Việc gì cũng đều có một số nguyên tắc
thể hiện thực hiện, dù không ít ngoại lệ. Muốn thành công, muốn ít gặp biến cố
cần biết và tuân thủ các nguyên tắc mà cũng không rời ngoại lệ. Việc khám chữa
bệnh cũng vậy. Cần theo một số nguyên tắc cần thiết. Nguyên tắc đầu tiên là nhận
biết và xử lý các trường hợp cần đến các kỹ thuật cấp cứu của bệnh viện.
I/- NHỮNG TRƯỜNG
HỢP BỆNH CẤP CỨU
Những trường hợp sau đây thuộc loại
cấp cứu tại bệnh viện:
-
Đau dữ dội tại một nơi nào đó trong cơ thể thuộc vùng ngực,
bụng hay đầu, kèm sốt cao (trên 38°C).
-
Huyết áp số trên bằng hay cao hơn 170 hoặc huyết áp số
dưới bằng hay hơn 110. Trong trường hợp tăng huyết áp.
-
Huyết áp số trên thấp hơn 90 hoặc huyết áp số dưới thấp hơn
50. Trong trường hợp tuột huyết áp.
Với những trường hợp này ta chỉ tạm
thời can thiệp khi xa bệnh viện hay trên đường đưa bệnh nhân đến bệnh viện mà
thôi.
II/- NGUYÊN TẮC
ĐIỀU TRỊ
1)
Đối với bệnh mới phát hoặc bệnh có triệu chứng dữ dội, nếu
không thuộc loại cấp cứu đã nêu trên thì ta nên điều trị vào triệu chứng trước
rồi điều chỉnh tổng thể sau (cấp trị Tiêu).
2)
Đối với bệnh mạn tính hay bệnh có triệu chứng tương đối nhẹ
mà bệnh nhân chịu đựng được thì ta nên điều chỉnh tổng trạng trước rồi chữa
triệu chứng sau (hoãn trị Bản).
3)
Điều chỉnh tổng trạng thì theo các yếu tố chẩn đoán của tổng
trạng. Điều trị triệu chứng cục bộ nơi có bệnh thì theo các yếu tố chẩn đoán
của cục bộ.
Với các nguyên tắc sau:
-
Hàn (lạnh) thì làm cho ấm: bằng các kỹ thuật hơ, dán cao,
xức dầu. Nhiệt (nóng) thì làm cho mát: bằng các kỹ thuật áp lạnh, gõ mai
hoa, day vaseline, lăn gai. Hai yếu tố này bao trùm các kỹ thuật tác động
cho tất cả các cơ chế điều trị còn lại dưới đây.
-
Dương hư thì bổ Dương bằng bộ Thăng có làm ấm bằng hơ hay
dán cao hay xoa dầu. Âm hư thì bổ âm bằng bộ Bổ Âm huyết day bằng vaseline. Khí
hư thì bổ khí bằng bộ Thăng nhưng không gây ấm huyệt. Huyết hư thì bổ huyết
bằng bộ Bổ Âm huyết nhưng kỹ thuật thì tùy hư hàn hay hư nhiệt mà chọn kỹ thuật
tương ứng.
-
Viêm thì Tiêu viêm.
-
Huyết ứ thì khử huyết ứ bằng bộ Tan máu bầm nay là bộ
Tiêu viêm khử ứ.
-
Có đàm thấp thủy thì Trừ đàm thấp thủy.
-
Nhiễm trùng thì Tiêu viêm bằng day ấn vaseline, hoặc
dùng phản chiếu hệ bạch huyết, phối hợp với kháng sinh.
-
Xuất tiết thì cầm lại (thu liễm) bằng bộ Tan máu bầm (còn có
tên là bộ Thu liễm), bộ Bổ trung hay bộ Thăng. Tuy nhiên ở đây cần chẩn đoán
tìm nguyên nhân do âm hay dương hư gây xuất tiết. Đây là một vấn đề hơi khó,
cần kinh nghiệm biện luận.
-
Khô thì làm cho tươi nhuận bằng bộ Bổ Âm huyết.
-
Hưng phấn thì ức chế lại bằng bộ Giáng.
-
Trầm cảm thì làm hưng phấn lên bằng bộ Thăng.
………………………………….v..v.
III/- KINH
NGHIỆM LÂM SÀNG
Các triệu chứng thuộc rối loạn cảm
giác như đau, nhức, mỏi, tê, nặng nề, yếu… cần phải:
1)
Phải giảm bằng hay hơn 30% ngay tại chỗ các triệu
chứng thì mới đúng. Nếu kém là còn thiếu sót.
