kem, ….và các loại trái cây bán trên các xe ba bánh ngoài đường như: thơm,  cóc,  ổi,  dưa hấu,  củ sắn,  sơ-ri, …
            Để kết thúc bài giảng này,  chúng tôi xin nhắc lại “BỆNH TÒNG NHẬP KHẨU”. Do đó,  phải chịu khó và lựa chọn thức ăn,  thức uống hàng ngày của mình,  chịu khó chọn để ý xem cơ thể mình thích hợp với món ăn mà mình hay dùng không? Nếu ăn vào thấy khỏe là đúng và thấy có phản ứng bất lợi là sai. Thật ra một thức ăn kỵ với người này có thể kết hợp với người khác. Đó là bệnh TẠNG và BỆNH của mỗi người khác nhau. Cho nên  chớ bắt chước người khác,  cứ theo dõi,  hễ thấy thích hợp với mình là tốt cho bệnh mình và cứ dùng,  nhưng nếu có hại thì phải ngưng ngay và điều chỉnh lại.
BẢNG HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ CÁCH PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
          (bằng THỨC ĂN,  THỨC UỐNG, tức Ẩm thực liệu pháp và sinh hoạt hàng ngày)
                                      Tác giả: BÙI QUỐC CHÂU-Tháng 3/1989
BỆNH
KHÔNG NÊN DÙNG
NÊN DÙNG
(1)
(2)
(3)
Cảm lạnh
Nước đá,  nước cam, nước chanh, nước dừa
Gừng,  nghệ, sả
Viêm mũi dị ứng
Như trên + mắm các loại
-nt-
Viêm xoang
Như trên + Chuối già,  khoai lang, khoai mì, cà bát, cà tím,  cà pháo, thịt gà,  rau dền
-nt-
-nt-
Suyễn
Mắm,  nước đá,  nước cam nước chanh,  nước dừa,  cà bát,  cà pháo, sữa hộp,  cải bẹ xanh,  măng tre, tương chao,  dưa hấu
-nt-
Thấp khớp-nhức mỏi
Mắm,  nước đá,  dưa leo, chanh,  cải bẹ xanh,  măng tre, các loại cà,  nước dừa,  nước suối
-nt-
Đau bao tử
Chuối già,  chuối cau,  cà tím,  cà pháo,  dưa leo,  nước đá,  nước suối, tương chao,  táo tây
-nt+ Cải bẹ xanh
Trĩ
Nước đá,  nước dừa,  chanh,  cam, mía,  hột vịt lộn,  cà bát,  ớt,  ốc bươu,  ốc lác
Chè đậu đen
Nhức đầu kinh niên
Nước dừa,  nước chanh,  cam,  nước đá,  dưa leo,  cà bát,  cà tím,  chuối già,  cải bẹ xanh
Gừng,  nghệ,  tỏi
Viêm họng khan tiếng
Nước đá, nước ngọt,  nước suối, cam,  sữa hộp,  đậu phộng,  thuốc lá, tương chao
Me đất,  tắc muối,  chanh muối đen ( không gọt vỏ khi muối)
Huyết áp cao
Mắm các loại,  các thức ăn mặn, nước suối,  thịt mỡ,  rượu,  cà phê, tương chao
Các thức ăn lạt,  cá,  cải bẹ xanh,  nước dừa,  nước chanh, nước cam,  rau má
Suy nhược thần kinh
Nước dừa,  nước đá,  nước sâm, cam,  chanh
Bí đỏ,  cá lóc
Mất ngủ
Cà phê,  rượu,  thuốc lá
Chè đậu xanh,  nhãn lồng
Táo bón
Nghệ,  chuối chát,  thịt,  ca cao, chocolate,  sabôchê (hồng xiêm)
Chuối xiêm,  đu đủ,  bưởi,  me, rau muống,  rau lang,  quýt
Tiêu chảy
Nước cốt dừa,  xương xa,  chuối xiêm,  quýt,  hột gà
Nghệ,  chuối chát
Kiết lỵ
Cà phê,  ca cao,  chocolate, rượu,  cà ri,  các thức ăn có nhiều dầu mỡ
Xương xáo,  xương xa
Viêm gan,  xơ gan
Trứng các loại
Nghệ
Nhức răng
Tiêu,  nước đá,  thịt gà,  rau dền
Ngậm nước muối pha loãng, nước dừa
          Sử dụng nhiều và thường xuyên các thức ăn và uống sau đây sẽ bị bệnh do mất cân bằng Âm Dương
                                    Tác giả: BÙI QUỐC CHÂU-Tháng 3/1989
Lạm dụng (ăn uống mỗi ngày)
Sẽ dễ dẫn đến việc bị các bệnh
1. Nước đá hoặc chai nước lọc để trong tủ lạnh - các thức ăn công nghiệp
1. Cảm lạnh,  viêm họng,  thấp khớp,  rụng tóc,  già sớm,  viêm mũi dị ứng,  Suyễn,  suy nhược thần kinh, suy nhược sinh dục,  đau bao tử,  nhức đầu kinh niên,  mệt mỏi trong người
2. Nước dừa
2.Thấp khớp,  cảm lạnh,  trĩ,  huyết áp thấp,  xuất huyết nội,  rong kinh,  đau bao lưng,  mệt tim,  mỏi gối, yếu gân,  yếu sức,  bệnh về mắt
3. Nước cam
3. Trúng lạnh,  thấp khớp,  suyễn,  trĩ,  cảm lạnh,  viêm đường hô hấp,  dễ viêm nhiễm,  viêm đại tràng mạn tính,  viêm bao tử.
4. Nước chanh
4. Huyết áp thấp,  thấp khớp trĩ,  ung bướu
5. Nước mía
5. Trĩ,  trúng lạnh,  xuất huyết tiêu hóa,  tiểu đường (diabète)
6. Dưa leo
6. Thấp khớp,  đau bao tử
7. Dưa hấu
7. Táo bón,  kiết lỵ,  tắt tiếng
8. Cà tím,  cà pháo,  cà bát
8. Suyễn,  thấp khớp,  đau bao tử,  sạn thận
9. Hột vịt lộn
9. Trúng thực,  ói mửa,  suyễn
10. Hột gà,  hột vịt
10. Tiêu chảy,  đau gan,  suyễn
11. Chuối già,  chuối cau (chuối tiêu)
11.Đau bao tử,  khó tiêu,  u nhọt,  nhức đầu
12. Nhãn,  trái vải
12. Mệt tim,  nóng mặt
NHỮNG BỆNH THƯỜNG GẶP KHI SINH HOẠT SAI LẦM
SINH HOẠT SAI LẦM THƯỜNG XUYÊN
DỄ ĐƯA ĐẾN CÁC BỆNH
1. Quạt máy thổi sau gáy
1. Cứng gáy,  vẹo cổ,  nhức đầu (cổ gáy)
2. Ngồi trước quạt máy
2. Khan tiếng,  tắt tiếng
3. Uống nước đá khi bụng đói
3. Trúng lạnh,  đau bao tử
4. Uống trà đá + ăn chuối chiên,  đồ dầu mỡ,  chiên xào
4. Kiết lỵ
5. Đi tiểu ngay trước và sau lúc tắm
5. Cảm lạnh
6. Tắm khi vừ ăn xong
6. Đau bao tử
7. Tắm nước lạnh ngay sau khi đi xa ban đêm
7. Cảm lạnh,  liệt nửa người do tai biến mạch máu não,  liệt mặt
8. Dầm mưa lâu,  ngủ kế bên cửa sổ mở rộng
8. Cảm lạnh,  liệt nửa người do tai biến mạch máu não,  liệt mặt
9. Uống nước nửa chín nửa sống
9. Đau bụng,  buồn ói
10. Gội đầu bằng nước lạnh ngay sau khi đi nắng về
10. Nhức đầu như búa bổ
11. Gội đầu ban đêm
11. Nhức đầu kinh niên
12. Ngủ dưới đất,  không trải chiếu lúc trời nóng
12. Nhức mỏi,  thấp khớp,  đau cứng cơ khớp
13. Giao hợp xong đi tắm ngay
13. Trúng nước,  nhức mỏi,  yếu thận
14. Giao hợp xong nằm ngủ dưới quạt máy
14. Trúng gió,  nhức đầu,  cứng cơ
15. Giao hợp dưới nước
15. Nhức mình kéo dài,  hại thận,  cảm lạnh
16. Phụ nữ mới sinh vọc nước,  giặt giũ sớm,  ăn cam chanh
16. Nhức mỏi thấp khớp,  các bệnh về kinh huyệt sau này
17. Cởi trần,  ngủ ngoài trời
17. Cảm lạnh,  sưng phổi,  suyễn
18. Đi ra ngoài sớm quá hay khuya quá (dầm sương)
18. Cảm lạnh,  sưng phổi,  suyễn,  viêm mũi dị ứng
19. Ngồi dưới mái tôn lúc trời nóng
19. Viêm mũi,  cảm sổ mũi,  nhức đầu



Bài giảng 17: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 17: Bảng phân loại huyệt
Để giúp các bạn học viên đỡ mất thì giờ trong việc tìm kiếm các mối liên hệ giữa các Huyệt với một vùng hay cơ quan nào đó (hoặc kiên hê đến một triệu chứng hay tác dụng cần thiết nào đó) chúng tôi soạn:” Bảng Phân loại huyệt” dưới đây:
Cách sử dụng:
Dò các bảng dưới đây thấy huyệt nào có liên quan đến trường hợp bệnh mình đang điều trị thì chọn ra. Ví dụ: Đối với bệnh nhân đau đỉnh đầu,  ta có thể nghĩ đến các huyệt sau ( vốn có liên hệ với nó): 103-197-175-126—50-51-87-365 và sau đó,  lấy que dò để xác định trong số các huyệt trên,  huyệt nào báo đau thì sẽ DAY ẤN hoặc DÁN CAO hay chấm huyệt (chứ không phải hễ đau đâu là day ấn hay dán cao hết cà huyệt trên cùng một lúc).
Chú ýCác Huyệt có gạch dưới là Huyệt Chính thường hay báo đau khi có bệnh.
VÙNG CƠ QUAN
HUYỆT
ĐẦU
* Đỉnh đầu
126, 103, 50, 51, 37, 87, 106, 365, 189
* Nửa bên đầu
41, 54, 55, 100, 180, 61, 3, 184, 437, 51, 235
* Sau đầu gáy
87, 106, 156, 26, 8, 65, 188, 290, 100, 54, 55, 201, 267, 127
Trán
60, 39, 51,  37, 106, 61, 103, 197
* Toàn đầu
37, 50, 103, 87, 51, 19, 0, 26
* Tai
65, 179, 290, 235, 197, 45, 41, 421, 145, 15, 138, 57, 0, 332
Gờ mày
156, 457
* Mắt
102, 100, 130,  188, 196, 80, 330, 197, 175, 423, 103, 422, 421, 16, 6, 106, 12
* Mũi
126, 377, 379, 103, 106, 107, 108, 26, 184, 1, 61, 39, 138,
467, 7, 50, 19, 3,  240
Môi,  miệng
37, 39, 61, 3, 53, 236, 127,  228, 29, 227, 226, 8
* Cổ
26, 19, 8, 12, 106, 107, 20, 290
Họng
8, 312, 61, 14, 275, 96, 109, 19, 26
Lưỡi
8, 79, 312, 57, 60, 26, 109, 196, 61
* Răng
8, 188, 196, 26, 34, 57, 60, 39, 38, 45, 127, 22, 300, 0, 180, 14, 100, 3, 16
Mặt
60, 57, 37, 58, 61,  39, 3
VAI – TAY
* Bả vai
477, 106, 107, 310, 360, 34, 97, 98, 13,421, 120, 139, 38, 12, 4, 0, 124
* Khớp vai
88, 65, 559, 278, 564, 73, 354, 219
* Cánh tay  trên
97, 98, 99, 360, 267, 60, 51, 38, 0, 73
* Khuỷu tay
28, 9899360, 267, 60, 51, 0, 73
* Cổ tay
100, 130, 235, 41, 70, 131, 0
* Bàn tay
460, 130, 60
* Các khớp ngón tay
19460, 130, 60, 50
* Ngón tay cái
61180, 3
* Ngón tay trỏ
319,39, 177, 100
* Ngón tay giữa
3844, 195, 50
* Ngón tay áp út
29, 222, 185, 459
* Ngón tay út
85191, 60, 0
MÔNG – ĐÙI - CHÂN
* Mông
5,210,219,377,277,91
* Háng
64,74,145
* Đùi
7,17,113,38,37,50,3,19
* Khoeo (nhượng)
29,222,
* Đầu gối
9,96,197,39,156,422,129
* Cẳng chân
6,96,156,50,300,85
* Cổ chân
107,310,347
* Bàn chân
34,51,
* Gót chân
127,107,310,461,286
* Ngón chân cái
97,254,343
* Ngón chân trỏ
255,34,344
* Ngón chân giữa
256,345,477,65
* Ngón chân áp út
257,346,240
* Ngón chân út
292,293,26
NGỰC – LƯNG – BỤNG
* Ngực
189,73,467,491,269,3,60,13
* Vú
60,63,12,73,39,59,179,283
* Cột sống lưng
19,342,1,143,63,558,559,560,219,19
* Thắt lưng
290,1,19,43,45,342,341,300,21,0,210,560,127
* Giữa hai bả vai
310,491,360,565,561,421,420,332
* Quanh rốn (bụng)
127,0,113,29,222,53,63
* Trên rốn
19,63,53,61,58,39,37,50,7,17,113
* Dưới rốn
127,22,87,235,156,347,236,227
DA – NIÊM MẠC
26361, 19, 79, 13
NÃO – THẦN KINH
1, 124, 103, 300, 34, 126, 125, 65, 197, 175, 8
CƠ QUAN SINH DỤC
* Dương vật
19,63, 1,50,0,26,37,53,235,23,174
* Dịch hoàn
7,113,287,73,156,35,65
* Âm hộ, âm đạo
3,63,19
* Tử cung
61,63,1,53,19,174,23
* Buồng trứng
7,113,287,65,73,156,347,210
* Hậu môn
19, 126, 36550, 127, 143
NỘI TẠNG
* Tim (Tâm – Tâm bào)
8,12,20,269,34,54,55,276,59,60,57,106,107,191,103,87,127
* Ruột non (Tiểu trường)
127,22,34,8,236, 226,227,228,29
* Gan (Can)
50, 103,197,58,189,423+,233,356,47,303,421+,70
* Mật (Đởm)
41,184,139,54,55,124+
* Lá lách (Tỳ)
37,40,124-,132,481,423
* Tụy tạng (Tỳ)
38,63, 7,113,17
* Bao tử (Vị)
39,120,121,64,5,7,113,37,61,54,55,45,63,19,50,127,
310,405,34,74,,421
* Phổi (Phế)
26,3,13,61,28,132,491,125,128,269,276,279,275,109,310,360
* Ruột già (Đại trường)
342,19,38,9,143,104,105,561,98,97,510
* Thận
0,300,1,45,19, 43,290,17,29,22,38,560,210,342,301,302,73
219
* Bọng đái
85,87,22,235,53,26,126,29,3,290,60,89,73
PHÂN LOẠI HUYỆT THEO TÁC DỤNG
TÁC DỤNG
HUYỆT
(1)
(2)
* Hạ huyết áp
54,55,26,61,3,8,12,14,15,16,29,222,57,85,87,51,41
180,100,39,188,277,173,143
* Tăng huyết áp
50,19,1,63,53,103,126,300,37,23,0,6
* Giảng khí
26,3,51,143,87,104,14,15,16,173,39,38
* Thăng khí
1,9,50,189,103,126,6,22,127,23,287
* Làm mát (Hạ nhiệt)
26,3,8,38,29, 85,87,222,143,180,100,4,15,16,235
* Làm ấm
0,1,37,50,19,17,7,6,559,558,43,127,73,63
* Lợi tiểu
26,3,29,222,85,87,40,37,290,235
* Cầm tiểu
0,16,37,87,103,1,300,126
* Nhuận trường
19,143,3, 41,38,50,97,98,29,70
* Giảm tiết dịch
103,1,0, 15, 16, 126,7,63,17,287, 22,50,53,29,260,21,
235,3,61
* Tăng tiết dịch
26, 3,29,19,39,85,14,275,87,53,61
* Tiêu viêm, tiêu độc
26,3,38,50,41,16, 60,57,61,143, 85,29,5,17
* Tiêu bướu, khối u
104,61,38,184,17,103,,39,73,8,12,15,127,19,1,64,14,
233
* Tiêu đàm, lỏng đàm
132, 37,26,275,3, 467,491,28,14,64
* Tiêu mỡ
233,41,50,37,38,85,113,7,39
* Tiêu hơi, thông khí
104, 3,26,38,19,28,235,413,184,50,189
* Giải độc
26,3, 85,87,38,50,41,290,235,14,15,1,9,0,143
* Cầm máu
16, 61, 0, 50, 37, 6, 17, 7, 287, 124, 34
* Chống co hơi (điều chỉnh)