2)
Ngay tại chỗ giảm mà hôm sau tăng lại như cũ là trúng ngọn
mà chưa trúng gốc.
3)
Qua hôm sau tuy có tăng lại nhưng ít hơn ngày hôm trước là
trúng cả gốc lẫn ngọn. Cứ thế tiếp tục.
4)
Đang điều trị hoặc điều trị lần đầu tiên đã có giảm nhưng
sau đó vài giờ triệu chứng tăng lên hơn lúc chưa điều trị, thì có thể:
·
Chẩn đoán và điều trị sai: triệu chứng kéo dài.
·
Chẩn đoán đúng nhưng điều trị chưa đủ liều lượng: triệu
chứng tăng rồi giảm dần.
·
Bệnh nhân không giữ gìn kiêng cữ về sinh hoạt, ăn uống.
5)
Triệu chứng đang giảm mà dừng lại không giảm thêm, đó là
bệnh chuyển sang giai đoạn mới. Cần thay đổi phương thức điều trị bằng
cách chẩn đoán lại và đề ra phương án điều trị mới cho phù hợp. Thường là
tốt vì bệnh đã giảm nhẹ, nhưng không có nghĩa là đơn giản hơn và dễ trị hơn
giai đoạn trước vì đến đây là vào gần hơn đến phần cốt lõi của bệnh.
IV/- KẾT
LUẬN
Tuy
đã khám kỹ rồi mới có kết luận chẩn đoán nhưng không phải lúc nào cũng có
thể trúng 100% ngay trong lần khám đầu tiên với biện pháp lâm sàng (chính vì
vậy mà Y học hiện đại phải cố công xây dựng các phương tiện khám cận lâm sàng
để hạn chế sai lầm trong chẩn đoán bệnh). Ta chỉ chẩn đoán đúng khi bệnh đơn
giản. Với những bệnh phức tạp thì có khi điều trị thử vài lần mới ra vấn đề.
Mong các bạn không chủ quan tạo sai sót trong việc chẩn trị. Luôn luôn đặt lại
vấn đề khi điều trị thấy không có kết quả như mong muốn.
LÀM SAO ĐỂ ĐẠT TỨ ĐẮC
Tạ Minh.
Mạc Tư Khoa, 1992.
Dò tìm sinh huyệt rồi tác động vào
sinh huyệt là việc chúng ta đã biết và đã từng làm. Nhưng dò tìm sinh huyệt ở
đâu, tác động như thế nào, bao nhiêu lâu để có thể đạt được TỨ ĐẮC (đắc thời,
đắc vị, đắc pháp, đắc độ)? Bởi khuôn mặt đã là khó dò, rồi lại còn bàn tay, bàn
chân, lưng, bụng, đầu, vành tai!!! Làm sao mà dò cho nổi… phải không các bạn?
Nay, tôi xin đóng góp một tâm đắc
sau một thời gian dài nghiên cứu và thử nghiệm thấy rất tốt. Mong rằng những
kinh nghiệm này sẽ giúp các bạn vững tâm và vững tay hơn trong việc sử dụng
DC-ĐKLP.
Nguyên, đầu năm 1992 tôi sang
Matxcơva làm việc theo lời mời của họ và theo đề cử của thầy Châu. Lúc ấy đang
là mùa đông, lại là xứ lạnh, hầu hết các trường hợp đều phải dùng ngải cứu để
điều trị, hiệu quả tốt. Nhưng có một số trường hợp hơ mặt không có kết
quả, thậm chí có lúc lại xấu hơn, mặc dù về chẩn đoán rõ ràng là thực hàn. Tôi
rất ngạc nhiên. Trước đó, ở Việt Nam thỉnh thoảng cũng có gặp, nhưng rất ít khi
và chưa tìm ra giải pháp tốt. Một phần do áp lực bịnh nhân quá đông không rảnh
để nghiên cứu cho ra vấn đề. Mặt khác phương pháp chỉ mới bắt đầu triển khai ra
toàn thân, lại không có giường nằm cho bịnh nhân. Cho nên việc áp dụng các hệ
thống phản chiếu ngoài bộ mặt chưa được triệt để như hiện nay.