19, 16, 61, 63, 87, 156, 3,269,1 27, 290, 560, 53, 38, 74, 64, 120, 121, 39, 477
* Ổn định thần kinh
124,34, 103,106,267,300,0,26,50,1,37
* Tăng lực
50,6,0,19,1,,103,22,127,300,73,43,45,62
* Tăng sức đề kháng
0,300,1,50,37,19,7,113,127,22,45,61,17,156
* Tăng cường tính miễn nhiễm
7,135,156,50,37,300, 127,6,0,26,3,38,17
PHÂN LOẠI “HUYỆT” THEO “TRIỆU CHỨNG CẢM GIÁC”
TRIỆU CHỨNG CẢM GIÁC
HUYỆT
* Đau
41,87,85,34,61,14,16,50,38,156,37,39,0,19
* Nhức
39,45,43,300, 17,301,302,560,0
* Tức, lói
50,41,38,28,132,60, 269,421,120,3,189,0
* Ngứa
17,61,3, 38,85,87,50,41,124,34,0,26
* Rát, xót xa
26,3,61,125
* Nhột
26,3,61,50
* Tê, mất cảm giác
37,60,59,8,58,40
* Chóng mặt
63, 106,65,60,8,50,26,15,127,19,0
* Nghẹn, nghẹt
19,14,275,61,39,26,312,184,85,87
* Co giật
50,19,103,124,26,63
* Run rẩy
50,45, 300, 127, 73,6,124,0
* Lờ đờ mệt mỏi
127,19,50,37,6,1,22,63,113,73,300, 0,62
* Nóng
26,3,143,13,51,85,87,180,100,130,16,14,15
* Lạnh
127,73,6,7,,113,300,50,7



Bài giảng 18: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp

Bài 18: Bí mật vùng đầu phần đầu nhìn từ bên trên
Phản chiếu đồ hình dương
Đây là phần phát triển của Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp, chúng tôi tìm ra da đầu là phản chiếu da mặt, hay nói khác đi, da đầu là phần âm, da mặt là phần dương.
Dó đó toàn bộ các hệ thống phản chiếu của da mặt được phản chiếu một lần nữa lên da đầu qua trục bản lề MÍ TÓC TRÁN và ĐƯỜNG TIẾP TUYẾN VỚI BÌNH TAI (qua huyệt số 0 và 138).
Phần đầu nhìn nghiêng
Qua đồ hình dương, xuất hiện ở vùng đầu , ta có thể dùng búa gõ (Mai hoa hay Gôm), cây lăn, cây dò, cây cào để phát hiện vùng nào của cơ quan nào bị bệnh. Khi đã phát hiện vùng đau hay điểm có cảm giác khó chịu  (sinh huyệt) ta lấy búa gõ vào huyệt trên, vừa gõ vừa theo dõi xem bệnh nhân có dễ chịu hay không. Nếu có, gõ cho đến khi thấy thật sự dễ chịu (Lưu ý: Trước khi Gõ, nên LĂN, CÀO khoảng 5 – 10 phút cho khí huyết lưu thông)
Mời các bạn  xem những ĐIỂM và VÙNG ĐẦU tương ứng với bộ mặt và xa hơn nữa là tương ứng với toàn cơ thể.
PHẦN PHẢN CHIẾU VÙNG ĐẦU
ĐẦU
1. ĐẦU
1. Phần trên mí tóc trán (từ huyệt Thượng tinh trở lên vài phân)
2. VAI- CÁNH TAY
2. Từ trục dọc giữa đỉnh đầu bàng khai ra vùng có các huyệt Thừa quang,Mục song va 2phía sau Đầu duy
3. BÀN TAY VÀ CÁC NGÓN
3. Vùng các huyệt Hàm yến, Huyền tử, Huyền ly
4. CỘT SỐNG
4. Trục dọc giữa đỉnh đầu, tiếp theo phân 1 nếu kéo dài đến huyệt Bá hội.
5. MÔNG
5. Phần trước huyệt Bá hội một chút và bàng khai ra hai bên khoảng vài phân.
6. ĐÙI –GỐI
6. Từ Bá hội đi hơi chéo xuống sau và trên đỉnh tai (vùng huyệt chính doanh. Thiên xung)
7. CẲNG CHÂN-BÀN CHÂN-NGÓN CHÂN
7. Từ phần trên kéo vòng ra sau  CHẪM ( vùng huyệt ngọc chẫm, Não bộ) và mí tóc gáy.
Cách sử dụng hệ phản chiếu nói trên trong việc chữa  bệnh:
Khi có bệnh ở ĐẦU, MÌNH và TỨ CHI (phần ngoại vi) , ta dùng BÚA (cao su, mai hoa) hoặc các dụng cụ khác (QUE DÒ, CÂY CÀO, CÂY LĂN, NGÓN TAY) tác động  vào sinh huyệt xuất hiện hệ phản chiếu nói trên tương ứng với bộ vị của ơc thể. Ví dụ: Đau mỏi vai, tay ( vùng các bộ vị cơ thể) , ta lấy BÚA GÕ vào vùng TAY, VAI của đồ hình DƯƠNG (hình người đàn ông ở trong tư thế nằm sấp), để tìm ĐIỂM tương ứng của cơ thể . Nếu bệnh nhân đau lưng, ta gõ vào Lưng của đồ hình. Cũng thế cho các phân khác của cơ thể (mỗi huyệt tác động 2-3 lần cách khoảng và mỗi ngày tác  động 2-3 đợt (sáng trưa chiều) sẽ có hiệu quả hơn. Có thể đổi phương tiện tác động nếu không có kết quả. Ví dụ: có thể hơ bằng ngải cứu hay dùng QUE DÒ huyệt để DAY ẤN,…



Bài giảng 19: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp


Bài 19: Kỹ thuật hơ nóng các huyệt trên cơ thể theo DC - ĐKLP
Con người là một sinh vật rất nhỏ bé trong vũ trụ nên chịu tác động rất lớn của những biến chuyển trong trời đất, không kể những yếu tố khó thấy như: vũ trụ tuyến, tia tử ngoại, tia hồng ngoại, từ trường…
Tuy nhiên yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của con người dễ thấy nhầt là nhiệt độ. Sự nóng lạnh nếu vừa phải thì tốt, nếu quá đều gây ra bệnh tật, thậm chí chết chóc cho con người. Chính vì biết nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến con người mà loài người nagy từ thuở xa xưa cũng đã biết dùng lửa và nước để phòng chống bệnh tật hay làm cho mình khỏe mạnh hơn.
Tất nhiên, ở mỗi nơi, mỗi nước có hình thức trị liệu bằng sức nóng khác nhau. Riêng ở Châu Á thì rất lâu, ngoài việc biết dùng vật nhọn kích thích một số điểm mẫn cảm trên cơ thể để trị bệnh, về sau biến thành hình thức CHÂM bằng kim, người ta còn biết dùng LỬA để hơ nóng vào nơi đang đau để làm giảm đau, hình thức này về sau đưa đến việc CỨU bằng ngải nhung trực tiếp hay gián tiếp trên huyệt, đem lại hiệu quả trị bệnh, đôi khi rất kì diệu.
Ở những nơi lạnh lẽo, người ta thương cứu nhiều hơn châm, vì hình thức này đem lại sức nóng dẽ chịu và kết quả rõ rệt trên nhiều bệnh nhất là bệnh có gốc HƯ HÀN. Ngày nay, ở nước ta, các thầy thuốc hay dùng ÔN CHÂM thay vì dùng điếu ngải nhung để CỨU trực tiếp như trước đây. Như thế là từ rất lâu, ở Á Châu , người ta biết dùng sức nóng để trị bệnh qua huyệt bằng hình thức cứu hay hơ về sau.
Trong việc này chúng tôi đề cập đến việc dùng phép CỨU hay HƠ nóng huyệt để trị bệnh nhưng theo một số nguyên lý mới.Nguyên lý này đước chúng tôi xây dựng qua việc phát hiện trước đó về một đặc tính của DA và HUYỆT từ câu (PHẾ CHỦ BÌ MAO) trong Nội kinh , chúng tôi đi đến suy nghĩ là DA LÔNG CŨNG THỞ NHƯ PHỔI. Mà nói đến thở là có thở ra và hít vào (tức là hô hấp). Các huyệt trong cơ thể vì nằm trong hệ da, lông nên cũng mang đặc tính của hệ da là htở ra và hít vào, nhưng thở ra hít vào trong nguy6en tắc tự điều chỉnh của cơ thể, tức là hô và hấp khi cần thiết, nghĩa là khi cơ thể bị bệnh hoặc bị trục trặc một cơ quan nào đó, bộ phận hay tòan cơ thể. Khí có các huyệt có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến cơ quan bị bệnh sẽ mở ra hút lấy năng lượng vũ trụ (khí) vào để tự điều chỉnh lấy nó( Đạo trời đất một hô một hấp, một co một duii64, một mở một đóng, một lên một xuống). Và chỉ khi nào cơ thể bị bệnh nặng đến mức mất đi cơ chế tự điều chỉnh này thì mới không xảy ra hiện tượng trên. Do đó, vấn đề trị bệnh, thật ra là giúp cho cơ thể tự điều chỉnh nhanh, mạnh và có hiệu quả hơn mà thôi. Vai trò của thầy thuốc là vai trò hỗ trợ chứ không phải là thay thế cơ thể.
Trên đây là giả thiết của chúng tôi về đặc tính của huyệt. giả thuyết này sớm được xác minh ngay sau khi đưa vào thực tế trị bệnh. Rõ ràng là các huyệt trên mặt tương ứng với cơ quan đang bị bệnh, có hiện tượng hút hơi nóng vào khi được hơ bằng cây ngải cứu nhỏ dù để cách mặt da chứng 1cm. Hiện tượng này được xác minh bằng cách thử để lệch vị trí huyệt 1mm (một ly) thì sẽ không thấy hiện tượng nóng buốt nóng như phỏng, nóng như có luồng hơi hút xoáy sâu vào bên trong huyệt nữa mà chỉ có cảm giác ấm mà thôi. Rồi sau đó giảm dần để rồi chỉ có cảm giác ấm bình thường dù vẫn giữ nguyên vị trí và cách mặt da cùng cự ly.
Thời gian vừa nói lâu hay mau là tùy ở tình trạng bệnh nặng hay nhẹ và tùy ở diễn biến của bệnh. Nếu bệnh mau lành thì huyệt liên hệ với cơ quan đang bệnh mau đóng lại (và ngược lại sẽ lâu có hiện tượng bão hòa khi huyệt hấp thụ đủ nhiệt năng cần thiết để điều chỉnh nơi đang cần. Và khi đó huyệt sẽ thôi không hút sức nóng từ điếu ngải cứu tỏa ra nữa. Dù cho ta có để lâu cả phút cũng chỉ có cảm giác ấm ở MẶT DA mà thôi. Hiện tượng này xảy ra ở các huyệt khắp nơi trên cơ thể chứ không chỉ ở các huyệt trên mặt.
* KỸ THUẬT HƠ NÓNG CÁC HUYỆT TRÊN MẶT:
Từ việc khám phá ra nguyên lý mới về huyệt và các hiện tượng trình bày trên, chúng tôi tiến hành việc chẩn đoán và điều trị bằng cách: Điếu ngải cứ quấn nhỏ hơn điếu ngải vẫn thường dùng cho THỂ CHÂM (điếu ngải này chỉ to bằng điếu thuốc lá). Bằng cách cầm điếu ngải giữa hai ngón trỏ và ngón cái, với ngón út để nhẹ trên mặt da làm chổ tựa, ta di chuyển chầm chậm (rà) điếu ngải trên mặt da khoảng 1cm, và để ý xem chổ nào thì bệnh nhân né mặt và kêu nóng quá. Kinh nghiệm cho biết rằng: nếu rà đúng huyệt đang mở(sinh huyệt) thì không quá 2 giây, bệnh nhân sẽ cảm thấy nóng ngay. Một cảm giác nóng dữ dội như bị phỏng và nhói buuốt sâu trong da thịt như có lực hút xoáy vào trong một cái lỗ gây cảm giác nóng nà nhức buốt (đôi khi nóng rát, nóng ngứa), khiến người bệnh không thể nào chịu đựng nổi, phải né mặt kêu lên.
Trái lại, nếu không có những hiện tượng như trên mà chỉ có cảm giác ấm thì không phải là huyệt đang có như cầu của nó. Tất nhiên là không nên mất thì giờ hơ làm gì vì không có tác dụng. Đối với việc chữa bệnh bằng phương pháp DIỆN CHẨN – ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP thì ta chỉ việc căn cứ vào các đồ hình và sinh huyệt trên vùng mặt, đầu, cồ ,gáy tức là những điểm cực kỳ nhạy cảm với sức nóng của điếu ngải tỏa ra, để định bệnh và điều trị (đặc biệt trong DC-ĐKLP, điểm chẩn đóan cũng là điểm để điều trị bệnh)
Còn với các huyệt trong cơ thể thì ta dò các sinh huyệt nằm trên các đồ hình phản chiếu khắp các bộ phận của cơ thể (theo hệ phản chiếu của DC-ĐKLP) để chẩn đoán và trị bệnh. T6át cả cũng đều cùng một nguyên lý như các huyệt trên mặt.
* KẾT QUẢ BAN ĐẦU:
Cho đến nay, sau một năm phát hiện và áp dụng nguyên lý trên trong việc chẩn trị, chúng tôi thấy đây là một phương pháp có tác dụng và hiệu quả rất cao trên nhiều loại bệnh, nhất là các bệnh HƯ HÀN như:cảm lạnh, nhức đầu do lạnh, suy nhược cơ thể, viêm đại tràng mạn tính, đau lưng, nhức mỏi, thấp khớp, suyển hàn, viêm mũi dị ứng, đau bụng kinh,…Các bệnh đặc biệt như di chứng tai biến mạch máu não, bầm sưng do chấn thương..cũng đều có kết quả đáng ngạc nhiên.