Ở Matxcơva, đủ điều kiện, nên tôi
quyết tâm nghiên cứu hiện tượng này. Tôi phát hiện ra nhiệt độ các vùng cơ thể
của trên cùng một bịnh nhân không giống nhau. Từ nhận xét này, tôi chuyên tâm
tìm những vùng có nhiệt độ bất hợp lý nhất trên cơ thể bịnh nhân làm nơi
chẩn đoán và điều trị. Từ đó hiệu quả điều trị được nâng cao hẳn vì nhanh
hơn và chính xác hơn trước. Ngoại trừ các trường hợp sốt cao làm rối loạn
sinh lý huyệt như đã trình bày. Hoặc một số trường hợp lạnh toàn thân vì một
cơn đau kịch phát.
Thế là vấn nạn “Làm sao để đạt tứ
đắc” đã được giải.
I/- VẤN ĐỀ ĐẮC VỊ, ĐẮC THỜI?
Hai yếu tố đầu tiên là ĐẮC THỜI, ĐẮC
VỊ sẽ đến cùng lúc khi ta tìm được vùng chẩn trị có sinh huyệt nằm trong đó. Đó
là nơi lạnh nhất hay nóng nhất trong cơ thể bịnh nhân trong
khi các nơi khác có nhiệt độ bình thường. Thí dụ: Các nơi đều ấm riêng
bàn chân lại lạnh thì bàn chân là nơi khám và trị bằng ngải cứu. Các nơi đều
mát mà mặt lại nóng thì mặt là nơi dò và trị bệnh bằng que dò.
II/- VẤN ĐỀ ĐẮC PHÁP?
Ta cũng biết, hễ bịnh nhân nóng thì
giải nhiệt, bịnh nhân lạnh thì làm cho ấm, hễ đau tay thì chữa tay nhưng nếu
đau tay do thiếu máu cơ tim thì chữa bệnh cho tim chứ không phải chữa cho tay;
nhức đầu thì chữa đầu nhưng nhức đầu do táo bón thì lại chữa vào đại tràng chứ
không chữa cho đầu v.v… Đó chính là đắc pháp, chứ không phải chỉ chọn dụng cụ
là đã đắc pháp. Dĩ nhiên khi đã định được “pháp” rồi thì việc chọn dụng cụ kỹ
thuật thích hợp là việc phải làm để phát huy tối đa sự ĐẮC PHÁP.
III/- VẤN ĐỀ ĐẮC ĐỘ?
Bịnh có nặng có nhẹ, có đơn giản có
phức tạp. Thể trạng bịnh nhân có khoẻ có yếu, có nhạy cảm có chậm đáp ứng. Mỗi
trường hợp, mỗi thời điểm đều chẳng giống nhau. Các kỹ thuật với các mức độ đề
ra như hơ nóng 3 lần, day lăn vài phút v.v… dù sao cũng chỉ gợi ý bình quân.
Muốn đạt được yếu tố ĐẮC ĐỘ chúng ta phải chú ý thật kỹ các triệu chứng, diễn
biến trên thực tế lâm sàng ngay trong lúc đang thao tác điều trị. Đồng thời vẫn
tiếp tục khảo sát các diễn biến kế tiếp. Muốn vậy chúng ta cần ghi chép
bịnh án đầy đủ. Từ đó chúng ta mới có thể suy ra và phán đoán mức độ
tác động thích hợp cho mỗi lần điều trị. Nếu không rất dễ làm quá lố hoặc không
đủ.
Muốn đạt được cao hai yếu tố PHÁP và
ĐỘ chúng ta không thể không nghiên cứu sinh lý bệnh lý Đông và Tây y để
làm nền tảng trong phán đoán bệnh chứng. Riêng yếu tố ĐẮC ĐỘ thì cần kinh
nghiệm riêng có được sau một thời gian thực hành nhiều, điều này khó truyền
đạt.
Tôi vừa
trình bày xong phương cách để đạt TỨ ĐẮC. Tuy không có gì bí hiểm nhưng muốn
làm được chúng ta cần rèn luyện như mọi vấn đề khác. Mong các bạn thành
công.
HƯỚNG DẪN VỀ KIÊNG CỮ
Lương y Tạ Minh.
Kiêng cữ thực ra chỉ là tránh
né những nguyên nhân gây bệnh do bên ngoài đưa tới như thức ăn uống, khí
hậu thời tiết, sinh hoạt hằng ngày. Mỗi một ngày khi thức giấc, cơ thể chúng ta
bắt đầu đón nhận những yếu tố mới tác động vào như nắng - mưa - gió - bão
- bụi bặm - mùi hôi - khí thải……v.v.. Khi bắt đầu ăn sáng là ta đưa một số chất
mới vào. Chua có, cay có, đắng - mặn - ngọt có; cái nào hạp cái nào không hạp
với ta?
Điều trị bệnh mà không kiêng
cữ thì hiệu quả điều trị rất kém, nếu không muốn nói là sẽ không có kết
quả. Chúng ta thấy hiện nay xu hướng của Tây y cũng đã bắt đầu chú ý đến việc
khuyên bệnh nhân kiêng cữ trong khi trị bệnh. Trước đây vài mươi năm, hễ
hỏi đến kiêng cữ là y như rằng bệnh nhân sẽ bị bác sĩ cự nự cho một hồi.
Nào là phải ăn cho đủ dinh dưỡng, nào là đã bệnh mà còn cữ ăn thì làm sao khỏe
mà trị bệnh được…vv..!!! Quả thật thì Đông y bắt bệnh nhân cữ ăn hơi nhiều. Có
nơi thấy bảng dặn dò kiêng cữ ăn uống của bệnh nhân có đến vài chục món. Có lẽ
việc này xảy ra là do bệnh nhân uống thuốc Đông y, luôn có sự tương tác qua lại
giữa thuốc và thức ăn. Vì thực chất thuốc Đông y đều có nguồn gốc thực vật hay
động vật, là một dạng thức ăn hơi đặc biệt vậy thôi.
Nếu chỉ dùng huyệt để trị bệnh thì
chúng ta không sợ những tương tác như đã nói mà chỉ cần kiêng cữ những tác nhân
gây bệnh mà thôi. Đó là một trong những ưu điểm của phương pháp trị bệnh không
dùng thuốc. Vừa an toàn vừa đơn giản.
Trong quá trình hành nghề và nghiên
cứu chọn lọc tôi nhận thấy chỉ cần kiêng cữ theo các nguyên tắc:
1)
Điều kiện môi trường không thích hợp: nóng - lạnh,
ẩm - khô, trong sạch hay bụi bặm.
2)
Điều kiện làm việc: thay đổi công việc hay ít ra cũng
cải thiện thói quen trong làm việc đối với các bệnh do nghề nghiệp gây ra.
3)
Thức ăn, uống: nếu kiêng cữ như Đông y lâu nay tuân
theo ta sẽ có một danh sách rất dài, thậm chí hầu như không còn gì để ăn ngoài
mễ cốc (gạo, lúa mì…)!! Bệnh nhân sẽ dễ rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng. Do
đó tôi chỉ chú trọng vào những món trực tiếp gây bệnh một cách mạnh mẽ cho cơ
thể mà thôi. Gồm các nhóm chính.
·
Nhóm gây
lạnh cho cơ thể trong những bệnh do lạnh: thức ăn uống ướp lạnh, các món có
vị đắng mạnh như khổ qua, rau má, tim sen, rau ngổ, rau đắng…… Các món quá mát
như cam, dừa, thanh long, rau đay, bồ ngót……
·
Nhóm gây
nóng ráo cho cơ thể: các món ăn chiên, các thức có vị cay nồng như tiêu,
ớt, tỏi, gừng…… Các món cung cấp năng lượng nhiều như chocolate,
cacao, các loại kẹo bánh có dùng đường……
·
Nhóm gây
co cân - cơ: các chất có vị chua đậm như chanh, cam, thơm (dứa)…… các chất
làm lạnh cơ thể.
·
Nhóm gây
trì trệ: hầu hết các món có chất nhờn đều gây trì trệ ứ đọng cho cơ thể
như đậu bắp, rau đay, mồng tơi, khoai mỡ…… và các chất làm hạ nhiệt.
·
Nhóm gây
viêm: hiện nay tôi chỉ phát hiện ra hai món gây viêm rất mạnh (trên cơ thể
vốn bị viêm): thịt gà và các loại mắm như mắm tôm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm thái…
(nước mắm thì vô hại, có lẽ vì độ mặn cao và quá trình lên men đã hoàn chỉnh
nên không có độc - hay ít độc??).
·
Nhóm có
chất hóa học phát sinh: tất cả các món trải qua quá trình lên men sinh học
(khác với lên men công nghiệp như xì dầu, magie): như chao, tương, bánh
mì, rượu, bia…… LƯU Ý: các loại này đôi khi đã nấu chín vẫn không phân
hóa được các hóa chất trong nó nên vẫn gây bệnh cho cơ thể khi dùng.