TÓM LẠI, cách hơ nóng huyệt vừa trình bày có tác dụng làm thông kinh hoạt lạc rất mạnh và rất nhanh, làm tan huyết ứ, khí bế, làm mềm cơ, mạch gân, ngoài ra cũng làm an thần và trấn thống, tiêu đàm tích rất tốt. Tuy nhiên, nó cũng có những hạ chế, do đó không hợp với những bệnh sau: U bướu trong cơ thể, nhất là ở bộ phận sinh dục nữ (như U XƠ TỬ CUNG, BƯỚU BUỒNG TRỨNG) , loét dạ dày, viêm gan…Cho nên phải cẩn thận không nên hơ nhiều càc huyệt thuộc gan, dạ dày
Lưu ý: Dù đem lại hiệu quả cao cho nhiều bệnh kỹ thuật này vẫn có những bất tiện, như sau:
- Các huyệt hút nóng rất dữ dội cho nên rất dễ gây phỏng, nếu ta hơ lâu một huyệt . Dó đó, phải đổi sang huyệt khác, sau khi bệnh nhân né mặt ba lần. Sau đó có thể hơ trở lại trong lượt thứ nhì của phác đồ điều trị (có lẽ thuở xưa, cổ nhân cấm CỨU các huyệt trên mặt, vì sợ gây phỏng mặt cho bệnh nhân và tăng khí dương nhiều quá).
- Không nên hơ quá nhiều huyệt trong mỗi lần điều trị (Phác đồ có quá nhiều huyệt_. Điều này sẽ gây ra những hiện tượng nóng nhiệt trong người như nổi mụn nhọt, ngầy ngật, táo bón, khó ngủ,…
- Mỗi ngày chỉ hơ một lần, nếu không sẽ gặp những hậu quả nêu trên. Nếu bệnh đã giảm nên cách ngày hơ một lần.
Ngoài việc sử dụng ngải cứu, ta có thể dùng bất cứ phương itện gì tỏa nhiệt như: thuốc lá, nhang, tia sóng ngắn đều có tác dụng trị bệnh tương tự như ngải cứu. Điều này sẽ giúp cho bệnh nhân tự trị được một số bệnh thông thường chủ yếu là các bệnh do rối loạn các chức năng, ở nhà, góp phần thực hiện chủ trương biến người bệnh thành người chữa bệnh trong phạm vi chăm sóc sức khỏe ban đầu, mạng lưới Y tế gia đình, chữa bệnh tại nhà.


Bài giảng 20: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp

Bài giảng 20: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp

Bài 20: Vina Massage
Vina: Việt Nam Massage: Xoa bóp, Vinamassage là tên gọi của một phương pháp xoa bóp mới do chúng tôi nghiên cứu lập ra trong thời gian gần đây (1988-1989).
Nó được xây dựng từ những nguyên lý của Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp như nguyên lý phản chiếu, Đồng bộ thổ điểm, đồng ứng, giao thoa,…cũng như Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp. Đây cũng là tác phẩm tổng hợp có sáng tạo từ Ba nền Y học: Đông, Tây và Y học dân gian.
Vinamassage như tên gọi là một môn xoa bóp, do đó không nên dùng kim châm mà chủ yếu là sử dụng các dụng cụ để xoa bóp do chúng tôi sáng chế ra (từ năm 1983) như CÂY LĂN (Mini roller), CÂY CÀO (Mini raker), CÂY BÚA ( Mini hammer with rubber tip), QUE DÒ HUYỆT(Finding point stick) và phạm vi tác dụng của nó là toàn thân chứ không khu trú ở một bộ phận nào.
Chúng ta đã biết, cho đến nay, trên thế giới có 3 khuynh hướng xoa bóp chính: một là theo Tây Y lấy hệ thần kinh làm cơ sở, hai là theo Đông y lấy hệ kinh huyệt làm nền tảng, khuynh hướng thứ 3 là tổng hợp vừa theo Đông Y vừa theo Tây Y.
Vinamassage E là phương pháp kế thừa và tổng hợp tinh thần và tinh túy của 3 nền Y học: Dân gian, cổ truyền và hiện đại, nên không những kế thừa vận dụng tất cả kiến thức của Tây Y trong việc giải thích cũng như ứng dụng (như: Giải phẫu học, sinh lý học, thần kinh học…)và Đông Y như thuyết chỉnh thể, Âm dương, Ngũ hành, hệ Kinh lạc…Mà còn đưa ra được những khám phá mới của mình về các hệ phản chiếu trên toàn thân và đặc biệt là các lý luận đặc thù của nó. Do đó, trên lâm sàng, dù lấy hệ phản chiếu trên toàn thân là mục tiêu tác động chính, nó vẫn không loại trừ sự tác động vào các hệ khác của cơ thể mà y học hiện đại cũng như ổc truyền đã khám phá được như: hệ thần kinh, hệ bạch huyết, hệ Zakharin- Head, Tiết đoạn thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ cơ bắp, hệ phản xạ thuộc các hệ thống nhỏ (Micro-system) và hệ Kinh lạc,..
Tuy nhiên với một điều kiện hết sức quan trọng là tùy ở tình trạng bệnh lý hiện tại của bệnh nhân, hệ thống nào phát ra tín hiệu bệnh lý thì lấy hệ đó là mục tiêu chính để tác động (chứ không phải lúc nào cũng dùng tất cả các hệ)…Đó là quy tắc ứng dụng (có ứng mới dùng).
Tại sao chúng tôi lại đề ra phương pháp trị bệnh này?
Vì qua nhiều năm nghiên cứu và điều trị bệnh, chúng tôi phát hiện được một điều rất quan trọng là các hệ thống trong cơ thể, chủ yếu là các hệ thống không thể thấy được bằng mắt thường như hệ Kinh lạc, hệ phản chiếu không có tính chất cố định (Non fixé) và ĐỘC NHẤT MÀ LUÔN THAY ĐỔI BIẾN THIÊN TÙY THEO SỰ DIỄN BIẾN CỦA TÌNH TRẠNG BỆNH LÝ ĐANG XẢY RA TRONG CƠ THỂ, và do đó DƯA ĐẾN TÌNH TRẠNG THỰC TẾ LÀ PHẢI CÓ NHIỀU HỆ PHẢN CHIẾU CHỨ KHÔNG THỂ CÓ MỘT HỆ ĐỘC NHẤT VÀ CỐ ĐỊNH.
Tức là tùy theo sự chi phối của QUY LUẬT lúc bấy giờ mà hệ này sẽ biến thành hệ khác, tương tự phép biến đổi điểm trong toán học. Ví dụ: MŨI tương ứng với LƯNG nhưng có lúc nó lại tương ứng với TỬ CUNG hay PHẾ QUẢN hoặc DƯƠNG VẬT..hoặc PHẾ KINH, có lúc n1o không còn là PHẾ KINH nữa mà là TỲ KINH (hay kinh nào khác), khi đó cổ tay sẽ là cổ chân và ngóntay cái sẽ là ngón chân cái và huyệt Thiếu Thương sẽ thành sẽ thành huyệt Ẩn bạch, Ngư tế sẽ thành Đại đô…tức là nếu khu vực hay bộ phận nào đó đã biến đổi để tương ứng với bộ phận khác trong cơ thể thì các huyệt nằm trong khu vực hay hệ thống đó cũng phải theo cho phù hợp. Tóm lại, A có thể trở thành B hay C hay D (cũng có nghĩa là A không hcỉ là A mà còn là B,C,D nữa) là tùy ở diễn biến của cơ thể qua các thời điểm khác nhau. Khi đó những chi tiết (huyệt, các bộ phận nhỏ)  nằm trong hệ thống cũ cũng biến đổi theo cho phù hợp với hệ thống mới. Ví dụ: A trở thành B thì a cũng phải trở thành b. Dựa vào thực tế lúc bấy giờ, ta chữa bệnh bằng phương pháp DC-ĐKLP hay Vinamassage sẽ dùng những kỹ thuật đặc biệt để xác định các khu vực của ơc thể lúc bấy giờ là tương ứng với A,B hay C. Từ đó, chọn dụng cụ thích hợp để tác động vào điểm thích ứng.
Vì thế, chúng tôi kết luận là : Xét về mặt ứng dụng, không có một bộ phận hay khu vực nào tương ứng cố định và độc nhất với một bộ phận khác của cơ thể và như thế sẽ không có hệ thống (hay huyệt) nào có giá trị ưu thế so với những cái khác khi nó có vấn đề và được tác động đúng lúc, đ1ung chổ, đúng cách và đúng mức (cũng như trong DC-ĐKLP, không có dụng cụ nào có giá trị nhất mà mỗi dụng cụ chỉ chứng tỏ được giá trị cao nhất của nó khi nó  được sử dụng đúng trong mỗi trường hợp của nó). Ví dụ: Trường hợp Vẹo cổ, bong gân thì dùng búa gõ (đầu cao su) là hay nhất, nhưng đối với tê tay chân do khí huyết không thông thì cây lăn là hay nhất chứ không phải là cây búa. Nói khác đi, giá trị của một vật có được là tùy vào sự đối đãi mà ra, không có gì đứng một mình mà có giá trị cả.
Do đó, trên lâm sàng chúng tôi cần khám xem hệ nào bị trục trắc, khi đ1o sẽ tác động vào hệ đ1o. VÍ DỤ: một bệnh nhân bị đau Lưỡi, sau khi tìm điểm phản chiếu của hệ phản chiếu trong DC-ĐKLP đều không thấy phản ứng mà ta lại tìm thấy điểm phản ứng (gọi là sinh huyệt) .Ở cạnh cằm, là vùng lưỡi thuộc hệ Zakharin-Head lúc đó ta phải tác điộng vào điểm này mới có kết quả, đó là ta sử dụng hệ Zakharin-Head . Hoặc một người bị đau cớ bắp ta mà ta không tìm thấy điểm phản chiếu nào hay kinh huyệt nào phản ứng thì do hệ cơ tại chổ đau, khi đó ta phải tác động tại chổ đau là chủ yếu.Cũng tương tự như thế nếu một bệnh nhân bị nóng Thận (theo Đông Y) mà khám không thấy điểm thận nào trong hệ phản chiếu ở mặt báo tín hiệu trái lại chỉ tìm thấy điểm báo rõ nét nhất ở huyệt Nhiên cốc (Hỏa huyệt của Thận kinh) và sau khi tác động vào nó, ta thấy bệnh giảm rõ rết nhanh chóng thì lúc bấy giờ huyệt Nhiên cốc mới là cái nút để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, đây là những trường hợp ít xảy ra vì hiện nay con số các hệ phản chiếu của DC-ĐKLP hay Vinamassage đã được khám phá rất nhiều, do đó thường là chúng ta sẽ tìm thấy tín hiệu cần tìm trên hệ thống phản chiếu đa hệ này.
Ngoài ra , vì con người là một thể thống nhất, mọi cơ quan, bộ phận đều có liên hệ với nhau nên chúng tôi cũng không quên nguyên tắc nâng cao tổng trạng của cơ thể trong hầu hết các bệnh nặng và khó, nhất là đối với những người già yếu, suy nhược cơ thể (bằng xoa bóp, khở động toàn thân) để phốo hợp việc chữa cơ quan, bộ phận đang trực tiếp bị bệnh, cũng như vận dụng nguyên tắc Âm dương, Ngũ hành, Sinh khắc, Tạng tượng, Kinh lạc vào việc điều chỉnh các bấtb ổn trong cơ thể. Tóm lại, nguyên tắc điều trị của chúng tôi là phối hợp tổng quát với cá biệt, gián tiếp  với trực tiếp, gốc với ngọn, diện với điểm, lý luận với kinh nghiệm thực tiễn, tay chân với dụng cụ.
Tuy lý thuyết phức tạp, nhưng trên thực tế thực hiện lại khá đơn giản. Cụ thể như chúng ta có thể hướng dẫn cho những người mới bắt đầu, chỉ cần dùng dụng cụ dò tìm các vùng và điểm phản ứng rõ nét của ừtng khu vực phản chiếu có liên quan đến cơ quan đang bệnh, để tác động bằng dụng cụ thích hợp với bệnh. Kết quả thường đến một cách rõ rệt và nhanh chóng, nhất là đối với các bệnh mới và bệnh đã lâu, bệnh khó hoặc bệnh già yếu thì không quá 3 lần là phải có chuyển biến tốt ít nhiều. Nếu hoàn toàn không có kết quả thì chúng ta phải xem lại đã chọn đúng hệ thống bị bệnh và đã tác động đúng cách, đúng mức chưa?
Tóm lại, Vinamassage, có những điểm mới và khác so với  những phướng pháp đã có như sau:
1. Tác động chủ yếu vào các hệ thống phản chiếu  trong toàn thân, nhưng không loại trừ tác động vào các hệ khác  nếu các hệ này có phát ra tín hiệu bệnh lý rõ nét và có hiệu quả nhanh chóng khi tác động vào.
2. Chỉ tác động vào những vùng điểm và điểm của hệ đang có biểu hiện bệnh lý (tín hiệu) chứ không tác động vào vùng và điểm của các hệ thống không phát ra tín hiệu để tiết kiệm thời giờ, công sức mà lại đạt hiệu quả cao một cách nhanh chóng nhất.
3. Phối hợp tác động DIỆN (vùng, cả bộ phận), TUYẾN (kinh đường dài) và ĐIỂM chứ không đơn thuần tác động vào điểm Tuyến hay Diện, nhưng chủ yếu là tác động điểm.
4. Phối hợp tác động TRỰC TIẾP hay GIÁN TIẾP (ở gần, tại chổ, ở xa) nhưng chủ yếu là tác động GIÁN TIẾP (không phải tại nơi đang có bệnh). Tương tự như lối ĐAU NAM CHỮA BẮC trong dân gian. Ví dụ: Đau đầu gối lại chữa ở cùi chỏ, đau cổ chân thì chữa ở cổ tay, đau bàn chân thì chữa ở bàn tay.
5. Phối hợp sử dụng TAY CHÂN và DỤNG CỤ, nhưng dụng cụ là chính.
6. Chọn dụng cụ và thủ pháp thích hợp cho từng bộ phận và từng bệnh khác nhau chứ không nhất thiết khi nào cũng dùng tất cả dụng cụ cùng một lúc.
7. Khám phá ra mỗi bộ phận đặc thù như Mặt, Đầu, Mình, Tay, bàn tay, bàn chân, Lưng,…có nhiều hệ phản chiếu khác nhau chứ không phải chỉ có một hệ thống phản chiếu duy nhất và điểm đặc biệt là các hệ này không xuất hiện cùng lúc mà tùy từng lúc sẽ xuất hiện hệ này hay hệ kia. Nói khác đi, một bộ phận trong cơ thể có thể tương ứng với nhiều bộ phận khác trong cơ thể, nhưng tùy trường hợp bệnh, tùy lúc mà phản chiếu (tương ứng) bộ phận này hay bộ phận kia. Nguyên tắc ĐỒNG ỨNG sẽ chỉ cho ta lúc này bộ phận này sẽ tương ứng với bộ phận khác trong cơ thể. Như thế, VINAMASSAGE cũng như FACY(DC-ĐKLP) có thể coi như là một bộ máy phản chiếu đa hệ (MULTISYSTEM OF REFLECTION) chứ không phải là một HỆ PHẢN CHIẾU DUY NHẤT (Monosystem of Reflection) như NHĨ CHÂM, ĐẦU CHÂM, TÚC CHÂM, THỦ CHÂM đã có.
Vinamassage là một phương pháp xoa bóp mới có tính chất tổng hợp, toàn diện, linh động và sáng tạo, phạm vi tác động của nó là toàn thân, phương tiện sử dụng của nó là dụng cụ.