Nói chung khi bệnh có liên quan tới gan (Can) và tụy (Tỳ) thì
cần kiêng cữ khá nhiều, nghiêng về hướng chất gây viêm và chất có hóa chất lạ,
vì gan và tụy là bộ máy chính trong xử lý hóa chất của cơ thể (Can chủ sơ tiết,
mưu lự – Tỳ chủ hóa), dĩ nhiên ở tế bào cũng có những quy trình xử lý hóa chất
nhỏ riêng. Với Gan ta còn cần kiêng cữ thêm thịt bò, cá biển độc như cá ngừ, cá
chuồn, cá nhám, cá nục… còn các loại cá hiền thì dùng được như cá chim, cá thu,
cá bạc má… Với Tụy ta còn cần kiêng cữ thêm các chất gây lạnh.
Còn các loại bệnh chứng liên quan ta
cứ theo bảng hướng dẫn nêu trên mà khuyên bệnh nhân kiêng cữ.
Theo triệu chứng ta có:
·
Chứng đau
nhức: cữ nhóm gây lạnh, gây co cân cơ.
·
Chứng
viêm (sưng + nóng + đỏ + đau), chấn thương: cữ nhóm gây viêm và nhóm gây co
cân cơ, nhóm gây lạnh (nếu bệnh thuộc hàn), nếu là bệnh thuộc nhiệt thì ngược
lại cần cữ nhóm gây nóng.
·
Chứng ứ
trệ, sưng nề (không nóng đỏ): cữ nhóm gây trì trệ, nhóm gây co cân cơ, nhóm
gây lạnh (vì lạnh cũng là một nguyên nhân gây trì trệ cho cơ thể).
·
Chứng có
nhiễm trùng hay viêm do nhiệt: viêm do nhiễm trùng hay do nhiệt đều gây ra
triệu chứng đau nhức. Thật ra trong Đông y thì phân chia khá rõ: đau thì do
nhiệt, nhức là do hàn, nhưng hầu hết bệnh nhân không thể phân biệt được hai
triệu chứng này mà họ thường gộp chung hoặc nói lẫn lộn. Loại này cần cữ các
món gây nóng ráo, nhóm gây viêm.
·
Các chứng
có tính dị ứng, các loại bệnh ngoài da: nhóm có hóa chất phát sinh.
Như vậy ta có một đường lối kiêng cữ khá linh động vì theo
gốc bệnh chứ không theo tên bệnh. Đo đó dễ nhớ để dặn dò bệnh nhân.
PHỤC HỒI CHÍNH KHÍ
Lương y Tạ Minh.
Trong Đông y, cân bằng Âm Dương và
điều bổ Khí Huyết là nguyên lý của việc chữa bệnh. Vì phục hồi sự cân bằng Âm
Dương và điều bổ cho khí huyết đầy đủ là phục hồi được chính khí. Trên nguyên
tắc, chính khí vững mạnh thì tà khí tự lui.
Thông thường nếu chính khí chưa bị
suy yếu thì việc chữa bệnh khá đơn giản: chẩn đoán bệnh thuộc hàn hay nhiệt,
tìm Sinh huyệt theo đồ hình phản chiếu hay theo luật đồng ứng rồi tác động với
kỹ thuật thích hợp là đã thành công. Phức tạp hơn một chút nữa là bệnh có cơ
chế khác, không chỉ là hàn hay nhiệt. Và càng phức tạp hơn khi chính khí suy
yếu. Lúc này hầu hết bạn chỉ làm giãm được triệu chứng ngay tại chổ mà thôi.
Tôi may mắn đã tìm được cách phục
hồi chính khí bằng Diện Chẩn-Điều Khiển Liệu Pháp thuần túy, mà trước đây tôi
thường gọi là “điều chỉnh tổng thể”, “điều chỉnh tổng trạng”. Đã thực hiện trên
lâm sàng từ năm 1995 đều có những thành công tốt đẹp. Hơn 15 năm thực nghiệm,
rút tỉa kinh nghiệm. Nay xin phổ biến chính thức để những ai yêu thích Diện
Chẩn cũng dùng được để rút ngắn thời gian, nâng cao và duy trì hiệu quả điều
trị.
Trước hết, các bạn cần biết đo huyết
áp theo kiểu của tôi, đã trình bày trong bài “Kỹ thuật đo huyết áp” và trong
đĩa video “Chẩn đoán bằng huyết áp kế”. Cũng như trong Blog 360plus của tôi
(vào 360plus của Yahoo Việt Nam, gõ taminhdc, các bạn sẽ tìm thấy trang blog
này).