Trên lâm sàng, để đạt kết quả tốt và chắc chắn, chúng ta cần phải tuân thủ các quy tắc sau: ĐỒNG ỨNG, ỨNG HIỆN, ỨNG DỤNG, ĐỘNG ỨNG, ĐỘNG BIẾN, TỨ ĐẮC (Đắc thời, đắc pháp, đắc vị, đắc độ) và TAM BIẾN (3 Phép biến:biến về đồ hình, về huyệt, dụng cụ)
Cho đến nay, chúng tôi đã tìm ra nhiều HỆ phản chiếu trên toàn thân, và đặc biệt là tại một bộ phận nào đó của cơ thể từ lớn (như Lưng) đến nhỏ (ngón tay, ngón chân), chúng tôi cũng đều tìm thấy nhiều hệ phản chiếu khác nhau, tùy theo trạng thái bệnh lý ở thời điểm đó mà một bộ phận hay một điểm của bộ phận đó sẽ phản chiếu bộ pậhn này hay bộ phận khác của cơ thể.
Ví dụ: Cổ tay có khi tương ứng với cổ, gáy có khi lại tương ứng với cổ chân – lòng bàn tay ứng với lòng bàn chân. Đối với khớp ngón tay cũng thế. Tóm lại, hiện nay trong Vinamassage, chúng tôi vận dụng rất linh hoạt nhờ nắm vững hai nguyên lý lớn: TẤT CẢ LÀ MỘT, MỘT LÀ TẤT CẢ: cũng như nguyên tắc BIẾN DỊCH của tất cả cá hệ phản chiếu và các Hệ khác như hệ thần kinh, hệ tuần hoàn…trên cơ thể sống
Sau đây, chúng tôi giới thiệu một số đồ hình phản chiếu ở vùng Lưng, lưng là một bộ phận quan trọng đối với con người. Vừa qua, theo sự phát hiện của chúng tôi, nó phản chiếu nhiều bộ phận trên đó như phản chiếu hai bàn chân(các ngón chân ở bả vai, hai gót ở bờ mông), hai bàn tay(các ngón ở bả vai, hai cùi tay, cằm ở hai bờ mông), bộ mặt từ chân mày xuống cằm (hai chân mày ở hai bả vai, cằm ở giữa hai bờ mông). Ngược lại các ngón tay, ngón chân sẽ phản chiếu bả vai, cùi tay, gót chân sẽ phản chiếu mông và còn nhiều hệ phản chiếu khác sẽ trình bày đầy đủ sau này.
Đặc điểm này ở đây là vì nó phản chiếu bàn chân, bàn tay hay bộbmặt nên LƯNG cũng phản chiếu luôn phần phản chiếu của Bàn tay, bàn chân hay bộ mặt (tức là PHẢN CHIẾU CỦA PHẢN CHIẾU). Để hiểu rõ vấn đề này, phải nghiên cứu thêm các hệ phản chiếu của DC-ĐKLP và phản xạ Bàn tay, Bàn chân…Phần điều trị, căn cứ vào hệ phản chiếu này, ta sẽ có nhiều đáp số giải quyết vấn đề bệnh lý của con người.
Vấn đề quan trọng và sự khác biệt của Vinamassage với các môn Phản xạ liệu pháp khác là các Đồ hình phản chiếu trên không cố định (Non fixé) nói một cách khác là nó không có giá trị tuyệt đối trong tất cả các trường hợp mà nó thay đổi tùy từng thời điểm, từng trường hợp khác nhau. Do đó, một bộ phận có thể phản chiếu nhiều bộ phận khác trong cơ thể, nhưng vào thời điểm nào đó, nó sẽ phản chiếu cái gì.
Đó chính là vấn đề và đó cũng chính là sự hấp dẫn mới lạ của nó. Tất nhiên người áp dụng Vinamassage sẽ biết khi nào một vùng DA trong cơ thể là tương ứng với bộ phận này hay bộ phận khác.
* Về áp dụng thì cụ thể như sau: Nếu bạn đau các ngón chân, bạn dùng dụng cụ như CÂY BÚA GAI GÔM hoặc CÂY LĂN, QUE DÒ, ĐIẾU NGẢI, thủ phản ứng trên vùng Bả vai xem có phản ứng dương tính hay không, nếu có thì lúc bấy giờ Bả vai đang tương ứng với các ngón chân vậy. Ta chỉ việc dùng các thủ pháp Xoa bóp của VINAMASSAGE (bằng tay hay bằng dụng cụ) hoặc Cổ, Gáy đang mỏi đau, ta có thể kiểm tra xem có tín hiệu ở vùng Cổ tay không. Nếu có ta xoa bóp Cổ tay một lúc sẽ hết đau mỏi cổ, gáy ngay. Còn đối với bệnh mạn tính thì tất nhiên làm nhiều lần hơn. Bạn có thể áp dụng ngược lại tức là nếu Vai đang đau, bạn có thể xoa bóp các ngón chân nếu có phản ứng Dương tính và nếu kết quả đến nhanh chóng sau đó thì chắc chắn là bạn đã chọn đúng bộ phận tương ứng với nơi đang mắc bệnh.
Điều rất quan trọng của phương pháp này là ngoài việc chữa bệnh, phòng bệnh, nó còn giúp ta có một trí tuệ sắc sảo, năng động, giàu tưởng tượng, giàu óc suy luận, tôi luyện một tư duy sắc bén nhanh nhẹn, rất cần thiết cho cuộc sống ngày nay, cũng như giúp ta có cái nhìn “thoáng” hơn về cuộc sống, về con người và sự vật, không định kiến, vì lẽ thấy được tính tương đối và luôn luôn biến đổi (có thể nói là thiên biến vạn hóa) của sự vật. Đó là tinh thần SẮC KHÔNG của Phật học, PHÁ CHẤP của Thiền học, BIẾN DỊCH của Dịch lý. Những nguyên lý vĩ đại này được thể hiện rất rõ trên cơ thể sống của con người. Việc mà chúng tôi đã và đang làm chính là đưa tinh thần Triết học vào Y học. Cái mà chúng tôi đã từng gọi là Y học- Văn hóa- Triết học, tức là chúng tôi muốn thông qua Y học để hiểu Triết học, Văn hóa một cách sinh động cụ thể và dễ hiểu hơn (qua Rừng Y mới đến biển Đạo) và ngược lại dùng Triết học để hướng dẫn Y học. Như thế, với phương pháp này, chúng tôi không chỉ chữa bệnh của THÂN(sinh lỳ, bệnh lý) của con người mà còn chữa đựơc phần nào bệnh của TÂM (tâm lý, tinh thần), tức là giúp con người khỏe hơn, hiểu mình và người hơn, tự chủ hơn, minh triết hơn. Tất nhiên, việc làm đầy cao vọng này chỉ có thể được sự thông cảm đối với những ai ít nhiều chủng tử (Gien) đối với ĐẠO, chứ không phải đối với bất cứ ai (ĐỒNG THANH TƯƠNG ỨNG, ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU).
Rất mong các bạn chia sẻ cho ước vọng này.
                                                                                TP.HCM ngày 6 tháng 3 năm 1990



Bài giảng 21: Diện Chẩn điều khiển liệu pháp

Bài 21: Giới thiệu một số Phác đồ đặc hiệu
Nhằm mục đích giúp cho các học viên và các bạn yêu thích Diện Chẩn – Điều khiển liệu pháp có được Phác đồ đặc hiệu “giúp cho việc chữa bệnh có hiệu quả chắc chắn hơn và đỡ mất thì giờ dò dẫm vô ích” chúng tôi giới thiệu trong bài này một số “Phác đồ đặc hiệu”.
Những phác đồ này là kinh nghiệm trị liệu có kết quả của chúng tôi và anh em trong nhóm trong thời gain qua. Bước đầu chúng tôi giới thiệu một số vài chục “PHÁC ĐỒ” để các bạn tham khảo và áp dụng, có dịp chúng tôi sẽ trình bày đầy đảu hơn.
Cũng như có dịp trình bày trong sách “DIỆN CHẨN-ĐIỀU KHIỂN LIỆU PHÁP”, đây chỉ là “PHÁC ĐỒ” gợi ý về bệnh tật thì đa dạng và phức tạp, cho nên các bạn hãy coi những “PHÁC ĐỒ” dưới đây chỉ là “TIẾP CẬN CHÂN LÝ” chứ không pảhi là “CHÂN LÝ”. Vì như thế là quan niệm đúng đắn có tiến bộ được. Chúc các bạn vận dụng tốt và đạt nhiều kết quả trong thực tế điều trị.