Sau khi đã có kết luận huyết áp của
bệnh nhân thuộc Dương chứng hay Âm chứng, kế tiếp là chọn vùng thích hợp (vùng
có nhiệt độ đặc biệt, theo bài “Làm sao để đạt tứ đắc”) là chúng ta có thể bắt
tay vào việc cân bằng Âm Dương và điều bổ Khí Huyết.
Việc thực hiện phục hồi chính khí
nêu trên theo hai vế Dương-Khí và Âm-Huyết như sau.
·
PHỤC HỒI
DƯƠNG, KHÍ: khi thấy huyết áp thuộc âm chứng thì ta biết Dương hoặc Khí
bệnh nhân bị suy. Nếu bệnh nhân sợ lạnh hoặc làm việc không bền sức dù siêng
năng là Dương suy. Nếu bệnh nhân không sợ lạnh, tuy uể oải lười biếng mà khi
cần thì làm việc bền sức là Khí suy. Nếu các hiện tượng trên đều có là Dương và
Khí đều suy.
Chọn vùng thích hợp, chọn kỹ thuật thích hợp, dùng bộ Thăng.
Nếu Dương suy, ta làm ấm huyệt
bằng một trong các kỹ thuật sau đây (có cường độ điều trị từ nhẹ đến mạnh): day
có dầu, dán cao salonpas, hơ, hơ có dầu, day dầu rồi dán cao, day dầu rồi hơ và
dán cao. Việc chọn cường độ cần kinh nghiệm để ước lượng, nếu chưa kinh nghiệm
bạn có thể chọn cường độ nhẹ trước rồi tăng dần khi thấy không hiệu quả.
Trường hợp này, vùng thích hợp
thường là vùng lạnh nhất và thường xuất hiện ở bàn chân.
Nếu là Khí suy, bạn chỉ day bộ
Thăng. Thường sẽ là vùng ấm nhất trên cơ thể.
·
PHỤC HỒI
ÂM, HUYẾT: khi thấy huyết áp thuộc dương chứng thì ta biết Âm hoặc Huyết
bệnh nhân bị suy, hoặc cả hai khía cạnh Âm và Huyết đều suy. Trường hợp này
không cần chẩn đoán thêm như trên mà chỉ cần dùng bộ Bổ Âm Huyết mà thôi. Bộ Bổ
Âm Huyết sẽ tự động bổ Âm hay bổ Huyết hay bổ cả hai cho cơ thể.
Nếu bàn chân lạnh, bạn cần hơ, không được bôi dầu vào
huyệt. Nếu bàn chân mát, bạn day có dầu. Nếu bàn chân bình thường hay ấm
bạn day không dầu.
KINH NGHIỆM LÂM SÀNG
1)
Trong các lần điều trị sau bạn luôn cần khám nhanh lại
trước khi điều trị: sờ mặt, bàn tay, bàn chân, mi mắt để xem có sự biến đổi
nào. Nếu có biến đổi, bạn cần bám theo biến đổi đó để thay đổi vùng tác động,
phác đồ và kỹ thuật cho thích ứng với tình hình mới. Có như vậy bạn mới thực
hiện tốt việc phục hồi chính khí cho bệnh nhân.
2)
Nếu huyết áp âm chứng mà niêm mạc mắt có lớp trong nhạt
hay trắng là Dương hay Khí suy kèm Âm hay Huyết kém hoặc cả hai đều kém. Bạn
phải dùng bộ Bổ Âm Huyết-Thăng như sau: 22, 127, 63M + -, 17 + -,113 + -,7 + -,
63, 50, 19, 39, 37, 40, 481, 1, 73 - +, 189, 103, 300 - +, 0 + -.
Phần còn lại trong điều trị; bạn chọn phác đồ dựa theo cơ chế
bệnh như: tiêu viêm, tiêu viêm khử ứ, tiêu viêm giải độc, lọc thấp, trừ thấp
hay trục thấp, an thần, bộ Thiếu dương v.v… Chọn phản chiếu hoặc đồng ứng. Chọn
kỹ thuật thích hợp để trị theo cơ chế bệnh chứng bệnh nhân đang mắc phải.
Đây chính là quy trình căn bản điều
trị cần thiết vậy. Trên thực tế, có rất nhiều hiện tượng pha tạp chi tiết khó lòng
trình bày cho hết. Bạn cứ ôm lấy căn bản này mà làm, các việc còn lại cơ thể sẽ
tự điều chỉnh.
No comments:
Post a Comment