1SUY NHƯỢC CƠ THỂ: (Do làm việc quá sức hay sau cơn đau ốm nặng hoặc thiếu ăn, mất ngủ trong thời gian dài gây ra)
            a/ Tăng lực: 0-22-62-162-1-460-300-301   (Nguyễn Linh – Long Khánh)
b/ Bổ máu: 37-28-50-0-14-41-19              (Nguyễn Văn Tân –Quận 5)
2. SUY NHƯỢC THẦN KINH:(Do làm việc trí óc nhiều quá khiến căng thẳng đầu óc, mất ngủ, kém trí nhớ, lâu ngày thành bệnh):
* 127-19-50-1-37-103-300-324-340-175-106-107-0  (Tạ Minh)
* 127-37-1-50-73-106-103                                                            (BQC)
Chú thích: Hai Phác đồ có thể dùng cai thuốc lá (thuốc lá đen có hiệu quả hơn hoặc người hay bị ớn lạnh, uể oải, chán đời). Người bị huyết áp cao tránh sử dụng Phác đồ này. Nếu dùng, phải sử dụng các Huyệt hạ áp như 26-51-156-55-14-16-8 trước đó
3. MẤT NGỦ:
a/ 127                                                                                       (BQC)
b/ 14-15-16                                                                                (BQC)
c/ 34-98-51                                (Nguyễn Thị Minh- ĐH Văn hóa Hà Nội)
d/ 0-1                            (B/s Nguyễn Đình Trứ - BV Quận Hoàn Kiếm Hà Nội)
4.BIẾNG ĂN:
a/ 39                                                                                         (BQC)
b/54-55                                                                         (BQC)
c/ 41-50-19-37-39                                                                       (BQC)
5. VIÊM GAN MẠN TÍNH (GIAI ĐOẠN ĐẦU)
a/ 41-233-50-19-58-37-39                                                            (BQC)
b/ 50-19-37                                                                                (BQC)
6.VIÊM MŨI DỊ ỨNG:
a/ 127-7-467127                                                             (BQC)
b/ 41-233-50-61-37-127-87                                                          (BQC)
c/ 126-65-184-61-39-7                  (Tôn Thất Kim –BV.Quận Phú Nhuận)
7.VIÊM KHỚP CÁC NGÓN TAY:
a/ 19                                                                                         (BQC)
b/ 19-460-38-17-300                                                       (BQC)
c/ 19-61-460-48-0                                                                       (BQC)
8.     VIÊM THẦN KINH TỌA:
a/ 5-74-51-219                           (Tôn Thất Kim –BV.Quận Phú Nhuận)
b/ 19-5-277-61                                                               (BQC)
9.RỤNG TÓC:
a/ 300-1-45                                                                                (BQC)                                      
b/ 127-145-103                                                               (BQC)
10. MÁU CHẢY NHIỀU: (Da thịt bị đứt sâu, rộng do vật bén nhọn hay bị va chạm chấn thương)
a/ 16 (lấy ngón tay ấn vào huyệt một lúc cho đến khi máu ngưng chảy)      (BQC)
b/ 16-61-0                                                                                  (BQC)
c/ 16-61-50-37-0                                                             (BQC)
11.BƯỚU CỔ ĐƠN THUẦN:
26-196-12-8-61-19                                                          (Tôn Thất Kim)
12.TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO:
34-97-98-99-100-140-219-113-222-51-19   (Tôn Thất Kim)
13.KẸT KHỚP VAI:(Viêm khớp vai)
a/ 219                                                                           (Tôn Thất Kim)
b/ 278-88-50                                                                              (BQC)
14. ĐAU THẦN KINH TAM THOA
a/ 0-7-156(Gõ búa Mai hoa hay dán cao)                          (BQC)
b/ 0-50-7-156-99                                                             (BQC)
15.SUYỄN:
Lưu ý: Bảo bệnh nhân vuốt xuống vùng trước tai huyệt 138-0-275 hàng đêm trước khi lên cơn
a/ Gõ 275 hặoc 300-423
b/ Dùng thuốc hay ngải cứu hơ nóng huyệt 127 vùng cằm, vùng hai bên mũi (huyệt số 3), vùng hai bên mang tai (huyệt số 0)                                         (Nguyễn Thị Niên –khóa 6)
16.VIÊM PHẤ QUẢN MẠN TÍNH:
138-28-Phế (61-491-467)
17. VIÊM HỌNG HẠT
8-12-20-132-3                             (Dương Văn Mạnh –tổ 5 –lớp A)
18.VIÊM XOANG:
38-17                                                    (Soeur Nguyễn Thị Liễu – BV Phụ Sản)
19. TRỄ KINH:
a/ 1-63-7-50-127                                                 (Hình Ích Viễn)
b/ 50-58-37                                                                    (BQC)
c/ 180-0-26-61-63-7-287-127-156-235-87-51          (Trịnh Phan Công Khanh-Q1)
d/ 26-65-3-50-7-37-156-51                                               (BQC)
20.RONG KINH:
a/ Gõ huyệt 127-7-37-16             (Lê Kim Nghĩa-Tân Thuận- Nhà Bè)
b/ 16-61-40-7-37                                                 (BQC)
c/ 22-127-7-1-50-37-103                                      (BQC)
21.TIỂU NHIỀU: ( Đi tiểu vài chục lần trong ngày)
37-19                                                                            (BQC)
22.NÁM MẶT:
87-51-50-41-37-61-3-360-124       (Ngô Minh Hồng-CLB Hội Văn Nghệ TP)
23.NÓNG NHỨC TAY CHÂN: (Dùng CÂY LĂN lăn vùng GỜ MÀY và Vùng chân của các đồ hình ngoại vi trong vài phút)
24. CẢM LẠNH:
a/ 287-127-0 + Dán cao                                      (BQC)
b/ 287-1-73-103                                                  (BQC)
c/ 127-50-19-37-43-73-103-0                                (Minh)
d/ Dán cao trị luôn trúng gió:0-28-50-19-39-275     (Lê Kim Nghĩa)
25. BƯỚU BUỒNG TRỨNG:
a/ 124-26-37-50-63-7                                          (BQC)
b/26-65-3-37-16-87-27                                         (BQC)
26.VẸO CỔ:
a/ 106-108
27. XÂY XẨM:
107-63-61-65-19                          (Tống Hồ Huấn –tổ 6, lớp B KHÓA 5/87)
28. NHỨC ĐẦU MỘT BÊN:
324-131-235-41-437                                            (Tạ Minh –học viên khóa 4)
29. U NHỌT CHƯA CÓ MŨ, U BƯỚU CÁC LOẠI TÍCH TỤ TRONG CƠ THỂ:
41-143-127-19-37-38                               (Lý Phước Lộc)
30. TIÊU VIÊM TIÊU ĐỘC:
Day ấn,dán cao: 26-188-196-61-74-64-38-156-14-143-5      (BQC)
31. MỤN CÓC:
Gõ rồi dán cao :26*3-50-51-0
Chú ý: nên làm vào buổi chiều tối mới có hiệu quả cao hơn (làm khoảng một tuần là có kết quả ngay-BQC)
32. CƠN CAO HUYẾT ÁP Đối với huyết áo nguyên phát hay vô căn):
Chà xát hai cung mày(gờ mày) và viền cong ụ cằm. Sau đó ấn huyệt 15 (sau dái tai)
Lưu ý: Bên nào đau nhiều thì chà xát và ấn bên đó cho đén khi hết đau nơi huyệt, lúc đó huyết áp sẽ hạ xuống ( BQC). Nếu làm mỗi ngày 3 lần thì huyết áp sẽ ổn định lâu dài
Lưu ý: Cữ ăn mặn, cà phê, rượu.

GSTSKH. Bùi Quốc Châu












Save

No comments:

Post a Comment